Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
lượt xem 7
download
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những thành công và hạn chế của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của nhóm nước ASEAN-5, có sự so sánh giữa các nước với nhau để thấy rõ hiệu quả chính sách kinh tế của từng nước. Từ việc rút ra những yếu tố dẫn đến thành công và hạn chế về chất lượng tăng trưởng của ASEAN-5, luận văn sẽ rút ra những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ 1.1 Khái niệm chung về chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế 7 1.2 Những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế 1.2.1 Tiêu chuẩn về năng suất 10 1.2.2 Tiêu chuẩn về phúc lợi xã hội 13 1.2.3 Tiêu chuẩn về ổn định kinh tế và phát triển bền vững 18 1.2.4 Tiêu chuẩn về thể chế chính phủ 26 1.3 Vai trò của việc đảm bảo chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế 1.3.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng 27 kinh tế 1.3.2 Vai trò của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong 29 quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế CHƢƠNG 2: CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC NƢỚC ASEAN-5 2.1 Tình hình tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc ASEAN-5 32 2.2.1 Tăng trưởng kinh tế nhanh và đạt tốc độ cao liên tục trong giai 32 đoạn trước khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 2.2.2 Tác động của khủng hoảng tài chính năm 1997 đối với tăng 37 trưởng kinh tế ở ASEAN-5 và sự phục hồi nhanh hơn dự đoán 2.2 Thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế của các nƣớc ASEAN-5 2.2.1 Thành công và hạn chế trong nâng cao năng suất lao động 40 2.2.2 Thành công và hạn chế trong vấn đề xóa đói giảm nghèo và cải 43
- thiện phúc lợi xã hội 2.2.3 Thành công và hạn chế trong vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô và 49 phát triển bền vững 2.2.4 Thành công và hạn chế trong vấn đề đổi mới thể chế chính phủ, 58 ổn định chính trị - xã hội 2.3 Những nguyên nhân dẫn đến thành công và hạn chế về chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc ASEAN-5 2.3.1 Nguyên nhân dẫn đến thành công 62 2.3.2 Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 70 CHƢƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM ASEAN-5 TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CHO VIỆT NAM 3.1 Mục tiêu tăng trƣởng và phát triển ở Việt Nam 3.1.1 Quan điểm của Đảng và chính phủ về tăng trưởng và phát triển 78 kinh tế 3.1.2 Chỉ tiêu tăng trưởng và phát triển ở Việt Nam. 82 3.2 Thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay 3.2.1 Thực tế tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua 84 3.2.2 Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được nâng cao 88 3.2.3 Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế 94 3.3 Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm ASEAN-5 3.3.1 Bài học về tăng trưởng kinh tế nhanh gắn liền với nâng cao chất 104 lượng tăng trưởng kinh tế 3.3.2 Bài học về vai trò của chính phủ trong việc nâng cao chất lượng 106 tăng trưởng kinh tế KẾT LUẬN 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT AFTA Khu vực thương mại tự do ASEAN ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam á FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GDP Tổng sản phẩm quốc nội GINI Hệ số đo bất bình đẳng về thu nhập GNP Tổng sản phẩm quốc dân HDI Chỉ số phát triển con người NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới PPP Phương pháp đồng giá sức mua R&D Nghiên cứu và triển khai TFP Năng suất lao động tổng nhân tố WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, nhiều học giả khoa học trong và ngoài nước cũng những nhà hoạch định chính sách và độc giả quan tâm đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đều đặt ra vấn đề: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng có thực sự bền vững hay không? Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997, nhiều nước ASEAN dường như đã làm tiêu tan sự thần kỳ kinh tế của mình trong mấy thập kỷ công nghiệp hóa bởi sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, ô nhiễm môi trường nặng nề, bất ổn định xã hội triền miên, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giảm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sa sút. Còn ở Việt Nam, sau hơn một thập kỷ thực hiện chính sách "Đổi mới" với những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nổi bật, nền kinh tế cũng đang phải đối phó với vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế chậm chuyển đổi, nghèo khổ có xu hướng gia tăng, thất nghiệp tràn lan, giáo dục không theo kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế, tham nhũng hoành hành, ô nhiễm môi trường... Sự giảm sút về chất lượng tăng trưởng ở một số nước ASEAN sau khủng hoảng đã bộc lộ chiến lược phát triển kinh tế còn nhiều khiếm khuyết của các chính phủ. Thực tế cho thấy ở những nước có chiến lược phát triển kinh tế hợp lý hơn (như Singapo, Malaixia, Thái Lan), tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước đó cũng nhanh hơn, ổn định hơn và chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng tốt hơn. Trái lại, ở những nước không có chiến lược phát triển kinh tế hợp lí, chỉ dựa vào xuất khẩu nguyên liệu thô (như dầu khí...) và tận dụng lao động ít được đào tạo, thể chế chính trị mang tính bè phái ...như Inđônêxia và Philippin, tăng trưởng kinh tế của các nước đó thường không cao và bất ổn định, chất lượng tăng trưởng thấp. Tựu chung lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế có liên quan mật thiết đến chất lượng tăng trưởng kinh tế và ngược lại.
- 2 Sự khác biệt trong sử dụng chính sách thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước ASEAN sẽ quyết định thành công của mỗi nước trong chất lượng tăng trưởng. Đó là bài học kinh nghiệm quý giá cho các nước công nghiệp hóa đi sau, trong đó có Việt Nam. Chiến lược "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và vững bước đi lên" (Trích báo cáo chính trị tại Đại hội đảng lần thứ VIII) của chính phủ Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu nhưng cũng tồn tại rất nhiều khó khăn cần giải quyết. Do vậy, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước ASEAN là rất cần thiết để Việt Nam tránh được những bước phát triển sai lầm hoặc không cần thiết. Xuất phát từ những thực tế trên và với kiến thức đã được học, đề tài "Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" sẽ mang tính thiết thực và bổ ích giúp Việt Nam thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay, nhiều học giả trong và ngoài nước có các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở trong nước, trước hết phải kể đến các tác phẩm "Chất lượng tăng trưởng kinh tế: nhìn từ Đông Á" do Trần Văn Tùng chủ biên, nhà xuất bản Thế giới 2003. Tác phẩm này đã đánh giá chất lượng tăng trưởng của 4 quốc gia Châu Á là Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia và rút ra những bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó, các tác phẩm "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội" do Nguyễn Trần Quế chủ biên (Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1998); “Phân hóa giàu nghèo ở một số quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” (Nhà xuất bản khoa học xã hội 1998) cũng nêu lên mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, nguyên nhân và các biện pháp khắc phục những hậu quả của tăng trưởng kinh tế. Trong các bài báo, tạp chí, các bài "Nhận dạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường" (Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1999); "Chiến lược tài chính giải quyết mối quan hệ giữa
- 3 tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội" (Tạp chí Tài chính số 10/1999), "Công nghiệp hóa và môi trường tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương" (tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2/1999)... cũng nêu lên mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế, giải quyết giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, những tồn tại và biện pháp khắc phục ở một số nước Châu Á trong đó có các nước ASEAN. Trong các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, cần phải kể đến những tác phẩm: "Kinh tế học của sự phát triển" của Gillis.M và Perkins.D.H.,(1990); "Growth and Development" của Thirlwall A.P.(1994); "Perspectives on Development" của World Bank (2001)... Các công trình nghiên cứu trên đưa ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng, tác động của tăng trưởng đối với vấn đề giải quyết việc làm, dinh dưỡng, bệnh tật, phúc lợi cho con người. Đánh giá về những thành tựu và hạn chế trong chất lượng tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN-5 có các tác phẩm tiêu biểu như: “Why have East Asian Countries led Economic Development” của Helen Hughes ( Economic Record, 1995) nói lên những thành tựu về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế của một số nước Châu á; “Indonesia: The Strange and Sudden Death of a Tiger Economy” của Hal Hill (2000) phản ảnh về những yếu kém trong chất lượng tăng trưởng kinh tế của Inđônêxia sau khủng hoảng 1997 do sai lầm chính sách từ phía chính phủ; “Anatomy of Poverty during Adjustment: The Case of the Philippines” của Arsenio M. Balisacan (1995), phản ánh sự kém hiệu quả của chính sách xóa đói giảm nghèo của chính phủ Philippin; “The Dimensions of Environmental Change and Management in the South East Asian Region” của Harold Brookfield (1993) phản ánh những vấn đề về bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế của các nước Châu á trong đó có các nước ASEAN-5. .. Ngoài ra, những ấn phẩm của Ngân hàng thế giới và UNDP hàng năm cũng cung cấp những số liệu cập nhật về các chỉ số kinh tế - xã hội thay đổi theo từng năm của từng nước ASEAN. Tình hình nghiên cứu từ trước đến nay cho thấy chủ yếu các tác phẩm đều đi vào phân tích các vấn đề chung cũng tăng trưởng kinh tế, mối quan hệ
- 4 giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tác động của công nghiệp hóa đến phân hóa giàu nghèo, phát triển nguồn nhân lực, dịch vụ y tế xã hội, những thách thức đối với sự phát triển kinh tế bền vững. Chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào phân tích đầy đủ các khía cạnh của chất lượng tăng trưởng kinh tế, so sánh mức độ thành công và thất bại của các nước ASEAN-5 trong việc thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là chưa đưa ra những bài học kinh nghiệm cụ thể và đầy đủ cho Việt Nam. Do vậy, với việc nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN-5, luận văn sẽ góp phần đánh giá một cách đây đủ và hệ thống chất lượng tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN-5 và rút ra các bài học kinh nghiệm quý báu và thiết thực nhất cho Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những thành công và hạn chế của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của nhóm nước ASEAN-5, có sự so sánh giữa các nước với nhau để thấy rõ hiệu quả chính sách kinh tế của từng nước. Từ việc rút ra những yếu tố dẫn đến thành công và hạn chế về chất lượng tăng trưởng của ASEAN-5, luận văn sẽ rút ra những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể sau: - Những nguồn lực và nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nước ASEAN-5 trong thời gian qua. - Phân tích mối quan hệ và hệ quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở các nước ASEAN-5. - Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế sau khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở các nước ASEAN-5 và phản ứng chính sách của các chính phủ. - Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
- 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đánh giá chất lượng tăng trưởng của 5 nước ASEAN: Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào phân tích đánh giá các tiêu chuẩn đạt được về năng suất lao động, phúc lợi xã hội, môi trường, thể chế ở các nước ASEAN-5. Gắn liền với các tiêu chuẩn đó là các nhân tố phát triển các nguồn lực (lao động, công nghệ, vốn), chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiệu quả của đồng vốn đầu tư, các chính sách phân phối thu nhập và cải thiện mức sống của dân cư, cơ sở hạ tầng, tình trạng tham nhũng... Về thời gian, luận văn tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ 1970 cho đến nay, nghĩa là khi các nước ASEAN-5 bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Đặc biệt luận văn sẽ chú trọng phân tích hai giai đoạn nhỏ: trước khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 và từ sau khủng hoảng đến nay. Đối với Việt Nam, thời gian nghiên cứu để áp dụng kinh nghiệm của các nước ASEAN-5 sẽ được tính từ năm 1986, sau khi thực hiện chính sách "Đổi mới" kinh tế. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Ngoài các phương pháp sử dụng trong khoa học xã hội và trong kinh tế học như quy nạp, duy vật biện chứng..., luận văn sẽ sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích kinh tế để tìm ra những căn cứ, số liệu minh họa. Bên cạnh đó, trong luận văn sẽ sử dụng các phương pháp phân kỳ, nghiên cứu so sánh nhằm tìm ra những nét đặc thù giữa các nước, giữa các giai đoạn. 6. Những đóng góp mới của luận văn
- 6 Tác giả hy vọng luận văn sẽ có những đóng góp cơ bản sau: Thứ nhất, tóm tắt, đánh giá các lý thuyết chủ yếu về tăng trưởng kinh tế, những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế, mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, hệ thống hóa một cách có chọn lọc những công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam và học giả nước ngoài về tăng trưởng kinh tế, chất lượng tăng trưởng kinh tế, những vấn đề liên quan đến việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và bài học rút ra cho Việt Nam. Thứ ba, nghiên cứu những mặt được, mặt chưa được của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở ASEAN-5, từ đó nêu ra nguyên nhân và các giải pháp khắc phục. Thứ tư, nêu lên thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay và đánh giá những kinh nghiệm rút ra từ chất lượng tăng trưởng kinh tế ở ASEAN-5. Thứ năm, cung cấp những chỉ số, tài liệu, số liệu cập nhật và đầy đủ nhất về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở ASEAN-5 và một danh mục tài liệu tham khảo phong phú liên quan đến đề tài. 7. Kết cấu luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.: Chương 1: Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế Chương 2: Chất lượng tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN-5 thời gian qua Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt nam
- 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ Chất lượng tăng trưởng kinh tế là một nội dung trong kinh tế học phát triển. Để hiểu rõ khái niệm này, trước hết phải bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm “tăng trưởng kinh tế”. Theo kinh tế học phát triển [8], tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm theo hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Nó được tính bằng mức tăng bình quân tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tốc độ tăng trưởng kinh tế thể hiện trực tiếp trình độ mở rộng quy mô sản lượng đầu ra và có quan hệ phụ thuộc vào sự tăng lên của quy mô sử dụng các nguồn đầu vào. Theo nghĩa này, tăng trưởng kinh tế biểu hiện về mặt số lượng của quá trình phát triển kinh tế. Theo nghĩa thứ hai, tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn cả về mặt lượng và mặt chất. Về mặt lượng, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ra ở quy mô, trình độ, tốc độ, nhịp điệu của sự gia tăng sản lượng và quy mô kinh tế. Về mặt chất lượng, tăng trưởng kinh tế chính là sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội thường được đo bằng các tiêu chí như năng suất lao động; hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng là vốn, lao động, tài nguyên, đất đai; đổi mới khoa học công nghệ, phát triển nguồn lực con người; giải quyết bất bình đẳng xã hội; phát triển cân đối ngành, vùng… Nói cách khác, chất lượng tăng trưởng kinh tế chính là tính quy định vốn có của nó, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho hiện
- 8 tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện tượng khác. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được quy định bởi chất của các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành tạo nên tăng trưởng kinh tế. Về các yếu tố cấu thành của sự tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế học đều cho rằng nó gồm ba yếu tố: công nghệ, vốn vật chất và lao động. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thời đại vai trò của các yếu tố này trong quá trình sản xuất cũng có sự thay đổi theo. Các nhà kinh tế học của trường phái cổ điển đều nhấn mạnh đến yếu tố đất đai, lao động và vốn, trong đó đất đai được đánh giá là một yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế. David Ricardo (1972-1823) cho rằng: tăng trưởng là kết quả của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó, đất đai là giới hạn đối với tăng trưởng. Trong mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế, Harrod - Domar ở thập kỷ 40 của thế kỷ XX đã xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu về vốn. Họ cho rằng vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng và tiết kiệm của nhân dân và của các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Ở đây, hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn - đầu ra) được đưa ra nhằm phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và đo năng lực sản xuất của đầu tư. Họ đã đưa ra kết luận rằng chỉ bằng cách tăng nhanh tỷ lệ tiết kiệm (tức là đầu tư lớn hơn) nền kinh tế mới tăng trưởng nhanh. Đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Nhà kinh tế học Robert Solow (đoạt giải Nobel năm 1987) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công nghệ. Ông cho rằng tiết kiệm và đầu tư chỉ tạo nên sự tăng trưởng ngắn hạn và tỷ lệ tăng trưởng dài hạn phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ. Đầu tư vốn vật chất không phải là nguồn lực của sự tăng trưởng dài hạn và sự tăng trưởng bền vững nhất sẽ phụ thuộc vào trình độ công nghệ để nâng cao năng suất lao động. Robert Solow đưa ra kết luận: sự khác biệt trong mức thu nhập bình quân giữa các nước là do tỷ lệ tiết kiệm và tốc độ phát triển dân số khác nhau. Công nghệ là một yếu tố ngoại sinh và khẳng định tốc độ tăng trưởng kinh tế dài hạn của một quốc gia phụ thuộc vào yếu tố ngoại sinh này.
- 9 Tuy nhiên, trên thực tế, tiến bộ công nghệ không thể tự nhiên có mà do con người tạo ra thông qua một quá trình nghiên cứu và đổi mới liên tục. Giữa những năm 1980, các nhà kinh tế học đã nỗ lực xây dựng các mô hình tăng trưởng nhấn mạnh rằng tăng trưởng kinh tế là hệ quả nội sinh của một hệ thống kinh tế. Những mô hình này được gọi là tăng trưởng nội sinh (endogenous growth). Trọng tâm của các mô hình này là nhằm nội tại hóa các biến “ngoại sinh” của mô hình Solow - đó chính là tiến bộ khoa học công nghệ. Các mô hình này tập trung vào hai nguyên nhân đưa tới sự tiến bộ công nghệ: tích lũy vốn nhân lực và hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D). Một mặt, họ coi R&D đóng vai trò tiên quyết trong quá trình sáng chế và đổi mới mà nhờ đó nền kinh tế thu được những sản phẩm và công nghệ mới có chất lượng cao hơn. Mặt khác, sự tích lũy vốn nhân lực chính là quá trình qua đó nâng cao kỹ năng đem lại lợi ích cho bất kỳ một hoạt động sản xuất hay sáng tạo nào, trong đó có R & D. Romer (1986), dựa trên ý tưởng của Arrow (1962) về quá trình học hỏi qua thực tế triển khai (learning by doing) và các hiệu ứng phụ (spillover effects), đã chỉ ra rằng các hoạt động đổi mới (cụ thể là kỹ năng làm việc của công nhân) sẽ diễn ra trong quá trình sản xuất và sau đó là thông qua đầu tư. Mặt khác, Lucas (1988) nhấn mạnh rằng tích lũy vốn nhân lực không chỉ diễn ra trong quá trình sản xuất, mà chủ yếu thông qua giáo dục và đào tạo. Do đó, sự tăng trưởng của một nền kinh tế cũng phụ thuộc vào việc từng cá nhân phân bổ thời gian vào làm việc và tăng cường tích lũy vốn nhân lực của mình như thế nào. Vào những năm 1990, xuất phát từ quan điểm cho rằng học hỏi kiến thức chỉ có thể xảy ra khi những kiến thức cơ bản chủ đạo đã được đào tạo ở đâu đó, các mô hình về tăng trưởng nội sinh trên cơ sở R&D (R & D – based endogenous growth) đã ra đời. Các mô hình này đều dựa trên động cơ cá nhân là nhằm thu lợi nhuận từ việc độc quyền sở hữu sáng chế hoặc cải tiến đổi mới của mình và sự đổi mới đó chính là động lực cho tăng trưởng. Các mô hình này cũng khẳng định rằng R & D là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng.
- 10 Từ sự phân tích trên đây, có thể đi đến một cách hiểu cơ bản về khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá là một khái niệm kinh tế dùng để chỉ tính ổn định của trạng thái bên trong vốn có của quá trình tăng trưởng kinh tế, là tổng hợp các thuộc tính cơ bản hay đặc trưng tạo thành bản chất của tăng trưởng kinh tế trong một hoàn cảnh và một giai đoạn nhất định. Nó bao gồm các yếu tố như chất lượng của nguồn lực lao động, trình độ kỹ thuật và công nghệ để khai thác nguồn lực sẵn có nhằm tạo nên năng suất lao động cao hơn và nền kinh tế phát triển đem lại phúc lợi xã hội cao hơn, môi trường được bảo vệ tốt hơn... Khác với chất lượng tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh mặt ngoài của quá trình tăng trưởng, thể hiện mức độ lớn nhỏ, nhanh, chậm của việc mở rộng quy mô của nền kinh tế. Chất lượng tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ qua lại và thống nhất với nhau. Trong quá trình phát triển kinh tế, việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế phải đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, điều đó mới tạo nên sự phát triển kinh tế bền vững. Tóm lại, chất lượng tăng trưởng kinh tế là một khái niệm tổng hợp bao gồm nhiều thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Để đưa ra những thuộc tính mang tính chất đặc trưng nhất phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng thế giới (WB), chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như G.Becker, R.Lucas, Amartya Sen, J.Stiglitz… đã đưa ra 4 tiêu chuẩn chính: 1) Năng suất lao động tổng nhân tố (TFP) cao, đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động kinh tế từ bên ngoài. 2) Tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với phát triển môi trường bền vững. 3) Tăng trưởng kinh tế phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo. 4) Tăng trưởng kinh tế cần phải kết hợp với việc đổi mới thể chế chính phủ để có thể thúc đẩy tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn. 1.2. NHỮNG TIÊU CHUẨN CƠ BẢN ĐỂ ĐÁNH GIÁ CHẤT
- 11 LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ 1.2.1. Tiêu chuẩn về năng suất Những lý luận trên đây về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế cho thấy nguồn gốc của tăng trưởng do nhiều yếu tố tạo thành và vai trò của mỗi yếu tố phụ thuộc vào từng hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mỗi nước. Đối với các nước nghèo, vốn vật chất có vai trò quan trọng. Đối với các nước công nghiệp thì vai trò của TFP lại quan trọng hơn. Theo Robert Solow, hệ số năng suất lao động tổng nhân tố (TFP) là tổng hợp của các yếu tố như sự thay đổi công nghệ, tăng trưởng kỹ năng sản xuất, vốn nhân lực và các yếu tố khác liên quan tới tăng trưởng kinh tế. Hệ số TFP càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng tốt và năng suất lao động càng cao. Nhiều nghiên cứu cho rằng, các nước đang phát triển cần không ngừng tăng cường hiệu quả sử dụng vốn về kích thích động cơ tăng trưởng GDP nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tích lũy tư bản truyền thống là nhân tố nội tại quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế và điều này đã được hầu hết các lý thuyết kinh tế đề cập đến. Đầu tư có thể đưa đến những thay đổi to lớn trong sản xuất, làm tăng năng suất và sản lượng, cải tiến cơ sở hạ tầng và phục vụ tốt hơn cho công tác nghiên cứu và triển khai. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, ảnh hưởng của các yếu tố khác như thay đổi trình độ giáo dục đào tạo, đổi mới công nghệ đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất lao động, mặc dù vẫn có sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong những giai đoạn trước, các nhà kinh tế học tân cổ điển đã thành công trong lập luận và chứng minh tầm quan trọng của quy mô dân số nói chung và lực lượng lao động đông đảo nói riêng với kỹ năng sản xuất giản đơn trong việc quyết định tăng trưởng GDP. Ngay cả trong thời gian gần đây, một số tác giả vẫn cho rằng với sự gia tăng dân số (do cả nguyên nhân tự nhiên và các hiện tượng di cư, nhập cư…) sẽ càng có nhiều người tăng cường đầu tư sức lực vào các hoạt động khoa học. Các hoạt động này sẽ tạo ra nhiều hơn các đổi mới công nghệ, làm gia tăng kiến thức, kỹ năng và năng suất, tạo nên tác động lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế và dẫn tới tăng trưởng GDP cao hơn.
- 12 Tuy nhiên, trên thực tiễn cho thấy sự gia tăng dân số không nhất thiết đem lại sự tăng trưởng GDP. Sự tham gia của lao động phổ thông trong quá trình sản xuất ở các nước đang phát triển đem lại những hiệu quả tăng trưởng rất hạn chế. Giáo dục phổ thông vẫn chủ yếu phản ánh quy mô lao động ở trình độ thấp trong nền kinh tế, mà theo các lý thuyết tăng trưởng nội sinh thì lao động trình độ cao mới đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng GDP. Lợi ích của việc đầu tư nguồn nhân lực trong tăng trưởng TFP được nhiều lý thuyết tăng trưởng đề cập. Các công trình nghiên cứu về kinh tế học nhân lực có liên quan đến tăng trưởng TFP đều khẳng định lợi ích của việc đầu tư nguồn nhân lực bởi các luận điểm sau: - Đầu tư nguồn nhân lực ở trình độ giáo dục cao hơn giúp các quốc gia tiếp cận được các hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật cao, tiếp thu hiệu quả sự chuyển giao công nghệ nước ngoài và sản sinh những công nghệ mới. Việc tập trung cho đào tạo nguồn nhân lực trong các ngành khoa học kỹ thuật sẽ giúp các nước đẩy nhanh quá trình tăng năng suất lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. - Đầu tư nhằm nâng cao chất lượng giáo dục sẽ có vai trò quan trọng hơn trong phát triển công nghệ bởi nó tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng cao, tạo nên năng lực đổi mới, vận dụng công nghệ phù hợp với điều kiện trong nước, tránh được những rủi ro trong quá trình đổi mới công nghệ. - Đầu tư nguồn nhân lực chất lượng cao phải bắt nguồn từ việc ưu tiên cho việc phổ cập giáo dục cơ sở, để từ đó tạo nên một lực lượng lao động có giáo dục và có kỹ năng cao hơn, tạo điều kiện cho việc mở rộng giáo dục bậc cao. Lợi ích của việc phát triển khoa học công nghệ trong việc gia tăng TFP cũng là rất rõ ràng. Mô hình Solow đã chứng minh sự thay đổi công nghệ đã làm mở rộng sản xuất ở nước Mỹ ở mức độ rất lớn nhờ tăng nhanh năng suất lao động. Mô hình này được nhiều nước châu Á ủng hộ trong việc nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài để bù đắp những thiếu hụt và lạc hậu công nghệ trong nước. Nhờ tập trung tiếp thu và phát triển công nghệ, nhiều nước mới công nghiệp hóa đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong các lĩnh vực: +) tạo nên sự tăng trưởng nhanh về vị trí quan trọng tương đối của các doanh nghiệp lớn
- 13 đang sử dụng công nghệ hiện đại và sự giảm sút tương ứng của các doanh nghiệp thủ công nhỏ (cũng như trong nông nghiệp và khu vực phi chính thức); và +) tạo nên sự chuyển hướng mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất theo ngành, từ nông sản và các sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động sang các hàng hóa ngày càng phức tạp và công nghệ cao hơn. Tuy nhiên, để có sự dịch chuyển nhanh chóng trong cả hai lĩnh vực như trên, cần phải có một mối quan hệ khăng khít giữa đầu tư và đổi mới công nghệ. Ở các nước đang phát triển, việc tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ thường thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nhập khẩu mua bán công nghệ nhằm mục đích nâng cao năng suất và mở rộng quy mô sản xuất. Các công trình nghiên cứu kinh tế học đều chứng minh rằng muốn khai thác hiệu quả công nghệ toàn cầu, các nước đang phát triển cũng cần phải đầu tư nhiều hơn cho hoạt động R&D bằng những cơ chế khuyến khích khác nhau như khuyến khích đầu tư R & D bằng nguồn tài chính tư nhân, bằng sự liên kết giữa các trường đại học và các ngành công nghiệp, bằng hình thức đầu tư mạo hiểm… Trong vấn đề tăng nhanh TFP, giữa giáo dục và khoa học công nghệ có sự tác động qua lại rất khăng khít. Thực tế cho thấy, các nền kinh tế mới công nghiệp hóa của châu Á có đặc điểm là có được một lực lượng lao động trình độ học vấn khá cao khi họ bắt đầu thời kỳ tăng trưởng nhanh của mình và họ đã dành rất nhiều nguồn lực cho đào tạo kỹ thuật. Tác động giữa quá trình tăng năng suất và chuyển dịch hiệu quả giữa các ngành là rất rõ ràng nhờ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao. Đặc biệt, trong việc tính toán mức độ tăng trưởng kinh tế, sự đóng góp của lực lượng lao động có trình độ học vấn cao ngày càng có xu hướng gia tăng so với các yếu tố khác của hàm sản xuất. Những nghiên cứu của World Bank [5] đã khẳng định rằng giáo dục chỉ mang lại thành quả khi có sự thay đổi công nghệ diễn ra nhanh chóng. Một người lao động đã tốt nghiệp đại học nhưng chỉ được sử dụng công nghệ thấp hơn những gì mà anh ta đã được học thì sẽ không khai thác được gì từ học vấn của anh ta. Trái lại, trình độ học vấn của anh ta sẽ giúp anh ta tăng nhanh năng suất lao động nhờ đổi mới công nghệ và điều này buộc anh ta phải thích nghi với công nghệ mới. Như vậy trình độ học vấn cao hơn sẽ được khai thác hiệu quả khi công nghệ thay đổi và trình độ
- 14 học vấn sẽ có rất ít tác dụng nếu không có sự thay đổi công nghệ. Trình độ học vấn cao nếu thiếu sự nhập khẩu công nghệ (thông qua FDI, mua bán công nghệ…) hoặc ngược lại, sẽ có khả năng dẫn đến việc tốn kém chi phí tiếp nhận chuyển giao công nghệ, không nâng cao được năng suất lao động, không tạo ra được sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế nhanh chóng, tạo ra tác động nhỏ hơn đến tăng trưởng kinh tế. 1.2.2. Tiêu chuẩn về phúc lợi xã hội Khía cạnh tiếp theo phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là việc xem xét vấn đề ai có lợi từ tăng trưởng kinh tế. Có thể nói tăng trưởng kinh tế là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi con người. Các chỉ tiêu phản ánh việc nâng cao phúc lợi của người dân trong quá trình tăng trưởng kinh tế bao gồm: 1.2.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh việc cải thiện và nâng cao các nhu cầu cơ bản của con người. Để xác định tăng trưởng kinh tế có nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống hay không, kinh tế học phát triển đã đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh các nhu cầu cơ bản của con người, bao gồm: - Các chỉ tiêu phản ánh mức sống như thu nhập bình quân đầu người trong một năm, tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người/ngày, lượng lương thực bình quân đầu người... - Các chỉ tiêu phản ánh tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khỏe, cụ thể là: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, tỷ lệ y bác sĩ bình quân đầu người, tỷ lệ chi tiêu công cộng về sức khỏe... - Các chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển nguồn nhân lực: bao gồm tỷ lệ biết chữ của lực lượng lao động, tỷ lệ mù chữ, số năm đi học bình quân, chi tiêu ngân sách giành cho giáo dục, tốc độ tăng dân số bình quân, tỷ lệ thất nghiệp... Đặc biệt, để đánh giá các chỉ tiêu phát triển liên quan đến con người, Liên hợp quốc đã đưa ra chỉ số phát triển con người nhằm kết hợp và lượng hóa ba thành phần cơ bản có liên quan đến sự phát triển con người, đó là tuổi thọ bình quân, trình độ văn hóa (gồm tỷ lệ biết đọc biết viết và số năm đi học bình quân) và thu nhập bình quân đầu người (tính theo phương pháp đồng giá sức mua – PPP). HDI được tính toán bằng công thức sau:
- 15 HDI = 1 – (Ia + Ie + Iw)/3 Trong đó: Ia: hệ số đánh giá tuổi thọ Ie: hệ số đánh giá kiến thức Iw: hệ số đánh giá thu nhập bình quân Ia = (Amax – Ai)/ (Amax – Amin) Trong đó: Amax: tuổi thọ bình quân cao nhất thế giới Ai: tuổi thọ bình quân của nước i Amin: tuổi thọ bình quân thấp nhất thế giới Ie = (Emax – Ei)/ (Emax – Emin) Trong đó: Emax: trình độ văn hóa cao nhất thế giới Emin: trình độ văn hóa thấp nhất thế giới Ei: trình độ văn hóa trung bình của nước i E = 2a1 + a2 Trong đó: a1: tỷ lệ biết chữ của nước i/tỷ lệ biết chữ cao nhất thế giới a2 : số năm đi học trung bình của nước i/số năm đi học trung bình cao nhất thế giới Iw = (Wmax – Wi)/ (Wmax – Wmin) Trong đó Wmax: mức thu nhập bình quân cao nhất thế giới Wmin: mức thu nhập bình quân thấp nhất thế giới Wi: mức thu nhập bình quân của nước i Theo công thức này, chỉ số HDI càng lớn, trình độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó càng cao. Thông qua các chỉ tiêu trên, có thể thấy lợi ích to lớn của việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Các công trình nghiên cứu về kinh tế học nhân lực đều khẳng định lợi ích của việc đầu tư nguồn nhân lực thông qua những luận điểm: Thứ nhất, đầu tư nguồn nhân lực sẽ giúp người dân nâng cao khả năng thích nghi và chống đỡ với những thay đổi bất thường về điều kiện môi trường sống, ví dụ như những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường... Thứ hai, đầu tư nguồn nhân lực sẽ giúp người dân nhận thức tốt hơn các hành vi sinh đẻ, nuôi dạy con cái, giảm tỷ lệ sinh, nâng cao thu nhập bình
- 16 quân đầu người, hạn chế sự tàn phá môi trường, tăng tuổi thọ bình quân và mức sống nói chung. Thứ ba, đầu tư nguồn nhân lực, thông qua giáo dục, sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn về quyền con người của họ, từ đó mở rộng cơ chế dân chủ và nâng cao những quyền lợi cá nhân từ tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu của World Bank đều cho rằng ở những nước có số năm đi học bình quân đầu người càng cao thì tỷ lệ tăng trưởng càng nhanh. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, cơ hội tiếp cận chi phí đầu tư giáo dục của các tầng lớp dân cư là rất khác nhau, do đó những tác động của nó đối với nền kinh tế cũng khác nhau. Ở các nước phát triển, do nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có trình độ tăng cao, nên đầu tư của nhà nước và của tư nhân cho giáo dục cũng tăng nhanh. Ở những nước đang phát triển, chất lượng giáo dục thấp nên người nghèo phải chịu những thiệt thòi trong việc tiếp cận các cơ hội giáo dục tốt hơn để có thể tìm kiếm được việc làm, nâng cao thu nhập và các phúc lợi xã hội khác. Bất bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội giáo dục và các dịch vụ y tế thường là rất lớn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, việc phân phối cơ hội công bằng trong giáo dục và y tế là một trong những mục tiêu mà chính phủ các nước thường theo đuổi nhằm tạo ra sự phát triển cân đối nguồn vốn nhân lực, mở rộng quy mô sản xuất và cải thiện phúc lợi xã hội. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh công bằng xã hội và giảm tỷ lệ nghèo đói Thực tế cho thấy không phải ở tất cả các nước nghèo mọi người đều có thu nhập thấp và ngược lại, ở các nước giàu mọi người đều có thu nhập cao. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, tất nhiên sẽ dẫn đến sự chênh lệch trong phân phối thu nhập bởi vì thu nhập của người dân gia tăng theo mức độ khác nhau. Để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, tất nhiên là phải tạo ra sự công bằng xã hội. Ở đây, công bằng không có nghĩa là đem chia đều tất cả các thành quả của tăng trưởng kinh tế xã hội cho mọi người. Trái lại, công bằng xã hội được hiểu là một sự bình đẳng trước các cơ hội về việc làm, đầu tư, bình đẳng trước các cơ hội để nâng cao nguồn vốn nhân lực và có mức sống cao hơn. Mặt khác, xã hội cũng phải tạo ra nhiều cơ hội để đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư. Nói cách khác, mọi người đều có cơ hội tham gia
- 17 vào quá trình phát triển và được hưởng các thành quả do mình đóng góp tương xứng với năng lực của mình. Có nhiều quan điểm khác nhau về công bằng xã hội trong tăng trưởng kinh tế. Quan điểm thứ nhất nhấn mạnh đến việc tăng trưởng trước, công bằng sau. Theo quan điểm này, cứ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế thì sẽ có công bằng xã hội bởi tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ làm tăng nhanh thu nhập, từ đó kéo theo việc giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy, những nước đi theo quan điểm này đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao, không ngừng gia tăng thu nhập cho nền kinh tế. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bộc lộ nhiều hạn chế do khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên và phá hủy môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển của các thế hệ tiếp theo. Nó cũng tạo nên sự mất bình đẳng về kinh tế và chính trị, đem lại những mâu thuẫn và xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế đạt được do tăng trưởng nhanh, tạo nên sự mất ổn định kinh tế và xã hội. Quan điểm thứ hai nhấn mạnh công bằng và bình đẳng trong xã hội. Theo quan điểm này, sự phát triển sản xuất được đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân phối được thực hiện theo nguyên tắc bình quân. Quan điểm này cho rằng xã hội càng công bằng, chất lượng tăng trưởng kinh tế càng cao. Ưu điểm của quan điểm này là đã hạn chế được sự bất bình đẳng trong xã hội, tạo điều kiện phân phối công bằng phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, nó dẫn đến hạn chế các nguồn lực phát triển, khó tạo nên tăng trưởng kinh tế cao và không có tác dụng khuyến khích người lao động. Quan điểm thứ ba nhấn mạnh đến phát triển toàn diện. Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên. Quan điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế cần phải kết hợp giải quyết tốt công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường. Theo quan điểm này, tuy tốc độ tăng trưởng có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết. Để đánh giá mức độ công bằng và bình đẳng trong xã hội, các nhà kinh tế học và xã hội học đã đưa ra nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, cách sử dụng phổ biến nhất vẫn là Hệ số Gini và đường cong Lorenz. Đường cong Lorenz nghiên cứu tình trạng bất bình đẳng giữa 5 nhóm người khác nhau trong xã hội, mỗi nhóm có 20% dân số từ thu nhập thấp nhất đến thu nhập cao
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn công việc của nhân viên khối văn phòng ở TP.HCM
138 p | 1456 | 548
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 822 | 192
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
148 p | 596 | 171
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
135 p | 555 | 156
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp Tp.HCM đến năm 2020
53 p | 403 | 141
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
98 p | 449 | 128
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 510 | 128
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển du lịch biển Đà Nẵng
13 p | 396 | 70
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 398 | 64
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hộ gia đình tới thu nhập và an toàn lương thực của hộ nông dân huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
110 p | 339 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
143 p | 222 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện biến đổi khí hậu
83 p | 235 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh
26 p | 228 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 223 | 16
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển tổng công ty xây dựng số 1 thành tập đoàn kinh tế mạnh trong tiến trình hội nhập quốc tế
12 p | 182 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 252 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn