intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài bao gồm 3 chương: Một số lý luận cơ bản về CNH, HĐH; thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---- K --- HUỲNH MÔNG NGHI MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 Chuyên nghành: Kinh tế Chính trị Mã số : 60.34.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. VŨ ANH TUẤN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009
  2. -1- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngành công nghiệp được xem là một trong những ngành có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia trong quá trình CNH, HĐH. Bà Rịa-Vũng Tàu được xem là một tỉnh công nghiệp với sự phát triển khá nhanh về kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của tỉnh có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đến năm 2007, tỷ trọng công nghiệp trong GDP (theo giá cố định 1994) tăng lên 80,13%; dịch vụ 14,85% và nông nghiệp 5,02%. Nếu không tính dầu khí, công nghiệp chiếm 62,13%; dịch vụ 29,07% và nông nghiệp 8,87%. Với cơ cấu kinh tế trên, cho thấy ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn và là động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với những lợi thế mà ít nơi nào có được của một địa phương có nhiều tiềm năng, nguồn lực để phát triển một ngành công nghiệp đa dạng với tốc độ cao, cho thấy Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để có thể đến năm 2020 về trước cả nước trong tiến trình CNH, HĐH để trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian qua ngành công nghiệp của tỉnh vẫn chưa thật sự phát triển toàn diện cả về chiều sâu và diện rộng, một số ngành còn bị suy giảm mặc dù còn có nhiều tiền đề và tiềm năng để phát triển. Vì vậy, tôi cho rằng cần phải tập trung nghiên cứu về ngành công nghiệp của địa phương này để phát triển và hiện đại hóa nó nhằm đưa Bà Rịa-Vũng Tàu - một địa phương có khả năng và nghĩa vụ phải tiến hành nhanh và bền vững hơn, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần quan trọng cùng đất nước chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước, nâng cao vị thế trong hội nhập kinh quốc tế. Với nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu: “Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020” làm tên đề luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  3. -2- 2. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở lý luận và kinh nghiệm chung về CNH, HĐH, cũng như qua khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để tìm ra những hạn chế, nhất là tìm được những vấn đề nổi lên cần đặt ra. Từ đó, đề xuất các giải pháp để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp của tỉnh đến năm 2020. Là một tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế quan trọng về vị trí, đất đai và hạ tầng kỹ thuật để phát triển mạnh kinh tế biển, đặc biệt là các ngành công nghiệp dầu khí, sản xuất điện, đạm, chế biến thủy hải sản, v.v. Do đó, để khai thác có hiệu quả những thế mạnh này của Bà Rịa-Vũng Tàu, đề tài giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi ngành công nghiệp của tỉnh với mốc thời gian từ năm 2004 đến năm 2008 là chủ yếu và định hướng đến năm 2020 trong việc phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu của đề tài, ngoài việc áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu, đề tài còn ứng dụng một số phương pháp chủ yếu như: phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, thu thập số liệu và thông tin thực tế, phương pháp mô hình hóa và phân tích ma trận SWOT. Phương pháp luận để nghiên cứu được rút ra từ các quan điểm lịch sử, cụ thể, toàn diện và phát triển. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ nay đến năm 2020” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các cấp chính quyền của tỉnh có những thông tin cần thiết để xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp trên địa bàn theo hướng hiện đại đến năm 2020. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây: HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  4. -3- Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về CNH, HĐH. Hai là, bằng các số liệu chứng minh, luận văn đã phân tích và làm rõ hiện trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh để từ đó rút ra những thuận lợi và khó khăn cũng như thế mạnh và điểm yếu của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ba là, căn cứ vào mục tiêu và quan điểm phát triển ngành công nghiệp của tỉnh để đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bốn là, cung cấp những dữ liệu cần thiết cho các cấp chính quyền, các cơ quan, ban, ngành của tỉnh tham khảo để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh nhằm xây dựng những chính sách phù hợp với chiến lược phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. 5. Đóng góp của đề tài Liên quan đến đề tài này đã có nhiều đề tài và bài báo được công bố với những giá trị khoa học nhất định. Công trình nghiên cứu này dự kiến sẽ đạt được những đóng góp sau đây: Luận văn sẽ phân tích đầy đủ và sâu sắc hoạt động của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gắn với quá trình CNH, HĐH; Phân tích có hệ thống và khá toàn diện những tính đặc thù của địa phương và đối với sự phát triển của ngành công nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả nước; Trên cơ sở lý luận được xây dựng ở chương 1, kết quả phân tích tình hình thực tế ở chương 2, quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và địa phương, luận văn đã đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính khả thi trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và địa phương, góp phần đưa Bà Rịa-Vũng Tàu và cả nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu; kết luận; danh mục các chữ viết tắt; danh mục các bảng, HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  5. -4- biểu; tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số lý luận cơ bản về CNH, HĐH; Chương 2: Thực trạng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển và hiện đại hóa ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Dưới đây là nội dung luận văn: HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  6. -5- CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP, NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP, NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA 1.1.1. Khái niệm công nghiệp và ngành công nghiệp - Công nghiệp: là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp theo. - Ngành công nghiệp: là một bộ phận của nền kinh tế, ngành kinh tế quốc dân quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội với nhiệm vụ khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. - Phân loại công nghiệp: Công nghiệp gồm hai ngành: + Công nghiệp nặng: là ngành công nghiệp chuyên khai thác nguồn năng lượng, sản xuất các công cụ sản xuất và chuyển biến các nguyên liệu thành vật liệu. + Công nghiệp nhẹ: là ngành công nghiệp chuyển biến các vật liệu do công nghiệp nặng sản xuất thành những bán thành phẩm và hàng tiêu dùng. Ngoài ra, công nghiệp còn được phân thành hai loại: + Công nghiệp khai thác: là ngành khai thác các nguồn năng lượng và tài nguyên trên qui mô công nghiệp. + Công nghiệp chế biến: là ngành công nghiệp chuyển biến các sản phẩm của ngành công nghiệp khai thác thành các sản phẩm tiêu dùng (cho sản xuất và đời sống xã hội). 1.1.2. Các quan niệm về công nghiệp hóa: Trong thực tiễn, đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  7. -6- “công nghiệp hóa”. Quan niệm đơn giản nhất về CNH cho rằng “CNH là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà máy, các loại công nghiệp…” [30, 520] Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử CNH ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình dài thực hiện CNH, các nước này chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình CNH, chứ không phải là đối tượng trực tiếp của CNH, do đó quan niệm này được sử dụng rất hạn chế trong thực tiễn vì nó không cho thấy mục tiêu của quá trình cần thực hiện và đã đồng nhất quá trình CNH với quá trình phát triển công nghiệp. Trong sách báo kinh tế của Liên Xô (trước đây) tồn tại một định nghĩa phổ biến cho rằng “CNH là quá trình xây dựng nền đại công nghiêp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với các ngành trung tâm là chế tạo máy” [19-1], tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng tăng. Quan niệm này được coi là hợp lý trong điều kiện của Liên Xô thời kỳ nội chiến khi mà chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện, nền tảng phát triển chỉ dựa vào thị trường trong nước nên phải tập trung phát triển công nghiệp nặng và hướng vào các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Nhưng sẽ sai lầm nếu coi đó là quan niệm phổ biến để áp dụng cho tất cả các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay. Gần đây, khi nhấn mạnh vai trò, vị trí của công nghiệp chế biến như một biểu hiện của phát triển công nghiệp ở trình độ cao, điều kiện bảo đảm hiệu quả sử dụng tài nguyên và trao đổi thương mại quốc tế… lại có ý kiến cho rằng “phát triển công nghiệp chế biến là bản lề của CNH” [19, 1]. Không thể phủ định vai trò của công nghiệp chế biến là nội dung bao trùm của quá trình CNH, nó có phạm vi rộng lớn, cơ cấu phức tạp. Phát triển công nghiệp chế biến đến thị trường sản phẩm ở đâu… đó là câu hỏi không thể có câu trả lời chung cho tất cả các nước. Năm 1993, Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa sau đây: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân động viên để phát triển HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  8. -7- kinh tế, trong quá trình này toàn bộ để phát triển chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội”. Quan niệm này cho thấy quá trình CNH bao gồm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ về mặt xã hội nữa. Quá trình CNH trong điều kiện hiện nay cũng gắn liền với quá trình hiện đại hóa các hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài và phức tạp với ý tưởng dung hòa nhiều ý kiến khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, quan niệm về CNH dù trên góc độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Tuy quá trình CNH có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể từng nước mà thôi. CNH là quá trình rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: - Thứ nhất, CNH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Đồng thời đây cũng là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của các nước đó với các nước phát triển. Hiện đại hóa, xét trên góc độ kinh tế - kỹ thuật, là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH, nhưng bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội nên xét toàn cục, hiện đại hóa chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình CNH mà thôi. - Thứ hai, quá trình CNH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đất nước. Đó là tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống nhất các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Do đó, quá trình CNH cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu của quá trình CNH, vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  9. -8- nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp có quan hệ ràng buộc lẫn nhau: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong quá trình CNH sẽ trải qua hai giai đoạn: từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. - Thứ ba, quá trình CNH trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Đây là hai quá trình có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, quá trình kinh tế-kỹ thuật cao tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực thiện quá trình kinh tế - kỹ thuật. Việc thực hiện có kết quả quá trình CNH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về kinh tế. Đối với mỗi nước, CNH là quá trình lịch sử lâu dài. Theo W.Rostow, sự phát triển của một đất nước trải qua 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị tiền đề cho cất cánh, cất cánh, tiến tới sự trưởng thành và tiêu dùng ở trình độ cao. Như vậy, quá trình CNH được khởi đầu bằng việc “chuẩn bị tiền đề cho cất cánh”, được thực hiện mạnh mẽ trong giai đoạn “cất cánh” và kết thúc khi xã hội đã “tiến tới sự trưởng thành”. Khi đất nước đạt đến trình độ nhất định về kinh tế - kỹ thuật - xã hội, quá trình CNH sẽ kết thúc. - Thứ tư, quá trình CNH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hóa đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ nên việc xác định mục tiêu, phương thức CNH cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế- xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực. - Thứ năm, CNH không phải là một mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Tuy mỗi nước có hệ thống mục tiêu riêng nhưng về hình thức vẫn có thể tương đồng, đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại , khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, đảm bảo nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phục thuộc vào quan HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  10. -9- điểm của hệ thống chính trị lãnh đạo. Phương hướng, qui mô và nhịp độ CNH phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước. Từ toàn bộ những vấn đề đã đề cập trên đây, có thể rút ra kết luận khái quát về CNH như sau: CNH là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế-xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý với trình độ KHCN ngày càng hiện đại. 1.2. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA K. Marx là người đầu tiên phát hiện ra quy luật lịch sử của loài người, nghĩa là trước khi con người lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo thì con người cần phải ăn, uống, ở, mặc. Muốn vậy, con người phải lao động, nhưng không phải lao động tuỳ tiện mà phải có cách thức, đó là phương thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Trong đó, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định trong quá trình tiến hóa của nhân loại vì nó biểu hiện mối quan hệ của con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục của con người đối với giới tự nhiên trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất để đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và những người lao động có kiến thức, có thói quen, kinh nghiệm và kỹ năng, kỹ xảo để sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất nên có một vai trò quan trọng, là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Quá trình phát triển của sản xuất cũng là quá trình con người cải tiến, bổ sung và hoàn thiện công cụ lao động nhằm đạt năng suất cao và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Do đó, trình độ phát triển của công cụ lao động được xem là tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế trong lịch sử. K. Marx đã chỉ ra rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  11. - 10 - chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [15, 338]. Chính công cụ sản xuất và phương tiện lao động kết hợp với lao động sáng tạo của con người là yếu tố quyết định đến năng suất lao động, nên theo Lênin thì xét đến cùng năng suất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của lực lượng sản xuất trong một xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất dưới chế độ tư bản chủ nghĩa với nội dung là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc đã tạo ra một bước phát triển nhảy vọt hết sức vĩ đại về sự phát triển của lực lượng sản xuất, kéo theo sự phát triển toàn diện trên các mặt của xã hội tạo ra năng suất lao động xã hội cao gấp nhiều lần so với lao động thủ công, làm cho bộ mặt đời sống của xã hội loài người có sự thay đổi hết sức nhanh chóng. Từ đó đến nay trước tính chất cạnh tranh tàn khốc của nền kinh tế thị trường tư bản trong nước và thế giới, sự chạy đua giữa hai hệ thống XHCN và TBCN trong sự phát triển nhanh chóng của khoa học, cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra rất nhanh chóng và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực từ vật chất đến tinh thần cho phép khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo ra nguyên vật liệu mới đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền sản xuất, đưa năng suất lao động xã hội cao gấp trăm lần so với thời kỳ bắt đầu CNH. Rõ ràng để phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất thì CNH phải được coi là một quá trình mang tính quy luật, nhất là đối với các quốc gia bắt đầu từ một nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn vươn lên thành một quốc gia có nền kinh tế tiên tiến hiện đại. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế - xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, mỗi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Ở các nước phát triển, quá trình ấy gắn liền với quá trình CNH. Ngày nay, có thể nói trình độ CNH là thước đo về tiến bộ kinh tế, văn hóa, quân sự của các nước. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới luôn quan tâm đến việc nâng cao trình độ CNH, HĐH trong mọi mặt của đời sống xã hội ở nước mình. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  12. - 11 - Đối với các nước phát triển hiện nay, là những nước đã thực hiện CNH rất sớm, trình độ CNH của các nước đó rất cao, họ đã tạo ra được một nền sản xuất tiên tiến và một nền kinh tế, quốc phòng hùng mạnh. Thế nhưng họ vẫn luôn coi trọng sự nghiệp phát triển lực lượng sản xuất, đầu tư mạnh cho nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tìm ra những phương pháp sản xuất mới, phát hiện và đề ra những phương pháp khai thác nguồn năng lượng mới cực mạnh, chế tạo hàng loạt vật liệu nhân tạo có tác dụng nhiều mặt mà trước đây không thể biết được, chế tạo hàng loạt phương tiện kỹ thuật và quy trình công nghệ mới về chất lượng sản xuất… Cuộc chạy đua hết sức quyết liệt giữa các trung tâm hiện nay là Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản đã chứng minh phần thắng ở các nước có trình độ phát triển công nghiệp cao, có phương pháp quản lý tiên tiến khoa học, luôn luôn hiện đại hóa nền sản xuất của nước mình. Đối với các nước kém phát triển, để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và phụ thuộc vào các nước đế quốc, không có con đường nào khác là con đường phải thực hiện CNH đất nước. Họ quan niệm CNH và sự phát triển được xem như đồng nghĩa với nhau. CNH đối với các nền kinh tế nông nghiệp, xuất khẩu nguyên liệu thô, được xem là phương tiện giúp phá vỡ mối ràng buộc phụ thuộc vào các nước này phải chịu trong thời kỳ thuộc địa, giành độc lập về chính trị mới đạt được sự độc lập về kinh tế. CNH sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm đáng kể, thu hút lao động dư thừa ở khu vực nông thôn, giúp nâng cao sản lượng trên đầu người, nâng cao mức sống và nhất là CNH giúp tạo ra những thay đổi cần thiết các quan điểm về xã hội và văn hóa qua tác động “hiện đại hóa” của các công nghệ và các phương pháp tổ chức được du nhập vào… CNH được xem như là một phương tiện để đạt được một số mục tiêu về xã hội. Đối với các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô, và ngày nay như Trung Quốc, Việt Nam… sau khi giành được chính quyền, việc thực hiện CNH ngày càng được đặt ra hết sức cấp bách. Một mặt, vì hầu hết các nước đó đều có trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, cần phải được nhanh chóng xây dựng để nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng các yêu cầu giống như ở các nước kém phát triển nêu trên. Mặt khác, để đi lên CNXH đòi hỏi các nước này phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  13. - 12 - Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của KHCN, tức là nó phải tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao. Muốn vậy, tất yếu phải tiến hành quá trình CNH để tạo ra nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân XHCN. Như vậy, có thể thấy rằng sự phát triển của ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Điều này được biểu hiện cụ thể như sau: - Phát triển ngành công nghiệp sẽ làm gia tăng thu nhập quốc dân: Năng suất cao hơn trong công nghiệp tạo điều kiện nâng cao thu nhập. Do công nghiệp có thể sử dụng nhiều máy móc thay thế lao động của con người, so với các ngành khác máy móc chỉ mang tính hỗ trợ. Mặt khác, giá cả sản phẩm công nghiệp thì ổ định hơn và cao hơn ở thị trường trong và ngoài nước. - Phát triển ngành công nghiệp giúp củng cố sự ổn định thu nhập xuất khẩu và thu nhập quốc dân: Hầu hết các nước nông nghiệp thường chỉ xuất khẩu một hoặc một vài loại nông sản, và chúng được xác định bởi cung và cầu. Nguồn nông sản thường không ổn định. Khi bị mất mùa, ung giảm dẫn đến thu nhập giảm. Khi được mùa, giá hạ, thu nhập cũng giảm. Những thiếu sút như vậy của nông sản bị làm trầm trọng thêm bởi sự trao đổi bất bình đẳng của các nước công nghiệp với các nước kém phát triển. Hậu quả là các nước được khai thác như thế bị mất cân bằng cán cân thanh toán. Chi tiêu nhập khẩu vượt quá thu nhập xuất khẩu và cuối cùng, phát triển công nghiệp được xem như một giải pháp của vấn đề. - Phát triển ngành công nghiệp để trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân: Cung cấp tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, công cụ lao động) và đối tượng lao động (nguyên, nhiên liệu… ), nên công nghiệp có ý nghĩa thiết yếu đối với tăng trưởng sản phẩm của cả khu vực sản xuất lẫn dịch vụ. - Ngành công nghiệp cung cấp đại bộ phận sản phẩm tiêu dùng cho xã hội: Vì là ngành cung cấp đại bộ phận sản phẩm tiêu dùng cho xã hội nên phát triển HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  14. - 13 - công nghiệp là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế. - Ngành công nghiệp cung cấp nhiều việc làm hơn: Công nghiệp tạo nhiều việc làm nên thu hút được nhiều lao động thặng dư ở nông thôn. Phát triển công nghiệp thông qua quá trình công nghiệp hóa sẽ làm mọc thêm nhiều nhà máy, cần nhiều lao động. Nông dân trong thời kỳ nông nhàn có thể làm việc bán thời gian trong các nhà máy chế biến nông sản. - Phát triển ngành công nghiệp giúp mở rộng thị trường nguyên liệu thô ở nội địa: Các ngành công nghiệp địa phương cần nguyên liệu thô cung cấp từ nông nghiệp đi chế biến phục vụ cho tiêu dùng cá nhân và công nghiệp. Tóm lại, phát triển ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH cũng như việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước đã trở thành một quy luật tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, bất chấp chế độ chính trị khác nhau. Sự vững mạnh, phát triển hưng thịnh của mỗi quốc nước hoàn toàn phụ thuộc vào việc có thực hiện thành công công cuộc CNH hay không. Thực tiễn của các nước trên giới đã minh chứng điều đó và cũng chưa có quốc gia nào phát triển hùng mạnh mà không phải thực hiện CNH. 1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆPVÀ MÔ HÌNH, KINH NGHIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Mô hình tăng trưởng và phát triển công nghiệp 1.3.1.1. Mô hình cơ cấu chiến lược Loại 1: Chiến lược phát triển những ngành công nghiệp then chốt cơ bản. Gồm 2 nhóm ngành: - Những ngành then chốt cổ điển như: Chế tạo máy, cơ khí; luyện kim, hóa chất cơ bản; năng lượng. - Sau đó phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa, xây dựng những ngành: Điện tử, tin học; công nghệ sinh học; vật liệu xây dựng mới; năng lượng mới: nguyên tử, địa nhiệt mặt trời; tự động hóa: ropot. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  15. - 14 - Loại 2: Chiến lược phát triển cân đối, tổng thể hầu hết các ngành cần thiết. Loại 3: Chiến lược tập trung phát triển những ngành mang lại hiệu quả lớn nhất, nhanh nhất. Trên thực tế, hầu như không có một quốc gia nào thuần túy áp dụng một mô hình nào mà là có sự kết hợp Æ loại 4. Loại 4: Kết hợp giữa loại 1 và loại 3, có nghĩa là vừa xây dựng những ngành cơ bản vừa tập trung vào một số ngành có hiệu quả nhất. 1.3.1.2. Các mô hình tăng trưởng công nghiệp Mô hình 1: Mô hình tập trung sức lực của quốc gia cho các ngành công nghiệp riêng biệt trong từng giai đoạn nhất định. Loại 1: Các ngành công nghiệp giai đoạn đầu Là những ngành cung cấp hàng hóa thiết yếu cho nhân dân và sản xuất bằng quy trình công nghệ đơn giản. Loại 2: Các ngành công nghiệp giai đoạn sau Là những ngành cung cấp hàng tiêu dùng lâu bền (ô tô, tủ lạnh), hàng tư liệu sản xuất (thép, máy móc, thiết bị… ) Loại: Các ngành công nghiệp giai đoạn giữa. Là những ngành nằm giữa hai loại ngành trên là ngành sản xuất ra sản phẩm trung gian như: gỗ, da, cao su, v.v. Theo thống kê, phần tỷ lệ các ngành công nghiệp giain đoạn đầu trong GNP tăng lên ở những nước có thu nhập tính theo đầu người thấp nhưng khi thu nhập tính theo đầu người rất thấp thì tỷ lệ này không tăng lên nữa mà dừng lại rồi giảm xuống. Phần tỷ lệ của các ngành công nghiệp giai đoạn sau trong GNP tiếp tục tăng khi thu nhập tính theo đầu người ở mức cao. Mô hình này có nhược điểm là việc phân loại chỉ có tính tương đối, khó xác định một sản phẩm thuộc nhóm ngành nào. Ngoài ra, tỷ lệ các ngành công nghiệp riêng biệt trong GNP của một nước được xác định bởi tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm buôn bán ngoại thương và nhiều yếu tố khác nữa. Mô hình 2: Sự phát triển cân đối và không cân đối. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  16. - 15 - - Các nhà kinh tế như Rognar Nurkse và Paul Rosensten ủng hộ mô hình phát triển cân đối cho rằng các nước cần phải phát triển nhiều ngành công nghiệp đồng thời nếu như muốn đạt được sự tăng trưởng kinh tế. - Các nhà kinh tế như Albert Hirschman ủng hộ sự phát triển không cân đối cho rằng các quốc gia có thể và cần thiết tập trung sức lực của mình vào một số ít ngành, các khu vui chơi trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào một số ít ngành trong một thời gian dài thì có thể không đủ để phát triển. Mô hình 3: Sự kết hợp phía trước và phía sau. Các ngành công nghiệp có sự kết hợp phía sau là những ngành công nghiệp sử dụng đầu vào từ các ngành công nghiệp khác. Các ngành công nghiệp có sự kết hợp phía trước là các ngành công nghiệp mà các sản phẩm của nó sau đó được trở thành đầu vào của các ngành công nghiệp khác. Cả hai sự kết hợp phía trước và phía sau sẽ dẫn đến nhu cầu xây dựng những ngành công nghiệp mới và các ngành này lại tạo ra các nhu cầu mới nữa và cứ thế tiếp tục. Không có mô hình chung về CNH cho tất cả các quốc gia, tuy nhiên các phân tích định hướng cho thấy rằng có một số các mô hình tương đối giống nhau giữa các nhóm lớn các quốc gia. 1.3.2. Mô hình về công nghiệp hóa Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, quá trình CNH có những nét đặc trưng khác nhau, từ đó hình thành các mô hình CNH trên thế giới. 1.3.2.1. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu Đây là mô hình CNH đầu tiên trong lịch sử, được gọi là mô hình CNH cổ điển, nó diễn ra vào giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, đầu tiên ở nước Anh rồi được mở rộng sang nước Pháp và lan tỏa, phát triển sang các nước Đức, Nga và Mĩ. Nhờ tiến hành CNH, các nước này đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế, chuyển từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp. Mô hình CNH cổ điển có những đặc trưng cơ bản sau: HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  17. - 16 - - Tiền đề cho sự xuất hiện và phát triển là cuộc cách mạng trong nông nghiệp. Những thay đổi trong kỹ thuật và tổ chức trong sản xuất nông nghiệp đã tạo ra năng suất lao động cao và tăng nhanh sản lượng nông nghiệp. Nhờ đó đã làm cho cung về nông sản và cầu về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp tăng lên, cho phép giải phóng một bộ phận lao động trong nông nghiệp sang làm việc trong công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp khác, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng hóa và thị trường phát triển. - Quá trình CNH diễn ra một cách tuần tự theo tiến trình: công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận tải, nông nghiệp, dịch vụ và lưu thông. - Quá trình CNH diễn ra từ từ, chậm chạp với khoảng thời gian hàng trăm năm, diễn ra như một quá trình lịch sử tự nhiên, theo các bước đi có tính tuần tự. 1.3.2.2. Mô hình công nghiệp hóa ở Liên Xô (trước đây) Mô hình CNH ở Liên Xô (trước đây) diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Là nước XHCN đầu tiên trên thế giới, Liên Xô tiến hành CNH trong vòng vây của CNTB, trong điều kiện CNTB đã có nền công nghiệp hùng mạnh và luôn muốn tiêu diệt CNXH bằng quân sự. Do đó, CNH ở Liên Xô thời bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác thành tựu của các nước đi trước và tranh thủ công nghệ của nước ngoài. Đặc điểm khác biệt của CNH ở Liên Xô là: tiến hành trên một đất nước có diện tích rộng, tài nguyên phong phú, dân số khá lớn, KHCN đã đạt trình độ tương đối khá nên nhờ vậy mà Liên Xô đã thực hiện CNH thành công trong điều kiện bị CNTB bao vây và âm mưu tiêu diệt. CNH ở Liên Xô (trước đây) có những đặc trưng cơ bản sau: - CNH trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. - Lấy ưu tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng ngay từ thời kỳ đầu của quá trình CNH. - Quá trình CNH diễn ra trong một thời gian rất ngắn, chỉ trong khoảng 15 năm. Tuy nhiên, đó mới chỉ là thời gian để hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ CNH. HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  18. - 17 - CNH ở Liên Xô trước đây không chỉ là tất yếu về mặt kinh tế mà còn tất yếu về quốc phòng. Việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu, một mặt đã nhanh chóng làm cho Liên Xô trở thành nước công nghiệp hùng mạnh, tự trang bị cho nền kinh tế quốc dân những máy móc thiết bị cần thiết và củng cố nhanh chóng tiềm lực quốc phòng. Mặt khác, do phải ưu tiên cho công nghiệp nặng trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp nên phải cắt giảm vốn đầu tư cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, khiến cho lĩnh vực này chậm phát triển, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. 1.3.2.3. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước NICs Các nước và vùng lãnh thổ là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore được gọi là các nước CNH mới (NICs) thuộc thế hệ thứ nhất ở Đông Á, đã tạo nên những nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chưa từng thấy. Thời gian cho quá trình CNH ở những quốc gia và vùng lãnh thổ này khoảng 30 năm. Những nước mới CNH châu Á nói trên vốn xuất phát từ một nền nông nghiệp. Trong cơ cấu chung của nền kinh tế, ngành nông nghiệp thường chiếm tới 75% lao động và trên 30% GDP. Nhìn một cách tổng quát, quá trình CNH ở các nước NICs trải qua hai giai đoạn: - Tạo tiền đề cho CNH. Ở giai đoạn này các nước NICs tạo ra các đột phá trong nông nghiệp, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu. - Giai đoạn CNH. Giai đoạn này được thực hiện tăng tốc qua các yếu tố về chuyển dịch cơ cấu kinh tế (giảm nhanh tỷ troïng nông nghiệp trong GDP), duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế ở mức cao, thực hiện chính sách thuận lợi cho sự phát triển các công nghệ hiện đại, đảm bảo cho nền giáo dục - đào tạo phát triển vững vàng, gắn liền CNH với HĐH. Chỉ trong vòng 30 năm các nước NICs đã trở thành những nước phát triển, họ đã lợi dụng những cơ hội tốt để “đi tắt, đón đầu” thông qua tiếp nhận công nghệ, tiến thẳng vào công nghệ hiện đại. Trong quá trình CNH, các nước NICs đã có những bước đi thích hợp: lúc đầu là nhập công nghệ, thích nghi và cải tiến chúng dựa trên sự vận HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  19. - 18 - dụng các thành tựu KHCN của thế giới và phát triển KHCN trong nước, tiếp theo là xây dựng năng lực công nghệ quốc gia nhờ phát triển năng lực nội sinh về KHCN để tiến tới sáng tạo công nghệ và xuất khẩu công nghệ. Nhìn chung, các nước NICs đều thiếu tài nguyên thiên nhiên và đất đai tính theo đầu người rất thấp nên quá trình CNH của các nước này có đặc điểm chung là các chính sách đều nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, hướng về xuất khẩu và đặc biệt là rất coi trọng đầu tư vào nguồn nhân lực nên đã đạt được những thành tựu rất lớn trong giáo dục, có nguồn lao động được đào tạo tương đối tốt, có kỷ luật và có khả năng thích nghi tốt. Lúc đầu, các nước NICs đều thực hiện CNH theo chiến lược “thay thế nhập khẩu”, sau đó từ những năm 60 của thế kỷ XX họ chuyển sang chiến lược “hướng về xuất khẩu”. Nhờ đó đã khai thác được tối đa các nguồn lực trong nước và các điều kiện thuận lợi ở bên ngoài của thời đại. 1.3.2.4. Mô hình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN Năm 1967 Hiệp hội các nước Đông Nam Á viết tắt là ASEAN được thành lập ban đầu gồm 5 nước: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Sau đó gia nhập thêm các quốc gia: Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanma (1997), Campuchia (1999). CNH ở các nước ASEAN tiến hành trong điều kiện ít nhiều khác với các nước NICs. Các nước này trước kia đều là thuộc địa của các nước tư bản phát triển nên họ muốn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ sau khi giành độc lập. Mặt khác, so với các nước NICs, các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú hơn. Ở thời kỳ đầu CNH, các nước này đã đi theo chiến lược “thay thế nhập khẩu” với đặc trưng là sản xuất và trao đổi hàng hóa chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Thực tế cho thấy chiến lược này không phù hợp, kém hiệu quả nên họ đã chuyển sang chiến lược “hướng về xuất khẩu”, thực chất là giải pháp “mở cửa” để cho phép khai thác các lợi thế so sánh trong nước và việc khai thác các điều kiện thuận lợi bên ngoài, nhờ vậy mà chiến lược này đã được thực hiện thắng lợi ở các nước NICs. Trong quá trình CNH, các nước ASEAN rất chú ý đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vì đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng cho sự phát HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
  20. - 19 - triển kinh tế, đi cùng với FDI là kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng mở rộng thị trường, v.v. Tuy nhiên, vấn đề là phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, khắc phục tính lệ thuộc, chủ động trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp và ngăn chặn những tác động tiêu cực. Bên cạnh đó, các nước này cũng rất chú ý đến công nghiệp hướng về xuất khẩu, đặc biệt rất chú ý phát triển loại xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ, và đó là xu hướng đã được nhiều nước ứng dụng vì nó có nhiều ưu điểm như lượng vốn đầu tư ít, thu hồi vốn nhanh, ứng dụng tiến bộ KHCN mới nhanh, thích ứng linh hoạt với biến động của thị trường, quan hệ chủ và thợ thân thiện hơn, v.v. Còn một đặc điểm nổi bật nữa trong quá trình CNH ở các nước ASEAN là họ quan tâm đặc biệt tới giáo dục văn hóa, truyền thống và giáo dục hướng nghiệp cho người lao động. Ngoài ra, họ còn có chính sách khuyến khích, kêu gọi các nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, v.v. đang ở nước ngoài về nước làm việc với chế độ đãi ngộ cao. Họ cũng có chính sách “nhập khẩu” các chuyên gia, kỹ sư giỏi của nước ngoài để sử dụng chất xám của họ. Hơn nữa, họ cũng rất chú ý đến vai trò điều tiết của Nhà nước. Sự điều tiết của Nhà nước nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và công bằng giữa các dân tộc; quản lý vốn đầu tư, can thiệp vào ngoại thương và bảo hộ ngành công nghiệp chế tạo nội địa; can thiệp vào thị trường lao động, thị trường vốn, quy định giá cả một số mặt hàng thiết yếu để chống độc quyền, v.v. 1.3.3. Một số kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước Trong quá trình CNH, HĐH của nước ta, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các ước khác là rất quan trọng (cả kinh nghiệm thành công và không thành công), rất cần thiết cho con đường CNH “rút ngắn”. 1.3.3.1. Chuyển giao công nghệ Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần cứng (máy móc, thiết bị) và phần mềm (quy trình, phương pháp công nghệ…) từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực chất, công nghệ được chuyển giao là một thứ hàng hóa. Kinh nghiệm của các nước thực hiện chuyển giao công nghệ (Nhật Bản, các nước NICs, ASEAN, v.v. ) cho thấy các nước tiến hành CNH gắn liền với HĐH qua HVTH: Huỳnh Mộng Nghi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1