intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

48
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam kể từ năm 1991 đến nay, nhằm đánh giá những thành tựu, những mặt hạn chế, những vấn đề tồn tại của khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------*****-------- NGUYỄN KIM HOÀNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------*****-------- NGUYỄN KIM HOÀNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN NGỪNG HÀ NỘI - 2005
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP 1.1 Một số vấn đề lý luận về phát triển Khu công nghiệp 6 1.1.1 Khái niệm, cách phân loại, đặc điểm Khu công nghiệp 6 1.1.2 Điều kiện đảm bảo cho sự hình thành và phát triển các Khu công nghiệp 13 1.1.3. Vai trò của Khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế 18 1.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia châu Á trong việc phát triển Khu công nghiệp 21 1.2.1 Kinh nghiệm của nhóm nước thành công 22 1.2.2 Kinh nghiệm của nhóm nước không thành công 28 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1 Sự hình thành các Khu công nghiệp ở Việt Nam 35 2.1.1 Chính sách của chính phủ trong việc phát triển các Khu công nghiệp 35 2.1.2 Tiến trình phát triển các Khu công nghiệp 39 2.2 Thực trạng hoạt động của các Khu công nghiệp ở Việt Nam 42 2.2.1 Về sự phân bố của các Khu công nghiệp 42 2.2.2 Về thu hút đầu tư 45 2.2.3 Về cơ sở hạ tầng 50 2.2.4 Về sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp 52 2.2.5 Về quản lý các Khu công nghiệp 55
  4. 2.3 Đánh giá hoạt động của các Khu công nghiệp ở Việt Nam 57 2.3.1 Những thành tựu đã đạt được trong quá trình hoạt động của các Khu công nghiệp ở Việt Nam 57 2.3.2 Những vấn đề đặt ra đối với Khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam 66 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1 Bối cảnh quốc tế và quan điểm định hƣớng phát triển các Khu công nghiệp ở Việt Nam 79 3.1.1 Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 79 3.1.2 Quan điểm định hướng phát triển các Khu công nghiệp ở Việt 86 Nam 3.2 Một số biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các Khu công nghiệp 92 3.2.1 Điều chỉnh các văn bản pháp quy, cơ chế quản lý cho phù hợp 92 3.2.2 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hoạt động và quản lý các Khu công nghiệp 97 3.2.3 Bố trí khu vực thành lập Khu công nghiệp một cách hợp lý 104 3.2.4 Giải pháp về tiếp thị đầu tư 108 3.2.5 Đào tạo cán bộ quản lý Khu công nghiệp cũng như nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp hoạt động trong các Khu công nghiệp 109 3.2.6 Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, góp phần giảm chi phí sản xuất. 111 KẾT LUẬN 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
  5. -1- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nhằm phục vụ cho đường lối mở cửa và phát triển kinh tế, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, kể từ Quy chế khu chế xuất ngày 18 tháng 10 năm 1991 và sau Nghị định 192/CP về Quy chế khu công nghiệp, cho đến nay ở Việt Nam đã hình thành và phát triển 106 khu công nghiệp, phân bố rải rác ở hầu khắp các địa phương trên cả nước. Sự phát triển của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ về thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nư- ớc, khuyến khích xuất khẩu phục vụ chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003, các khu công nghiệp ở Việt Nam đã thu hút được 2864 dự án đầu tư trong và ngoài nước, với tổng số vốn đầu tư lên tới 16,01 tỷ USD, trong đó các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 11,39 tỷ USD và các dự án đầu tư trong nước đạt 4,62 tỷ USD. Các khu công nghiệp đã tạo ra việc làm cho 600.000 lao động và đạt doanh thu xuất khẩu là 3 tỷ USD. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển. Thực tiễn cho thấy khả năng “lấp đầy” vốn đầu tư ở các khu công nghiệp còn rất ít. Hiệu quả sử dụng đất trong các khu công nghiệp hiện nay đạt khoảng 1,84 triệu USD/ha trong khi năm 1997 đạt 4 triệu USD/ha. Nếu như năm 1997 vốn bình quân một dự án đầu tư vào khu công nghiệp là 23 triệu USD thì năm 2003 con số này chỉ đạt 3,4 triệu USD. Thực tế trên xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, song tựu chung là do hiệu quả quản lý các khu công nghiệp kém, dẫn đến
  6. -2- những văn bản chính sách về khu công nghiệp còn chồng chéo, không minh bạch, thủ tục hành chính rườm rà, phân cấp quản lý chưa rõ ràng, lao động lúc thừa lúc thiếu và trình độ tay nghề không ổn định, cơ sở hạ tầng yếu kém lạc hậu, cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế xã hội… Những khó khăn này nếu không kịp thời tháo gỡ sẽ là một lực cản rất lớn đối với hoạt động của các khu công nghiệp, dẫn đến không đạt mục tiêu kế hoạch ban đầu mà chính phủ đề ra. Xuất phát từ những thực tế trên và với kiến thức đã được học, em chọn vấn đề "Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp.” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong số những tác phẩm viết về các khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới và Việt Nam có tác phẩm “ Các khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới và Việt Nam” của TS. Mai Ngọc Cường, xuất bản năm 1993, tác phẩm này đã đưa ra một hệ thống lý thuyết chung về khu chế xuất trên thế giới, thực tiễn hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp ở một số n- ước Châu Á và kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam, những khó khăn và giải pháp phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới có các bài nghiên cứu chuyên sâu như “Thực trạng của các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay” (Nguyễn Sinh Cúc); “Thực trạng các khu công nghiệp và khu chế xuất ở nước ta” (Lan Hương)’ “Khu chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp” (Bạch Minh Huyền); “Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam” (Đỗ Thị Thuỷ)… đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Trong số những bài viết nói về mô hình quản lý khu công nghiệp của Việt Nam, phải kể tới “Mô hình nào cho xây dựng và phát triển khu công nghiệp” của tác giả Đan Đức Hiệp. Bài viết này cho thấy thực trạng và những nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc diện tích đất cho thuê trong các khu công nghiệp còn ít ỏi, các mô hình khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay, những nhược điểm của
  7. -3- các mô hình này. Ngoài ra, trong bài “Mấy vấn đề về khu chế xuất và khu công nghiệp Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Thám cũng nêu lên những điều kiện cần thiết để hình thành một khu công nghiệp, thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp Việt Nam và những vấn đề cần quan tâm trong thời gian tới. Ngoài những tác phẩm và bài viết mang tính chất chuyên sâu, có rất nhiều các bài báo, bài thông tin đăng trên Thời báo kinh tế Việt Nam, Báo Đầu tư, Thời báo kinh tế Sài Gòn nói về thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp, khả năng lấp đầy các khu công nghiệp, những khó khăn mà các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đang vấp phải, những mâu thuẫn chính sách của chính phủ, những yếu kém của cơ chế quản lý các khu công nghiệp, hiệu quả và những tồn tại của từng khu công nghiệp tại các tỉnh thành trên mọi miền đất nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Tây, Đà Nẵng, Quảng Nam... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu chuyên sâu và những bài báo đều đi vào một hoặc một số những khía cạnh của hiệu quả hoạt động các khu công nghiệp, những khó khăn trong công tác quản lý, những vấn đề chưa thực hiện được trong các khu công nghiệp. Cũng có nhiều những nghiên cứu tổng quan về thực trạng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, như ng nhìn chung những bài viết từ trước đến nay đều đi vào những nghiên cứu cụ thể: một khu công nghiệp, một địa phương, một lĩnh vực đóng góp, một vấn đề khó khăn…còn việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề của khu công nghiệp thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập. Chính vì lý do đó, đề tài “Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp” hy vọng sẽ có những đánh giá đầy đủ, toàn diện và cập nhật nhất về thực trạng hoạt động, những tồn tại và khó khăn trong các khu công nghiệp và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam.
  8. -4- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam kể từ năm 1991 đến nay, nhằm đánh giá những thành tựu, những mặt hạn chế, những vấn đề tồn tại của khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: - Xem xét quá trình hình thành và vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. - Đánh giá những đóng góp và nêu lên những tồn tại, khó khăn và nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó của các khu công nghiệp đối với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua. - Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các Khu công nghiệp của Việt Nam Luận văn tập trung nghiên cứu tổng quan những vấn đề cơ bản về khu công nghiệp bao gồm các khía cạnh cơ bản như khái niệm, cách phân loại, đặc trưng của mỗi loại hình khu công nghiệp, cơ chế hoạt động , tác động của khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế. Từ những vấn đề trên, luận văn sẽ đi sâu vào phân tích những bất cập của khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới.
  9. -5- Về thời gian, luận văn tập trung vào thời kỳ thực hiện chính sách “đổi mới” kinh tế sau Đại Hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là kể từ năm 1991 và sau khi hình thành Quy chế khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích kết hợp với các biểu bảng, số liệu thống kê. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân kỳ kết hợp với phương pháp đồng quy, phương pháp so sánh để làm sáng tỏ nội dung và mục đích của luận văn. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn Luận văn hy vọng có những đóng góp cơ bản sau: - Đánh giá một cách toàn diện nhất những vấn đề tồn tại trong các khu công nghiệp liên quan đến việc hình thành các văn bản chính sách về khu công nghiệp, quá trình hoạt động của các khu công nghiệp hiện nay. - Đề ra các giải pháp kịp thời , toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế. 7. Bố cục của luận văn: gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc phát triển khu công nghiệp Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam. Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam.
  10. -6- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP 1.1.Một số vấn đề lý luận về phát triển Khu công nghiệp 1.1.1.Khái niệm, cách phân loại, đặc điểm Khu công nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm: Thuật ngữ khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) trên thế giớ i được hiểu theo rất nhiều quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của Tổ chức công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) trong tài liệu “KCX tại các nước đang phát triển” (Export Processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì “KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế”[2]. Theo quan điểm của Hiệp hội KCX thế giới (World Export Processing Zone Association – WEPZA) “KCX không chỉ bao gồm khu vực công nghiệp chuyên môn hoá sản xuất xuất khẩu như trên mà còn bao gồm cả những khu
  11. -7- vực được chính phủ cho phép như khu cảng tự do, khu tự do thuế quan, khu mậu dịch tự do, khu quá cảng...”[2]. Như vậy theo khái niệm này, KCX đã được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu phi thuế quan, KCN tự do, khu ngoại thương tự do...Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng cũng như xuất phát từ yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan niệm mới và những đặc điểm mới như khu kinh tế mở, thành phố mở, đặc khu kinh tế...Những quan điểm trên mặc dù có những điểm khác nhau về KCX, KCN, nhưng về cơ bản chúng thống nhất ở những đặc trưng sau đây: + Là bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, thường là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, với hàng rào giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển. + Là nợi hội tụ và thích ứng lẫn nhau về lợi ích và một số mục tiêu xác định giữa các chủ đầu tư và nước chủ nhà. Vì thế, chúng là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do và các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng thường có vị trí thuận lợi cho phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư trên cơ sở các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, chính sách tài chính, tiền tệ, đơn giản hoá thủ tục hành chính.... + Là nơi hội tụ mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài để phát triển các loại hình kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là một địa bàn tự do thu nhỏ về chính sách kinh tế – xã hội mở cửa của nước chủ nhà.
  12. -8- Căn cứ vào những khái niệm chung của thế giới và những đặc trưng chung nhất của các KCN, KCX như trên, phát triển các KCN ở Việt Nam được đánh giá là nhằm mục đích đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Nghị định 192/CP ngày 25 tháng 12 năm 1994 của chính phủ về Quy chế KCN, các KCN được định nghĩa là “các khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cư” . Còn trong Điều 2 Nghị định 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của chính phủ ban hành về Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao có đưa ra khái niệm đầy đủ hơn về KCN và có giải thích một số thuật ngữ sau đây: - KCN là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. - KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu – triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới xác định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất. - Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo Quy chế này.
  13. -9- - Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. - Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. - Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Từ những thuật ngữ trên đây, có thể đi đến một khái niệm chung nhất và mang tính toàn diện nhất là: KCN ở Việt Nam là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá công nghiệp, có thể dùng để phục vụ cho thị trường trong nước hoặc có thể phục vụ cả mục tiêu xuất khẩu. Khu công nghiệp là nơi có ranh giới địa lý riêng biệt, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ thành lập và được hướng những ưu đãi đặc biệt về sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, cơ sở hạ tầng, huy động lực lượng lao động...ở Việt Nam, KCN thường được gọi theo một tên gọi khác, đó là: KCN tập trung, nó hàm ý bao gồm cả các KCN, KCX và Khu công nghệ cao. 1.1.1.2. Cách phân loại Theo khái niệm trên, có thể thấy tính đặc thù cũng như đa dạng trong cách phân loại KCN. Nói một cách tổng quát, có thể chia KCN thành hai loại: KCN tổng hợp và KCX. KCX thường mang đặc tính: được tự do và không hạn chế số lượng nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu. Các công ty thuộc KCX không phải nộp thuế doanh thu, thuế xuất nhập khẩu. Mặt khác, các công ty này sẽ được hưởng các ưu đãi khác khi nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu từ thị trường nội địa. Tuy nhiên, sản phẩm của KCX chỉ bán ở thị trường nước ngoài, trừ trường hợp đối tác nước ngoài từ chối mới được bán ở thị trường nội địa. Các công ty trong KCX thường được miễn thuế thu nhập, thuế lãi cổ phần trong thời hạn từ 3-10 năm; được hưởng các chế độ hải quan ưu đãi trong các thủ tục giấy phép xuất
  14. - 10 - nhập khẩu, được tự do chuyển lợi nhuận về nước, được quyền quyết định nhận sự từ kiểm soát, quản lý đến điều hành công ty. Tuy nhiên, KCX cũng tồn tại một số hạn chế do vị trí của chúng là một khu đất tự nhiên đặc biệt, gặp nhiều khó khăn trong điều hành khuyến mại, phát triển dịch vụ có đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Hơn nữa, nếu sai lầm trong khi chọn vị trí thì việc phát triển KCX khó có thể thành công. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), tỷ lệ thành công của các KCX trên thế giới chiếm khoảng 40%, 30% khác thành công ở từng mặt, còn lại là thất bại. KCN khác KCX ở những khía cạnh sau đây: Thứ nhất, KCX xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất xuất khẩu, còn KCN mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp, kể cả phục vụ thị trường xuất khẩu lẫn phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong thị trường nội địa. Thứ hai, KCN không chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà còn cho phép các công ty 100% vốn đầu tư trong nước được hoạt động sản xuất kinh doanh. Trái lại, KCX chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động. Thứ ba, các công ty sản xuất kinh doanh trong KCN sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định như vừa được hưởng các quy chế ưu đãi của KCX vừa được hưởng các chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, xét về lợi thế, KCN vừa gắn với mục tiêu xuất khẩu, vừa thực hiện nâng cao khả năng sản xuất của thị trường nội địa, do vậy nó mang tính hiệu quả cao hơn KCX. Các lợi thế này thể hiện ở chỗ: - Tăng khả năng cung cấp nguyên liệu từ thị trường trong nước. - Tăng khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ra cả nước ngoài và thị trường trong nước. - Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt trong việc sử dụng đất để xây dựng KCN.
  15. - 11 - - Tăng khả năng sử dụng nguồn lao động có chi phí và tiền lương thấp hơn trong KCX. - Gắn liền phát triển công nghiệp với quy hoạch đô thị và phân bố dân cư. - Gắn liền phát triển công nghiệp với bảo đảm an ninh quốc phòng Theo quan điểm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Văn bản số 904/BKH- ĐT ngày 8 tháng 12 năm 1997 về điều kiện thành lập KCN theo thứ tự ưu tiên, thì các KCN sẽ được thành lập trên cơ sở sau đây: 1) Các KCN thành lập trên cơ sở các xí nghiệp công nghiệp hiện có nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, trong đó có việc bảo vệ môi trường; 2) Các KCN thành lập để giải toả các xí nghiệp công nghiệp đơn lẻ trong nội thành nhằm chỉnh trang lại các đô thị lớn, chống ô nhiễm môi trường; 3) Các KCN được hình thành nhằm thu hút các doanh nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ và vừa gắn liền với chế biến nguồn nguyên liệu nông lâm thuỷ sản phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế; 4) Việc đề nghị thành lập các KCN mới quy mô lớn hiện đại cần được cân nhắc kỹ, ngoài việc đáp ứng được các điều kiện nói trên, các tỉnh đã có nhiều KCN loại này cần làm rõ việc thực hiện thu hút đầu tư, khi đã cho thuê được ít nhất 50% diện tích KCN cũ thì mới thành lập KCN mới. Như vậy là theo quy định trên, việc phân loại các KCN được tiếp cận dưới những góc độ rất khác nhau: + Căn cứ vào trình độ chuyên môn hoá: có một số KCN được hình thành trên cơ sở các doanh nghiệp chuyên môn hoá, sử dụng một loại nguyên, nhiên liệu cơ bản để sản xuất một số loại sản phẩm (than, điện, thép...). Có KCN được hình thành trên cơ sở liên hợp sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ như khu luyện kim kết hợp với khai thác, cơ khí, hoá chất... + Căn cứ về mặt địa lý: sự hình thành và phát triển các KCN ở Việt Nam nằm trên những khu vực địa lý nhất định phù hợp với đặc điểm tự nhiên kinh
  16. - 12 - tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Thông thường đây là những khu vực rất thuận lợi về kết cấu hạ tầng, sân bay, bến cảng và hệ thống đường bộ. + Căn cứ vào quy mô: tuỳ thuộc vào thị trường, khả năng về đất đai, vị trí, sự hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà xây dựng các KCN có quy mô khác nhau, có KCN dành cho các doanh nghiệp lớn hiện đại, có KCN dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có những KCN việc xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng là do doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, nhưng cũng có KCN doanh nghiệp nhà nước đầu tư kinh doanh, hoặc doanh nghiệp cổ phần đầu tư hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư... + Căn cứ về mặt công nghệ: có KCN được tập trung phần lớn các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao tạo ra sản phẩm xuất khẩu, có KCN trình độ trung bình có sản phẩm xuất khẩu, có sản phẩm tiêu dùng trong nước. + Căn cứ vào tính độc lập hay phụ thuộc: phần lớn các KCN gắn với địa bàn trọng điểm, vùng kinh tế và cả nước, song cũng có KCN độc lập tách biệt vì lý do an ninh quốc phòng. 1.1.1.3. Đặc điểm Thông thường, các KCN có những đặc điểm sau đây: - Là khu vực tập trung các doanh nghiệp công nghiệp trong một khu vực có ranh giới xác định, sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thông thường, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội là do chính quyền địa phương hoặc các công ty phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN đầu tư xây dựng thông qua nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư doanh nghiệp tư nhân trong nước, vốn đầu tư nước ngoài...Vì vậy các doanh nghiệp trong KCN có điều kiện tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số quy chế riêng của nhà nước và của địa phương sở tại. Quy chế này được chính phủ mỗi nước đề ra sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.
  17. - 13 - Thông thường, nhà nước chỉ quy định những ngành và doanh nghiệp loại nào được khuyến khích phát triển và loại nào không được đặt trong KCN do yêu cầu bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Ở nhiều địa phương, tuỳ theo mục đích phát triển KCN (chẳng hạn như mục đích phát triển khu công nghiệp sản xuất hàng dệt may, ô tô, khu công nghiệp để di dời các nhà máy gây ô nhiễm trong nội thị...), các quy chế riêng cũng được đặt ra, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành ưu tiên đó và hạn chế, thậm chí ngăn cấm những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà chính phủ hoặc chính quyền địa phương đó ngăn cấm. - Khả năng hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp trong KCN rất thuận lợi vì nằm trên cùng một tiểu vùng. Các tiểu vùng này thường có điều kiện thuận lợi về đường xá, cầu cống, điện nước, thông tin liên lạc, sân bay,cầu cảng, nguồn nguyên liệu, các nhà máy sản xuất linh kiện và nguyên vật liệu, thậm chí cả ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng... Sự phát triển KCN đi theo thứ tự liên hoàn sản xuất và tiêu thụ trong một tiểu vùng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN có đầy đủ những điều kiện thuận lợi để sản xuất kinh doanh và hợp tác với nhau cùng phát triển. - KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Theo Quy chế KCN năm 1997, Ban quản lý KCN cấp tỉnh (trừ trường hợp có quy định riêng cho từng loại Ban quản lý) là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Ban quản lý KCN trên địa bàn liên tỉnh hoặc Ban quản lý một KCN (trường hợp cá biệt) hoặc Ban quản lý khu công nghệ cao; do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Với những đặc điểm trên đây có thể thấy về thực chất “KCN là một khu vực kinh tế đặc biệt được thành lập với mục đích để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, áp dụng công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của
  18. - 14 - sản phẩm, thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá trên thị trường nội địa và nước ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào các ngành và những vùng trọng điểm.” 1.1.2. Điều kiện đảm bảo cho sự hình thành và phát triển các Khu công nghiệp. Để đảm bảo cho sự thành công của các KCN, các chính phủ nước sở tại cần phải tuân thủ các điều kiện cơ bản sau đây: Thứ nhất là phải có kế hoạch phát triển các KCN tốt. Kế hoạch phát triển KCN bao gồm từ kế hoạch mục tiêu đến kế hoạch khuyếch trương xây dựng, vận động, quảng cáo thu hút đối tác đầu tư. Các KCN cần phải đặc biệt chú ý đến những công ty trong nước hoặc ngoài nước có điều kiện thuận lợi về vốn, đặc biệt cần phải thường xuyên xem xét lại những mục tiêu và chức năng của KCN trong mối tương quan với những biến động của thị trường trong nước và quốc tế để có những đối sách thích ứng kịp thời. Những mục tiêu của các KCN phải được lựa chọn thận trọng, có giới hạn và nâng cao đầu tư theo thời gian. Trong kế hoạch xây dựng KCN cũng cần phải xác định đúng địa điểm, thời gian khai trương nhằm không chỉ giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng mà còn nhằm chớp lấy những cơ hội phát triển trong bối cảnh phức tạp của thị trường trong và ngoài nước. Hơn nữa việc thực hiện các KCN cũng cần tuân thủ nguyên tắc xây dựng theo từng giai đoạn, tránh lãng phí, chậm trễ. Các nhà xưởng cho thuê cũng như các điều kiện kèm theo phải phù hợp với nhu cầu và mục tiêu phát triển KCN. - Những yêu cầu khắt khe về mục tiêu khi hình thành và thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong KCN xuất phát từ lý do mục tiêu phát triển của các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài thường rất khác nhau. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, mục tiêu ngắn hạn của họ khi hoạt động trong các KCN là: tận dụng lao động rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên tại chỗ; thông qua KCN để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế; tận
  19. - 15 - dụng các ưu đãi thuế quan của nước chủ nhà; tận dụng những khuyến khích đầu tư đối với nước chủ nhà; Mục tiêu dài hạn của họ là: nhằm chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Mục tiêu của các doanh nghiệp trong nước khi hoạt động trong KCN là: Mục tiêu ngắn hạn là nhằm sản xuất nhiều hàng hoá với những ưu đãi dành riêng cho doanh nghiệp KCN để mở rộng xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tạo công ăn việc làm...Mục tiêu dài hạn gồm: tiếp thu và áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại; tạo mối liên kết ảnh hưởng giữa nền kinh tế trong nước với khu vực và quốc tế. - Những yêu cầu về việc khuyếch trương và lựa chọn đối tác đầu tư trong KCN cần tuân thủ theo các biện pháp sau đây: + Cần tìm kiếm nguồn vốn đầu tư xây dựng KCN (vốn đầu tư cơ bản ban đầu) một cách hiệu quả. Thông thường các nguồn vốn này chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước và các khoản vay dài hạn của các tổ chức ngân hàng quốc tế. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng KCN có thể được khai thác thông qua các biện pháp như bán, cho thuê, phí quản lý hành chính, phí sử dụng mặt bằng, phí kinh doanh và tiêu dùng trong các KCN. + Chuẩn bị các tài liệu, thông tin đầy đủ, chính xác về KCN. Các tài liệu này cần được công bố thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua hội thảo, triển lãm hội chợ...nhằm giới thiệu cho các đối tác tham gia đầu tư vào KCN để họ có thể nắm rõ cơ cấu tổ chức, mục tiêu và triển vọng đầu tư. + Tổ chức đi khảo sát thực tế trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội, khả năng đầu tư của các đối tác có tiềm năng. + Cần thực hiện các biện pháp phân loại, lựa chọn đúng các đối tác đầu tư có tiềm năng và khả năng thích ứng trước khi tham gia kinh doanh ở các KCN, nhằm tránh nguy cơ rủi ro trong quá trình đầu tư cũng như tăng cường khả năng thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
  20. - 16 - - Việc lựa chọn địa điểm và quy mô hoạt động của KCN phải tuân theo những yêu cầu sau đây: + Nguyên tắc tối ưu để xây dựng KCN là phải ở gần sân bay, bến cảng, các trục lộ giao thông chính. Trong các yếu tố này, vị trí của các cảng biển là quan trọng nhất nhằm giảm mạnh giá thành của các hàng hoá nguyên liệu xuất nhập khẩu, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, các cầu cảng, sân bay, trục giao thông phải nằm trên địa điểm thuận lợi nối liền đến các trung tâm dân cư và kinh tế quan trọng của đất nước nhằm dễ dàng thu hút lao động tới làm việc và giảm được chi phí vận chuyển, ăn ở của công nhân. Ngoài ra, việc lựa chọn địa điểm xây dựng KCN còn do tính đặc thù riêng của mỗi KCN quyết định. Có những KCN thành lập là do có điều kiện thuận lợi về địa lý như gần cửa khẩu, gần các trung tâm thương mại lớn của khu vực; nhưng cũng có những KCN thành lập nên chỉ vì mục tiêu an ninh quốc phòng... Xét về quy mô, có thể linh hoạt tuỳ theo từng vùng lãnh thổ và mục tiêu phát triển của KCN đó. Những KCN thường có diện tích tương đối lớn từ 10 ha đến 500 ha. Thứ hai, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ. Để đảm bảo sự thành công cho các KCN, một mặt phải mạnh dạn đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ cho việc triển khai các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của khu, mặt khác phải giữ sao cho những chi phí xây dựng đầu tiên thật cần thiết và ít tốn kém nhất. Điều này một phần còn tuỳ thuộc vào địa điểm xây dựng các KCN. Các chi phí xây dựng KCN thông thường bao gồm ba loại: chi phí triển khai, chi phí tác nghiệp và chi phí giao tiếp. Chi phí triển khai là các khoản chi phí xây dựng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Các khoản chi phí này bao gồm chi phí đất đai, kết cấu hạ tầng, các công trình phụ trợ, mua sắm thiết bị máy móc, vận tải và các khoản chi phí tạm ứng sản xuất...Nhìn chung các khoản chi phí triển khai ban đầu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1