Luận văn Thạc sĩ Khoa học Văn học: Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945
lượt xem 8
download
Trên cơ sở tìm hiểu cái tôi trữ tình, luận văn đi vào nghiên cứu những điểm nổi bật, đặc sắc của thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945, đề cập đến một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu đã làm bộc lộ rõ nét cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Văn học: Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH ÂN VĂN NG UYỄN THỊ KIM DUNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHÊ LAN VIÊN SAU CÁCH MẠNG 1945 LUẬN VĂN TH ẠC s ỉ KHOA H Ọ C N G Ữ VÃN Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 5.04.33 Người hướng dẫn khoa học: PG S-TS N G U Y Ễ N BÁ T H À N H Hà Nội 2005
- M ò i h â n tt'Otiij o ẩ m ơn ^7d ì ,tin ('hàn th à n h etítit ott r/ )C ịS — lỹJẴ Q(íỊttijễit (8 « Cĩhtnth, nạtiời thầiẬ đã tận tình luiótitị dẫn tồi trout/ suôt quá trìu li hoàn ỉ hành luận từín. £7i5/
- MỤC LỤC Trang A. PH Ầ N M Ỏ Đ Ẩ U .................................................................................................................................... ] 1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................2 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.............................................................................9 4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 9 5. Bố cục của luận văn..............................................................................................10 B. PH ẦN NỘI D U N G .............................................................................................................................11 C h ư ơ n g l . KHÁI NIỆM CÁI TÔI VÀ CÁ! TÔI TRONG THƠ TR Ử TÌN H ........................... 1 1 1.1. Cái tỏ i...................................................................................................................... 11 1.1.1. Từ góc độ triết học và tâm lý học.................................................................. 11 1.1.2. Từ góc độ sáng tạo văn học nghệ thuật........................................................ 14 1.2. Cái tôi trong thơ trữ tình................................................................................. 17 1.2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình............................................................................... i 7 1.2.2. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ............................................................. 19 C h ư ư n g 2 . s ự PHÁT TRIỂN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THO CHÊ LAN VIÊN TỪ “ĐIÊU TÀN” ĐẾN “ HÁI THEO MÙA”...................................2 6 2.1. Cái tỏi cò đơn, cái tỏi hiệp sĩ.............................................................................26 2.1.1. Cái tôi cô đơn buồn đau................................................................................. 26 2.1.2. Cái tôi hiệp sĩ.......................................................................................................31 2.2. Cái tòi chiến s ĩ, cái tôi nhãn danh............................................................ 38 2.2.1. Từ thung lũng đau thương ra cánh đổng vui................................................. 38 2.2.2. Cái tôi trữ tình ẩn khuất sau cái ta................................................................ 48 2.2.3. Cái tôi đời thường, cái tôi riêng tư.................................................................. 56 C h ư ơ n g 3. s ự VẬN ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THO CHÊ LAN VIÊN T Ừ “ HOA TRÊN ĐÁ” ĐẾN “ DI CẢO THƠ”........................ 6 5 3.1. H ành trình tìm lại chính mình: Ta là ai?.....................................................65 3.1.1. Cái tôi đa cảm, hoài nghi và hi quan............................................................ 66 3.1.2. Trớ lại câu hỏi: Ta là ai?.................................................................................73 3.2. Khát vọng sông, khát vọnịỉ sáng tạo............................................................80
- 3.2.1. Khát vọng sống................................................................................................81 3.2.2. Khát vọng sáng tạo............................................................................................ 86 C h ư ư il g 4: MỘT CÁ TÍNH SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO...................................................................... 9 5 4.1. Tư duy thơ đặc sác........................................................................................... 96 4.1.1. Liên tưởng, tưởng tượng................................................................................ 96 4.1.2. Đôi lập............................................................................................................ 100 4.2. Hình ảnh thơ đa dạng, phong phú...........................................................102 4.2.1. Hình ảnh tượng trưng siêu thực...................................................................102 4.2.2. Sự liên kết giữa các hình ảnh thơ................................................................109 4.3. (ỉiọ n g điệu thơ vừa hùng tráng vừa bi thương...................................... 114 4.3.1. Giọng điệu hùng tráng mang tính sử thi.................................................... 114 4.3.2. Giọng điệu bi thương trầm buồn với nhiều cung bậc...............................116 c . PHẨN KẾT LUẬN............................................................................................................. 120 * Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................... 123
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO C H Ọ N ĐỂ TÀI. 1.1. Cái tôi là trung tâm tinh thán của con người, của cá tính người. Cái tôi làm nên muôn mặt của đời sống, cái tôi cũng làm giàu cho thi ca. Xem thơ trữ tình như một biểu hiện của chủ thể cụ thể, Hêghen cho rằng:“Cứ/ỉ phải khẳng íỉịnh một chủ th ể cụ th ể - nhà thơ như là điểm trung tâm và nội dung đích thực của tlìơ trữ tình". ở thơ trữ tình ‘Vá nhân là trung tâm trong quan niệm và tình cảm nội tại của /ỉó”[36,105]. Như vậy, tìm hiểu cái tôi trữ tình là tìm hiểu một phương diện chính yếu của thơ trữ tình. 1.2. Vai trò của cái tôi trữ tình trong thơ rất quan trọng: Là tiền đề tạo nên phonti cách thơ. Cái tôi càng rõ, càng lớn thì phong cách càng độc đáo. Có thể nói cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên ỉà một nhân vật trữ tình to lớn, đổ sộ bậc nhất trong so sánh với một cái tôi trữ tình cùng thế hệ: Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu... 1.3.Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, ở giai đoạn nào Chế Lan Viên cũng là một trong những người đi tiên phong và là một trong những đại biểu xuất sắc. Mỗi một chặng đường lịch sử, Chế Lan Viên lại đánh dấu một đính cao trong sự nghiệp sáng tác của mình. Mười bảy tuổi, với tập Điêu tò/i(1937), nhà thơ đã làm “sửng sốt ” cả thi đàn Việt Nam như “mộ/ niềm kinh dị" (Hoài Thanh). Hơn hai mươi năm sau, Chế Lan Vicn lại làm chấn động văn đàn bởi Ánh sáng và phù sa. Sau khi giã từ cõi thế, nhà thơ còn để lại cho đời Di cảo thơ với hơn 500 bài gây xôn xao dư luận, khẳng định một tài năng chưa bao giờ chịu hạ cánh trước bất cứ một trở lực nào của cuộc sống. Chê Lan Viên xứng đáng là nhà thơ số một ở Việt Nam có năng lực sáng tạo phi thường. Người ta gọi ông ìằ“nhà thơ của th ế Ả.ỵ”(Nguyễn Văn Hạnh), “Nhủ thơ không th ể lấy kích tấc thường mà đo iỉược \H oài Thanh). Thơ Chế Lan Viên là nguồn sáng mãnh liệt, ngay cả khi tác giá của nó đã về với cỏ cây. đi vko“xứ không màu" thì nguồn sáng kỳ diệu đó vẫn toa rạng.
- Thơ Chế Lan Viên là đối tượng quy tụ của nhiều cây hút nghiên cứu, phê hình, nhiều bài báo, tạp chí, tuyên tập, tiểu luận, luận án, luận văn... với tất cả niềm say mê và lòng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, chưa một công trình nào nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống về cái tôi trừ tình trong thơ ông. Tim hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945 là một cơ hội để người viết hiểu hơn thư Chế Lan Viên, cũng là để bày tỏ lòng trân trọng, ngưỡng mộ đối với một tài năng, một nhân cách lớn. Mặt khác, thơ Chế Lan Viên đã được tuyển chọn vào chương trình văn học THCS -THPT và cả bậc Đại học. Vì vậy, việc triển khai đề tài này sẽ có tác dụng thiết thực đối với việc giảng dạy ở nhà trường sau này của chúng tôi. Trên đây là những lý do khiến chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: Cái tói trữ tình trong thơ Chê Lan Vièn sau Cách mạng 1945. Hy vọng rằng đề tài này sẽ đem lại một điều gì đó hữu ích cho những ai quan tâm đến Chế Lan Viên và thơ của ông. Tuy nhiên, đây là một vấn đề lớn và khó, hơn nữa do những hạn chế về khả năng, trình độ, thời gian nên chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong được các chuyên gia và đổng nghiệp góp ý thêm. 2. LỊCH SỬ VÂN ĐỂ. 2 .1 .Ban chất chủ quan của thơ trữ tình đã được chú ý từ rất sớm(Arixtôt). Hèghen, Biêlinki,... đã đi sâu vào bản chất chủ quan của thơ trữ tình bằng các khái niệm: “chủ th ế ', “cái tôi”, “/âm hồn" và cho rằng đây chính là “nguồn gốc và điểm tựa"của thơ trữ tình[ 12,160]. Các nhà lý luận văn học cổ điển Trung Quốc như Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị, Viên Mai... cũng đã có nhiều kiến giải sâu sắc về vấn đề này bàng các khái niệm: “tâm”, “tình”, “ vợ/”, “c7zf\ “hứng”, “línli lin ir...[23]. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khái niệm cái tôi trữ tình mới được vận dụng trong nghiên cứu thơ trữ tình. Các nhà lý luận văn học hiện đại đều thống nhất ràng cái tôi trong mọi thời đại đều là “nguồn gốc cốt lõi của thơ ca"[42,10], Ớ Việt Nam, bán chất chủ quan của thơ trữ tình cũng đã được nói đến từ xưa(Nguyễn Cir Trinh và Ngô Thì Nhậm đều cho thơ phát ra của
- “(■///” ở trong lòng; Lê Quý Đôn nói về mối quan hệ giữa “tình" , “cảnh" và “.V//’; Nguyễn Quýnh bàn về “/ííw” và “hứng"', Nhữ Bá Sỹ coi văn chương“/?ậ/ rư tựcíúy lòng"; Cao Bá Quát cho thư là thê hiện “tính tình", “phẩm chất ’’)[4ì ]. Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình được các nhà lý luận văn học hiện đại vận dụng vào việc nghiên cứu thơ trữ tình, tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Hoài Thanh[47], Lê Đình Kỵ[ 15], Hà Minh Đức[8],[9], Nguyễn Xuân Nam[30],Trần Đình Sử[46], Lê Lưu Oanh[42], Mã Giang Lân[ 17], Nguyễn Bấ Thành[49], Phan Cự Đệ... Chúng tôi đã tiếp thu một số ý kiến về cái tôi trữ tình trcng các công trình trên để tìm hiểu, nghiên cứu cái tôi Irữ tình irong ỉhư Chế Lan Viên. 2.2.Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên gắn liền với sự vận động và biến đổi của lịch sử dân tộc Việt Nam. Trên những chặng đường ấy, thơ Chế Lan Viên đã đi từ niềm kinh dị này đến niềm kinh dị khác. Hơn 50 năm sáng tác, với sức sáng tạo bển bỉ, nhà thơ đã để lại cho các thế hệ độc giả hôm nay và mai sau một khối lượng tác phẩm đổ sộ với một phong cách thơ đa dạng, giàu cảm xúc vừa giàu chất trí tuệ ở nhiều chặng đường sáng tác khác nhau. Do vậy, những bài viết nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên là rất nhiều. Theo thống kê của chúng tôi, tính từ khi Chế Lan Viên xuất bản tập Điêu tàn đến nay đã có hơn 200 công trình nghiên cứu, bài viết về thơông[33],[34]. Các tác giả hoặc tập trung vào một tập thơ, hoặc thiên về tổng kết một giai đoạn thơ, một đời thơ... 2.2.1. G iai đoạn trước Cách mạng 1945. Trước 1945, Chế Lan Viên có tập thơ Điêu tàn và tập văn xuôi Vàng sao, cùng một số tác phẩm vẫn chưa được in thành tập. Đánh giá về Điêu tàn thời kỳ này, các tác giả: Nguyễn Minh Vỹ, Quách Tấn, Bích Khê, Hoàng Diệp, Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... đều nhất trí cho ràng Điêu tàn là một tác phám kỳ lạ, đánh dấu một cái nhìn nghệ thuật mới mẻ của Chế Lan Viên. Công phu nhất có bài của Hoài Thanh in trong Thỉ nhàn Việt Nam. Ông coi Điêu tàn là "một niềm kình di". Nguyễn Vỹ có bài Cltê Lơn Viên sau in trong Việt N am thỉ nhân tiền chiến cũng cho ràng: Thư Chế Lan Viên độc đáo, nhiều bài cảm 3
- động, “Tập Điêu tàn của anh còn dè lại một clìiếc bóng trong văn học sử Việt Nam, giống như những tháp Cliủni trên dứt nước Đồ Bàn, cỏn văng vảng tiếng nức nà nghìn thu chiêm nữ liận"[34,28]. 2.2.2. Sau 1945 đến những năm 80 của thê kỷ XX. Ớ giai đoạn này, Chế Lan Viên có 9 tập thơ, thể hiện những vấn đề lớn lao của thời đại và những quan niệm mới về thi pháp thơ. Đã có rất nhiều bài viết về Chê Lan Viên từ các góc độ tiếp cận khác nhau: Có bài viết về từng tập thơ; có bài viết về nhiều tập; có bài nghiên cứu về ngôn ngữ, hình ảnh, thể loại; có hài nhận xét tống quan, chân dung; có những công trình viết về tác giả đặt trong phong trào, trường phái, trào lun... Các bộ giáo trình Lịch sử ván học Việt Nam của các tác giả ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, các công trình của Viện Văn học: Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam chống M ỹ cứu nước, các bộ lý luận văn học của nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu thơ có đề cập đến Chế Lan Viên. Đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Phan Cự Độ[7], Hà Minh Đức[9], Mã Giang Lân[17], Trần Đình Sử[44], Nguyễn Bá Thành[48], [49],... Hầu hết các công trình này đều khẳng định, Chế Lan Viên đã đi từ “thung lũng chiu thương ra cánh đồng vui”, đi từ cái tôi nhỏ bé đến cái ta rộng lớn. Một số bài nghiên cứu về từng phương diện cụ thể của thơ Chế Lan Viên qua các tập: Gửi các anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường - Chìm báo bão như:“Đọc Ánli sáng và phù sa" của Xuân Diệu, “Đợc Ánh sáng và phù sa"của Hà Minh Đức, '‘'‘Những biển cồn hãy mang đến trong tlĩ(f 'của Lê Đình Kỵ, “C hếLan Viên và những tìm tòi trong nghệ thuật tluf'cua Nguyễn Lộc... Tất cả đều nhận xét bước chuyển biến đáng kê của Chế Lan Viên:“7ợ/? Ánh sáng và phù sa cống liiến vào nền thơ cliuníỊ của chúng ta hiện nay một tâm hồn C h ế Lan Viên - Một tâm hồn nặng những su Vnghĩ, phấn đấu trên hoàn cảnh cụ thê của mình dê tín dược cái lớn của niềm vui cliung'XXuân Diệu)[34, 40].“C/ỉé Lan Viên dã có nhiều c ố gắng trên dịu liụt tưởng tượng, sáng tạo"( Hà Minh 4
- Đức)[34,55]. Hoặc “//o a ngày thường - Chim báo bão là một chuyển hướng mạnlì bạo trong phong cách của Chê Lan Viêrì\L ê Đình Kỵ)[34,65],“/V/ỉ/?//i> hình ánh Chê Lan Viên sử clụniỊ thường bao giờ cũng độc đáo và rất
- Nam[31], Trần Thanh Đạm [33,389], Đoàn Trọng Huy[33,398], Nguyễn BáThànhl33,405]. Hổ Thế Hà[ 10]; Trần Mạnh Hảo[33,222]; Võ Tấn Cường[33,419]; Vũ Quần PhươngỊ 33,434]... đã tập trung sự chú ý vào những đóng góp của Chê Lan Viên qua Di cảo tho giúp người đọc thấy được bước chuyển trong từng chặng đường và sự đóng góp đặc sắc của một nhà thơ đa dạng, luôn phát triển và vận động, mới mẻ: “Diện mạo thơ, chán dung thơ của Chê Lan Viên trước tỉủ V sác sào dến mảy, thần sắc đến mảy cũng mới chỉ ở trên một mặt phang, còn thơ chưa in vù thơ sau khi nhà thơ từ trần đã tạo nén một diện mạo cỏ chiều kích khác. Đó lủ phù diêu. Đó lù tượng tròn. Đó là tượng d/i/f’(Nguyễn Thái Sơn)[34,145] “vé thể tài vẫn là trữ tình chính trị n/uOiíỊ C liế Lan Viên dã từ khai thác lịch s ử - d â n tộc đi về hướng th ế sự - đạo íiức; từ sự chú ỷ “ khía cạnh anh hùng ” chuyển sang “ khiu cạnh đời thường” (Đoàn Trọng H uy)[34,l 17]. Trần Mạnh Hảo hết lời ca ngợi thi tài Chế Lan Viên “củng gần cái chết, thơ ông viết càng hay, càng bớt chất luận đề, chính luận, củng thêm cám xúc và sâu đọng”, “ Chê Lan Viên vẫn cất lên tiếng trông, tiếng từ và báo hiệu một ngày mới trên cánh đồng vĩnh cửu của thi ca ” [34,228-230]. Trong tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên, các luận án, luận văn... tuy chưa có bài viết nào trực tiếp nghiên cứu từ góc độ cái tôi trừ tình một cách toàn diện, có hệ thống nhưng một số các tác giả cũng có đề cập ít nhiều về cái tôi trữ tình trong thơ ông. Nhìn chung, điểm thống nhất cơ bản trong những nhận định của các nhà nghiên cứu là sự chuyển biến của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên theo chặng đường lịch s ử.“Nó dã có một chặng cíườnq phát triển và thay đổi liên tục tử Điêu tàn đến H ái theo mùa (Nguyễn Bá Thành)[48,146]. Nguyễn Văn Long nhận ra phần lắng lại của hồn thơ Chế Lan Viên “một hồn thơ d ã có nliiều tửng trải, dược thanh lọc qua nhiều thử thácir[ 19,84]. Nguyễn Xuân Nam nhận ra trong Di cảo thơ “một C h ế Lan Viên không lioàn toàn I>iốni> trước", “ có một chút cô lĩơn, một chút khó hiểu”, “ có những mảnh suy 6
- hìịIũ về nỗi thủniị trầm", “vừ có cái bình tĩnh của một triết nhân”[31 Ị.Vũ Quần Phương cho ràng: “C hế Lan Viên quay vê bản thể, nghiền ngầm chiêm nghiệm lụi chính mình... xót đau mù dây bân lũ ìi r [7)3,434], Đoàn Trọng Huy không chí nhận ra sự chuyển biến giọng điệu thơ, tư duy thơ mà còn phát hiện ra một cái tôi‘V/7// nặng suy t ứ ' “hiện lên rõ một triết nhân đầy suy tư chiêm m >hiệnr[33,ỉ01]“cái tôi riêu ạ tư đích thực xuất hiện ngày càng rõ W;/”[33,398J. Nguyễn Bá Thành nhận thấy:“cớ/ mặc cảm là quỹ thời gian sông đang v ơ i cíi một cách đáng sự, những cảm xúc và nghĩ suy hướng mạnh vê phía vò cực, vô biền, ông dật bàn thân mình trước vã trụ bao la và thấy sự sống cũng nliỏ bé, mong /Wứrt/j”[33,406]. Tác giả cho rằng: “Di cảo mang nặng dấu vết Điêu tàn. ô n g thấy ở đó sự hoài nghi cô dơn, chua chát ảm đạm não nùng. Bao nhiêu dũng khí của Chê Lan Viên thuở Ánh sáng và phù sa dường như d ã tiêu tan. Tliay vào đó là sự chán nản, b ế tắc của người bất dắc chí với thái đ ộ “treo ấn", “vê v/tó>ỉ”[72,433]... Các tác giả khác: Vũ Tuấn Anh[33,20], Vĩnh Quang Lê[33,372], Trần Thanh Đạm [33,389],Trần Mạnh Hảo[33,212], Võ Tấn Cường [33,419], Lê Đình Kỵ[16]... Đều có những nhận định tương tự. Đây cũng chính là những định hướng quan trọng cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh việc khẳng định những thành tựu lớn của thơ Chế Lan Viên, vẫn còn có một số ý kiến chưa thật thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Đặc biệt là ở ba tập D i cảo thơ. Có lẽ, do quy mô đồ sộ của ba tập thơ và sự đa dạng, phức tạp của cái tôi trữ tình trong thơ mà ý kiến của các nhà nghiên cứu có sự trái ngược nhau, nhưng không phải để hạ thấp mà để hiểu thêm một Chế Lan Viên đa dạng.‘V ào những năm cuối đời, Chê Lan Viên dã thay đổi khá nliiều vê giọng thơ, hình ảnh thơ, âm điệu thơ, và cả phương pháp tư duy. Đó không phái lừ sự cách tân, mà cliủ yếu lủ sự phục hồi cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ thời trước Cách mạng tháng Tám. Phương pháp tư duy ấy được C h ế Lan Viên đúc kết thành phươiìq pháp lộn trái hay bề thêu trái”. ‘Trong thơ, Chè Lan Viên bộc lộ một sự lioài niịhi có tính triết /j{>r”(Nguyễn Bá Thành) 7
- 133,410]. Hoặc “Chê Lan Viên - người dấu mặt. Và Di cảo thơ lả hành trình đi tìm mặt của C h ế Lan Viên à cõi dời khi ông đã về cõi trời. Điều này tăng thêm kícli lấc cho ỏng và cho cái nạày hôm n a \ không còn ô/zg”(Phạm Xuân Nguyên)[34,168]. Nguyền Thái Sơn và một số nhà nghiên cứu khác đánh giá cao Di cảo thơ Chế Lan Viên. Các tác giả dùng hình tượng“ phù điêu”? tượng tròn ”, “tượng
- Bt'n cạnh đó còn có nhiều luận vãn, luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ nghicn cứu Chế Lan Viên ở nhiều khía cạnh của các tác giả: Ngô Bích Thu, Hổ Thế Hà... Tác giá Vũ Tuấn Anh(Viện Văn học) cũng đã biên soạn, tập hợp các bài viết về thơ Chế Lan Viên trong một cuốn sách khá công phu giúp chúng tôi có thêm những tư liệu tham khao quý giá để thấy rõ hơn cái tôi trữ tình Chế Lan Viên qua các thời kỳ. 3. ĐỐI TƯỢNG, P H Ạ M VI NGHIÊN c ứ u . 3.1.Trên cơ sở íìni hiểu cái tôi trừ tình, luận vãn đi vào nghiên cứu những điểm Iiổi bật, đặc sắc của thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945, đề cập đến một sô phương diện nghệ thuật tiêu biểu đã làm bộc lộ rõ nét cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945. 3.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là các tập thơ được xuất bản từ sau Cách mạng 1945. Cụ thể luận văn đi vào 14 tập thơ chính, những sáng tác trước 1945, các tập bút ký, tiểu luận, phê bình của Chế Lan Viên được coi là những tư liệu quan trọng dùng để tham khảo. 4.P H Ư Ơ N G PH ÁP N G H IÊ N cứ u. 4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp trên cơ sở s ố liệu thống kê. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 14 tập thơ của Chế Lan Viên xuất bản sau Cách mạng 1945. Dựa trên cơ sở thống kê theo từng nhóm tác phẩm, chúng tôi sẽ tìm ra những biểu hiện của cái tôi trữ tình. Với khối lượng đổ sộ của thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945, phương pháp tổng hợp sẽ giúp người nghiên cứu tránh được cảm giác bị choáng ngợp, có điều kiện đi sâu nhiều vấn đề. 4.2. Pliương pháp so sánh. Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu trên hai bình diện: - So sánh, đối chiếu giữa cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên với cái tôi trữ tình của một số nhà thơ khác để tìm ra những nét chung mang tính thời đại vù những nét riêng mang phong cách cá nhân, độc đáo. 9
- - So sánh, đối chiếu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng 1945 với cái tôi trữ tình trước Cách mạng để thấy được sự vậnđộng, biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ Chê Lan Viên qua các thời kỳ. 5. BỐ CỤC C Ủ A LUẬN VÃN. Ngoài phẩn mở đầu và kết luận, luận văn được chúng tôi triển khai thành bốn chương: Chương I. Khái niệm cái tôi và cái tôi trong thư trữ tình. Chương II. Sự phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Chế LanViên từĐiêu tàn đến Hái theo mùa Chương III. Sự vận động và biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ Hoa trên đá đến D i cảo thơ. Chưưng IV. Một cá tính sáng tạo độc đáo. *Danh mục tài liệu tham khảo. 10
- NỘI DUNG CH Ư Ơ NG 1 K HÁI NIỆM CÁI TÔI VÀ CÁI TỎI TRO NG TH Ơ TR Ữ TÌNH . 1.1.CÁI TÔ I. 1.1.1. T ừ góc độ triết học và tâm lý học. Cái tôi là gì? Vai trò của nó như thê nào trong quan hệ chủ thể và khách thể? Ngay từ thời cố đại, nhiều nhà khoa học, triết học đã trãn trớ tìm lời giải đáp. Nhưng ý thức về cá nhân, về cái tôi chỉ thực sự được khẳng định khi nhận thức của con người thoát khỏi sự ngự trị của tôn giáo. Sự nhận thức duy lý về cái tôi là một bước ngoặt quan trọng của nhân loại về bản thể sinh tổn. Trong quá trình phát triển lịch sử của loài người, cái tôi đã dần định hình và tự khẳng định tính độc lập của mình, trở thành chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới. Khái niệm cái tôi, được hình thành bởi một quá trình lâu dài, mang trong mình tính phức tạp nhiều khi tưởng như thần bí. Cái tôi có nội hàm rộng đến nỗi khó xác định được toàn bộ ý nghĩa của nó cũng như tìm cho nó một định nghĩa hoàn chính, thống nhất. Các triết thuyết tôn giáo: Cơ đốc giáo, Phật giáo, Nho giáo...về cơ bản, “không thừa nhận cái tôi cá nhân, hoặc giả có thừa nhận nhưng rồi cuối cùng cũng quy về những quan niệm siêu hình, duy tâm, thần bí, xoá bỏ cái /ớ/'”[36,l 1]. Các học thuyết tôn giáo bằng cách này hay cách khác, đều hướng con người đến đấng tối cao, quên đi cái tôi của mình. Song, để đạt được điều đó, tôn giáo đòi hỏi mỗi cá nhản phải có một nghị lực phi thường để vượt qua chính mình. Để chế ngự cái tôi, vượt qua cái tôi, quên đi cái tôi, suy cho cùng lại phải thực sự nhận biết tường tận về cái tôi. Chính vì vậy mà chủ trương diệt ngã, vô ngã, xoá cái tôi cá nhân, tôn giáo cũng đã gián tiếp thừa nhận có cái tôi tổn tại trong mỗi cá nhàn. Duy có điều, quá trình sống của con người là quá trình kháng định cái tôi thì tôn giáo lại đi ngược lại- xoá bỏ cái tối. 11
- Các triết thuyết duy tâm khác cũng rất quan tâm đến cái tồi. Các nhà triết học: Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hèiịhen, Becxông, Ph
- hiên sinh của Husserl; Sartre; thuyết phát triển trí tuệ của J. Piagic;... Các công trình lý luận về nhân cách của các nhà tâm lý học Mác xit: A.N.Lêônchiep; A.G.Côvaliôp... đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất cấu thành ý thức, nhân cách. Đáng chú ý nhất là quan niệm của hai nhà tâm lý học: A.G Xpirkin và A.N.Lêonchiep. Trong Triết học x ã hội A.G.Xpirkin đã nêu lên: “Cái tôi chính là câu trúc phần tự giác, tự ỷ thức của nhân cách, có th ể coi đó lù truníỊ tủm tinh thần - ỷ nghĩa, diều chỉnh - dự báo của nhân cách, mang tính íĩịr.h hướng vê động cơ, niêm tin, lợi ích, thê giới quan, tà cơ sở hình thành n/iĩng tình cảm xã hội của COIÌ ngườiịỷ thức về phẩm giá, nghĩa vụ, trách nhiệm, nguyên tắc đạo đức) vù xác định mặt cá tí nhị đơn nhất) của nhân rớí7ỉ”[42,17]. A.N.Lêonchiep cũng bàn nhiều đến nhân cách trong đó có vấn đề con người tự V thức mình là một nhân cách. Theo A.N.Lêonchiep“ ỷ thức vê' cái tôi, là kết quả, lù sản phẩm sinh thành của một con người với tư cách là một nhân cách. Cái tôi của con người như đan quyện vào hệ thống tổng quát của những mối quan hệ giữa con người và x ã hội"[ 18]. Trên cơ sở những thành tựu khoa học về con người, đạc biệt là thành tựu triết học, tâm lý học, triết học Mác đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh về cái tôi: “ Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của cá tính người có quan hệ tích cực đối với th ế giới và đối với chính bản thân mình. C hỉ có con Iigiỉời ăộc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng th ể hiện tính chù cíộiiiỊ toàn diện mới có cái tôi của m ìn/r[ 40,66]. Việc khẳng định cái tôi là trung tâm tinh thần, cá tính con người cho thấy đời sống tinh thần con người khóng phải do một đấng siêu nhiên nào thổi vào mà được hình thành và phát triển cùng với quá trình sống của con người, do con người định đoạt. Mặt khác, cái tôi “quan hệ tích cực với th ế giới và với chính bản thân mình", có nghĩa là cái tôi vừa mang bản chất xã hội, có quan hệ gắn bó, khăng khít với hoàn cảnh, vừa mang bản chất cá nhân độc đáo. Câu trúc của cái tôi gồm hai phần: Cái cá nhân và cái xã hội nhưng không phải là phép cộng, cũng không phải là một sự 13
- gắn kết cơ giới, máy móc mà hoà hợp, xuycn thấm lẫn nhau như một hợp chất hữu cơ vậy. Như vậy, không thê có một cái tối hoàn toàn duy lý đến mức cực đoan, cũng không thể chấp nhận một cái tôi thụ động, buông xuôi m a ‘chỉ có con Hí>ười dộc lập kiểm soát nliữniỊ hành vi của mình và cỏ khả năng thê hiện lính cliít ÍỈỘI1 ÍỊ toàn diện mới có cúi tỏi của mìnlĩ"(Cảc M ác)[40,66]. Cái tôi đòi hỏi con người phải ý thức và tự ý thức cùng với những khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp ... để tự điều chỉnh sao cho phù hợp với quy luật đời sống. Trên cơ sở, quan niệm của các nhà triết học, tâm lý học nhân cách, đạc biệt dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác, chúng tôi tạm thời có một vài kết luận về cái tôi: Thứ nhất: Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, là trung tâm làm nên cấu trúc nhân cách, hình thành cá tính, phẩm chất, năng lực, sự năng động của ý thức... của con người. Thứ hai: Cái tôi vừa mang bản chất xã hội, lịch sử vừa mang bản chất cá nhân riêng biệt, độc đáo... Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Do vậy, cái tôi vừa là chủ thể, vừa là khách thể của hoạt động nhận thức. Thứ ba: Cái tôi tự ý thức, tự điều khiển, điều chỉnh, tái tạo lại thế giới và tái tạo lại chính mình để hướng tới cái hoàn thiện. Tóm lại, các tư tưởng triết học, tâm lý học về cái tôi đã nói về bản chất của chủ thể trong đó có vấn đề nhận thức, sáng tạo. Cái tôi chính là nền tảng của sự sáng tạo, có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật nói chung và thơ ca trữ tình nói riêng. 1.1.2.TỪ góc độ sáng tạo vần học nghệ thuật. Cái tôi nhà văn với tư cách là trung tâm tinh thần, tham gia vào toàn bộ quá trình sáng tạo, đã trở thành một đối tượng của lý luận văn học, văn học sử và nghiên cứu văn học. Cái tôi nhà văn có mặt ở mọi khâu, trong mọi yếu tố của quá trình sáng tạo. Vai trò chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật rất quan trọng. “Ní>hệ thuật là tỏi, khoa học lù chúng /í/”(Claud-Berna). 14
- ơ đây, cần phải nói tới sự can thiệp của cái tôi nhà văn vào tư duy hình tượng- kiêu tư duy đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, v ề điểm này, các nhà lý luận đã đi đến thống nhất là nếu không có tư duy hình tượng, không có hư cấu, tưởng tượng sáng tạo thì không có văn học nghệ thuật. Người nghệ sĩ, bằng kiêu tư duy hình tượng, bàng tưưng tượng sáng tạo đã tạo ra một cuộc sống thứ hai(thống nhất mà không đổng nhất với cuộc sống hiện thực vốn có). Ở đó, thế giới được cấu tạo lại theo ước vọng. Người nghệ sĩ khám phá cuộc sống theo qui luật phản ánh và sáng tạo. Những sự vật, hiện tượng diễn ra hàng ngày, dưới con mắt của người nghệ sĩ, đã không còn giữ nguyên cái thuần tuý vốn có của nó nữa. Như vậy, cái tôi nhà văn tham gia vào tư duy hình tượng cũng có nghĩa là tham gia vào toàn bộ quá trình sáng tạo ngay từ khi bắt đầu hình thành ý đổ sáng tác. Tài năng của nghệ sĩ, tư duy hình tượng ở nghệ sĩ không phải là cái gì có tính đột biến mà phải được nuôi dưỡng từ thời thơ ấu. Nhà văn quan sát thế giới(kể cả tự quan sát), hướng tất cả sự chú ý vào những gì tác động mạnh mẽ đến cái tôi của mình. Với khả năng nhạy cảm đặc biệt, cái tôi, trung tàm tinh thần diễn ra một quá trình phân tích, tổng hợp. Những gì được giữ lại trong trí nhớ sẽ trở thành các ấn tượng có sức sống lâu bền. Quá trình này diễn ra hết sức chủ quan và từ ấn tượng đến sáng tạo có một khoảng cách, ở đó cái chủ quan có thế thay đổi. Sự thay đổi này làm cải biến các ấn tượng. Các ấn tượng tổn tại trong trí nhớ ở dạng rời rạc, khi đi vào tư duy hình tượng, sáng tạo chúng được tổ hợp nhờ liên tưởng thành một chỉnh thể phức hợp, hoàn chỉnh. Từ góc độ cái tôi tác giả, cái tôi nghệ sĩ tham gia vào toàn bộ quá trình này với chức năng điều chỉnh, điều khiển tư duy đi đúng với quy luật nhận thức và đặc trưng sáng tạo nghệ thuật. Cái tôi nghệ sĩ nội cảm hoá thế giới thực tại và tự biêu hiện mình qua hình tượng. Khi cái tôi biểu hiện dưới dạng cảm xúc trực tiếp, ta có các hình tượng của một cái tôi trữ tình. Độc giả đến với tác phẩm văn học do nhu cầu của đời sống tinh thần. Câu chuyện văn chương là câu chuyện của tâm hổn. Cho nên, không phải không có lý khi có người đặt nhà thơ ngang với nmrừi mộng du, có thiên hướng phóng chiếu cái tôi của mình ra ngoài, còn độc giá có thiên hướng chủ quan hoá xúc động của người khác. A.rnauđôp gọi 15
- "(Ịitá trìn h SÚIÌỊỊ tạo của ngưỉH nghệ s ĩ lù quá trìn h “ g iả i thoát n ộ i tâm ” và ông quan niệm, những đau khổ bất hạnh s ẽ làm cho nghệ s ĩ “nâng sản ” hơn là những Ịịì Hịịhệ sĩ cảm thấy liạnli pliúc"[4,223]. Tônxtôi, Puskin, Lamactin, Banzãc, Gơt... đều cho như vậy. Chính nhờ có sự đồng cám trong sáng tạo mà ở nghệ sĩ thường có sự nhập thân vào đối tượng nhung mức độ khác nhau. Song, nhờ có cái tôi tự ý thức, nhà văn luôn có sự tỉnh táo nhất định. Sự nhạy cảm, cảm xúc khi dâng lên mãnh liệt, thì lý trí có nguy cơ làm nô lệ cho trí tưởng tượng, khi đó nhà văn sẽ rơi vào“ do mộng", không còn ý thức về cái tôi của bản thân nữa. Nhà vãn phải dùng đến một cái tôi tinh táo, luôn íự ý thức, tự quan sát, biết phân tích và dùng lý sự can thiệp vào quá trình sáng tạo. Một sự nhập thân hoàn hảo là vừa phải biết quên mình đi vừa biết ẩn mình một cách kín đáo. Nhập thân vào nhân vật nhưng luôn tự biết mình là một nhà văn. Như vậy, hình tượng nghệ thuật là kết quả của những gì mà cái tôi nhà vãn hoàn toàn tâm huyết, là sự thống nhất hài hoà giữa tình cảm và lý trí, giữa tư duy hình tượng cảm tính và sự phân tích lý tính, giữa khách quan và chủ quan. Cũng cần phải đề cập đến sự ảnh hưởng của cái tôi nhà văn đối với cá tính sáng tạo. Không có cá tính sáng tạo thì tác phẩm chỉ là một sự sao chép. Không có phong cách, không có cái riêng là hành động “tự sát ” trong nghệ thuật. Khrapchencô khẳng định: “sự đối lập giữa cá tính sáng tạo và con người thực của nạ/lệ s ĩ cũng kliông hợp lý như sự đồng nhất chúng hoàn toàn"[ 14,104]. Cá tính nhà văn và cá tính sáng tạo, cái tôi nhà vãn trong cuộc đời và cái tôi nhà văn trong nghệ thuật(gọi tắt là cái tôi nghệ thuật) không bao giờ đổng nhất. Trong quan hệ giữa cái tôi và cá tính, giữa cái tôi nghệ thuật và cá tính sáng tạo cũng vậy. Giống như cái tôi nghệ thuật, cá tính sáng tạo mang bản chất cá nhân, bản chất xã hội và bản chất thẩm mĩ. Nhưng nếu như cá tính sáng tạo với những phẩm chất tương đối ổn định, bển vững là nét đặc thù thì cái tôi nghệ thuật nét đặc thù là tính chất tự ý thức, tự điểu chinh, thậm chí điều chính cả cá tính sáng tạo. Khi giữa cái tôi nghệ thuật và cá tính sáng tạo có được sự thông nhất cao độ thì sáng tạo của nhà văn mới thật sự mang phong cách và có giá trị. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 413 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 343 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn