intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Nam Định hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

20
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, bước đầu tổng kết kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước về thu hút FDI vào các KCN; phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Nam Định; đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Nam Định hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN HẬU THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. LÊ DANH TỐN Hà Nội – 2011 cv 2
  2. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá DA Dự án DDI Đầu tư trong nước DN Doanh nghiệp DNLD Doanh nghiệp liên doanh ĐTNN Đầu tư nước ngoài FDI Đầu tư trực tiếp của nước ngoài KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất KT - XH Kinh tế - xã hội Nxb Nhà xuất bản QMBQ Quy mô bình quân Stt Số thứ tự TLGN Tỷ lệ giải ngân UBND Uỷ ban nhân dân VĐK Vốn đăng ký VTH Vốn thực hiện iv
  3. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh tế của Nam Định thời kỳ 2000 - 2009 …………. ...... 43 Bảng 2.2. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Hoà Xá .................................................... 54 Bảng 2.3. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Mỹ Trung ................................................ 55 Bảng 2.4. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Bảo Minh ................................................ 56 Bảng 2.5. Dự án FDI được cấp mới vào các KCN của Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ................................................................................................................. 58 Bảng 2.6. Cơ cấu dự án thu hút FDI theo các KCN Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ...... 59 Bảng 2.7. Cơ cấu dự án FDI theo hình thức đầu tư trong các KCN của Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ................................................................................................ 60 Bảng 2.8. Cơ cấu dự án FDI phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN của Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009......................................................................... 61 Bảng 2.9. Cơ cấu VTH phân theo hình thức đầu tư trong các KCN tập trung của Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ………………………………… ...................................63 Bảng 2.10. Cơ cấu VTH theo KCN tập trung của Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ................................................................................................................. 64 Bảng 2.11. Tình hình sản xuất kinh doanh của các DN FDI trong KCN ................ 66 v
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khu công nghiệp là một mô hình kinh tế hiện đại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, mô hình kinh tế này đã được nhiều nước áp dụng và thực sự được coi là một trong những công cụ có hiệu quả để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thành công của một số nước công nghiệp mới châu Á và Trung Quốc trong phát triển các KCN cho thấy các KCN đã trở thành những thực thể kinh tế năng động nhất trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo nguồn lực xuất khẩu, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, nhiều KCN đã được xây dựng và phát triển, phát huy tác dụng tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giải quyết việc làm... Cùng với sự phát triển các KCN của cả nước, các KCN ở Nam Định ra đời đã trở thành một trong những địa điểm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực cho quá trình phát triển KT - XH của tỉnh. Tuy nhiên, các dự án đầu tư vào KCN triển khai chậm; hầu hết các dự án đầu tư có quy mô nhỏ, nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn trong nước, vốn FDI rất hạn chế; nhu cầu đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển dịch vụ, các ngành phụ trợ ở các KCN rất lớn nhưng vốn huy động được quá ít. Mặc dù trong những năm vừa qua tỉnh Nam Định đã có nhiều cố gắng song do nhiều yếu tố tác động nên số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nam Định còn hạn chế. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nam Định nói chung và vào các KCN của tỉnh nói riêng chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. 1
  5. Thu hút được nhiều FDI vào các KCN ở Nam Định trong thời gian tới là một vấn đề cấp bách. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn vấn đề "Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Nam Định hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có nhiều công trình nghiên cứu về KCN nói chung và thu hút FDI vào các KCN nói riêng, có thể nêu lên một số công trình chủ yếu sau: - Nguyễn Khắc Thanh (2005), “Xây dựng và phát triển KCN Đồng Nai, những thành tựu và kinh nghiệm bước đầu”, Tạp chí KCN Việt Nam số 62. Tác giả đã phân tích một số thành tựu và kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển các KCN của Đồng Nai. - Lê Phương Hiếu (2006), “Phát triển các KCN, KCX đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí tài chính DN số 8. Tác giả đã phân tích vai trò của các KCN, KCX đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - Nguyễn Hữu Dũng (2006), “Phát triển các KCN với vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí lao động và xã hội số 291. Tác giả đã phân tích và đưa ra những đánh giá về sự hình thành và phát triển các KCN đã tác động tới tình hình lao động và việc làm ở Việt Nam. - Mai Ngọc Cường (1993): “Các KCX châu Á – Thái Bình Dương”, Nxb Thống kê. Tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về tổ chức KCX, kinh nghiệm thành bại của một số KCX châu Á Thái Bình Dương và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các KCX ở Việt Nam. - Trương Thị Minh Tâm (2004): “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực pháp lý quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX”, Nxb Khoa học Xã hội. 2
  6. - Nguyễn Chơn Trung, Trương Giang Long (2004), “Phát triển các KCN, KCX trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Luận án Tiến sĩ của tác giả Chế Đình Hoành (1996): “cải tạo và hoàn thiện các KCN Hà Nội theo định hướng phát triển đến năm 2010”. Luận án đưa ra những cơ sở khoa học của việc cải tạo và phát triển các KCN ở Hà Nội trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển các KCN ở Hà Nội trong thời gian tới. - Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Hinh (2003), “ quy hoạch và phát triển KCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Luận án đã phân tích thực trạng quy hoạch và phát triển các KCN ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển các KCN ở Việt Nam. - Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tuyển Cử (2004), “Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với KCN ở Việt Nam”. Luận án đã phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam, trên cơ sở đó luận án đã đưa ra những biện pháp nhằm phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam. - Luận án Tiến sĩ của tác giả Trần Văn Hân (2006): “Giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DN trong các KCN tại thủ đô Hà Nội”. Luận án phân tích, đánh giá thực trạng về tín dụng ngân hàng trong các KCN Hà Nội, đồng thời đưa ra những kiến nghị và giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các DN tại các KCN ở Hà Nội. Các công trình trên đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến thu hút FDI vào các KCN ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Nam Định một cách hệ thống và dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp đồng bộ nhằm thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định hiện nay là vấn đề rất cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
  7. 3.1. Mục đích nghiên cứu Phân tích thực trạng, đề xuất hệ thống các giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút FDI vào các KCN. - Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định trong những năm qua. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định trong trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thu hút FDI vào các KCN tập trung ở Nam Định. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định từ năm 2003 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Dựa trên đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta về phát triển các KCN và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kế thừa những kết quả nghiên cứu liên quan đến thu hút FDI vào các KCN của các công trình khoa học trong nước và ngoài nước. - Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích - tổng hợp, kết hợp lôgic - lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn... 6. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, bước đầu tổng kết kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước về thu hút FDI vào các KCN. 4
  8. - Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Nam Định. - Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 10 tiết. 5
  9. Chương 1 CƠ CỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của KCN 1.1.1. Khái niệm KCN Thuật ngữ KCN xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX - khi các KCN bắt đầu được hình thành và phát triển. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về KCN. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) trong tài liệu KCX tại các nước đang phát triển (Export processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Theo quan điểm của Hiệp hội Thế giới về KCX (World Export Processing Zone Association - WEPZA), KCX là tất cả khu vực được Chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ chức này công nhận. Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, xuất phát từ yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan niệm mới như: Khu kinh tế mở, Thành phố mở, Đặc khu kinh tế... Các nước như Thái Lan, Philippin quan niệm KCN như một thành phố công nghiệp, vì thực tế KCN là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN còn 6
  10. bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho công nhân...Các KCN ở Indonesia và Thái Lan thường gồm ba bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại và dịch vụ [18, tr.30,31,33]. Tuy nhiên, cũng có những quan niệm cho rằng KCN là một khu vực phụ (Subregion), không nhất thiết phải có sự ngăn cách, biệt lập. Ở Việt Nam, quy chế KCN (Ban hành kèm theo Nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ) đã đưa ra quan niệm: "KCN quy định trong quy chế này là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sống" [3, tr.1]. Trong mục 1, điều 2 tại Nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao: “KCN là khu tập trung các DN KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có DN chế xuất” [4, tr.1]. Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm: - KCN phải do Chính phủ hoặc do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - KCN là nơi tập trung các DN có đủ cơ sở pháp lý, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. - KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. - Trong KCN có thể có DN chế xuất, đó là các DN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. 7
  11. Trên cơ sở 4 tiêu chí trên, tác giả luận văn thống nhất với khái niệm về KCN đã được nêu ra Theo luật đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2006: - “KCN là khu sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ” [21]. - “Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định được thành lập theo quy định của Chính phủ” [21]. - “Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo DN công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ” [21]. Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là KCN tập trung, không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm môi trường, có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với các đặc khu kinh tế (có bộ máy quản lý hành chính độc lập). Theo quan niệm của Việt Nam, các KCX (chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu), khu công nghệ cao (tập trung các DN có công nghệ cao hoặc DN dịch vụ cho các DN có công nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của KCN tập trung (dưới đây gọi chung là KCN). 1.1.2. Đặc điểm đặc trƣng của KCN Theo quan niệm của Việt Nam, KCN có một số đặc điểm đặc trưng chủ yếu sau: - Tập trung tương đối nhiều xí nghiệp trong một khu vực có ranh giới quy định rõ ràng, cùng chung sử dụng kết cấu hạ tầng sản xuất. Vì vậy, các xí nghiệp này có điều kiện thuận lợi để tiết kiệm chi phí sản xuất, nhờ vậy hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của công ty mình. - Các xí nghiệp trong KCN thường được hưởng một quy chế riêng của Nhà 8
  12. nước và địa phương sở tại. Các quy chế này thể hiện sự quan tâm, ưu đãi, có chính sách kinh tế đặc thù, tạo môi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng phạm vi đất đai nhất định trong KCN để tạo lập thành các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin phép và miễn hoặc giảm phí thuê đất, tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp này phát triển. - KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi và hiệu suất tối đa cho các xí nghiệp công nghiệp và các DN hoạt động. - KCN thường có giới hạn địa lý hẹp, khoảng vài chục đến vài trăm ha và có thể được ngăn cách với xung quanh bởi hàng rào cứng. Không có dân cư sinh sống trong KCN. - Hoạt động chính trong KCN là hoạt động sản xuất công nghiệp, sản phẩm của các nhà máy, DN trong KCN chủ yếu giành cho xuất khẩu, hướng ra thị trường thế giới. Tuy nhiên, để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị và hàng hoá tiêu dùng, các nhà máy trong KCN cũng rất quan tâm đến việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, có thể coi khái niệm KCN mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp bởi chúng ta chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng, dẫn đến yếu tố bất cập, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả KT - XH của KCN. 1.1.3. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội 1.1.3.1. Thu hút các nguồn vốn đầu tư Thực tế trong những năm qua ở nước ta, KCN đã đóng vai trò tích cực vào việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là FDI. Số dự án đầu tư (cả trong nước và ngoài 9
  13. nước) vào các KCN chiếm tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội và sự phát triển của các DN này còn tạo sức lan toả tới các DN ngoài KCN. Tính đến hết năm 2009, các KCN của Việt Nam đã thu hút được trên 3.600 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và 25% về vốn đầu tư so với cả nước) và 3.200 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký 254.000 tỷ đồng [31]. Trong điều kiện nền kinh tế tích lũy nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN là một giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn của các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế từ khi xây dựng KCN cho đến nay, số dự án và tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào KCN không ngừng gia tăng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số vốn FDI đầu tư trên cả nước. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, việc tập trung các DN công nghiệp vào một khu vực địa lý, hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng, bởi trong KCN tập trung, các DN dùng chung các công trình hạ tầng nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch lãnh thổ. 1.1.3.2. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp, những vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp sẽ được chuyển sang xây dựng KCN để sản xuất công nghiệp có hiệu quả cao hơn nhiều. Sự phát triển của các KCN góp phần to lớn vào sự hình thành các khu đô thị mới với hàng loạt các ngành dịch vụ phát triển như thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, kinh tế của cả nước được tăng trưởng, cơ cấu GDP của nền kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp. Đi theo sự 10
  14. dịch chuyển này, lao động từ nông nghiệp sẽ được di chuyển vào công nghiệp và dịch vụ sẽ làm giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ trong tổng số lao động của cả nước. Trong những năm qua, doanh thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các DN trong các KCN, KCX liên tục tăng nhanh đều qua các năm. Doanh thu trung bình của các DN trong KCN, KCX tăng trưởng trung bình gần 48%/năm, gấp 6,3 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước. Năm 2005, các DN trong KCN, KCX đã nộp ngân sách đạt 650 triệu USD, đến năm 2008, các DN này đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt 2.620 triệu USD, cao gấp 4 lần so với năm 2005. Các KCN, KCX đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, từ năm 2001 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 7,2%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của các KCN, KCX tăng trưởng mạnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp trong GDP, từ 23,79% năm 1991 lên 40,24% năm 2009. Trong khi đó, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm tương ứng từ 40,49% năm 1991 xuống còn 20,66% năm 2009 [27]. Sự chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế này chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng nhanh của những ngành công nghiệp chế biến, hiện nay các ngành công nghiệp chế biến chiếm tới 80% giá trị sản lượng công nghiệp (trừ ngành khai thác mỏ) của các DN trong các KCN, KCX. 1.1.3.3. Mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu Hàng hoá được sản xuất tại các KCN không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà sẽ thâm nhập vào thị trường thế giới, do đó KCN sẽ góp phần phát triển mặt hàng, mở rộng thị trường, phục vụ cho chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các DN KCN, KCX giai đoạn từ năm 2005 - 2008 là 38,1%. Tính đến ngày 30/12/2009, các KCN trong cả nước đã xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng [31]. 11
  15. Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và cân bằng cán cân thương mại của mỗi nước cũng như của từng địa phương, thông qua xuất khẩu, lợi thế so sánh của từng địa phương sẽ được khai thác có hiệu quả hơn. Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, dù DN có khả năng sản xuất với mức chi phí thấp cũng vẫn gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường, nhất là thị trường thế giới. Thông qua liên doanh, liên kết đầu tư, nhất là với các công ty xuyên quốc gia nắm được thị phần lớn là điều kiện tốt nhất để phát huy những lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và của mỗi địa phương, nhanh chóng khẳng định được thương hiệu, vì các công ty xuyên quốc gia có vị thế và uy tín lớn trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế. Thực tế cho thấy, nhiều KCN ở các nước, đặc biệt ở các quốc gia khu vực châu Á đã thành công trong mục tiêu này. Theo thống kê của WEPZA (Hiệp hội KCX thế giới), một KCX diện tích khoảng 100 ha, cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vòng 10 năm sẽ tạo ra hàng xuất khẩu trị giá 100 triệu USD/năm [25,tr.35]. 1.1.3.4. Tiếp thu công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi tắt đón đầu tiếp thu những công nghệ mới là một đòi hỏi bức thiết của các nước đang phát triển cũng như của từng địa phương. KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Hình thành các KCN sẽ tạo ra những tiền đề cho phép tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại nhất của thế giới để vận dụng vào sản xuất những sản phẩm có chất lượng. Tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ trong các KCN có một sự thuận lợi hơn hẳn so với các DN sản xuất kinh doanh phân tán, rải rác ở các khu vực dân cư. Mặc dù, ở các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, gia công giày da, lắp ráp điện tử... sau đó là sản 12
  16. xuất cơ khí, linh kiện điện tử... song, quá trình chuyển giao công nghệ vẫn diễn ra thông qua nhiều hình thức như: đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục đích tạo năng suất lao động cao... Các công ty ở các KCN có thể chuyển giao một số các công nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương hoặc các công ty sản xuất các chi tiết sản phẩm vào các DN trong KCN... 1.1.3.5. Giải quyết việc làm và đào tạo nguồn nhân lực Sự hình thành và phát triển các KCN không chỉ thu hút lao động vào các DN bên trong KCN mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển, do đó thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác. Các KCN cũng như các dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đã giải quyết được một số lượng lao động khá lớn. Theo con số thống kê, đến năm 2009, các DN trong KCN, KCX ở Việt Nam đã tạo việc làm cho khoảng 750 nghìn người lao động trực tiếp, và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Phần lớn những lao động này là lao động trẻ, có khả năng nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới. Trong tổng số lượng lao động trong các KCN, có đến 90% lao động có độ tuổi từ 18 đến 35 [31]. Nếu so sánh với khả năng tạo việc làm của các KCN, KCX thì con số 750 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp chưa phải là lớn, chưa tương xứng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng là số lao động này được tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động mới có kỷ luật, có chuyên môn, kỹ thuật và có năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các DN, nhiều KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các DN trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, tại các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt, 13
  17. điều đó tác động khá tích cực đến việc xóa đói giảm nghèo, đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. 1.1.3.6. KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Các nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH cần chú ý sự phát triển cân bằng cả kinh tế, xã hội và môi trường. Vấn đề môi trường là một yếu tố quan trọng mà bất cứ một DN sản xuất nào đều phải giải quyết và xử lý. Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, phải di dời nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. Nếu các DN phân bố phân tán, việc xử lý chất thải do từng DN thực hiện riêng rẽ sẽ rất tốn kém và không đồng bộ. Việc tập trung nhiều DN trên cùng một địa bàn sẽ cho phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn. Mặt khác, với sự tập trung của các DN sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các DN để có giải pháp thích hợp. Ô nhiễm môi trường được hạn chế do có hệ thống xử lý chung và được kiểm soát chặt chẽ. Những cơ sở công nghiệp khác không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào KCN, như vậy chúng ta hạn chế được việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). 1.1.4. Những tác động tiêu cực có thể xảy ra khi thành lập và đưa vào hoạt động các KCN - Do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý thiếu tính toán việc thu hút các DN sản xuất nhằm “lấp đầy” KCN, nên có thể dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực. Sự hình thành ồ ạt các KCN mà chưa xét đến nhu cầu thực tế, khiến cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp; thiếu sự tính toán chặt chẽ 14
  18. dẫn đến tình trạng lãng phí lớn các nguồn lực. Mặt khác, việc phân bố các KCN giữa các vùng còn bất hợp lý. Thành lập quá nhiều KCN trong cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho KCN. Điều này vô hình chung đã hình thành nên các KCN có chức năng tương tự nhau ở các địa phương, dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo phong trào thành lập, thu hút đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nước. - Việc xây dựng các KCN cần phải có mặt bằng xây dựng. Nếu chính sách đền bù giải phóng mặt bằng cho các KCN không phù hợp, không được người dân đồng tình thì có thể gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển KCN. Chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng cho các KCN nếu không phù hợp có thể dẫn đến tình trạng bần cùng hóa một bộ phận nông dân. Trong thời gian qua, việc đền bù, giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập, hạn chế, vừa phức tạp, vừa tốn nhiều thời gian, tiền bạc. Nhiều KCN phải mất từ 2 đến 3 năm mới đền bù, giải tỏa xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN. - Mặc dù KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường sinh thái, nhưng nếu không có chính sách và cơ chế quản lý chặt chẽ, có hiệu quả thì sẽ gây tác động ngược lại, mức độ ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên nhanh. Các KCN vì mục tiêu kinh doanh, vì cố gắng thu hút các dự án đầu tư bất kể ở trình độ nào, vì tiết kiệm chi phí đầu tư nên các KCN không quan tâm thỏa đáng đến việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Điều đó dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường hết sức nghiêm trọng ở một số KCN. - Hơn nữa, việc tập trung nhiều DN sản xuất trên một địa bàn, thu hút một lượng đông đảo lao động từ các địa phương khác đến có thể dẫn tới sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng và mất an ninh trong khu vực. 15
  19. Tình trạng thiếu nhà ở, trường học, chợ, trung tâm giải trí, cơ sở y tế... cho người lao động là phổ biến tại các KCN. Người công nhân tự bươn trải lấy cuộc sống. Từ đó có những tác động lớn đến trật tự an ninh, an toàn xã hội; vấn đề vệ sinh môi trường; những tác động đến sức khỏe; phát sinh tệ nạn xã hội; ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người lao động. Vấn đề bảo đảm văn hóa tinh thần của công nhân KCN chưa có giải pháp khả thi, còn thiếu thốn về tiện nghi sinh hoạt văn hóa, mức hưởng thụ văn hóa thấp; thiếu các cơ chế chính sách đầu tư phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho KCN, cộng với những vấn đề bức xúc về mặt xã hội như lương thấp, bảo hiểm xã hội không đầy đủ, mất cân bằng giới trong lực lượng lao động... đã và đang là vấn đề nổi bật của các KCN không dễ gì giải quyết. Từ những tác động tiêu cực, những hạn chế nêu trên, chúng ta cần kịp thời có những chính sách, những giải pháp hợp lý, đồng bộ để các KCN phát huy tối đa những tác động tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực, làm cho các KCN thực sự trở thành nhân tố quan trọng phát triển KT - XH nói chung, thu hút nhiều FDI nói riêng. 1.2. FDI và các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thu hút FDI vào các KCN 1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1.1. Khái niệm Quỹ tiền tệ thế giới (Internationnal Moneytary Fund - IMF), trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một DN tại một nước khác (nước nhận đầu tư - hosting country), không phải tại nước mà DN đang hoạt động (nước đi đầu tư - source country) với mục đích quản lý một cách hiệu quả DN”. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and development - OECD) cũng đưa ra nhận định về đầu tư trực 16
  20. tiếp nước ngoài tương tự như IMF. Tuy vậy, OECD có quan niệm rất rộng về nhà đầu tư nước ngoài. Theo quan điểm của OECD, nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan Chính phủ hoặc không thuộc cơ quan Chính phủ đầu tư tại nước ngoài. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư” [21, tr.8]. “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” [21, tr.8]. Từ những khái niệm trên, có thể hiểu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là biểu hiện bằng tiền hoặc tài sản do tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài mang vào nước khác (nước tiếp nhận) để thực hiện kinh doanh theo luật pháp của nước tiếp nhận nhằm thu được lợi ích. Các nhà đầu tư có quyền điều hành DN tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. 1.2.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài - Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức liên kết kinh doanh giữa hai bên hoặc nhiều bên trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân. - Doanh nghiệp liên doanh: Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. DN liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH, công ty cổ phần có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là DN thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1