intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ kinh tế: Quan hệ thương mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Chia sẻ: Dfxvcfv Dfxvcfv | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

172
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Quan hệ thương mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hệ thống một số vấn đề lý luận liên quan đến quan hệ kinh tế thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và dự đoán triển vọng phát triển của mối quan hệ này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ kinh tế: Quan hệ thương mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG --------------- NGÔ PHƯƠNG NGA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC - MỸ LATINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh Hà Nội - 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ tích cực của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp. Nhân dịp hoàn thành bản Luận văn, tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS. NGUYỄN PHÚC KHANH - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Giáo dục Đào tạo, người đã chỉ bảo tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn GS. TS. NGUYỄN THIẾT SƠN, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, đã cho tôi những ý kiến quý báu để có thể hoàn thành tốt Luận văn. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trung tâm KHXH & NV quốc gia đã cung cấp cho tôi những tài liệu thiết thực để hoàn thành bản Luận văn này. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã tạo điều kiện, hỗ trợ, ủng hộ về tinh thần để tôi có thể hoàn thành Luận văn. Do hạn chế về năng lực và thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp. Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2007 Tác giả NGÔ PHƯƠNG NGA
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN APEC Asia-Pacific Economic Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Corperation Thái Bình dương ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Asian Nations Á ECLAC Economic Commission for Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh và Latin America and Caribbean vùng Caribbean (thuộc Liên Hiệp quốc) EU European Union Liên minh Châu Âu FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài IDB Inter-American Development Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Bank MERCOSUR Mercado Común del Sur Khối thị trường chung Nam Mỹ (Southern American Common Market) NAFTA North American Free Trade Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Agreement Mỹ UNCTAD United Nations Conference Tổ chức Thương mại và Phát triển on Trade and Development Liên Hiệp quốc WB World Bank Ngân hàng Thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1: Thay đổi tỷ trọng của các nước đang phát triển trong xuất khẩu 13 hàng hoá của thế giới 1990-2002 Bảng 1.2: Thay đổi tỷ trọng của một số quốc gia trong tổng xuất nhập 20 khẩu thế giới 1990 - 2005 Bảng 2.1: Giá trị thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ Latinh 52 Bảng 2.2: Các thị trường xuất khẩu của Trung Quốc 1999 & 2005 55 Bảng 2.3: Xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ Latinh 1999&2005 theo 55 quốc gia Bảng 2.4: Các hàng hóa chủ yếu Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ Latinh 56 1999 & 2005 Bảng 2.5: Các hàng hóa chủ yếu Trung Quốc nhập khẩu từ Mỹ Latinh 59 1999 & 2005 Biểu đồ 1.1: Tăng trưởng của mậu dịch và GDP thế giới, 1995 - 2005 7 Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ đóng góp của Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới 17 Biểu đồ 1.3: Tăng trưởng GDP và sản xuất công nghiệp ở các nước chủ 23 chốt của Mỹ La tinh Biểu đồ 1.4: Tăng trưởng bình quân hàng năm bộ phận cấu thành GDP 25 (%) của Mỹ Latinh Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ tiêu dùng của Trung Quốc so với tổng lượng tiêu dùng 32 toàn thế giới, tính theo sản phẩm Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ hàng nhập khẩu Trung Quốc trong tổng nhập khẩu các 48 nước Mỹ Latinh 1995 & 2005 Biểu đồ 2.3: Cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ Latinh 53 Biểu đồ 2.4: Cán cân thương mại của một số quốc gia Mỹ Latinh với 54 Trung Quốc năm 2005
  5. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong bối cảnh xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế đang cuốn hút mọi quốc gia trên thế giới, và đặc biệt là vào thời điểm Việt Nam vừa trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), việc mở rộng hơn nữa các mối quan hệ kinh tế - thƣơng mại với các quốc gia khác càng trở nên mối quan tâm lớn trong chiến lƣợc phát triển quốc gia của Việt Nam. Hiện nay, các mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nƣớc công nghiệp phát triển (quan hệ Bắc - Nam) và quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nƣớc đang phát triển (quan hệ Nam - Nam) đều mang lại các lợi ích đáng kể cho Việt Nam, trong đó quan hệ Bắc - Nam giữ vai trò hết sức quan trọng; quan hệ Nam - Nam mặc dù không thể thay thế đƣợc quan hệ Bắc - Nam, nhƣng cũng mang lại lợi ích kinh tế và có ý nghĩa chiến lƣợc cho quá trình phát triển. Khu vực Châu Mỹ Latinh trong thời gian qua đang chứng tỏ là một khu vực có những chuyển biến tích cực về kinh tế và có chính sách thƣơng mại ngày càng rộng mở. Đây cũng là một khu vực đƣợc Việt Nam quan tâm, và chúng ta đã bƣớc đầu có những động thái nhằm tiếp cận và xâm nhập các thị trƣờng mới ở đây. Việc Trung Quốc mở rộng quan hệ thƣơng mại tại khu vực Mỹ Latinh và đã thu đƣợc những lợi ích đáng kể thực sự là một ví dụ điển hình để Việt Nam tham khảo và rút kinh nghiệm trong quá trình mở rộng quan hệ thƣơng mại với mọi đối tác trên thế giới nói chung và với các quốc gia đang phát triển nói riêng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu phân tích thực trạng, triển vọng cũng nhƣ tác động của mối quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa thiết thực. Chính vì vậy, vấn đề "Quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" đã đƣợc lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sỹ kinh tế này.
  6. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nước: Hiện nay, việc Trung Quốc tăng cƣờng quan hệ kinh tế, thƣơng mại với các thị trƣờng ở châu Mỹ Latinh đang nổi lên là một vấn đề nóng, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, trên thế giới, đặc biệt tại các cƣờng quốc nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản, đã có nhiều bài phân tích đơn lẻ về sự hiện diện ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại khu vực này. Tuy nhiên, các đề tài này đề cập đến vấn đề và xử lý ở từng góc độ khác nhau, tùy theo quan điểm và mối liên hệ của vấn đề này với các quốc gia khác nhau. Tại Việt Nam, các đề tài nghiên cứu về quan hệ kinh tế quốc tế của Trung Quốc đã có nhiều, nhƣng chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ giữa nƣớc này với các cƣờng quốc hay khối kinh tế lớn mạnh, và quan hệ Trung Quốc với Việt Nam. Hiện chƣa có công trình nghiên cứu nào về quan hệ thƣơng mại giữa Trung Quốc và Mỹ Latinh. Chính vì vậy, Luận văn thạc sỹ này sẽ là một nghiên cứu mới, độc lập và chi tiết về vấn đề này. 3. Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống lại một số vấn đề lý luận liên quan đến quan hệ kinh tế thƣơng mại giữa các quốc gia trên thế giới. - Đánh giá thực trạng quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh và dự đoán triển vọng phát triển của mối quan hệ này. - Rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó đƣa ra một số đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy quan hệ thƣơng mại quốc tế của Việt Nam nói chung và với khu vực Mỹ Latinh nói riêng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt đƣợc các mục đích nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhƣ sau: - Nghiên cứu đặc điểm, xu hƣớng phát triển kinh tế - thƣơng mại của thế giới và khu vực
  7. 3 - Phân tích các lợi ích kinh tế - thƣơng mại và chính sách thƣơng mại của Trung Quốc đối với châu Mỹ Latinh - Nêu lên một số đặc điểm của quan hệ thƣơng mại giữa Trung Quốc với châu Mỹ Latinh, tìm hiểu cụ thể thực trạng quan hệ, đƣa ra những đánh giá khái quát và dự đoán triển vọng phát triển của mối quan hệ này. - Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm cải thiện và thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu với các quốc gia trên thế giới nói chung và với các nƣớc khu vực Mỹ Latinh nói riêng 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 5.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn này là bối cảnh nền kinh tế - thƣơng mại thế giới, tình hình kinh tế - thƣơng mại của Trung Quốc và các nƣớc Mỹ Latinh, chính sách và các hoạt động thƣơng mại giữa Trung Quốc và châu Mỹ Latinh. 5.2 Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh từ cuối những năm 1990 đến thời điểm nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh chủ yếu về phƣơng diện xuất nhập khẩu hàng hóa; khu vực châu Mỹ Latinh đƣợc đề cập đến bao gồm các quốc gia từ Mexico trở xuống Nam Mỹ, trong đó tập trung vào các nƣớc thành viên của các khối kinh tế lớn trong khu vực là MERCOSUR và ANDEAN. 6. Phương pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn là sự tổng hợp của các phân tích, thống kê, diễn giải, so sánh… để nghiên cứu bản chất các đối tƣợng. Luận văn cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế cũng nhƣ các giáo sƣ tiến sỹ kinh tế trong ngành nhằm đạt đƣợc kết quả nghiên cứu tốt nhất.
  8. 4 7. Kết cấu của Luận văn: Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chương 1: Tổng quan về nền kinh tế Trung Quốc và Châu Mỹ Latinh trong bối cảnh kinh tế thế giới Chương 2: Đặc điểm, thực trạng và triển vọng quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh Chương 3: Bài học kinh nghiệm và một số đề xuất chính sách cho Việt Nam
  9. 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC VÀ CHÂU MỸ LATINH TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI 1.1 BỐI CẢNH KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẦU THẾ KỶ XXI 1.1.1 Những đặc điểm và xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế - thƣơng mại thế giới Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lƣợng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo nên sự chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc, từ chuyên môn hoá theo ngành, ngày nay đã hình thành chuyên môn hoá theo cụm chi tiết và theo công đoạn sản xuất. Quá trình chuyên môn hoá đã tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia khi mỗi nƣớc đều tham gia vào phân công lao động quốc tế căn cứ vào những lợi thế so sánh của mình. Dƣới tác động của khoa học công nghệ, nền kinh tế thế giới đã có sự biến đổi về chất. Các ngành công nghệ cao, đặc biệt là những lĩnh vực có hàm lƣợng chất xám cao nhƣ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phát triển nhanh chóng. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc trong cả cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng. Nhóm hàng hoá dịch vụ có hàm lƣợng vốn và kỹ thuật cao ngày càng đƣợc ƣa chuộng và có giá trị lớn trong giao dịch thƣơng mại. Tỷ trọng thƣơng mại dịch vụ ngày càng tăng so với tỷ trọng thƣơng mại hàng hoá. Ngoài ra, công nghệ kỹ thuật phát triển còn dẫn tới những thay đổi trong cách thức trao đổi buôn bán, ví dụ việc sử dụng các phƣơng tiện thƣơng mại điện tử (e-commerce) đã giúp cho các hoạt động giao dịch quốc tế diễn ra hết sức nhanh chóng và thuận tiện. Xu thế toàn cầu hóa tiếp tục gia tăng Đây vừa là một đặc điểm nổi bật, vừa là một xu hƣớng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Nét đặc trƣng của quá trình toàn cầu hóa là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
  10. 6 càng gia tăng giữa các quốc gia tham gia nền kinh tế thế giới, do quy mô và sự đa dạng ngày càng lớn của các luồng hàng hóa, dịch vụ và vốn xuyên quốc gia, đồng thời do sự phổ biến nhanh và rộng khắp của tiến bộ khoa học công nghệ. Điều quan trọng hơn là các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ gia tăng về số lƣợng mà còn cả về chất lƣợng: trên thế giới đã hình thành một hệ thống kinh tế hoàn chỉnh mà mỗi quốc gia là một nhân tố cấu thành, và sự vận động phát triển của nền kinh tế quốc gia ngày càng lệ thuộc vào nhiều hơn vào tiến trình phát triển của hệ thống kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi có sự thay đổi trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Chức năng điều tiết quốc gia các nền kinh tế dân tộc sẽ mất dần, và cuộc cạnh tranh để tìm một vị trí trong hệ thống phân công lao động mới ngày càng quyết liệt. Trƣớc xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thế giới đang trở thành một cộng đồng duy nhất, với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng giữa các quốc gia. Toàn cầu hóa diễn ra nhƣ là một tất yếu lịch sử, kéo theo tất cả các quốc gia ở mọi trình độ phát triển vào quỹ đạo của nó. Tính tất yếu của toàn cầu hóa bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế thị trƣờng vốn là một hệ thống mở, ngày càng xóa mờ biên giới giữa các quốc gia, dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Ngoài ra tính tất yếu của nó còn đƣợc quy định bởi những lợi ích đạt đƣợc khi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế, và những tổn thất xảy ra khi quốc gia đi ngƣợc lại xu thế này. Nói cách khác, dù muốn hay không, các quốc gia đều phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, và quá trình hội nhập càng chủ động thì càng tận dụng đƣợc lợi thế và giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra. Các nước dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế Tiềm lực kinh tế hiện nay là nguồn sức mạnh và ảnh hƣởng chính của quốc gia. Bởi vậy, quản lý kinh tế là thử thách quan trọng nhất để đánh giá khả năng của một chính phủ, đồng thời tăng cƣờng lợi ích kinh tế quốc gia là mục tiêu hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mỗi nƣớc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không thể không tham gia hội nhập. Việc mở cửa nền kinh tế đem lại cả rủi ro và cơ hội, tuy nhiên, nếu không làm nhƣ vậy
  11. 7 sẽ phải trả giá bằng sự tụt hậu ngày một xa với cộng đồng quốc tế. Thách thức phát triển tạo ra một sức ép rất lớn đối với tƣơng lai của mỗi quốc gia. Chính lợi ích kinh tế quốc gia, chứ không phải những mục tiêu chính trị nhƣ trƣớc đây, đƣợc đặt lên hàng đầu trong việc phát triển quan hệ quốc tế. Sự thay đổi này sẽ khuyến khích tất cả các nƣớc trong cộng đồng thế giới, kể cả các nƣớc có định hƣớng phát triển xã hội khác nhau, gia nhập vào trật tự kinh tế quốc tế ở các cấp độ khác nhau, đi từ quan hệ kinh tế thƣơng mại song phƣơng, khu vực, đến gia nhập WTO. Kết quả là trật tự kinh tế quốc tế ngày càng đƣợc mở rộng, đa dạng và phát triển với sự gia tăng các chủ thể mới gia nhập và các khuynh hƣớng lợi ích khác nhau, tạo thêm khả năng nâng cao tính dân chủ và công bằng trong việc đặt ra và thực hiện những luật chơi của trật tự này. Thương mại quốc tế tăng trưởng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP thế giới Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tốc độ tăng thƣơng mại quốc tế luôn vƣợt tốc độ tăng trƣởng sản lƣợng thế giới, và trở thành một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trƣởng kinh tế thế giới (Xem Biểu đồ 1.1). Biểu đồ 1.1: Tăng trƣởng của mậu dịch và GDP thế giới, 1995 - 2005 Nguồn: Số liệu của WTO 2005 Trong thập niên 80 của thế kỷ XX, lƣợng trao đổi mậu dịch thế giới bình quân mỗi năm tăng 3,8%, thập niên 90 là 6,5%; dự đoán thập niên đầu của thế kỷ
  12. 8 XXI sẽ là 7%. Trong khi đó, tỷ lệ tăng trƣởng trung bình GDP thực của thế giới từ năm 2000 đến 2006 đạt khoảng 4,2%/năm. Theo thống kê của WTO, năm 1999 tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới là 6,800 tỷ USD, trong đó mậu dịch hàng hoá chiếm 5.460 tỷ USD, mậu dịch dịch vụ chiếm 1.340 tỷ USD. Đến năm 2005 các con số tƣơng ứng vào khoảng 17.000 tỷ USD, 12.000 USD và 5.000 tỷ USD. Sở dĩ nhƣ vậy là do: (1) Nền kinh tế thế giới ngày càng đƣợc chuyên môn hoá, các quốc gia phụ thuộc nhau trong một mạng lƣới sản xuất toàn cầu. Các yếu tố của quá trình sản xuất đƣợc phân đoạn thành vô số các chi tiết và bán thành phẩm và đƣợc đƣa vào chu chuyển thƣơng mại làm cho tổng lƣợng buôn bán không ngừng tăng lên. (2) Xu thế mở cửa của nền kinh tế của hầu hết các quốc gia và tăng trƣởng dựa vào xuất khẩu trở nên phổ biến, làm gia tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau về thƣơng mại quốc tế. (3) Cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học công nghệ, chi phí giao dịch trong thƣơng mại quốc tế không ngừng giảm xuống tạo thuận lợi cho chu chuyển thƣơng mại toàn cầu. (4) Sự bùng nổ của nhu cầu ngƣời tiêu dùng gắn liền với sự thay đổi thị hiếu và phản ứng mang tính lây lan do tiếp cận với các nền văn hoá tiêu dùng thông qua nhiều phƣơng thức khác nhau làm xuất hiện các phân đoạn thị trƣờng mới, kích thích thƣơng mại quốc tế phát triển không ngừng. Các nền kinh tế phát triển vẫn chi phối thị trường thế giới, tuy nhiên, tương quan của chúng trong thương mại quốc tế thay đổi. Các nước đang phát triển ngày càng có vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc tế Có thể nói, trong suốt thế kỷ XX, các nƣớc công nghiệp phát triển ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản đã chi phối nền kinh tế - thƣơng mại thế giới. Các nƣớc công nghiệp phát triển, với khoảng 1,2 tỷ ngƣời, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu, trong khi đó các nƣớc nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhƣng chỉ tạo ra 1% GDP toàn cầu. Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu ngƣời ở các nƣớc giàu chỉ gấp 76 lần so với các nƣớc nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này đã tăng lên 288 lần. Trƣớc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Châu Âu chiếm gần 60% tổng kim ngạch thƣơng mại quốc tế, nếu tính cả Bắc Mỹ
  13. 9 và Nhật Bản thì các nƣớc phát triển chiếm trên 80% mậu dịch toàn cầu. Con số này có thay đổi trong những thập kỷ tiếp theo, nhƣng nhìn chung tỷ trọng của các nƣớc đang phát triển chỉ khoảng xấp xỉ 30%. Cùng với quá trình toàn cầu hoá và chính sách mở cửa, công nghiệp hoá theo hƣớng xuất khẩu và dựa vào xuất khẩu, vị thế của các nƣớc đang phát triển trong thƣơng mại quốc tế ngày càng gia tăng. Sự thay đổi địa vị của các nƣớc đang phát triển trong thƣơng mại quốc tế những năm gần đây chủ yếu là nhờ các nƣớc đang phát triển Đông Á Thái Bình Dƣơng. Năm 2002, 10 nƣớc đang phát triển gồm Trung Quốc, Mexico, Nga, Malaysia, Arab Saudi, Thái lan, Brazil, Indonesia, Ấn Độ và Ba Lan chiếm 63% tổng xuất khẩu của các nƣớc đang phát triển và 16% tổng xuất khẩu của thế giới. Tuy nhiên, trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, các nƣớc công nghiệp phát triển vẫn chiếm tỷ trọng và có vai trò lớn trong thƣơng mại quốc tế là do các quốc gia phát triển: vẫn là những nƣớc đi đầu trong việc chuyển sang nền kinh tế mới dựa trên tri thức và do đó cũng sẽ là đầu tầu trong việc làm biến đổi cơ cấu thƣơng mại thế giới; có vai trò chi phối trong sản xuất và tài chính quốc tế, là thị trƣờng nhập khẩu chính sản phẩm của các nƣớc đang phát triển, kể cả các sản phẩm truyền thống lẫn các sản phẩm có hàm lƣợng công nghệ cao; đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò đầu tầu trong tiến trình tự do hoá thƣơng mại toàn cầu và khu vực, sẽ trở thành hạt nhân của các thị trƣờng khu vực liên kết trong tƣơng lai. Ví dụ điển hình nhất cho xu thế này là EU mở rộng và việc Mỹ đang hối thúc thành lập khu vực mậu dịch tự do toàn Châu Mỹ cũng nhƣ mở rộng không gian thƣơng mại toàn cầu cho nền kinh tế Mỹ bằng việc ký kết các hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng với các đối tác thƣơng mại khắp các châu lục. Nền KTTG đang chuyển từ trạng thái lưõng cực sang trạng thái đa cực với sự hình thành của nhiều trung tâm kinh tế và liên kết kinh tế mới Thế giới phát triển nhanh chóng theo hƣớng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chƣa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Sức mạnh địa chính trị của một nƣớc bao gồm sức mạnh quân sự, tầm vóc kinh tế, và ảnh hƣởng quốc tế của nƣớc đó. So sánh tổng thể toàn thế giới
  14. 10 cho thấy thế giới hiện nay có 8 nƣớc lớn là Mỹ, ba nƣớc EU: Anh, Pháp và Đức; Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ, trong đó Mỹ áp đảo về quân sự và vƣợt trội về ảnh hƣởng quốc tế. Riêng về kinh tế, Mỹ phải chia sẻ vị trí đứng đầu với EU, và hai nền kinh tế này cùng vƣợt trội so với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, EU chƣa tạo đƣợc sức mạnh quân sự và ngoại giao tổng hợp của các nƣớc thành viên, do vậy, so sánh quyền lực tổng hợp thì EU vẫn còn xếp sau Mỹ. Nƣớc Nga, cƣờng quốc kế thừa Liên Xô trƣớc đây, cũng đƣợc coi là một quốc gia có tham vọng toàn cầu. Tuy nhiên thực lực của nƣớc Nga hiện nay, với GDP đứng thứ 15 và chi phí quân sự chiếm 2% toàn thế giới, chƣa cho phép Moskva tạo dựng đƣợc vị thế của một siêu cƣờng trên thế giới, mà hƣớng tới chiến lƣợc xác lập vai trò một nƣớc lớn trong khu vực. Nếu nhƣ Nga là cƣờng quốc đi xuống điển hình thì Trung Quốc là cƣờng quốc đi lên điển hình trong các nƣớc lớn hiện nay. Với số dân khổng lồ, lãnh thổ rộng, văn hóa truyền thống hết sức phong phú, một nền kinh tế lớn với tốc độ phát triển chóng mặt, Trung Quốc dễ dàng gây ảnh hƣởng ra ngoài khu vực. Hiện nay, Trung Quốc đã vƣơn ra không chỉ châu Á mà còn cả châu Phi và Mỹ Latinh. Tuy nhiên, nhƣ vậy Trung Quốc đã va chạm ảnh hƣởng với sự có mặt của Mỹ và EU tại các khu vực này, trong khi đó ngay tại châu Á, tham vọng vƣơn lên vị thế nƣớc lớn trong khu vực của Trung Quốc cũng gặp phải sự cạnh tranh của Ấn Độ, Nhật Bản, và cả Nga. Còn Ấn Độ và Nhật Bản vẫn xác định khu vực ảnh hƣởng của mình là châu Á, Ấn Độ về phía Nam Á, Nhật Bản về phía Bắc Á. Các nƣớc lớn này đang cạnh tranh không khoan nhƣợng, thậm chí tìm kiếm liên minh chiến lƣợc với Mỹ nhằm hạn chế sự vƣơn lên của Trung Quốc và giành quyền lãnh đạo khu vực. Ngoài ra, trên thế giới hiện đang hình thành nhiều liên kết kinh tế có sức mạnh và ảnh hƣởng nhất định trong khu vực, nhƣ EU, APEC, ASEM, ASEAN, MERCOSUR, CARICOM, AU, COMESA, OPEC…. Các liên kết kinh tế này đang hoạt động khá hiệu quả, đem lại lợi ích nhiều mặt cho các nƣớc thành viên và có vai trò không thể phủ nhận đối với nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
  15. 11 Xu hướng tự do hóa song song với xu hướng bảo hộ mậu dịch diễn ra phổ biến Thế kỷ XXI cho thấy quá trình tự do hoá thƣơng mại diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực và song phƣơng. Hầu hết các hiệp định thƣơng mại tự do hiện có và đang đàm phán đều đặt mục tiêu cắt giảm hàng rào thuế quan trong vòng 10 - 15 năm tới. Chỉ riêng Chƣơng trình đàm phán Doha trong khuôn khổ WTO, với mục tiêu đạt đƣợc thoả thuận về tự do hoá thị trƣờng nông sản, dịch vụ, thị trƣờng và các thoả thuận khác liên quan đến thể chế thƣơng mại quốc tế đã có thể tạo ra sự bùng nổ thƣơng mại quốc tế trong vòng 10 năm tới. Tuy nhiên vẫn diễn ra một thực tế rằng: dù các rào cản thuế quan bị xoá bỏ nhƣng những rào cản phi thuế quan và những yếu tố phi thƣơng mại vẫn có những tác động lớn đến chu chuyển thƣơng mại quốc tế. Trƣớc hết là vấn đề môi trƣờng và thƣơng mại. Một ví dụ điển hình về rào cản môi trƣờng tự nhiên đối với buôn bán là các vụ kiện tôm thƣờng xuyên xuất hiện trong quan hệ thƣơng mại của Mỹ và các nƣớc đang phát triển, hay vụ kiện hormon bò gây nên những tranh chấp thƣơng mại giữa Mỹ và EU. Nhìn chung, các nƣớc đều cho rằng việc gắn thƣơng mại với môi trƣờng là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững, kể cả việc áp dụng thuế môi trƣờng. Tuy nhiên, hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng lai, ranh giới giữa thƣơng mại và môi trƣờng vẫn tiếp tục là đề tài tranh cãi: làm thế nào để các vấn đề môi trƣờng không triệt tiêu phúc lợi do tự do hoá thƣơng mại mang lại. Vấn đề thứ hai có ảnh hƣởng lớn đến thƣơng mại quốc tế là vấn đề tiêu chuẩn lao động. Tiêu chuẩn lao động đƣợc hiểu là một trong những vấn đề liên quan đến quyền con ngƣời, đặc biệt là lao động trẻ em đã đƣợc các nƣớc phát triển sử dụng nhƣ một công cụ gây sức ép đối với các nƣớc đang phát triển. Việc áp dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn lao động trong thƣơng mại có thể sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các nƣớc đang phát triển. Vì vậy đây sẽ tiếp tục là một vấn đề gay cấn trong đàm phán thƣơng mại quốc tế trong những năm tới. Nhìn chung, các biện pháp phi thuế quan có rất nhiều, liên quan đến nhiều lĩnh vực mà luật pháp không điều chỉnh hết. Ngƣời ta ƣớc tính hiện có đến 2.500 loại biện pháp phi thuế quan, trong khi đó trong khuôn khổ WTO chỉ đƣa ra các
  16. 12 ràng buộc đối với 9 mục. Những quy định cụ thể liên quan đến từng quốc gia còn phức tạp hơn, chẳng hạn các nƣớc thành viên EU có tổng cộng 100.000 các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật. Mặc dù cùng với tiến trình hội nhập sâu hơn của các nền kinh tế, các chính sách và tiêu chuẩn bên trong sẽ từng bƣớc đƣợc điều chỉnh, song theo nhiều nhà phân tích, đây là lĩnh vực diễn ra những tranh cãi lâu dài và khó đi đến những thoả thuận rõ ràng bởi vì các quốc gia có chủ quyền đều coi đây là những công cụ hữu hiệu để tăng khả năng cạnh tranh của mình trong bối cảnh tự do hoá thƣơng mại đƣợc đẩy mạnh. Các đặc điểm và xu hƣớng vận động trên của nền kinh tế - thƣơng mại thế giới có ảnh hƣởng đến chính sách kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng của mỗi quốc gia, kể cả các nƣớc phát triển và đang phát triển tham gia vào hệ thống kinh tế thƣơng mại quốc tế. 1.1.2 Quan hệ giữa các nƣớc đang phát triển trong hệ thống thƣơng mại toàn cầu Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, các nƣớc đang phát triển (ĐPT) ngày càng nhận thức đƣợc rõ ràng rằng họ không nên và không thể chỉ trông chờ vào thị trƣờng các nƣớc phát triển, khi mà quan hệ thƣơng mại cũng nhƣ các tiềm năng kinh tế khác giữa các nƣớc này chƣa đƣợc tận dụng và phát huy đúng mức. Ngày nay, quan hệ thƣơng mại giữa các nƣớc ĐPT đang ngày càng gia tăng và đang đóng góp đáng kể vào sự tăng trƣởng kinh tế của các quốc gia này. Các nƣớc ĐPT đang chiếm đại đa số dân cƣ trên thế giới với 6 tỷ dân, và chiếm đa số: 132/191 thành viên của Liên Hiệp quốc (UN). Hiện nay khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của các nƣớc ĐPT là hƣớng tới các quốc gia ĐPT khác. Một số nhà kinh tế còn dự đoán trong những năm sắp tới, tốc độ tăng trƣởng kinh tế tại các nƣớc ĐPT sẽ đạt khoảng 6 - 8%/năm, so với tốc độ 2 - 3%/năm ở các nƣớc phát triển. Theo số liệu mới nhất của Liên hiệp quốc, thƣơng mại giữa những ngƣời khổng lồ của thế giới ĐPT là Ấn Độ và Trung Quốc đang tăng trƣởng rất nhanh trong một thập kỷ qua, từ 264,8 triệu USD năm 1991 lên 10 tỷ USD năm 2004. Còn theo số liệu từ G77, Trung Quốc đã trở thành thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất đối với nhiều
  17. 13 nƣớc nhƣ Hàn Quốc và các nƣớc lân cận. Năm 2003, khoảng 50% hàng nhập khẩu vào Mỹ và Nhật, khoảng 30% hàng nhập khẩu vào EU là từ các nƣớc ĐPT, và hàng xuất khẩu từ các thị trƣờng này sang thế giới các nƣớc ĐPT cũng đạt một tỷ lệ tƣơng tự. [30]. Bảng 1.1. Thay đổi tỷ trọng của các nƣớc đang phát triển trong xuất khẩu hàng hoá của thế giới 1990-2002 Đơn vị: % 1990 2002 Đông Á và Thái Bình Dƣơng 5 9 Trung và Đông Âu 4 6 Mỹ Latinh và Caribbean 4 5 Trung Đông và Bắc Phi 4 3 Châu Phi tiểu Sahara 2 1 Nam Á 1 1 Các nƣớc thu nhập thấp và trung bình 20 25 Các nƣớc thu nhập cao 80 70 Nguồn: World Development Indicators 2004 Trong số các nƣớc đang phát triển, Trung Quốc đang nổi lên nhƣ một quốc gia thƣơng mại nhiều triển vọng, có thể thách thức cả các cƣờng quốc thƣơng mại hiện nay trong vòng 20-30 năm tới. Mặc dù hiện tại, Trung Quốc chỉ chiếm 3,5% GDP và trên 4% thƣơng mại thế giới, nhƣng sức mạnh tiềm năng của đất nƣớc khổng lồ này là rất lớn, đặc biệt là từ sau khi trở thành thành viên WTO. Nếu tính theo PPP thì Trung Quốc đã chiếm 10% GDP thế giới, đứng thứ 2 sau Mỹ. Nếu với tốc độ tăng trƣởng 6-9% thì Trung quốc sẽ vƣợt Nhật Bản và Châu Âu trong việc góp phần vào tăng trƣởng kinh tế thế giới vào năm 2008. Nhƣ vậy, thƣơng mại giữa các nƣớc ĐPT đang trở thành một nhân tố nổi trội trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia. Các nƣớc ĐPT hiện đang là thị trƣờng quan trọng đối với các nƣớc công nghiệp phát triển, bên cạnh đó, thƣơng mại giữa các nƣớc ĐPT đang gia tăng với tốc độ nhanh hơn cả tốc độ tăng trƣởng của thƣơng mại quốc tế, và quan hệ hợp tác kinh tế thƣơng mại giữa các nƣớc này tỏ ra ngày càng chặt chẽ và hiệu quả. Hiện nay, 10 thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế năng động nhất trên thế giới ASEAN đã cam kết sẽ tạo ra một cộng đồng
  18. 14 kinh tế mới vào năm 2020. Tháng 11/2004, ASEAN đã ký kết một hiệp định với Trung Quốc, bắt đầu tiến hành đàm phán về một khu vực mậu dịch tự do. Ủy ban Hợp tác vùng Vịnh (Gulf Cooperation Council - GCC) gồm 6 thành viên Bahrain, Kuwait, Oman, Saudi Arabia, Qatar và Các tiểu vƣơng quốc Ả rập thống nhất (UAE), đã xóa bỏ các loại thuế quan thƣơng mại đối với các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, động vật và nguyên liệu có xuất xứ từ các nƣớc bản địa. GCC cũng cam kết tạo ra một đồng tiền chung vào năm 2010. [30] Tại Châu Mỹ Latinh, 5 thành viên khối MERCOSUR, gồm Argentina, Brazil, Paraguay, Uruguay và Venezuela đã xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với 90% thƣơng mại trong khu vực và hình thành một cơ cấu thuế quan chung đối với 85% hàng nhập khẩu từ các nƣớc ngoài khu vực.[2] Tuy nhiên, trong thƣơng mại quốc tế, các nƣớc ĐPT hiện vẫn đang phải chịu nhiều áp lực và bất công do những quy chế, nguyên tắc thƣơng mại đƣợc đặt ra bởi các nƣớc lớn có ảnh hƣởng chi phối tới nền kinh tế - thƣơng mại thế giới. Hiện nay, hệ thống thƣơng mại quốc tế đầy rẫy những sự bất công. Các nƣớc giàu áp đặt mức thuế quan cao nhất đối với những mặt hàng nhập khẩu quan trọng của các nƣớc đang phát triển - nhƣ hàng may mặc và nông phẩm. Mức thuế tăng lên cùng với mức gia tăng trong chế biến, cản trở quá trình công nghiệp hoá của các nƣớc nghèo. Hơn nữa, các cuộc đàm phán thƣơng mại đa phƣơng thƣờng thiếu sự minh bạch và ngăn các quốc gia đang phát triển tiến hành các hoạt động thực tế. Việc sử dụng những thủ tục của WTO để giải quyết các tranh chấp thƣơng mại đòi hỏi phải có tiền bạc và sự giám định chuyên môn, mà đây lại là những điều mà các quốc gia nghèo thiếu hụt. Trong các hội nghị của WTO ở Seattle, Hoa Kỳ và ở Cancun, Mexico, các nƣớc đang phát triển đã thể hiện vai trò ngày càng tăng của họ đối với việc tham gia với tƣ cách là các nhà đàm phán có ảnh hƣởng của WTO, trong nỗ lực đấu tranh nhằm buộc các nƣớc phát triển nhƣ Mỹ và Châu Âu chấp nhận cắt giảm hơn nữa sự bảo hộ trong nông nghiệp, trong khi đảm bảo những cam kết mới về tiếp cận thị trƣờng từ các nƣớc đang phát triển. Tại Cancun, họ đã đƣa ra ba đề xuất, tất
  19. 15 cả các đề xuất này đều nhằm đẩy lùi những nỗ lực bắt buộc họ phải đồng ý với những cam kết mới về tự do hoá thƣơng mại của Mỹ và EU. Thứ nhất, 22 nƣớc đang phát triển đòi hỏi những nhƣợng bộ hơn nữa từ phía Mỹ và Liên minh Châu Âu liên quan đến bảo hộ sản xuất trong nƣớc và trợ giá xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp, giảm thuế quan đến mức độ nhỏ nhất trong tất cả các sản phẩm nông nghiệp. Thứ hai, họ yêu cầu có những cam kết cụ thể nhằm xoá bỏ tất cả các loại trợ giá xuất khẩu đang gây ra tình trạng “bán hạ giá” các sản phẩm nông nghiệp vào thị trƣờng của họ, làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, và những nông dân nghèo dễ bị tổn thƣơng với các thay đổi bất thƣờng của thị trƣờng thế giới. Cuối cùng, các nƣớc đang phát triển không chấp nhận các cuộc đàm phán trong bốn lĩnh vực - tự do hoá đầu tƣ nƣớc ngoài, tính minh bạch trong khâu thủ tục của chính phủ, chính sách cạnh tranh và thúc đẩy thƣơng mại - họ cho rằng rất ít tiến bộ đã đạt đƣợc trong việc làm sáng tỏ các mục tiêu đằng sau các cuộc đàm phán. Với những quan điểm này, các nƣớc đang phát triển đã thiết lập nên một liên minh chính trị nhằm đối phó với ảnh hƣởng của Mỹ và các nƣớc Châu Âu. Các liên minh này chủ yếu tập trung quan tâm vào lĩnh vực nông nghiệp. Ấn Độ, Brazil, Nam Phi và Argentina đã cùng với Trung Quốc nỗ lực phản đối tự do hoá thƣơng mại hơn nữa trong các sản phẩm nông nghiệp nếu không đạt đƣợc những nhƣợng bộ hơn từ phía Mỹ và Liên minh Châu Âu. Sự việc này đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc nắm giữ một vai trò lớn với tƣ cách là một thành viên của Liên minh các nƣớc đang phát triển. Đại diện cho gần một nửa dân số thế giới, vị trí của liên minh này đã đƣợc tăng cƣờng bởi sự ủng hộ rộng rãi trên toàn thế giới, bày tỏ mong muốn của Liên minh bằng chiến dịch: “Tiến hành Thƣơng mại Công bằng”- một sáng kiến của tổ chức phi chính phủ Oxfam. [2] 1.2 TÌNH HÌNH KINH TẾ - THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC 1.2.1 Khái quát chung về nền kinh tế Trung Quốc đầu thế kỷ XXI Trung Quốc là quốc gia đang phát triển lớn nhất thế giới, với diện tích 9,6 triệu km2, chiếm 1/5 diện tích thế giới, 1/4 diện tích châu Á, đứng thứ 3 thế giới (sau Nga và Canada). Trung Quốc hiện có khoảng 1,3 tỷ dân (là nƣớc đông dân
  20. 16 nhất thế giới, chiếm khoảng 1/5 nhân loại), dự kiến đến năm 2020 sẽ tăng lên đến 1,5 - 1,6 tỷ dân. Kể từ năm 1978 bắt đầu công cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình, sau gần ba thập kỷ, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, trở thành một hiện tƣợng của nền kinh tế thế giới cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Nền kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trƣởng trung bình 9%/năm trong khoảng thời gian từ 1978 đến 2000. Trung Quốc đã có sự chuyển dịch rõ ràng về cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Tổng số lao động trong khu vực nông nghiệp của Trung Quốc giảm từ 71% năm 1978 xuống còn dƣới 50% vào năm 2000; theo dự kiến của Ủy ban Kế hoạch Phát triển nhà nƣớc Trung Quốc, tới năm 2020, con số này sẽ giảm xuống chỉ còn khoảng 30%. Tỷ lệ đô thị hóa dự kiến sẽ gia tăng từ mức 35% năm 2000 lên 50% vào năm 2020. [17] Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, và từ đó đến nay, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ nhanh chóng và đạt đƣợc nhiều thành tích nổi bật. Việc gia nhập WTO đem lại cơ hội phát triển mới cho nền kinh tế Trung Quốc, nâng cao đời sống nhân dân, tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều vấn đề cần đƣợc giải quyết ổn thoả để nền kinh tế tiếp tục phát triển lành mạnh. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), từ khi gia nhập WTO đến nay, bình quân đóng góp tăng trƣởng kinh tế của Trung Quốc đối với tăng trƣởng kinh tế thế giới là 13%, sự phát triển của Trung Quốc trở thành trụ cột quan trọng và lực lƣợng lôi kéo kinh tế toàn cầu phát triển. Đặc biệt trong 4 năm gần đây, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Trung Quốc đều tăng trên 30%, từ 509,6 tỷ USD tăng lên 1.422,12 tỷ USD, vƣợt lên đứng thứ 3 thế giới. Năm 2004, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đạt 609 tỷ USD (năm 2002 đạt 270 tỷ USD, năm 2003 đạt 403,3 tỷ, trong 3 năm liền tăng với tốc độ rất cao). Năm 2005, GDP của Trung Quốc đạt 2.227,5 tỷ USD. Năm 2006, GDP của Trung Quốc đạt gần 2.700 tỉ USD, tăng 10,7% so với năm 2005. Với con số này, Trung Quốc đã vƣợt qua Anh trở thành cƣờng quốc kinh tế lớn thứ tƣ thế giới. Đồng thời, Trung Quốc cũng thu hút
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2