intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

37
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐẶNG HỮU HIỆP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐẶNG HỮU HIỆP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ MINH VỤ HÀ NỘI - 2014
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chính sách xã hội CSXH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa CNH-HĐH Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN Giá trị sản xuất GTSX Giải quyết việc làm GQVL Lao động – thương binh và xã hội LÐ-TB & XH Nông nghiệp và phát triển nông thôn NN và PTNT Thu hồi đất THĐ Trách nhiệm hữu hạn TNHH Tiểu thủ công nghiệp TTCN Tổ chức lao động quốc tế ILO Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI 10 1.1 Khái niệm của việc làm, giải quyết việc làm và tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến giải quyết việc làm cho nông dân 10 1.2 Nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 24 Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI 34 2.1 Đặc điểm chung của huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến việc làm nông dân 34 2.2 Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội 38 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN TRONG THỜI GIAN TỚI 68 3.1 Phương hướng giải quyết việc làm cho nông dân huyện Thường Tín, Hà Nội trong thời gian tới 68 3.2 Giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho nông dân huyện Thường Tín, Hà Nội 71 KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, giải quyết việc làm cho lao động là một nhiệm vụ trọng tâm đã được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và giải quyết. Tại nhiều kỳ Đại hội Đảng vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn đã được đề cập đến, cụ thể tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra nghị quyết: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [12, tr.321]. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, với định hướng phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người lao động. Tuy nhiên trong quá trình CNH-HĐH cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, trong đó có vấn đề người lao động mất việc, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở quá trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy yếu tố con người, ổn định phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân; là vấn đề nóng bỏng cấp thiết của từng địa phương, nhất là những địa phương chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và đang chuyển đổi cơ cấu theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Tại 49 tỉnh, thành phố trong cả nước từ năm 2004 đến năm 2013 đã thu hồi 750.000 héc-ta đất để thực hiện 29.000 dự án đầu tư, trong đó 80% là đất nông nghiệp, 50% diện tích trong số đó là đất thuộc vùng kinh tế trọng điểm, đất đai màu mỡ trồng hai vụ lúa một năm. Như vậy, Trong quá trình CNH- HĐH, tình trạng đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống do quá trình đô thị hóa đã chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất ở, đất quy hoạch các cụm
  6. 4 công nghiệp… Đi đôi với vấn đề này là sự tăng nhanh dân số khu vực nông thôn. Hằng năm số lao động bổ sung không ngừng tăng lên. Thêm đó tính mùa vụ trong thời gian nông nhàn cho người lao động. Điều này làm cho việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ngày càng trở nên khó khăn. Thường Tín là một huyện ngoại thành của Hà Nội. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền tình hình kinh tế xã hội có bước phát triển theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới, nên tỷ trọng công nghiệp, thương mại dịch vụ tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần cải thiện đời sống và tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa cũng nảy sinh nhiều tác động tiêu cực như: diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, người nông dân bị mất đất sản xuất, dẫn đến thiếu việc làm; công tác đào tạo, tư vấn hỗ trợ nghề nghiệp và việc làm đạt hiệu quả chưa cao; công tác chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật chưa đáp ứng nhu cầu của nông dân; quỹ vốn vay giải quyết việc làm, hỗ trợ người nghèo và các nguồn vốn ưu đãi cho nông dân còn hạn hẹp; sự phát triển của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề phát triển chưa mạnh và chưa đủ sức thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp buộc họ phải di chuyển vào nội đô để mưu sinh; các cơ chế chính sách về giải quyết việc làm cho nông dân ở huyện Thường Tín còn nhiều vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện… Nhằm góp phần phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cũng như những thành tựu, hạn chế trong quá trình giải quyết việc làm cho nông dân ở huyện Thường Tín trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ đó đề ra phương hướng và giải pháp cụ thể thiết thực nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả vấn đề trên ở huyện Thường Tín, học viên lựa chọn vấn đề “Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
  7. 5 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm luôn là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm của nhà nước và xã hội, đặc biệt và vùng nông thôn. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân được công bố trong và ngoài nước. Cụ thể: Trần Văn Chử (2001), Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH đất nước, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội. Đề tài đã đưa ra thực trạng chất lượng lao động của lực lượng lao động Việt Nam hiện nay, đồng thời nêu rõ vai trò của việc nâng cao chất lượng lao động để góp phần giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Tác giả đã nêu rõ những điều kiện để thực hiện CHNH-HĐH đất nước, những lợi ích tích cực và những mặt tiêu cực mà CNH-HĐH mang lại, theo đó có vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là khu vực nông thôn khi nông dân bị thu hồi đất đai cho quy hoạch. Đề tài phân tích về việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời khẳng định đó là một trong những giải pháp để giải quyết việc làm cho người dân khi đất nước thực hiện CNH-HĐH. Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng việc làm cho lao động nông thôn, đưa ra những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết nạn thất nghiệp, trong bối cảnh trình độ dân trí thấp, nền kinh tế kém phát triển, lạc hậu, dân số đông, việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình tại các địa phương còn thực hiện sơ sài, chưa chặt chẽ....Bài viết cũng đưa ra những hướng giải quyết về vấn đề việc làm cho nông dân bao gồm các giải pháp đồng bộ về cơ chế, chính sách, cũng như nâng cao nhận thức cho người dân nông thôn. Bùi Thị Lý (2009), “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải quyết việc làm quan trọng trong hội nhập”.
  8. 6 Bài nghiên cứu đã đề cập đến một trong những giải pháp để giải quyết việc làm trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới nước ta, phân tích thực trạng về số lượng người Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia... giai đoạn 2007 – 2009. Bài nghiên cứu cũng đã khẳng định vai trò của xuất khẩu lao động trong bối cảnh giải quyết thất nghiệp cho người lao động Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh đây là biện pháp hiệu quả góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nguyễn Tiến Dũng (2010), “Đào tạo nghề cho nông dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Bài nghiên cứu đưa ra nội dung về vấn đề giải quyết việc làm cho đối tượng nông dân Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2015, theo đó đề cập nội dung chính là hoạt động đào tạo nghề cho nông dân. Tác giả đã đưa ra những lợi thế về làng nghề của Việt Nam phong phú, đa dạng và mang đặc trưng tinh hoa của dân tộc, có nhiều triển vọng phát triển, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO, theo đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề cho nông dân Việt Nam, coi đây là một hướng giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho nông dân trong giai đoạn này. Trần Thị Minh Ngọc (2010), “Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020” sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia. Nội dung sách tham khảo, tác giả đã phản ánh thực trạng việc làm của nông dân tại vùng đồng bằng Sông Hồng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả đã đưa ra những lợi thế của khu vực đồng bằng Sông Hồng, từ đó đem lại những thuận lợi cho nông dân về phát triển chăn nuôi, trồng trọt... đồng thời cũng đưa ra những mô hình làm giàu cho nhà nông. Ngoài ra tác giả cũng đề cập đến những vấn đề khác như giáo dục, trình độ dân trí, các làng nghề tiêu biểu trên địa bàn, công tác đào tạo nghề và
  9. 7 những nỗ lực của nhà nước trong việc giải quyết việc làm nông thôn, tuy nhiên cũng đưa ra những bất cập, hạn chế còn tồn tại cũng như một số phương hướng giải quyết trong thời gian tới, nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo và vấn nạn thất nghiệp cho nông dân tại đồng bằng Sông Hồng. Ngô Thị Hồng Nhung (2010), “Nhìn lại một năm đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ”. Tác giả đã đưa ra đánh giá tổng quan sau một năm thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề giải quyết việc làm cho nông thôn. Bài viết đưa ra những kết quả đã đạt được, đồng thời cũng phản ánh những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện đề án. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện đề án, tổ chức đào tạo nghề hiệu quả hợp lý góp phần tạo công ăn việc làm cho nông dân. Ngoài ra, trong nước và trên thế giới còn có nhiều bài báo khoa học, báo cáo nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong bối cảnh CNH-HĐH. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề ““Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn để đánh giá đúng về thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trên địa bàn huyện Thường Tín thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm
  10. 8 giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội. - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội những năm qua. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội. - Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Nội - Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2012. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương của Huyện ủy, chính sách của UBND huyện Thường Tín về lao động,
  11. 9 việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài. * Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: Trừu tượng khoa học lịch sử, lôgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp chuyên gia ... để thưc hiện đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói chung, huyện Thường Tín nói riêng. Đề xuất phương hướng và giải pháp đồng bộ có tính khả thi trong giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân, các ban ngành của huyện nắm được đúng tình hình việc làm của người lao động, để đề ra các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết việc làm cho người nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục tài liệu tham khảo.
  12. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI 1.1. Việc làm, giải quyết việc làm và tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến việc làm cho nông dân 1.1.1. Việc làm Trong tác phẩm nổi tiếng Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [30, tr.112]. Điều đó có nghĩa nhân tố có tính chất quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là việc sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Ở đây, lao động được xem xét ở khía cạnh thứ nhất – lao động để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. Việc làm được bắt nguồn từ lao động của con người (tất nhiên là chỉ ở những người có sức lao động) tác động đến tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình, và việc làm luôn gắn với một ngành nghề nhất định. Điều 13, chương 2, Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [33, tr.25]. Như vậy, việc làm là lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích của bản thân và gia đình không bị pháp luật ngăn cấm. Trong thực tế, phần lớn những việc làm phạm pháp (buôn ma túy, buôn người…) đều mang lại những khoản thu nhập rất cao cho chủ thể hoạt động, nhưng đó là những hoạt động phạm pháp, không được pháp luật cho phép nên không được thừa nhận là việc làm.
  13. 11 Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm: - Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật (làm việc được trả công) - Những công việc tự làm hoặc làm các công việc gia đình, được hiểu là các công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong gia đình để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho công việc đó (việc làm không được trả công). Trên thực tế, phần thu nhập mà bản thân hay gia đình nhận được, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày chính là tiền công, tiền lương mà bản thân người lao động nhận được, hay nói cách khác, trong trường hợp này bản thân người lao động tự trả công cho người lao động. Khác với việc làm không được trả công khi lao động làm việc cho tư bản, có một giá trị thặng dư là số giá trị do giai cấp lao động làm ra giá trị, sản xuất ra, nhưng lại bị giai cấp độc quyền chiếm đoạt, và lúc đó số giá trị đó chỉ gồm có lao động không được trả công. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường lao động còn đang trong giai đoạn khởi phát, hình thức tìm việc và làm việc còn rất hạn chế, do đó tỷ trọng lao động tự làm việc và làm việc cho gia đình là lớn so với tổng số người đang làm việc, đặc biệt trong khu vực nông thôn. Trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân thường bỏ công sức để trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp, chăn nuôi…phục vụ cho nhu cầu của họ. Những dạng lao động kiểu này thường không được định giá và người lao động không được nhận tiền lương hay thu nhập nhưng những sản phẩm bằng hiện vật mà người lao động thu được cũng là một phần tiền lương thu nhập của họ. Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện: Một là, hoạt động đó phải có ích nhưng đồng thời tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Những hoạt động lao
  14. 12 động có ích khác như sản xuất tự cung tự cấp, nhằm phục vụ tự tiêu dùng, nhưng không trao đổi, không đem lại thu nhập cho người lao động thì không được coi là việc làm. Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm. Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm... Không được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công. Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và pháp luật của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm. Ví dụ: Mại dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan, Philippin vì được pháp luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm. Việc làm có những tính chất đa dạng như sau: Một là, tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm: điều này cho biết công việc của một người hay của tập thể. Hai là, tính chất địa lý của việc làm: cho biết việc làm được diễn ra ở đâu, khu vực nông thôn hay thành thị, vùng đồng bằng hay miền núi… Ba là, tính chất kỹ thuật của việc làm: cho biết tính đặc thù về kỹ thuật và công nghệ của việc làm. Đây cũng là cơ sở để chia theo ngành nghề của công việc. Bốn là, tính chất thành thạo của việc làm: cho biết năng lực và phẩm chất của người lao động được thể hiện trong quá trình làm việc.
  15. 13 Năm là, tính chất kinh tế của việc làm: cho thấy hiệu quả kinh tế của việc làm. Sáu là, tính chất cơ động của việc làm: cho thấy khả năng thay đổi nghề nghiệp và năng lực thích nghi với điều kiện làm việc mới của người lao động. Như vậy, việc làm có nhiều tính chất khác nhau và luôn mang tính chất động. Vì vậy người ta chia việc làm thành những phạm trù xã hội – nghề nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao động khác nhau. - Việc làm chính thức: được hiểu là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối với những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho bản thân và gia đình (đối với những việc làm không được trả công) - Việc làm không chính thức: được hiểu là những công việc làm thêm ngoài làm chính. Như vậy, đối với người nông dân, việc làm chính của họ là sản xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là việc làm thêm trong lúc nông nhàn. - Việc làm bền vững: theo ILO, việc làm bền vững là những việc làm có năng suất và chất lượng cho nam giới và nữ giới, trong điều kiện tự do, bình đẳng, an toàn và nhân phẩm được tôn trọng. Việc làm bền vững bao gồm các cơ hội làm việc một cách hiệu quả; có thu nhập công bằng; đảm bảo an toàn tại nơi làm việc và bảo vệ xã hội cho người lao động cũng như gia đình họ; có triển vọng phát triển cá nhân và khuyến khích hòa nhập xã hội; cho phép mọi người được tự do bày tỏ những mối quan tâm của mình, được tự do tổ chức và tham gia vào các quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của họ; và đảm bảo cho tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng. Như vậy, xét về mặt kinh tế, việc làm bền vững là việc làm phải có năng suất và có thể cạch tranh. Tuy nhiên trên thế giới, bảo đảm cho người lao động có việc làm bền vững vẫn còn là vấn đề rất nan giải.
  16. 14 * Thiếu việc làm: Thiếu việc làm là những người không có việc làm thường xuyên, thường có những thời gian không lao động vì hết việc. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của Nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc làm [33, tr.114]. Do đối tượng sản xuất của nông nghiệp là giới sinh học (cây trồng, vật nuôi), chúng tuân theo các quy luật sinh học, chính vì vậy hoạt động sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như thời tiết, thiên tai... nên nó có tính rủi ro cao và việc làm trong nông nghiệp cũng mang tính thời vụ. Điều đó có nghĩa là việc làm của người nông dân không mang tính thường xuyên, trong năm họ không có những khoảng thời gian nông nhàn (không có việc làm trong sản xuất nông nghiệp). Do vậy, khi nghiên cứu lao động nông nghiệp còn có khái niệm “Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng trong năm” đó chính là số phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) trong năm của người làm nông nghiệp. Như vậy, đối với những người nông dân mặc dù được phân đất để làm nông nghiệp nhưng họ hầu như không làm nông nghiệp, hoặc làm rất ít mà đi làm thuê như phụ hồ, xây dựng, làm nghề thủ công... và sinh sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập trên, nhưng các công việc này lại không ổn định, thì những người lao động này vẫn xếp vào dạng lao động thiếu việc làm. Người ta phân biệt hai loại thiếu việc làm là thiếu việc làm hữu hình và thiếu việc làm vô hình. Thiếu việc làm hữu hình là người làm việc ít hơn tiêu chuẩn, đang tìm hoặc đang có việc làm phụ thêm. Thiếu việc làm vô hình là có việc làm nhưng có năng suất lao động thấp, khó xác định được hiệu quả, trình độ công việc như việc làm không phù hợp với khả năng và trình độ...
  17. 15 * Thất nghiệp: Là một trạng thái trong đó người lao động trong độ tuổi có khả năng và nhu cầu lao động nhưng không có việc làm. Theo định nghĩa của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội: Thất nghiệp là những người trong thời gian quan sát tuy không làm việc nhưng đang tìm kiếm việc làm hoặc sẵn sàng làm việc để tạo ra thu nhập bằng tiền hay hiện vật, gồm cả những người chưa bao giờ làm việc. Thất nghiệp còn bao gồm cả những người đã bị buộc thôi việc không lương hoặc không có thời hạn, hoặc những người không tích cực tìm kiếm việc làm vì họ quan niệm rằng họ không thể tìm được việc làm [33, tr.114]. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cung cầu lao động sẽ được điều chỉnh và vận hành rất hiệu quả. Tuy nhiên thực tế ít xảy ra sự hoàn hảo trên thị trường. Nếu có, chỉ là ở một thời điểm nào đó mà thôi. Cái mà thị trường diễn ra là sự giao động, không hoàn hảo. Vì vậy, chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng thất nghiệp. Có thể khẳng định, thất nghiệp là một vấn đề chung mang tính toàn cầu, thường xuyên xảy ra không chỉ ở các nước đang phát triển hoặc những nước phát triển với trình độ thấp mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Xét dưới góc độ vĩ mô, có hai loại thất nghiệp là thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp chuyển tiếp. Tình trạng thất nghiệp cơ cấu xảy ra chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển vì nó gắn liền với những biến đổi về cơ cấu kinh tế trong điều kiện phát triển của khoa học và công nghệ mới. Cách mạng khoa học và kỹ thuật và sự tiến bộ không ngừng của công nghệ mới đã và đang làm phức tạp thêm thị trường lao động. Bởi vì, máy móc đã và đang thay thế phần lớn công việc nặng nhọc và cần nhiều sức lao động cơ bắp của con người, kéo theo hệ quả của sự chuyển dịch lao động sang những công việc trí óc hoặc việc đòi hỏi sự khéo léo của con người. Bên cạnh đó, sự ưu tiên phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của chính phủ dẫn đến sự giảm sút nhân công ở ngành này nhưng lại hút nhiều lao
  18. 16 động ở các ngành khác. Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đòi hỏi một bộ phận dân cư phải di chuyển nơi khác, một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác... dẫn đến một lực lượng lao động sẽ lâm vào tình trạng thất nghiệp không tự nguyện. Đây chính là dạng thất nghiệp mang tính cơ cấu và đặc trưng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Cùng với tình trạng thất nghiệp cơ cấu, gần đây đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp chuyển tiếp ở những nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Không bàn luận về tính tự nhiên của quá trình chuyển tiếp, nhưng đối với nước có dân số đông tất yếu sẽ diễn ra việc dư thừa lao động và giải quyết nó không phải dễ. Khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, điều đó có nghĩa là sự đóng góp của ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế lớn. Thất nghiệp có thể sẽ tăng do một bộ phận lao động không theo kịp với trình độ phát triển của ngành về kỹ thuật, công nghệ trong điều kiện mới. Có thể thấy một đặc trưng của thị trường lao động nước ta trong quan hệ với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu như sau: Thất nghiệp hữu hình tăng do người có sức lao động trong độ tuổi lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không được đáp ứng trên thị trường. Thất nghiệp trá hình dưới nhiều hình thức, thể hiện ở việc làm có năng suất lao động thấp, không góp phần hoặc tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân rất nhỏ (không đáng kể) mà chỉ tham gia vào quá trình phân phối lại lao động. Thiếu việc làm trong khu vực nông thôn do sự mất cân đối nghiêm trọng giữa sự gia tăng nhanh của nguồn nhân lực với sự hạn hẹp của đất canh tác (Bình quân đất canh tác trên đầu người giảm) và sự thiếu hụt của nguồn vốn.
  19. 17 Khả năng tạo ra nhu cầu về lao động của ngành công nghiệp còn yếu (trừ các vùng kinh tế trọng điểm, những vùng có mức thu hút đầu tư lớn), như vậy cung lao động luôn ở mức cao. Đây là cơ sở dẫn đến vấn đề thất nghiệp. Vấn đề nhận thức về việc làm và tạo việc làm hiện nay đã có sự chuyển biến căn bản trong quá trình phát triển: Nếu như trước đây quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Đây là nhận thức phù hợp với nền kinh tế thị trường, bởi tính năng động của mỗi người một khi được kích hoạt sẽ đóng vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta. Tuy nhiên, giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo việc làm cho người lao động vẫn đang là vấn đề bức xúc đối với Việt Nam hiện nay, đặc biệt là khu vực nông thôn. Đây là câu chuyện đã, đang và vẫn sẽ tiếp tục đòi hỏi các nhà nghiên cứu và quản lý tìm kiếm các biện pháp tích cực để giải quyết. Ở đây đòi hỏi phải có những giải pháp tổng thể: từ định hướng của chính phủ về tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về chiến lược cơ cấu kinh tế, đến giải quyết các vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn... đến các vấn đề khuyến khích phát triển doanh nghiệp để tạo cầu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tất cả những vấn đề trên cần được giải quyết từ cấp độ quốc gia, vùng lãnh thổ và từng địa phương. 1.1.2. Giải quyết việc làm Viê ̣c làm là mô ̣t dạng hoạt đô ̣ng kinh tế – xã hô ̣i. Hoạt đô ̣ng đó không đơn thuần là sự kết hợp sức lao đô ̣ng với tư liê ̣u sản xuất, mà nó còn bao gồm cả những yếu tố xã hô ̣i. Muốn sự kết hợp đó diễn ra và không ngừng phát triển, phải tạo ra được sự phù hợp cả về số lượng, chất lượng sức lao đô ̣ng với tư liê ̣u sản xuất, trong mô ̣t môi trường kinh tế – xã hô ̣i thuâ ̣n lợi, đảm bảo cho hoạt đô ̣ng đó diễn ra một cách bình thường.
  20. 18 Giải quyết viê ̣c làm (GQVL) là viê ̣c tạo ra các cơ hô ̣i để người lao đô ̣ng có viê ̣c làm và tăng được thu nhâ ̣p, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình và cô ̣ng đồng xã hô ̣i. Giải quyết viê ̣c làm là nhằm khai thác triê ̣t để tiềm năng của mô ̣t con người, nhằm đạt được viê ̣c làm hợp lý và viê ̣c làm có hiê ̣u quả. Chính vì vâ ̣y GQVL phù hợp có ý nghĩa quan trọng đối với người lao đô ̣ng ở chỗ tạo cơ hô ̣i cho họ thực hiê ̣n được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được làm viê ̣c nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương đất nước. Giải quyết viê ̣c làm có thể được hiểu ở các khía cạnh như sau: Mô ̣t là, quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liê ̣u sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Số lượng, chất lượng tư liê ̣u sản xuất và tư liệu sinh hoạt phụ thuô ̣c vào điều kiê ̣n tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bô ̣ khoa học kỹ thuâ ̣t áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liê ̣u sản xuất đó; Hai là, quá trình tạo ra số lượng và chất lượng sức lao đô ̣ng. Số lượng lao đô ̣ng phụ thuô ̣c vào quy mô, tốc đô ̣ tăng dân số, các quy định về đô ̣ tuổi lao đô ̣ng và sự di chuyển của lao đô ̣ng. Chất lượng lao đô ̣ng phụ thuô ̣c vào sự phát triển của giáo dục đào tạo, y tế, thể chất và chăm sóc sức khỏe cô ̣ng đồng; Ba là, quá trình tạo ra những điều kiê ̣n kinh tế - xã hô ̣i khác, như các chính sách của Nhà nước, các giải pháp mở rô ̣ng thị trường tiêu thụ sản phẩm, các giải pháp để duy trì viê ̣c làm ổn định và đạt hiê ̣u quả cao. Chỉ khi nào trên thị trường, người lao đô ̣ng và người sử dụng lao đô ̣ng gă ̣p gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó viê ̣c làm được hình thành. Giải quyết viê ̣c làm cần phải được xem xét cả phía người lao đô ̣ng, người sử dụng lao đô ̣ng và vai trò của Nhà nước. Vì vâ ̣y, GQVL là tổng thể các biê ̣n pháp, chính sách kinh tế – xã hô ̣i từ vi mô đến vĩ mô tác đô ̣ng đến người lao đô ̣ng có thể có viê ̣c làm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2