Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn
lượt xem 4
download
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Lạng Sơn những năm vừa qua, luận văn đề xuất những phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001 - 2010.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --***-- NGUYỄN THỊ GIANG CHÂU CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI – 2005
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --***-- NGUYỄN THỊ GIANG CHÂU CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. PHAN THANH PHỐ HÀ NỘI - 2005
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn đòi hỏi phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế, lãnh thổ và các thành phần kinh tế, các yếu tố, bộ phận, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những nội dung cơ bản của CNH, HĐH. Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Đông Bắc Tổ quốc. Cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 và những cuộc đụng độ biên giới trong những năm sau đó đã tàn phá nặng nề cơ sở vật chất, kỹ thuật làm cho nền kinh tế của tỉnh bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một số năm khôi phục lại kinh tế, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, cơ cấu kinh tế của tỉnh Lạng Sơn bước đầu đã được chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Lạng Sơn thời gian qua với nhịp độ còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của một tỉnh biên giới trong điều kiện mở cửa và hội nhập. Làm thế nào để chuyển dịch nhanh với chất lượng cao cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát huy thế mạnh nổi bật, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Lạng Sơn trong thời gian tới. Lời giải cho vấn đề đặt ra mang tính bức xúc, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng đối với Lạng Sơn hiện nay. Để góp thêm vào việc tìm ra lời giải nói trên, tác giả chọn đề tài: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở tỉnh Lạng Sơn làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có nhiều công trình, nhiều đề tài, nhiều tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như: - Đỗ Hoài Nam (chủ biên): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1996. - Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1995. - Ngô Đình Giao (chủ biên): “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994… Nhìn chung các đề tài đã công bố, phản ánh nhiều mặt của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên một địa bàn, một địa phương nhất định. Song cho đến nay, việc nghiên cứu đề tài chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở Lạng Sơn với tư cách là một đề tài được nghiên cứu một cách có hệ thống, độc lập vẫn chưa được nghiên cứu. Vì thế đề tài được chọn còn là mới và cần thiết đòi hỏi phải làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hoá có lựa chọn và phân tích một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong thời gian qua ở tỉnh Lạng Sơn, đưa ra những vấn đề bức xúc cần đặt ra để giải quyết trong thời gian tới. 2
- - Đề xuất và phân tích phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Lạng Sơn những năm vừa qua, từ đó đề xuất những phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001 - 2010. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung, vận dụng thông qua phương pháp trừu tượng hoá. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử, phương pháp thống kê, định lượng so sánh, phương pháp mô hình, biểu bảng… trong quá trình nghiên cứu. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn lấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn làm đối tượng nghiên cứu. - Việc phân tích, đánh giá, đề xuất phương hướng và giải pháp dưới góc độ kinh tế chính trị tức là nghiên cứu những vấn đề cơ bản và chủ yếu. Thời gian nghiên cứu từ thời kỳ đổi mới, nhất là từ 1991 đến 2010. 6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn Những đóng góp: - Làm rõ thêm khái niệm, những nhân tố, sự cần thiết, nội dung mang tính xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3
- - Phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời gian qua. - Đưa ra phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Lạng Sơn đến 2010. Ý nghĩa: - Góp thêm cơ sở khoa học vào việc hoạch định chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001 - 2010. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập những phần có liên quan trong trường Cao đẳng sư phạm của tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, về nội dung luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian qua ở tỉnh Lạng Sơn. Chương 3: Phương hướng cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong thời gian tới ở Lạng Sơn. 4
- Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. Phƣơng pháp luận tiếp cận cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá, một quá trình kinh tế tất yếu khách quan mà bất cứ nước nào đi từ sản xuất nhỏ đều phải trải qua. Mặc dù với thời điểm, quy mô, nhịp độ và cách tiến hành có sự khác nhau nhất định giữa các nước. Xét về mặt lịch sử thì công nghiệp hoá là quá trình diễn ra trước hiện đại hoá, nhưng trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen, tác động qua lại lẫn nhau, hai quá trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Về mặt thuật ngữ cho thấy hiện đại hoá là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật - công nghệ và kinh tế đạt trình độ của thời đại ngày nay. Nói cách khác, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế của đất nước đạt được ngang với trình độ của thời đại, đây chính là khía cạnh kinh tế - kỹ thuật của hiện đại hoá. Tuy nhiên, hiện đại hoá không phải chỉ có thế mà còn bao hàm cả khía cạnh xã hội, gắn với quá trình xây dựng một xã hội văn minh. Như vậy, quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ biện chứng với nhau. Quá trình kinh tế - kỹ thuật tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện nội dung của quá trình kinh tế - xã hội và đến lượt mình quá trình kinh tế - 5
- xã hội lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế - kỹ thuật. Ở nước ta, một nước tiến hành công nghiệp hoá sau, nên công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại này đã dẫn tới sự thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Là nước tiến hành công nghiệp hoá sau nên chúng ta không thể thực hiện theo mô hình công nghiệp hoá phát triển theo kiểu tuần tự như các nước đi trước, nghĩa là tiến hành với nội dung căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành hiện đại hoá. Vả lại khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc được sản xuất trước đây mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến. Với ý nghĩa trên Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Đại hội VIII khẳng định công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá và Đại hội Đảng lần thứ IX, nhấn mạnh về con đường công nghiệp hoá rút ngắn đáng kể về thời gian, vừa có bước đi tuần tự vừa có bước nhảy vọt, muốn vậy công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Đảng ta quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ và phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội cao” [13, tr.80]. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất 6
- tiên tiến hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững hiệu quả cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tất cả các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. 1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các thời kỳ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép tạo nên sự cân đối, hài hoà của nền kinh tế để sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên, của cải vật chất, của cải tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý nghĩa to lớn đối với sự tăng trưởng, và phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của nền kinh tế quốc dân. Thuật ngữ “cơ cấu” hay “cấu trúc” có nguồn gốc ban đầu từ chữ La tinh “Strucke”, nó phản ánh cách sắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó, các khái niệm này được sử dụng mở rộng hơn cho các ngành khoa học khác. Theo quan điểm triết học, “cơ cấu” hay “kết cấu” là một phạm trù phản ánh cấu trúc bên trong của đối tượng, là tập hợp những mối liên hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng, trong một thời gian nhất định. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác tiếp cận cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người làm nhiệm vụ sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó họ 7
- tiến hành sản xuất. Toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ cấu kinh tế của nó. Khi phân tích mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội, với cơ cấu kinh tế xã hội C.Mác đã nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất” [25, tr.70]. C.Mác còn phân tích cơ cấu kinh tế ở cả hai mặt: số lượng (quy mô, tỷ trọng, tốc độ) và chất lượng (vị trí, sự tương tác, trình độ công nghệ…). Đó là biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Và theo C.Mác, cơ cấu là “một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình sản xuất xã hội” [26, tr.103]. Như vậy, theo C.Mác, cơ cấu nền kinh tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa họ với tự nhiên, kỹ thuật) và các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành. Nếu cơ cấu nền kinh tế bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi phân tích cơ cấu kinh tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là đúng đắn là một cơ cấu kinh tế được hình thành và phát triển trong đó, các yếu tố của quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất nhiên, không nên hiểu cơ cấu nền kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà nên hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số lượng và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành và phát triển qua các giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội. 8
- Với quan niệm trên thì cơ cấu của nền kinh tế quốc dân được hiểu là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: Các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng; các ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…; các thành phần kinh tế - xã hội: Nhà nước, tập thể, tư nhân…; các vùng kinh tế. Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi địa phương lại có cơ cấu kinh tế riêng, tuỳ theo điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế, xã hội cụ thể. Trong tiếp cận cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong trạng thái có tính tương đối ổn định, lịch sử cụ thể, phát triển theo đúng các quy luật khách quan, nhất là mối quan hệ chứa đựng trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chính tính tương đối ổn định này làm cho cơ cấu kinh tế biến đổi trong giới hạn cho phép, mà nếu vượt qua giới hạn đó, hệ thống kinh tế - xã hội chuyển sang một trạng thái ổn định khác, mới về chất, hoặc thậm chí có thể biến đổi sang loại hình cơ cấu khác. Từ sự phân tích trên có thể rút ra những khía cạnh không thể thiếu được khi tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế: - Bao gồm các bộ phận cấu thành mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra thông qua mối quan hệ kinh tế giữa các ngành và nội bộ ngành, giữa các vùng kinh tế và giữa các thành phần kinh tế với nhau. - Được xem xét trên cả hai mặt định tính và định lượng của từng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 9
- - Đặt cơ cấu kinh tế trong điều kiện lịch sử của mỗi nước, mỗi địa phương, mỗi ngành trong từng thời kỳ nhất định. - Gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được xác định trong từng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ đó ta có thể định nghĩa cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế gắn với trình độ công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với tính chất của mối quan hệ tương tác giữa tất cả các bộ phận; gắn với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định; nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã được xác định trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế là một hệ thống động, biến đổi không ngừng theo đà phát triển của lực lượng sản xuất và những nhân tố quy định nó. Để đánh giá một cách thực tế việc xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế và ứng dụng đúng đắn cơ cấu kinh tế vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng địa phương, trong từng giai đoạn phát triển, cần lưu ý một số đặc trưng sau đây của cơ cấu kinh tế: Thứ nhất, cơ cấu kinh tế mang tính khách quan. Theo C.Mác cơ cấu kinh tế có quan hệ mật thiết với phân công xã hội. Người khẳng định: “Trong sự phân công xã hội, thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín yên lặng” [26, tr.15]. Nói một cách khác, mọi sự vật hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói riêng chỉ có thể tồn tại và phát triển theo những cấu trúc nhất định, vận động, phát triển theo những quy luật khách quan, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ; phù 10
- hợp với các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh và cung cầu. Cơ cấu kinh tế do những yếu tố vật chất của nền sản xuất quy định (tư liệu sản xuất, tài nguyên, công nghệ, sức lao động) do đó cơ cấu kinh tế tồn tại, vận động, phát triển theo những quy luật khách quan, độc lập với con người. Con người không thể tuỳ tiện tạo ra cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, con người có thể tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thông qua việc tác động vào các yếu tố vật chất của nền sản xuất. Nếu sự tác động của con người phù hợp với các quy luật khách quan có thể làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu sự tác động đó không phù hợp sẽ cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đó, một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế quốc dân phải phản ánh sự vận động của các quy luật kinh tế và các quy luật khác, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Vai trò chủ quan của con người là: thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó mà phân tích, đánh giá những xu thế phát triển khách quan để tìm ra những phương án thay đổi cơ cấu có hiệu quả cao nhất trong điều kiện cụ thể của quốc gia hay địa phương. Chính đặc điểm này bác bỏ thái độ chủ quan, duy ý chí, áp đặt cơ cấu kinh tế không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Thứ hai, cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử cụ thể. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi giữa các bộ phận của quá trình tái sản xuất xác lập những quan hệ cân đối nhất định của phân công lao động xã hội. Giữa các nền sản xuất, những yêu cầu về số lượng có thể tương tự nhau, nhưng những yêu cầu về chất lượng cách thức thực hiện, những tỷ lệ cân đối thì khác nhau, sự khác nhau ấy là do quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản 11
- xuất, mà trước hết là do quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất ấy quyết định. Ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội, nhưng ở những nước khác nhau, ở những địa phương khác nhau và mỗi thời kỳ khác nhau vẫn có cơ cấu kinh tế khác nhau, do điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội khác nhau quy định. C.Mác viết: “Sự tất yếu phải phân công lao động xã hội theo những tỷ lệ nhất định quyết không thể bị tiêu diệt bởi một hình thái nhất định của sản xuất xã hội, chỉ có hình thái biểu hiện của nó có thể bị thay đổi mà thôi, điều này tự nó đã rõ rồi” [26, tr.759]. Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến động, nó không phải là một cái gì “chết cứng”, “nằm im”, nên việc xác định cơ cấu kinh tế không thể không căn cứ vào điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và những mối quan hệ giữa chúng. Tính lịch sử cụ thể của cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở chỗ không có cơ cấu kinh tế chung cho mọi nền kinh tế và cũng không có cơ cấu kinh tế duy nhất cho một nền kinh tế, một địa phương ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Thứ ba, cơ cấu kinh tế có tính mục tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội Mục tiêu này được xem xét cả về hai mặt: kinh tế và xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Hiệu quả kinh tế – xã hội là mục tiêu phản ánh sự kết hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong từng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cả nước và từng địa phương. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khối lượng các yếu tố sản xuất (lao động, vốn, vật tư) rất hạn chế, tới mức không cho phép đồng thời bảo đảm sự cân đối bên trong của sản xuất cũng như giữa sản xuất với các mặt khác của đời sống xã hội. Ở đây cần lựa chọn những quan hệ then chốt, tập trung lực lượng để tác động, tạo nên 12
- một sự cân đối tương đối và nhờ vậy, có điều kiện để tiến tới, nắm bắt lấy “mắt xích tiếp theo”. Việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương được gọi là có hiệu quả kinh tế - xã hội, khi cơ cấu kinh tế đó hợp lý. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải là một cơ cấu cho phép khai thác hết những tiềm năng kinh tế - xã hội của quốc gia, các địa phương, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Nó không chỉ đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái, tạo đà cho sự phát triển trong tương lai. Việc thi hành chính sách cơ cấu có lựa chọn hợp lý như vậy đòi hỏi phải đảm bảo tính đồng bộ, tính cân đối trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, là hai mặt mâu thuẫn của một quá trình biện chứng. Từ tính chất hai mặt của cơ cấu kinh tế là tính cân đối ổn định và tính chất biến đổi tổ chức, nói lên tính phức tạp của việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử, mà trong mỗi giai đoạn phát triển đều có những vấn đề then chốt, những khâu quan trọng liên quan đến mục tiêu kinh tế - xã hội, nó xa lạ với việc quá nhấn mạnh tính ổn định dễ dẫn tới bảo thủ, trì trệ, lạc hậu. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh tính chất biến đổi bất chấp tính khách quan và điều kiện lịch sử cụ thể, sẽ rơi vào chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, một yêu cầu bức thiết là phải tập trung những lực lượng chủ yếu để giải quyết những vấn đề then chốt hoặc để “xoá bỏ” những ách tắc trong dòng chảy của quá trình tái sản xuất là một đòi hỏi khách quan khi thực hiện đặc trưng này. Thứ tư, cơ cấu kinh tế mang tính thị trường và mở cửa. 13
- Khác với cơ cấu kinh tế trong mô hình chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp, việc hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế để tạo ra sản phẩm chủ yếu là để phân phối cho tiêu dùng, chứ không phải chủ yếu tạo ra hàng hoá để bán, nếu có mua bán chỉ là hình thức mà không dựa trên các quy luật kinh tế vốn có của kinh tế thị trường. Khi chuyển đổi mô hình kinh tế cũ sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế để tạo ra hàng hoá với tư cách là hàng hoá để bán. Vì vậy việc xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế nhất thiết phải mang tính thị trường. Có như vậy, mới làm cho cơ cấu kinh tế được xây dựng không chỉ thích ứng mà còn có tác dụng thúc đẩy việc xây dựng thành công mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và địa phương. Cơ cấu kinh tế của một nước hay một địa phương không khép kín trong một không gian nhất định mà ngày càng mở rộng theo tiến trình xã hội hoá, chuyên môn hoá sản xuất và mức độ mở rộng thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng sự hợp tác, và phân công lao động diễn ra không chỉ trong phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quốc gia mà còn phải xác định được cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Sự phát triển đan xen cũng như sự phân công lao động quốc tế, sự thâm nhập kinh tế các nước vào nhau đã chỉ rõ tính đa dạng phong phú và tính quốc tế của cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế "mở" nếu không chú ý đúng mức đến đặc trưng này sẽ hạn chế sự phát huy các nguồn lực trong nước. 14
- Tóm lại, tính khách quan, tính lịch sử cụ thể, tính mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội, tính thị trường và mở cửa là tổng hợp những tính chất cấu thành nên đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ những đặc trưng đó trong hoạt động xây dựng cơ cấu kinh tế hiện nay ở nước ta nói chung và ở mỗi địa phương nói riêng. Cơ cấu kinh tế, xem xét trên cấp độ nền kinh tế quốc dân hay trên một vùng lãnh thổ, về mặt nội dung, là một hệ thống đa cơ cấu hợp thành: - Một là: Cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân và nội bộ từng ngành: Cơ cấu kinh tế ngành là một kiểu, một bộ phận cơ cấu trong toàn bộ hệ thống các cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, xác định mối quan hệ tương quan về định tính và định lượng giữa các ngành với nhau. Cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế là bộ phận cơ bản nhất của cơ cấu kinh tế, là cốt lõi của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược đề ra, trong đó quan hệ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là bộ phận có tầm quan trọng, “bộ xương” của cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh trình độ công nghệ, quy mô, nhịp độ phát triển giữa chúng. Trong mỗi ngành lại phân chia thành các ngành nghề nhỏ chi tiết hơn. Các doanh nghiệp trong các ngành và nội bộ ngành, nằm trong một cơ cấu kinh tế, tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chẳng hạn: Trong ngành nông nghiệp lại chia thành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp - ngư nghiệp; ngành công nghiệp lại chia thành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng hoặc chia thành công 15
- nghiệp truyền thống; công nghiệp gắn với công nghệ mới hiện đại; ngành dịch vụ lại chia thành dịch vụ sản xuất, dịch vụ cho con người… - Hai là: Cơ cấu vùng (hay lãnh thổ) là biểu hiện vật chất cụ thể của phân công lao động theo lãnh thổ. Trình độ hình thành, phát triển và hoàn thiện của cơ cấu lãnh thổ hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động theo lãnh thổ đến lượt mình, trình độ phát triển của phân công lao động theo lãnh thổ lại phụ thuộc vào trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề đặt ra là phải khai thác và sử dụng các điều kiện tự nhiên của đất nước một cách có lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Trong mối quan hệ hợp lý giữa nhu cầu trước mắt với sự phát triển lâu dài theo hướng sản xuất hàng hoá cho thị trường trong nước và xuất khẩu, cần có chiến lược kế hoạch khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở điều tra, khảo sát khả năng và nhu cầu xã hội, nhu cầu địa phương, trong nước và quốc tế, để xây dựng các đơn vị, ngành và vùng kinh tế hợp lý. - Ba là: Cơ cấu thành phần kinh tế là một nội dung, một bộ phận của cơ cấu kinh tế xét về mặt kinh tế - xã hội. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất là một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp. Do vậy, sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan. Trong cơ cấu đó, các thành phần kinh tế vừa mâu thuẫn, đấu tranh lẫn nhau, vừa hợp tác và thống nhất với nhau hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó mặt hợp tác, thống nhất là mặt cơ bản của mối quan hệ. Từ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể hiểu cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có loại hình sản xuất 16
- với quy mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế phân phối thích hợp. Sự tồn tại khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế mang tính phổ biến ở các nước và nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu thành phần kinh tế với tư cách là lực lượng kinh tế có mặt trong cơ cấu ngành và nội bộ ngành, trong các cơ cấu vùng kinh tế theo lãnh thổ. Sự có mặt về số lượng, chất lượng và đồng bộ các thành phần kinh tế trong quá trình hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế có tầm quan trọng để biến khả năng của cơ cấu ngành, vùng thành hiện thực sinh động và hiệu quả. Cái khó chính là ở chỗ cần có chính sách, cơ chế thích hợp để phát huy mặt hợp tác, thống nhất và đồng bộ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cả nước và mỗi địa phương. 1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng thái tĩnh hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động có tác dụng làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển [28, tr.47]. Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học và kỹ thuật công nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội cũng thay đổi, phát triển đi từ thấp lên cao, đi từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại và hiệu quả theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng ta có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các 17
- vùng kinh tế và các thành phần kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong từng giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp, đó là những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây: 1.1.2.1. Nhân tố về địa lý, tự nhiên (khí hậu, đất đai, tài nguyên…). Các Mác viết: "Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên, trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định" [27, tr.282]. Do sản xuất là "sự chiếm hữu tự nhiên" nên quá trình chiếm hữu đó cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng của chính những điều kiện tự nhiên. Do đó, ảnh hưởng của địa lý, tự nhiên tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu, một nhân tố không thể thiếu được của mỗi nước, mỗi ngành và mỗi địa phương khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.1.2.2. Nhân tố về kinh tế, văn hoá, xã hội Lôgic và lịch sử chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá đều cho rằng: Khi nền sản xuất xã hội còn ở tình trạng lạc hậu (lực lượng sản xuất thấp kém, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của người lao động chưa cao) thì cơ cấu kinh tế của xã hội ấy phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện địa lý tự nhiên. Khi đó những ngành kinh tế dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như nông - lâm - ngư nghiệp, khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn công việc của nhân viên khối văn phòng ở TP.HCM
138 p | 1461 | 548
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 844 | 193
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
148 p | 597 | 171
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
135 p | 556 | 156
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp Tp.HCM đến năm 2020
53 p | 404 | 141
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
98 p | 450 | 128
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 511 | 128
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển du lịch biển Đà Nẵng
13 p | 401 | 70
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 399 | 64
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hộ gia đình tới thu nhập và an toàn lương thực của hộ nông dân huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
110 p | 342 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
143 p | 225 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện biến đổi khí hậu
83 p | 236 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh
26 p | 232 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 224 | 16
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển tổng công ty xây dựng số 1 thành tập đoàn kinh tế mạnh trong tiến trình hội nhập quốc tế
12 p | 185 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 254 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn