intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Văn hoạc Hòa Bình từ 1986 đến nay

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu nghiên cứu văn học Hòa Bình ở các thể loại truyện ngắn và thơ để chỉ ra đặc điểm nổi bật của văn học Hòa Bình trong quá trình vận động, phát triển từ năm 1986 đến nay; khẳng định đóng góp của văn học Hòa Bình đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại; giới thiệu một số gương mặt các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của văn học Hòa Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Văn hoạc Hòa Bình từ 1986 đến nay

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐINH THỊ THANH TƯƠI VĂN HỌC HÒA BÌNH TỪ 1986 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐINH THỊ THANH TƯƠI VĂN HỌC HÒA BÌNH TỪ 1986 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh THÁI NGUYÊN - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học "Văn học Hòa Bình từ 1986 đến nay" là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đinh Thị Thanh Tươi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN i http://www.lrc.tnu.edu.vn
  4. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập khóa học Thạc sĩ Văn học Việt Nam tại trường ĐHSP Thái Nguyên, tôi luôn nhận được sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của các thầy giáo, cô giáo. Hoàn thành luận văn thạc sĩ khoa học này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa sau đại học, khoa Ngữ văn; các thầy giáo, cô giáo đã tận tâm giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, người thầy đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng đề cương, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng chí lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình, các cơ quan liên quan như: Hội Văn nghệ Hòa Bình, Thư viện tỉnh Hòa Bình..., các đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc trao đổi, chuẩn bị tư liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, ngày 06 tháng 11 năm 2015 Tác giả Đinh Thị Thanh Tươi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN ii http://www.lrc.tnu.edu.vn
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ..........................................................................................................i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................... iii MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................2 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ..................................................................................4 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................5 5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................5 6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................................6 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG HÒA BÌNH TỪ 1986 ĐẾN NAY ..........................................................................................7 1.1. Khái lược về văn hóa tỉnh Hòa Bình từ 1986 đến nay ...........................................7 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên ................................................................................................7 1.1.2. Điều kiện xã hội ...................................................................................................8 1.1.3.Khái lược về bản sắc văn hóa địa phương tỉnh Hòa Bình ..................................10 1.2. Khái quát về văn học địa phương tỉnh Hòa Bình từ 1986 đến nay ......................16 1.2.1. Văn học Hòa Bình từ 1945 đến nay...................................................................16 1.2.2. Đội ngũ tác giả, tác phẩm ..................................................................................19 1.2.3. Đời sống thể loại và một số đặc điểm nổi bật....................................................23 1.2.4. Những thành tựu và hạn chế của văn học Hòa Bình .........................................40 Chương 2: THƠ HÒA BÌNH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ......................................44 2.1. Khái quát về thơ Hòa Bình từ 1986 đến nay ........................................................44 2.1.1. Đội ngũ tác giả và những tác phẩm tiêu biểu ....................................................44 2.1.2. Các khuynh hướng sáng tác của thơ Hòa Bình từ 1986 đến nay.......................45 2.2. Một số gương mặt thơ tiêu biểu ............................................................................53 2.2.1. Nhà thơ Đinh Đăng Lượng ................................................................................53 2.2.2. Nhà thơ Lê Va .....................................................................................................60 Chương 3: TRUYỆN NGẮN HÒA BÌNH TỪ 1986 ĐẾN NAY ............................67 3.1. Khái quát truyện ngắn Hòa Bình từ 1986 đến nay ...............................................67 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN iii http://www.lrc.tnu.edu.vn
  6. 3.1.1. Đội ngũ tác giả, tác phẩm ..................................................................................67 3.1.2. Các khuynh hướng sáng tác của truyện ngắn Hòa Bình từ 1986 đến nay .........67 3.2. Một số gương mặt tiêu biểu của truyện ngắn Hòa Bình từ 1986 đến nay. ...........73 3.2.1. Tác giả Triệu Văn Đồi .........................................................................................73 3.1.2. Tác giả Bùi Minh Chức .....................................................................................81 KẾT LUẬN .................................................................................................................92 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................94 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN iv http://www.lrc.tnu.edu.vn
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, các nhà nghiên cứu không thể không tìm hiểu đến văn học của các địa phương miền núi. Bởi văn học địa phương miền núi là một bộ phận rất quan trọng, không thể thiếu, góp phần làm nên diện mạo, đặc điểm và những giá trị to lớn của nền văn học các dân tộc thiểu số miền núi. Bởi vậy, nghiên cứu văn học địa phương Hòa Bình cũng là góp phần đáp ứng nhu cầu nghiên cứu văn học miền núi của nước ta hiện nay. 1.2. Hòa Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của tổ quốc, có nền “Văn hóa Hòa Bình” nổi tiếng - cái nôi của người Việt cổ, là vùng sử thi huyền thoại “Đẻ đất đẻ nước”, là miền đất âm vang tiếng cồng, tiếng chiêng, vùng của những lễ hội giàu bản sắc dân tộc Tây Bắc, của kho tàng phong phú về văn nghệ dân gian các dân tộc Mường, Thái, Dao, Tày, Nùng, H’Mông và người Kinh, quê hương của những làn điệu dân ca “Ngọt như mật ong, trong như dòng suối”, những trường ca, truyện thơ đậm nét văn hóa dân tộc và chất nhân văn tinh tế. Chính nền văn hóa địa phương Hòa Bình đã sinh ra rất nhiều nhà văn, nhà thơ và các nghệ nhân. Có thể kể đến các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh như Lò Cao Nhum, Đinh Đăng Lượng, Bùi Thị Tuyết Mai, Lê Va, Hà Trung Nghĩa, Triệu Văn Đồi, Bùi Minh Chức, Lê Mai Thao, Trần Thị Hồng Hạnh… đã có nhiều đóng góp cho nền văn hóa, văn học Hòa Bình phát triển và có tiếng nói trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. 1.3. Mặc dù vậy, từ trước tới nay vẫn chưa có Nhà nghiên cứu văn học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về đời sống văn hóa, văn học của Hòa Bình nói riêng và cũng chưa có tác giả nào chỉ ra được những đặc điểm, diện mạo cũng như các giá trị về nội dung và nghệ thuật của văn học Hòa Bình trong đời sống văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói nói riêng, trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Hiện nay, cũng như ở các tỉnh bạn, tỉnh Hòa Bình đang thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đưa văn học địa phương vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông, giúp con em các dân tộc trong địa phương mình hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa, lịch sử và con người nơi mảnh đất mình đã và đang sinh sống, làm việc. Là người con của Hòa Bình và là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, thông qua việc thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một tài liệu 1
  8. tham khảo bổ ích cho công tác dạy và văn học địa phương trong trường THPT ở tỉnh Hòa Bình. Từ đó, chúng tôi hy vọng góp phần bồi đắp thêm tình yêu và niềm tự hào cho thế hệ trẻ trên quê hương đối với văn hóa, văn học địa phương tỉnh Hòa Bình. 1.4. Những lý do nói trên đã trở thành động lực thúc đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu về văn học Hòa Bình một cách toàn diện giai đoạn từ năm1986 đến nay. Bởi nghiên cứu về văn học Hòa Bình cũng chính là nhằm đáp ứng chủ trương nghiên cứu giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường phổ thông hiện nay. Qua đó, chúng tôi muốn khẳng định những giá trị tiêu biểu của nền văn học Hòa Bình vốn rất giàu bản sắc văn hóa, sự đóng góp có ý nghĩa của văn học Hòa Bình đối với sự phát triển văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, của văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Văn học các dân tộc thiểu số là một mảng sáng tác đặc sắc hiện nay đang được giới nghiên cứu văn học quan tâm, nhưng mảng văn học địa phương trong từng vùng miền khác nhau thuộc miền núi thì chưa được giới nghiên cứu, phê bình chú ý đúng mức. Tuy nhiên chúng tôi thấy, cũng đã có một số bài báo, một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến văn học Hòa Bình, thông qua bài viết về một số cây bút của Hòa Bình. Tác giả Đỗ Thu Huyền - Viện văn học đã nhận xét về nhà thơ Lò Cao Nhum như sau: Qua 7 tập thơ (Giọt sao trở về - 1995, Rượu núi - 1996, Soi gương núi - 1997, Sàn trăng- 2000, Theo lời hát về nguồn - 2001, Gốc trời - 2009, Rượu núi - thơ chọn lọc, 2010) người đọc tưởng như khó nắm bắt ngay phong cách thơ Lò Cao Nhum nhưng chính qua sự thoạt tiên rời rạc, pha tạp ấy chúng ta tìm được sự nhất quán, đấy là mạch cảm xúc của một con người lúc nào cũng khát khao khám phá và chiêm nghiệm. Anh đi nhiều miền đất, thử sức với nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau; đôi lúc cảm giác ít có sự ràng buộc và đau đáu trăn trở với văn hóa Thái như thơ của Cầm Biêu, Lương Quy Nhân, Vương Trung, La Quán Miên... nhưng cái độc đáo khiến Lò Cao Nhum có được phong thái tự tin trong thơ mình đấy là cốt cách của một con người yêu dân tộc mình tha thiết với bao tin tưởng, lạc quan:"Mỗi ngày tôi nuôi một ban mai/ Trồng một tia nắng"[18, tr.183]. Chất dân tộc không cần phô diễn mà vẫn được bộc lộ, ở trong từng câu chữ, hình ảnh và giọng điệu. Chỉ riêng với Rượu núi, Ông nội tôi khai sinh miền đất, Theo lời hát về nguồn... Lò Cao Nhum đã khẳng định cá tính sáng tạo đặc sắc của mình và khiến người đọc yêu mến thơ anh cũng như yêu mến văn hóa Thái mà anh nâng niu, trân trọng. 2
  9. Lâm Tiến trong bài viết Bản sắc dân tộc trong văn học thiểu số đã nhận xét về nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai như sau:"Tác giả trẻ dân tộc thiểu số thể hiện bản sắc dân tộc mình rõ nhất trong thơ hiện nay, có lẽ là nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai (dân tộc Mường). Chị không những có được một vốn văn hoá phong phú, dồi dào của dân tộc mình (trong đó có những trường ca, truyện thơ Mường đồ sộ mà ít dân tộc có được). Bùi Thị Tuyết Mai còn thông thạo và sáng tác bằng cả hai thứ tiếng: Mường và Việt. Chị lại còn là người yêu tha thiết dân tộc mình, yêu cội nguồn văn hoá của dân tộc và khát khao khám phá, phát hiện những giá trị chân, thiện, mĩ trong tài sản tinh thần vô giá của dân tộc mình "[13,tr.50]. Lời nhận xét ấy là xác đáng vì chính Bùi Thị Tuyết Mai viết “Trong sáng tác, tôi rất chú ý phát hiện vẻ đẹp của nền văn hoá Mường thể hiện qua cốt cách, tâm hồn qua sự giao lưu văn hoá ứng xử với thiên nhiên và con người”"[13,tr.65]. Trong bài viết "Văn học hiện đại dân tộc Mường: Những khuôn mặt" - Tác giả Hà Lý - Giám đốc NXB Văn hóa dân tộc đã nhận xét về nhà văn Bùi Minh Chức:" Đó chính là cách nghĩ của một người đàn ông Mường, một cây bút văn xuôi thực thụ trong làng văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam”[31,tr.55]. Còn nhà văn Ma Văn Kháng nhận xét về văn Bùi Minh Chức:"Sống là cả một công cuộc khó khăn! Một nhân vật trong một truyện ngắn của Bùi Minh Chức ở tập Sự tích một câu nói bằng đời mình đã chiêm nghiệm vậy. Ấy thế cái cuộc đời lạ lùng, kì thú nhưng cũng hết sức éo le này! Éo le vì lắm nẻo đường khuất khúc, vì cuộc sống vốn là lắm ngẫu sự, bất ngờ, nhiều nghịch dị không lường trước. Vì số phận một con người không chỉ là từ bên ngoài ta bước vào ta. Mà nó ở tự trong ta bước ra. Từ tính cách, bản thể của ta bước ra...”[31,tr.75]. Giọng kể theo cổ tích dân gian với bản sắc riêng, tạo bầu không khí nuôi dưỡng nhân vật sống động trong một huyền thoại - huyền thoại của ngày hôm nay, Bùi Minh Chức còn thành công ở Ảo ảnh sông Bôi, Chuyện của bố Mứng... In thơ từ năm 1965, có đóng góp không nhỏ ở các tuyển tập truyện ngắn của tỉnh Hòa Bình và của Hội Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, nhà văn Mường Động vẫn đang âm thầm và miệt mài với bản thảo tiểu thuyết Tín đồ. Trong cuốn "Chân mây màu tím”, tập truyện ngắn chọn lọc, NXB Hà Nội, 2010 của tác giả Hà Trung Nghĩa, qua bài viết NGƯỜI TRAI MƯỜNG Một đời say mê...nhà văn Phạm Ngọc Chiểu có nhận xét nhà văn Hà Trung Nghĩa: "Dù còn đôi điều lưu ý Hà Trung Nghĩa: ví như, sự mải mê có dấu hiệu thái quá cày xới mảnh đất ngành y (Kiểu như Aimatoops cày xới chuyện núi đồi và thảo nguyên Kiếcghidia) dễ 3
  10. dẫn đến sự trùng lặp; ví như đời sống tập tục, tâm lý, tính cách, ngôn ngữ rất đặc trưng của bà con dân tộc vùng cao là thế mạnh của Hà Trung Nghĩa, song anh chưa tận dụng khai thác...; nhưng với 200 trang truyện anh vừa cho ra mắt bạn đọc, thì "HOÀNG HÔN" quả đã hàm chứa nhiều Dự Báo tốt đẹp trên con đường Văn Nghiệp của tác giả người dân tộc Mường vốn là một bác sĩ giỏi trước khi cầm bút viết văn này"[14,tr.8-9]. Qua những ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu viết về các nhà thơ, nhà văn của Hòa Bình, chúng ta nhận thấy: Hòa Bình là một vùng đất đã sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn tài năng. Chính họ đã làm nên một diện mạo văn học Hòa Bình với những nét đặc trưng riêng, góp phần tạo nên gương mặt văn học thiểu số Việt Nam như một vườn hoa đầy hương sắc. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nghiên cứu, những lời nhận xét, đánh giá lẻ tẻ về một số cá nhân các nhà thơ, nhà văn Hòa Bình. Cho tới nay, chúng tôi vẫn chưa thấy xuất hiện một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về văn học Hòa Bình. Chính vì vậy chúng tôi mong muốn nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về văn học Hòa Bình, để khái quát được những đặc điểm, những giá trị nổi bật, cũng như khẳng định những đóng góp quan trọng của nó đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số nói riêng, đối với văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Trước năm 1986, văn học Hòa Bình đã hình thành và phát triển nhưng chưa có tác giả, tác phẩm xuất sắc. Sau năm 1986, văn học Hòa Bình phát triển khá mạnh mẽ, trong thơ có Đinh Đăng Lượng, Lò Cao Nhum, Bùi Thị Tuyết Mai, Lê Va, Lê Mai Thao; trong văn xuôi có Triệu Văn Đồi, Hà Trung Nghĩa, Bùi Minh Chức... Mặt khác, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, do thời gian nghiên cứu có hạn nên nội dung nghiên cứu tập trung vào văn học Hòa Bình từ năm 1986 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chọn và nghiên cứu các tác giả theo các tiêu chí: tác giả là Hội viên của Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình đã có có các tác phẩm đạt giải thưởng từ địa phương đến Trung ương; Là các tác giả đã và đang sống và viết ở tỉnh Hòa Bình, đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn, văn đàn toàn quốc. Chúng tôi tập trung nghiên cứu các tác phẩm thơ, truyện ngắn, không nghiên cứu tiểu thuyết, ký văn học, các công trình lý luận - phê bình và nghiên cứu văn học. Đồng thời, chúng tôi chọn một 4
  11. số tác giả người dân tộc thiểu số, tác giả của địa phương khác để đối chiếu, so sánh làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là văn học Hòa Bình từ năm 1986 đến nay. Nhưng chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu về thơ, truyện ngắn từ năm 1986 đến nay, giới thiệu, nghiên cứu tác phẩm và đánh giá một số tác giả tiêu biểu như Đinh Đăng Lượng, Lê Va, Triệu Văn Đồi, Bùi Minh Chức...Đồng thời mở rộng so sánh với một số tác giả, tác phẩm trong và ngoài tỉnh. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích Tìm hiểu nghiên cứu văn học Hòa Bình ở các thể loại truyện ngắn và thơ để chỉ ra đặc điểm nổi bật của văn học Hòa Bình trong quá trình vận động, phát triển từ năm 1986 đến nay. Khẳng định đóng góp của văn học Hòa Bình đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Giới thiệu một số gương mặt các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của văn học Hòa Bình. Đóng góp một tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học văn học địa phương trong trường phổ thông thuộc tỉnh Hòa Bình. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về văn học địa phương Hòa Bình từ 1986 đến nay. Từ đó, chúng tôi hướng tới một sự đánh giá đầy đủ và khách quan hơn về những thành công và hạn chế, về tiến trình vận động và phát triển cũng như chỉ ra những đặc điểm nổi bật của văn học Hòa Bình ở các phương diện: Đội ngũ tác giả và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó, khẳng định những đóng góp quan trọng của văn học Hòa Bình nói chung, của các nhà thơ, nhà văn Hòa Bình nói riêng đối với sự phát triển của nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Phương pháp thống kê, phân loại. Phương pháp so sánh đối chiếu. 5
  12. Phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, dân tộc học...). 6. Cấu trúc luận văn Thư mục tài liệu tham khảo. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính gồm ba chương. Chương 1: Khái quát về văn hóa, văn học địa phương tỉnh Hòa Bình từ 1986 đến nay. Chương 2: Đặc điểm thơ Hòa Bình từ 1986 đến nay. Chương 3: Đặc điểm truyện ngắn Hòa Bình từ 1986 đến nay. 6
  13. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG HÒA BÌNH TỪ 1986 ĐẾN NAY 1.1. Khái lược về văn hóa tỉnh Hòa Bình từ 1986 đến nay 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên 1.1.1.1. Vị trí địa lý Hòa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với vùng đồng bằng sông Hồng, có nhiều tuyến đường bộ, đường thủy nối liền với các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây cũ, Hà Nam, Ninh Bình, là cửa ngõ của vùng núi Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 76 km về phía Tây Nam. Phía Bắc giáp với tỉnh Phú Thọ và Hà Tây cũ, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa, phía Đông giáp Hà Tây cũ và Hà Nam, phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Hòa Bình là vị trí quan trọng, là vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên miền núi, có đường quốc lộ 6 dài 125 km chạy qua nối liền Hà Nội-khu vực đồng bằng Bắc Bộ với Tây Bắc và Thượng Lào, thuận lợi cho tỉnh phát triển kinh tế - văn hóa xã hội. 1.1.1.2. Về Dân số và diện tích tự nhiên Diện tích tự nhiên 4462,5km2, mật độ trung bình 174 người/km2. Dân tộc Mường còn có tên gọi khác như: Moi (Mol), Mọi Bi, Au Tá, phân bố ở các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây cũ, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn La, Phú Thọ, Yên Bái,...nhưng tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình với 813 nghìn người. Trong những năm gần đây, do quá trình chuyển cư, do tác động của của nền kinh tế thị trường, người Mường Hòa Bình đã có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước. 1.1.1.3. Về khí hậu Hòa Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh, ít mưa, mùa hè nóng và mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 23,40C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27-290C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5- 16,50C. Lượng nước mưa lớn 1800ml -2000ml, độ ẩm 85%, thường chịu ảnh hưởng của gió Lào. Khí hậu Hòa Bình được chia thành hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa: Mùa mưa (nóng ẩm mưa nhiều) bắt đầu từ tháng 5 đến cuối tháng 10, lượng mưa trung bình đạt 1700ml-2500ml chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô (lạnh và khô) thường bắt đầu từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, tổng lượng mưa trung bình đạt 150ml-250ml chiếm 10% tổng lượng mưa cả năm. Nhìn chung khí hậu Hòa Bình bất thường, mưa nắng trái quy luật. Mùa hè thường có giông kèm theo gió lốc, mưa đá và lũ quét. Mùa đông có vùng tương đối 7
  14. lạnh. Những biến đổi bất thường của khí hậu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân nơi đây. Bên cạnh yếu tố địa hình, khí hậu, Hòa Bình được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên phong phú: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng phong phú. Những ưu đãi của thiên nhiên đã góp phần trực tiếp cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh Hòa bình cũng như đồng bào dân tộc Mường nơi đây. 1.1.2. Điều kiện xã hội 1.1.2.1. Cộng đồng dân cư sinh sống tại tỉnh Hòa Bình Hòa Bình hiện có bảy dân tộc anh em sinh sống đó là người Mường, Thái, Tày, Nùng, Dao, H"Mông và người Kinh, trong đó số dân đông nhất ở Hòa Bình là người Mường, chiếm 63.3% dân số của tỉnh, chiếm đại bộ phận dân cư ở các huyện Lạc Sơn (trên 90%), Kim Bôi và Tân Lạc (trên 80%), Kỳ Sơn, Lương Sơn, Yên Thủy (trên 60%). Ngoài ra họ còn sinh sống đan xen với các tộc dân khác ở các huyện còn lại. Thứ nhì là tộc dân Kinh hay còn gọi là người Việt, chỉ chiếm 27.7 % tổng số, thường tập trung ở thành phố, thị trấn. Tộc dân Kinh đóng góp to lớn nhất vào sự phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hòa Bình. Người Kinh chiếm tỉ lệ trên 70% dân số thành phố Hòa Bình và trên 35 % dân số huyện Lạc Thủy, nơi có nông trường sông Bôi. Thứ ba là tộc dân Thái, phần lớn tập trung ở Mai Châu (trên 61% tổng số dân huyện này), chiếm 3.99 % dân số tỉnh. Thứ tư là tộc dân Tày, chiếm 2.71 %, tập trung nhiều nhất ở Đà Bắc (38% dân số huyện). Thứ 5 là tộc dân Dao hay Mán, chiếm 1.73 %, chủ yếu sống ở nơi độ cao lớn hơn, thuộc hai huyện Đà Bắc và Kim Bôi. Thứ 6 là tộc dân Mèo - H’Mông sinh sống ở những nơi cao nhất như ở hai xã Hang Kia và Pà Cò, huyện Mai Châu, chiếm 0.52 % dân số. Số lượng người Nùng, ít không đáng kể, sống rải rác ở các huyện trên địa bàn tỉnh. Là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, với nhiều phong tục, tập quán khác nhau. Hòa Bình đã trở thành mảnh đất đậm đà bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy được thể hiện sâu sắc trong cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội thuận lợi, Hòa Bình đã thực sự là mảnh đất giàu tiềm năng về văn hóa, văn học. Chính mảnh đất này đã sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc miền núi có tầm cỡ của địa phương và tầm quốc gia, họ là những người đã có đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng và văn học nước nhà nói chung. 8
  15. 1.1.2.2. Các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng Hòa Bình được coi là miền đất cư trú hàng vạn năm của người Việt cổ. Theo thống kê trên toàn tỉnh có 168 di tích được đưa vào danh mục quản lý (trong đó có 59 di tích khảo cổ học, 22 di tích lịch sử cách mạng kháng chiến, 45 di tích lịch sử văn hoá nghệ thuật, 35 di tích danh lam thắng cảnh; đã có 34 di tích được Nhà nước cấp bằng công nhận là Di tích quốc gia, 7 di tích cấp tỉnh. Hoà Bình - mảnh đất văn hóa có nhiều quần thể di tích có giá trị về lịch sử, văn hoá, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng: Bia Lê Lợi (bia cổ Hào Tráng): nguyên trước kia, bia Lê Lợi ở núi đá bên thác Bờ, xã Hào Tráng, huyện Đà Bắc. Khi tiến hành ngăn sông Đà để xây nhà máy thủy điện Hòa Bình; để bảo tồn, Sở Văn hóa - Thông tin đã di chuyển về bảo quản tại Bảo tàng Hòa Bình. Đền Thác Bờ: ở bờ bên trái sông Đà, đền Thác Bờ dựng trên đỉnh đồi hang Thầu, xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc. Ở bờ bên phải, dựng tại quả đồi thuộc xã Thung Nai, huyện Kỳ Sơn. Ngày lễ hội chính là mùng 7 tháng giêng âm lịch hàng năm. Trong đền có 38 pho tượng lớn nhỏ, trong đó có 2 pho tượng đồng. Hang Bụt: nằm ở dãy núi đá vôi thuộc thị trấn Mường Khến, Tân Lạc. Cửa hang cách đường quốc lộ khoảng 200m. Hang có 3 vòm động. Trong hang có vô vàn khối đá nhũ rủ xuống, nhô ra thiên hình vạn trạng, ánh sáng ngoài trời chiếu vào mờ ảo. hàng năm dịp lễ tết, nhân dân trong vùng và khách bốn phương về hang Bụt lễ bái, cầu vọng đông đúc. Hang Chùa và chùa Hang: nằm trên trục lộ 436 cách thành phố Hòa Bình 80km, cách Nho Quan 13km ở thôn Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy. Lễ hội chùa Hang diễn ra vào tháng giêng, thắng cảnh hang Chùa đã được Bộ Văn hóa- Thông tin xếp hạng di tích lịch sử- văn hóa năm 1994. Đền và miếu Trung Báo: đây là khu đền, miếu ở thôn Trung Báo, xã Cao Thắng, huyện Kim Bôi, cách chợ Bến 3 km theo đường 21. Miếu xưa làm bằng gỗ lợp tranh, sau được dựng lại đền mới, tường xây, ba gian lợp ngói. Lễ hội chính thức tổ chức 3 năm một lần vào thượng tuần tháng giêng. Đền Thượng: từ thị xã Hòa Bình đi theo quốc lộ 6 đến Ngã Ba Mãn Đức, tới thị trấn Vụ Bản, qua chợ Vụ Bản ngược đồi là tới đền Thượng. Đền có kiến trúc chữ Đinh, thờ Mẫu Thượng Ngàn, thờ Cô, thờ Cậu, là một tục thờ trong tín ngưỡng cổ xưa của người dân trong vùng. 9
  16. 1.1.3.Khái lược về bản sắc văn hóa địa phương tỉnh Hòa Bình 1.1.3.1. Khái lược về văn hóa Khi nói về văn hóa - có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa đó đều có những nội dung chung nhất. F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”[32,tr.45]. Một định nghĩa khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra là “Văn hóa là những mô hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm người… Hệ thống văn hóa vừa là kết quả hành vi vừa trở thành nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo”[32,tr.45]. Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[32,tr.45]. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”[32,tr.45]. Theo cách định nghĩa của UNESCO thì "Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”[32,tr.46]. 10
  17. Chúng tôi tán thành định nghĩa sau đây về văn hóa bởi nó đã bao quát ngắn gọn mà toàn diện những đặc điểm quan trọng nhất của văn hóa:"Văn hóa chính là một tổng thể các giá trị về vật chất, các giá trị về tinh thần được con người sáng tạo ra và được bồi đắp, phát triển theo từng giai đoạn của lịch sử”[32,tr.45]. 1.1.3.2. Khái lược về bản sắc văn hóa Khi nói đến bản sắc văn hóa, có rất nhiều cách để chỉ ra bản sắc văn hóa, nhưng tựu trung lại các nhà nghiên cứu đều có sự đồng nhất với nhau về một ý cơ bản. Trong luận văn này người viết chỉ đưa ra vài định nghĩ có tính chất khái quát, tiêu biểu để làm sáng tỏ thêm cho đề tài của mình. Trong Bách khoa toàn thư của Liên Xô nói về bản sắc văn hóa các nhà nghiên cứu đã chỉ ra: “Mỗi dân tộc có đặc tính của mình, chỉ riêng mình mới có, còn các dân tộc khác thì không có”[32,tr.52]. Nhà thơ, nhà văn hóa Nông Quốc Chấn cũng đã nhận định về bản sắc văn hóa một cách cụ thể hơn đó là: “Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm nhiều nét đặc trưng. Có những nét chung trong văn hóa người Việt (còn gọi là người Kinh), có những nét riêng trong văn hóa các dân tộc thiểu số. Những nét ấy biểu hiện trong cách lao động, cách sống, cách kiến trúc nhà cửa, cách ứng xử giữa người với người… những nét riêng ấy không mâu thuẫn với nét chung; nó đa dạng có sự hài hòa”[32,tr.52]. Giáo sư Phan Ngọc cũng đưa ra một nhận định khá đầy đủ về bản sắc văn hóa: “ Nói tới bản sắc văn hóa tức là nói đến cái mặt bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử”[32,tr.55]. Chúng tôi đồng ý với định nghĩa của Giáo sư Phan Ngọc bởi bản sắc văn hóa thực sự là tinh túy của văn học, là những gì thực sự còn lại một cách bền vững sau khi tất cả đã biến đổi, tàn úa, phôi pha theo thời gian. Những giá trị văn hóa tiêu biểu và đẹp đẽ nhất trong truyền thống văn hoá của mỗi dân tộc chính là bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa chính là sự thể hiện tâm hồn, tính cách dân tộc, qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng bản sắc văn hóa trong văn học, là sự thể hiện một cách đẹp đẽ, sáng tạo những truyền thống văn hóa của dân tộc ở mỗi nhà văn, nhà thơ trong quá trình sáng tác tác phẩm văn hóa của mình. 1.1.3.3. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hòa Bình *Bản sắc văn hóa Hòa Bình mang vẻ đẹp của hội tụ và tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc thiểu số cộng cư trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Hòa Bình - Bức tranh văn hóa với nhiều gam màu chủ đạo, ngoài văn hóa của người Kinh, văn hóa của các dân tộc khác cũng phát triển, đó là văn hóa của dân tộc 11
  18. Mường, dân tộc Thái, dân tộc H"Mông,dân tộc Dao,...tại nơi đây đã diễn ra sự gặp gỡ, trải nghiệm, chia sẻ và giao lưu với các nền văn hóa của các tộc người khác nhau. Hòa Bình có thung lũng Mai Châu có con đường thông thương nối hai vùng đất sông Mã và sông Đà. Mai Châu cũng là nơi diễn ra những cuộc giao lưu của các luồng văn hóa khác nhau trong khu vực địa lý chung này, mà tiêu biểu hơn cả là sự lan tỏa của văn hóa Mường với văn hóa Thái. Người Thái Mai Châu là một nhóm Thái theo truyền thuyết, tổ tiên của họ sống ở vùng Mường Hước (Pước Khà) thiên di xuôi theo sông Hồng rồi ngược sông Đà, đến suối Rút thì rẽ vào bãi Sang khai phá đất đai dọc theo suối Mùn. Theo sử sách ghi lại, người Thái đến Mai Châu vào cuối thế kỷ XIV, lúc đó là đầu thời Lê. Ở thời điểm này sử sách nhà Lê gọi vùng này là Mường Mùn, sau đổi là Mường Mai. Như vậy, người Thái đến Mai Châu và tiếp xúc với người Mường ở Mường Bi khoảng hơn 600 năm. Sống trong cùng một điều kiện cư trú đã tạo cho người Thái có mối giao lưu gần gũi với người Mường, đồng thời đã tạo nên những ảnh hưởng tiếp biến sâu sắc từ văn hóa Mường tới văn hóa Thái ở khu vực này. Hiện nay, trong việc thờ cúng tổ tiên, hình thức thờ cúng của người Thái Mai Châu đơn giản và gần giống với người Mường. Phần lớn bàn thờ trong các gia đình Thái Mai Châu giống bàn thờ của người Mường Tân Lạc. Những năm gần đây, người Thái ở Mai Châu cúng ma nhà vào ngày giỗ giống như người Mường. Cũng từ sự ảnh hưởng của văn hóa Mường, văn hóa Thái đa dạng hơn, phong phú và giàu có hơn. Văn hóa tinh thần của người Thái Mai Châu có chịu ảnh hưởng ít nhiều từ văn hóa Mường Tân Lạc nhưng không vì thế mà phai mờ những nét đặc trưng của văn hóa tộc người, bởi văn hóa Thái Mai Châu chứa đựng tính lịch sử và tính địa phương cao, tạo nên sắc thái riêng có thể phân biệt được với văn hóa tinh thần của tộc người Thái ở Tây Bắc. Trong các nghi lễ thờ cúng dân gian của người Thái và người Mường ở Hòa Bình có rất nhiều điểm tương đồng, đó là nghi lễ cúng tiếp vía cho người ốm, người già, nghi lễ cúng chữa bệnh có thầy cúng, lễ đầy tháng cho trẻ sơ sinh, tục treo cành lá ở cầu thang kiêng người lạ khi nhà có người mới sinh nở… Đặc biệt là trong các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp như lễ hội xuống đồng của người Thái có nhiều điểm tương tự như lễ hội khai hạ của người Mường, lễ hội mừng cơm mới… Quá trình sinh sống lâu đời cạnh tộc người Mường Tân Lạc khiến cho văn hóa của người Thái Mai Châu ảnh hưởng văn hóa Mường khá đậm nét. 12
  19. Lễ thức uống rượu cần đoán số vốn là của người Mường Bi đã được du nhập vào các làng bản Thái Mai Châu. Tộp nàng đúng (vỗ gọi nàng trong sọt) cũng vậy, khởi nguyên là sinh hoạt mang tính giải trí, cầu sự mát mẻ, cầu Mẹ trăng của phụ nữ Mường dần dần đã trở nên quen thuộc đối với phụ nữ Thái và được đưa vào đó những yếu tố thần bí và đề cao vai trò của các bà mùn. Về ngôn ngữ, người Thái Mai Châu có thể hiểu và giao tiếp được với người Mường bằng tiếng Mường. Sự ảnh hưởng của văn hóa Mường còn thể hiện trong văn học dân gian, nhất là sử thi của người Thái. Tác phẩm Ẳm ệt của người Thái Mai Châu có nội dung gần giống với sử thi Để đất đẻ nước của người Mường (cùng lấy cây si làm hình tượng văn học). Truyện Ải Lậc cậc của người Thái giống với típ truyện Ông Đùng bà Đà của người Mường. Nếu so sánh các tác phẩm cùng nội dung với các vùng Thái khác ở Tây Bắc Việt Nam thì nội dung những tác phẩm văn học của người Thái Mai Châu có những điểm khác biệt nhất định, chính những điểm khác biệt đó là minh chứng cho sự giao lưu - tiếp biến với văn hóa của người Mường. Trong văn nghệ dân gian, người Thái nổi tiếng với điệu múa Sạp, nhiều người lâu nay vẫn cho rằng đó là điệu múa dân gian do người Thái sáng tạo ra, nhưng thực chất đó là điệu múa được bắt nguồn từ người Mường, qua nhiều thế hệ chung sống, người Thái đã biểu diễn thành thục như là điệu múa của dân tộc mình. Tương tự như vậy, các làn điệu dân ca: "khắp", "lượn" của người Thái Mai Châu cũng rất giống với lối hát Đối, hát "Thường rang" của người Mường. Những năm gần đây trong sự phát triển và tiến bộ chung của xã hội, các dân tộc Mường, Thái, Mông ngày càng có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với nhau hơn nên ít nhiều người Mông Pà Cò đã có sự tiếp nhận những yếu tố văn hóa mới từ người Mường và Thái. Chẳng hạn như: truyền thống của người Mông Đen ở Pà Cò Mai Châu trong việc trồng lúa, trồng ngô, chăn nuôi gia súc gia cầm, việc sử dụng các đồ gia dụng, vật liệu may mặc và phương tiện đi lại... Tóm lại, bản sắc văn hóa của các dân tộc Mường, Thái, Mông đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa truyền thống với sự giao thoa - tiếp biến liên tục, học hỏi tinh hoa của nhau để làm giàu có cho văn hóa của mình, nhưng đồng bào nơi đây vẫn lưu giữ được nhiều phong tục tập quán tốt đẹp trong lễ tết, hội hè, đặc biệt là trong cưới xin, tang ma. Nổi bật nhất và đáng chú ý nhất đó là trang phục truyền thống, ngôn ngữ dân tộc và tình cảm chan hòa, ấm áp giữa người với người của các dân tộc. 13
  20. * Bản sắc văn hóa Hòa Bình mang phong cách văn hóa miền núi. Với đặc điểm là một tỉnh miền núi có bảy dân tộc anh em sinh sống, đoàn kết bên nhau. Mỗi dân tộc có bản sắc riêng, phong tục tập quán riêng đã tạo nên phong cách văn hóa đa dạng mang đậm đà bản sắc văn hóa miền núi. Cùng với văn hoá của người Kinh và văn hóa của người Mường, văn hoá các dân tộc Thái, H’Mông, Dao sống trên mảnh đất Hoà Bình đã tạo nên sự phong phú đa dạng cùng những nét riêng của văn hoá trên mảnh đất này. Người Mường ở nhà sàn, nhà sàn Mường thấp và nhỏ hơn so với nhà sàn của người Tày, người Thái. Kiến trúc đơn giản và thanh thoát. Người Mường thờ tổ tiên, Thành Hoàng, Thánh Tản Viên, thờ Vua Mỡi, Thần bảo hộ sự yên lành, thờ thổ công và một số thần khác, người Mường có tục thờ cây, thờ đá...Trang phục Mường khá độc đáo. Nam giới mặc bộ quần áo cánh màu nâu, màu chàm dệt bằng bông sợi thô; phụ nữ đội khăn trắng hình chữ nhật nơi đỉnh đầu, mặc yếm và áo cánh ngắn thân có xẻ ngực, không cài cúc. Váy Mường thả dài từ ngang vồng ngực xuống chấm gót chân làm tôn thêm vẻ mềm mại của người xứ núi. Sự tinh sảo thể hiện ở cạp váy được dệt bằng tơ nhiều màu tạo ra những hoa văn hình học và những hình chim thú, rồng phượng cách điệu. Lễ hội lớn nhất và phổ biến nhất ở khắp Mường là lễ hội "Khuống mùa" (xuống đồng), lễ hội này chỉ tổ chức vào đầu năm mới. Ngoài ra, còn nhiều lễ hội khác như Hội làm thuỷ lợi, lễ cầu ma, lễ Thành Hoàng... cũng tổ chức vào dịp đầu năm. Lễ mừng cơm mới, mừng nhà mới tổ chức ở phạm vi gia đình, có họ hàng, láng giềng đến dự. Văn học dân gian Mường rất phóng phú đa dạng Trường ca "Đẻ đất đẻ nước" dài hàng vạn câu thơ được diễn xướng bằng nhiều khúc đoạn. Toàn bộ Trường ca phản ánh quan niệm của người Mường về vũ trụ, con người; phản ánh lịch sử đấu tranh lâu dài gian khổ của con người trước thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Truyện thơ dài có "Vườn hoa núi côi, "Hùng nga Hai mối", "Út lót Hồ liêu", "Tràng đồng"... đó là những truyện thơ được người Mường yêu quý và nhiều người trong cộng đồng Việt biết tới. Lối hát giao duyên, hát chúc hát mừng được thể hiện ở các hình thức hát "Thường Đang, "Bộ Mẹng", hát ví gồm hàng loạt bài thơ dài ngắn khác nhau được định hình từ lâu và ngày càng được sáng tạo, bổ sung. Trò chơi dân gian là một bộ phận quan trọng trong văn hoá Mường. Người lớn có trò chơi ném còn, chơi đu, bắn nỏ, bắn súng hoả mai thường diễn ra trong các dịp 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2