intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính sách điều hành của chính phủ đến đầu tư nội địa tại các nước đang phát triển

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:130

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá và kiểm định lại tác động của dòng vốn FDI đi vào các quốc gia đang phát triển đối với đầu tư nội địa tại quốc gia đó, cũng như xem xét ảnh hưởng của yếu tố thể chế điều hành lên đầu tư nội địa. FDI được cho là sẽ có hai loại tác động tới đầu tư nội địa, một là tác động thúc đẩy làm gia tăng đầu tư trong nước của quốc gia chủ nhà, và hai là tác động cản trở đầu tư nội địa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính sách điều hành của chính phủ đến đầu tư nội địa tại các nước đang phát triển

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của bất kỳ ai. Nội dung trong bài luận văn có sử dụng và tham khảo các tài liệu, thông tin đƣợc đăng tải trên các ấn phẩm, tác phẩm, tạp chí và các trang web đƣợc trình bày trong phần Tài liệu tham khảo của luận văn. Tác giả luận văn Nguyễn Hàn Thiên Lý
  2. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Mô tả biến và nguồn dữ liệu Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu Bảng 4.2: Kết quả ước lượng từ phương pháp Pooled OLS Bảng 4.3: Kết quả từ phương pháp ước lượng FEM không xem xét tương tác giữa FDI và WGI Bảng 4.4: Kết quả từ phương pháp ước lượng FEM có xem xét tương tác giữa FDI và WGI Bảng 4.5: Kiểm định phương sai thay đổi Bảng 4.6: Kết quả hồi quy từ phương pháp REM không xem xét tương tác giữa FDI và WGI Bảng 4.7: Kết quả hồi quy từ phương pháp REM có xem xét tương tác giữa FDI và WGI Bảng 4.8: Kiểm định Hausman cho FEM và REM Bảng 4.9: Kiểm định nội sinh Bảng 4.10: Kết quả tác động của FDI và chính sách điều hành lên đầu tư nội địa không xem xét tương tác giữa FDI và WGI với DPI làm biến phụ thuộc Bảng 4.11: Kết quả tác động của FDI và chính sách điều hành lên đầu tư nội địa xem xét trong sự tương tác giữa FDI và WGI với DPI làm biến phụ thuộc Bảng 4.12: Tổng hợp kết quả phân tích từ các phương pháp Bảng 4.13: Kết quả tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ lên đầu tư nội địa tại các quốc gia đang phát triển Châu Á Bảng 4.14: So sánh kết quả hồi quy cho toàn bộ mẫu các quốc gia đang phát triển và mẫu các quốc gia Châu Á Bảng 4.15: Tổng hợp kết quả tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ đến đầu tư nội địa khi sử dụng biến phụ thuộc PI và GFCF
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục bảng biểu Mục lục Tóm tắt ...................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ..................................................................................... 2 1.1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 3 1.3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3 1.4. Kết cấu của đề tài........................................................................................ 4 CHƢƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY . .................................................................................................................................... 5 2.1. Tổng quan về tình hình FDI trên thế giới ................................................ 5 2.2. Lý thuyết về tác động của FDI lên đầu tƣ nội địa ................................... 7 2.2.1. Lý thuyết về tác động lan tỏa tích cực ................................................7 2.2.2. Lý thuyết về tác động cản trở tiêu cực ..............................................13 2.2.3. Lý thuyết về vai trò của chính sách điều hành đối với đầu tƣ nội địa ..............................................................................................................19 2.3. Các nghiên cứu trƣớc đây ........................................................................ 22 2.3.1. Nghiên cứu về tác động hỗ trợ tích cực của FDI lên đầu tƣ nội địa .. ..............................................................................................................22 2.3.2. Nghiên cứu về tác động cản trở tiêu cực của FDI lên đầu tƣ nội địa. ..............................................................................................................24
  4. 2.3.3. Nghiên cứu về tác động của chính sách điều hành đối với đầu tƣ nội địa ..............................................................................................................31 CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................. 34 3.1. Lựa chọn mô hình nghiên cứu ................................................................. 34 3.2. Mô tả biến và nguồn dữ liệu .................................................................... 36 3.3. Phƣơng pháp kỹ thuật.............................................................................. 41 CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN............................. 44 4.1. Thống kê mô tả các biến .......................................................................... 44 4.2. Tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ đến đầu tƣ nội địa tại các nƣớc đang phát triển phân tích bằng mô hình Pooled OLS .. 46 4.3. Tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ đến đầu tƣ nội địa tại các nƣớc đang phát triển phân tích bằng FEM và REM.............. 47 4.4. Tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ đến đầu tƣ nội địa tại các nƣớc đang phát triển phân tích bằng GMM ........................... 54 4.4.1. Phân tích tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ lên đầu tƣ nội địa tại các nƣớc đang phát triển sử dụng biến phụ thuộc DPI bằng phƣơng pháp GMM ........................................................................54 4.4.2. Phân tích tác động của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ lên đầu tƣ khi sử dụng các biến phụ thuộc luân phiên bằng phƣơng pháp GMM ........................................................................................................63 CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN ..................................................................................... 66 5.1. Kết luận ..................................................................................................... 66 5.2. Hạn chế của đề tài..................................................................................... 67 Tài liệu tham khảo Phụ lục
  5. 1 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀ CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ ĐẾN ĐẦU TƢ NỘI ĐỊA TẠI CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Tóm tắt Các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển đều mong đợi sẽ thu hút nhiều FDI do những lợi thế mà dòng vốn nước ngoài này mang lại cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy vậy, không phải dòng FDI đi vào quốc gia nào cũng đều mang đến một tác động tích cực. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và đầu tư trong nước đã đạt được những kết quả trái ngược nhau, và chính sách điều hành của Chính phủ cũng được cho là sẽ có một ảnh hưởng nhất định đến đầu tư nội địa. Bài nghiên cứu sẽ xem xét lại tác động tích cực hay tiêu cực của FDI và chính sách điều hành đối với đầu tư nội địa tại các nước đang phát triển trên thế giới, sử dụng dữ liệu của mẫu 39 quốc gia đang phát triển thuộc khu vực Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Châu Âu trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2013. Bằng phương pháp phân tích GMM, bài nghiên cứu tìm thấy FDI sẽ có tác động tiêu cực đến đầu tư nội địa. Đồng thời, cũng tìm thấy những bằng chứng không rõ ràng về một chính sách điều hành tốt, được đại diện bằng việc sử dụng WGI (Worldwide Governance Indicators), không hỗ trợ cho đầu tư. Tuy nhiên, tác động gián tiếp của một chính sách điều hành tốt lại được tìm thấy mang một kết quả khả quan hơn. Từ khóa: FDI, chính sách điều hành, đầu tư nội địa, hỗ trợ, tích cực, cản trở, tiêu cực, quốc gia đang phát triển
  6. 2 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1. Lý do chọn đề tài Đối với dòng vốn đầu tư từ nước ngoài, đặc biệt là FDI, đang đóng một vai trò hết sức quan trọng tại các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là liệu dòng vốn này có mang lại những tác động hỗ trợ tích cực cho quốc gia tiếp nhận đầu tư hay không. Đây cũng là chủ đề được tranh luận một cách mạnh mẽ của nhiều nghiên cứu kinh tế. Rất nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, ảnh hưởng của FDI là tích cực. Có nhiều nhận định về khía cạnh này, FDI sẽ tạo ra những lan tỏa tích cực đến cho các quốc gia tiếp nhận. Các lan tỏa này bao gồm những tiến bộ về mặt công nghệ kỹ thuật, về tri thức, được chuyển giao cho các công ty nội địa, cho các nhà kỹ thuật, kỹ sư máy móc, mở rộng cách thức tiếp cận với các thị trường… hoặc thông qua việc thuê mướn các chuyên gia kỹ thuật từ thị trường trong nước. Lợi ích mang lại cho nước chủ nhà có thể là rất lớn, thông qua FDI, công nghệ sẽ được chuyển giao, thiếu hụt về vốn sẽ được cải thiện, cũng như đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, cơ hội tiếp cận thêm nhiều thị trường… Tuy nhiên, mặt khác nếu như quốc gia tiếp nhận đầu tư chưa đạt đến trình độ về tri thức và công nghệ đủ để tận dụng những lợi ích FDI mang lại, thì các công ty từ thị trường nội địa sẽ khó lòng cạnh tranh với luồng đầu tư từ nước ngoài này. Thêm một vấn đề nữa, nếu như quốc gia tiếp nhận có một chính sách điều hành không phát triển tốt, cũng được cho rằng sẽ gây khó khăn cho việc hấp thụ lợi ích từ dòng FDI vào. Từ đó sẽ dẫn đến việc các công ty trong nước sẽ dần bị đào thải và bị thay thế bởi những nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, liên quan đến vấn đề chính sách đầu tư, nếu như một quốc gia có những chính sách hướng về việc hỗ trợ cho lượng vốn đầu tư từ nước ngoài, nhiều khả năng hơn quốc gia này sẽ có khả năng tận dụng được cơ hội cũng như lợi thế mà dòng vốn FDI này mang lại nhiều hơn, và ngược lại. Như vậy, liệu rằng một dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mang đến ảnh hưởng như thế nào cho đầu tư
  7. 3 trong nước, và một chính sách điều hành tốt của quốc gia có đem lại lượng vốn đầu tư cao hơn cho nền kinh tế hay không. Đây chính là lý do bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm xem xét tác động có thể có của FDI và chính sách điều hành của Chính phủ đối với đầu tư nội địa tại các nước đang phát triển. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá và kiểm định lại tác động của dòng vốn FDI đi vào các quốc gia đang phát triển đối với đầu tư nội địa tại quốc gia đó, cũng như xem xét ảnh hưởng của yếu tố thể chế điều hành lên đầu tư nội địa. FDI được cho là sẽ có hai loại tác động tới đầu tư nội địa, một là tác động thúc đẩy làm gia tăng đầu tư trong nước của quốc gia chủ nhà, và hai là tác động cản trở đầu tư nội địa. Lợi ích mà FDI mang lại có sự khác biệt rất lớn ở những quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào một số yếu tố nhất định. Bài nghiên cứu này cũng sẽ thử giải thích một cách tốt hơn về tác động của FDI và chính sách điều hành quốc gia đến đầu tư nội địa, thông qua cách thức sẽ tính đến ảnh hưởng của khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của quốc gia chủ nhà và tận dụng được nguồn lực này để thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, nội dung của bài nghiên cứu sẽ trả lời cho hai câu hỏi: - Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI có tác động cùng chiều (thúc đẩy, gia tăng) hay ngược chiều (cản trở, kìm hãm) đối với Đầu tư tư nhân nội địa? - Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI trong sự tương tác với Chính sách điều hành của Chính phủ sẽ tác động cùng chiều hay ngược chiều lên Đầu tư tư nhân nội địa? 1.3. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013, bao gồm những quốc gia đạt được bộ dữ liệu đầy đủ và cân bằng nhất cho phân tích bảng, kể cả Việt Nam.
  8. 4 1.4. Kết cấu của đề tài Đề tài “Tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và chính sách điều hành của Chính phủ đến đầu tƣ nội địa tại các nƣớc đang phát triển” được trình bày theo kết cấu từ chương 1 đến chương 5 như sau: Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Khung lý thuyết và các nghiên cứu trước đây Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận Chương 5: Kết luận
  9. 5 CHƢƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 2.1. Tổng quan về tình hình FDI trên thế giới Sự xuất hiện của FDI được xem như là động lực cho sự hội nhập kinh tế toàn cầu kể từ thế kỷ XIX. Theo sau sự suy thoái của dòng vốn quốc tế trong nửa đầu thế kỷ XX, FDI bắt đầu tăng trưởng trong giai đoạn hậu chiến tranh do nhu cầu tái thiết lại của các quốc gia trên thế giới. Thập niên 70 là bằng chứng cho dòng FDI thấp hơn, nhưng xu hướng mở rộng tự do và toàn cầu hóa dẫn đến một sự gia tăng FDI sau thập niên 80. Sự gia tăng quan trọng nhất của dòng FDI xảy ra vào đầu thập niên 90; hàng năm dòng FDI trên khắp thế giới gia tăng hơn 200 tỷ đô la Mỹ sau năm 1992, trong khi chỉ khoảng 55 tỷ đô la vào đầu thập niên 80. Xu hướng gia tăng này tiếp tục sau thập niên 90, ngoại trừ sự giảm xuống giữa năm 2000 và 2004, đạt đến 1970 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007, bắt đầu từ giữa năm 2008 thì giảm xuống do khủng hoảng kinh tế toàn cầu còn 1200 tỷ đô la Mỹ trong năm 2009, và phục hồi trong năm 2010 và 2011 với mức 1500 tỷ đô la Mỹ (UNCTAD, 2012). Theo A. Mody, sự dâng tràn của dòng FDI toàn cầu sau thập niên 90 là một sự chuyển giao lớn phản ánh lại bao gồm cả nhu cầu đầu tư gia tăng của các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội lợi nhuận cao và sự thu hút từ các quốc gia đang phát triển tìm kiếm nhu cầu về đầu tư và công nghệ (Mody, 2007). Thảo luận hàn lâm về các tác động tích cực và tiêu cực có thể có của FDI đến sự tăng trưởng, năng lực sản xuất, đầu tư nội địa, cơ cấu việc làm, cán cân thanh toán, dòng thương mại quốc tế và công nghệ của quốc gia nhận đầu tư hiếm khi có liên quan đến những người lập chính sách trong những rủi ro tiềm ẩn của dòng FDI vào, và sau khoảng đầu thập niên 90, việc sử dụng những biện pháp mang tính khuyến khích tại địa phương nhằm thu hút FDI đã được mở rộng một cách đáng kể về tần suất cũng như giá trị (UNCTAD, 2003). Nhiều quốc gia có kế hoạch hoặc đã thực thi chính sách thu hút FDI nhằm mục đích sử dụng các nguồn lực của họ có hiệu quả hơn, hoặc tạo ra việc sử dụng các nguồn lực nhàn rỗi mà đã không được sử dụng gần đây, và với động cơ thúc đẩy cải thiện cấu trúc cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, tạo ra việc làm, tạo ra việc
  10. 6 sử dụng công nghệ cao hơn hoặc tiến tới các thị trường quốc tế. Tuy vậy, các quốc gia thường có hai vấn đề liên quan tới dòng FDI đi vào mà họ sẽ đón nhận. Thứ nhất là lo ngại về khối lượng, loại hình, và việc sử dụng những nguồn lực được chuyển giao, bởi FDI có thể mang lại ít lợi ích hơn một phương pháp lựa chọn phân bổ nguồn lực. Thứ hai, họ băn khoăn về việc các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại nước họ sẽ có nhiều sức mạnh thỏa thuận mua bán và có lợi thế cạnh tranh tốt hơn các doanh nghiệp nội địa (Dunning, 1981). Ngoài những vấn đề này, cũng có một cuộc tranh luận về việc FDI sẽ khuyến khích hay thay thế cho đầu tư nội địa. Theo các giả thuyết tích cực, FDI được cho là sẽ thúc đẩy đầu tư nội địa bởi vì FDI vào sẽ dẫn đến lượng đầu tư nội địa mới hoặc cao hơn nếu các nguồn đầu tư nội địa là có sẵn, điều này không thể xảy ra nếu không có FDI. Từ một nghiên cứu năm 1993 của Romer về mô hình tăng trưởng nội sinh, việc đưa ra sản phẩm mới cho nền kinh tế đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển, đã được chấp nhận một cách rộng rãi. Do đó FDI được cho là sẽ góp phần vào chi phí đầu tư của quốc gia chủ nhà thông qua việc đưa ra các sản phẩm và công nghệ mới. Tuy nhiên, khi một quốc gia tiếp nhận dòng vốn FDI từ nước ngoài, nếu như các nhà đầu tư nội địa không đủ sức cạnh tranh hoặc tiếp nhận công nghệ, kỹ năng,… mà các công ty đa quốc gia mang vào, họ sẽ nhanh chóng bị thay thế và do đó, làm giảm đầu tư nội địa. Một số các nghiên cứu lý thuyết gần đây đưa ra kết quả là, mức độ mà các công ty trong nước thu được lợi ích từ những tác động lan tỏa này phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của các công ty nội địa. Franseca Sanna-Randacio (1999) và D.Leahy và Peter Neary (1999) cho rằng, FDI thường dẫn đến một gia tăng trong năng suất của công ty nhận đầu tư, tuy nhiên, FDI chỉ làm tăng năng suất của nước chủ nhà khi mức độ lan tỏa công nghệ là đủ cao. Việc tăng năng suất nhờ vào lan tỏa công nghệ có nhiều khả năng đạt được hơn trong những khu vực được biểu thị bởi hoạt động nghiên cứu và
  11. 7 phát triển mạnh mẽ hoặc bởi các công ty có trình độ về mặt tri thức thích hợp để bắt đầu. Điều này đã được đưa ra trong nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Ari Kokko (1994) và Borensztein, De Gregorio và Lee (1998) cung cấp bằng chứng về những tác động lan tỏa tích cực của FDI đến các công ty nội địa chỉ được tạo ra khi chênh lệch về công nghệ giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp nội địa là không quá lớn và tại đó tồn tại ngưỡng tối thiểu của nguồn nhân lực của quốc gia chủ nhà. 2.2. Lý thuyết về tác động của FDI lên đầu tƣ nội địa 2.2.1. Lý thuyết về tác động lan tỏa tích cực Theo các lý thuyết kinh tế, có hai cách tiếp cận để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đầu tư nội địa. Các tiếp cận thứ nhất là dựa theo lý thuyết thương mại quốc tế tiêu chuẩn. Đây là cách tiếp cận so sánh tĩnh cân bằng từng phần nhằm xem xét các gia tăng biên do đầu tư nước ngoài được phân phối như thế nào. Giả thiết chính của mô hình này là các dòng vốn đầu tư nước ngoài, dù dưới dạng đầu tư trực tiếp hay đầu tư tài chính chứng khoán, sẽ làm tăng sản phẩm biên của lao động và giảm sản phẩm biên của vốn ở nước chủ nhà. Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng FDI có thể có mối liên kết với những lợi ích tiềm năng quan trọng khác, đặc biệt là lợi ích do đầu tư tư nhân nhiều hơn thay vì ít hơn từ nước ngoài có thể là doanh thu thuế cao hơn thu từ lợi nhuận của nước ngoài, thông qua lợi thế kinh tế theo quy mô và thông qua lợi thế kinh tế bên ngoài nói chung, nhất là trong trường hợp các doanh nghiệp trong nước tiếp thu bí quyết hoặc do sự thúc ép của cạnh tranh từ nước ngoài buộc các doanh nghiệp trong nước phải áp dụng những phương pháp hiệu quả hơn (MacDougall, 1960). Cách tiếp cận còn lại xuất phát từ lý thuyết tổ chức công nghiệp, và Hymer (1960) là người đưa ra trước tiên. Ở đây, điểm xuất phát là đặt câu hỏi tại sao các hãng lại tiến hành đầu tư ở nước ngoài để sản xuất cùng những hàng hóa mà họ sản xuất tại nước
  12. 8 họ. Câu trả lời được đưa ra như sau: “Để cho đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển mạnh phải có một mức độ không hoàn hảo nhất định trong các thị trường hàng hóa hay nhân tố sản xuất, kể cả công nghệ, hoặc một mức độ can thiệp nhất định của Chính phủ hoặc của các hãng vào môi trường cạnh tranh, điều này làm các thị trường tách biệt” (Kindleberger, 1969). Như thế, để có thể đầu tư sản xuất ở các thị trường nước ngoài, một hãng phải nắm giữ các tài sản nhất định (chằng hạn như sản phẩm, công nghệ sản xuất hoặc các kỹ năng về quản lý và tiếp thị) mà có thể được sử dụng để tạo lợi nhuận tại công ty thành viên ở nước ngoài. Các hãng đầu tư ở nước ngoài vì thế đại diện cho một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và những tính chất đặc biệt đó là điểm mấu chốt khi phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài lên các nước đang phát triển. Sự tham gia của một công ty đa quốc gia mang nhiều ý nghĩa hơn là chỉ đơn giản nhập khẩu vốn vào một quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư từ nước ngoài. Sự đặc biệt này là khá quan trọng với các quốc gia đang phát triển, nơi mà các doanh nghiệp trong nước thông thường là tương đối nhỏ, yếu và lạc hậu về công nghệ. Những quốc gia này còn khác với các quốc gia phát triển về các mặt như quy mô thị trường, mức độ bảo hộ, và kỹ năng chuyên môn. Sự tham gia của các công ty con của các công ty đa quốc gia vào các nước kém phát triển có thể sẽ tạo ra các tác động, cả tích cực lẫn tiêu cực, khác biệt rất lớn so với những tác động xảy ra khi nước tiếp nhận là quốc gia phát triển. Mặc dù hai cách tiếp cận theo lý thuyết thương mại truyền thống và tổ chức công nghiệp không có tính loại trừ lẫn nhau, cho đến ngày nay hai cách tiếp cận này vẫn nhấn mạnh vào các khía cạnh khác nhau của các dòng dịch chuyển vốn. Các nhà lý thuyết thương mại vẫn quan tâm chủ yếu đến các tác động trực tiếp của đầu tư nước ngoài (đầu tư trực tiếp cũng như đầu tư tài chính chứng khoán) lên các nhân tố sản xuất, công ăn việc làm, và các dòng vốn, trong khi những người theo cách tiếp cận tổ chức công nghiệp vẫn nhấn mạnh nhiều hơn đến các tác động gián tiếp hay các ngoại tác. Đề cập trong nghiên cứu này là cách tiếp cận tổ chức công nghiệp, tập trung vào
  13. 9 những vấn đề liên quan đến sự chuyển giao và lan tỏa của công nghệ và tri thức, cũng như tác động của FDI lên cơ cấu thị trường và cạnh tranh ở các nước chủ nhà. Lý thuyết chiết trung của Dunning (1983) cho rằng, để có thể tận dụng lợi ích mà dòng FDI mang lại, các doanh nghiệp nội địa trước khi tiếp nhận dòng FDI cần phải có ba lợi thế: một là lợi thế về quyền sở hữu (gồm có lợi thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hóa chi phí giao dịch), hai là lợi thế về khu vực (gồm có tài nguyên của đất nước, quy mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách của Chính phủ) và ba là lợi thế về nội địa hóa (gồm có giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng, tránh tình trạng thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao cho các doanh nghiệp, tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế). Dựa theo lý thuyết này, cả ba điều kiện nêu trên đều phải được thỏa mãn trước khi có FDI, với lợi thế từ quyền sở hữu và nội địa hóa sẽ tạo ra nhân tố “đẩy”, còn nhân tố “kéo” đối với FDI bắt nguồn từ lợi thế về khu vực. Những lợi thế này không cố định mà sẽ biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển. Do đó, dòng FDI vào từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ sẽ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở bước nào của quá trình phát triển. Như vậy, lý thuyết này giải thích cho việc dòng vốn FDI đi vào một quốc gia đang phát triển sẽ mang lại một tác động lan tỏa tích cực cho quốc gia đó, cụ thể hơn là sẽ thúc đẩy cho đầu tư nội địa phát triển, khi quốc gia tiếp nhận hội đủ các điều kiện nêu trên. Các tác giả Reuber (1973) và Casson (1985), về vai trò của các công ty đa quốc gia đối với các nước đang phát triển, cho rằng các công ty đa quốc gia khi đầu tư vào các nước đang phát triển sẽ mang lại một lượng vốn bổ sung đáng kể cho nước chủ nhà, bổ sung về công nghệ mới, kiến thức quản lý và tạo thị trường, giúp các quốc gia đang phát triển khai thác hiệu quả nguồn lực của quốc gia mình.
  14. 10 FDI tác động một cách tích cực lên đầu tư nội địa bằng các đầu tư của nó cho thị trường các yếu tố sản xuất, bởi vì các đầu tư đó sẽ làm tăng doanh thu cho các công ty nội địa và các chủ sở hữu nhà máy sản xuất. Ngoại tác tích cực và xu hướng lan tỏa của FDI sẽ làm tăng khả năng cho các nhà đầu tư trong nước. Tóm lại, đầu tư nước ngoài bằng các hình thức như tạo ra thị trường mới, gia tăng nhu cầu về các yếu tố đầu vào, cung cấp công nghệ mới sẽ tạo ra các tác động lan tỏa và đầu tư nội địa sẽ thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế. De Mello (1999) cũng chỉ ra rằng, nếu FDI hướng đến các khu vực bản địa mà ít được đầu tư, thông qua việc tăng khối lượng thương mại và thị trường trong khu vực này, nó có thể thúc đẩy cho các doanh nghiệp trong nước. Sự gia tăng của đầu tư nội địa là kết quả của việc nhận FDI thông thường sẽ xảy ra khi đầu tư nước ngoài tạo ra sự lan tỏa tích cực đến nền kinh tế nội địa. Như Borenzstein et al. (1998) đã chỉ ra, những lan tỏa như vậy xảy ra là do đầu tư nước ngoài thấp hơn các chi phí tiếp nhận công nghệ mới, đến lượt nó làm tăng tỷ lệ tăng trưởng. FDI cũng có thể tạo ra nhu cầu về các đầu vào chuyên biệt, do đó làm tăng năng suất biên của việc đầu tư trong các đầu vào đó. Tương tự, Van (1977) và Buffie (1993) cũng đưa ra hai chiều hướng tác động tích cực và tiêu cực của FDI đối với đầu tư nội địa. Hai tác giả này cho rằng, FDI sẽ tạo ra tác động tích cực cho đầu tư nội địa khi khoản đầu tư này sản xuất ra các sản phẩm bổ sung và do đó, sử dụng nguồn nguyên liệu từ thị trường trong nước. Các kênh ảnh hưởng tích cực có thể được phân loại như sau. Có thể có mối liên kết ngược được hình thành thông qua việc các công ty nội địa tại địa phương cung cấp đầu vào cho các công ty nước ngoài. Mối liên kết thúc đẩy có thể được hình thành như là một kết quả của việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ bởi các doanh nghiệp nước ngoài để được sử dụng như là những đầu vào làm nâng cao hiệu quả bởi các ngành công nghiệp nội địa. Tác động khuyến khích có thể xuất hiện do kiến thức được phổ biến từ các công ty đa quốc gia đến các doanh nghiệp nội địa, đạt được bước tiến về công nghệ
  15. 11 mới và những kiến thức ngầm. Cuối cùng, các tác động cấp số nhân có thể quan sát được khi FDI thâm nhập vào nước chủ nhà. Một ví dụ của các tác động này là các nhà đầu tư nước ngoài làm tăng số người có được việc làm tại nước chủ nhà bằng cách làm tăng chi tiêu địa phương cho hàng hóa và dịch vụ được sản xuất nội địa, đây là một thuận lợi cho các nhà đầu tư địa phương. Về phía các nhà lập chính sách, có rất nhiều lý do khiến họ tin tưởng rằng, FDI sẽ mang lại lợi ích cho đất nước của họ. Lý do thứ nhất là nhu cầu về chiến lược tái cấu trúc công ty tại các nền kinh tế mới nổi. Hầu hết các công ty tại nền kinh tế mới nổi của khối Soviet cũ được mô tả đặc điểm bởi máy móc lỗi thời và phương thức sản xuất lạc hậu. Để có thể cạnh tranh trong môi trường kinh tế thị trường, doanh nghiệp cần phải cải thiện hiệu quả hoạt động bằng cách tiến hành chiến lược tái cấu trúc, chẳng hạn như nâng cấp thiết bị và quy trình sản xuất. Các công ty nước ngoài sở hữu tiến bộ về công nghệ và nguồn tài chính cần thiết cho việc nâng cấp thiết bị sản xuất, và đưa đến chiến lược tái cấu trúc. Sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong các công ty nội địa có một lợi ích bổ sung là sẽ áp đặt phương pháp quản trị doanh nghiệp hiệu quả lên các công ty tư nhân hóa, thường là tư nhân hóa nhân sự nội bộ, những tác nhân có khả năng sẽ ngăn cản tiến trình tái cấu trúc. Klaus Wallner (1998) đưa ra một cách lý thuyết, đặc biệt là ở những quốc gia mới nổi, được nhận biết bởi các hạn chế ngân sách mềm mỏng, đầu tư từ nước ngoài được mong đợi để hoàn thành chiến lược tái cấu trúc như, sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài mang lại cho Chính phủ động lực để giảm trợ cấp cho các công ty, bởi vì về mặt khác, một phần trợ cấp sẽ chạy vào túi của các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, việc củng cố các hạn chế ngân sách làm tăng nỗ lực tái cấu trúc nhiều hơn bởi các nhà quản lý. Một lý do quan trọng thứ hai vì sao các nhà đầu tư nước ngoài lôi cuốn các quốc gia mới nổi là căn cứ vào niềm tin rằng họ sẽ tạo ra các ngoại tác tích cực đến các công ty
  16. 12 trong nước thông qua việc chuyển giao kỹ năng và công nghệ. Những lan tỏa này có thể xảy ra bằng nhiều hình thức khác nhau. David J.Teece (1977) tranh luận, việc đưa ra sản phẩm và quy trình sản xuất mới bởi các doanh nghiệp nước ngoài có thể mang lại lợi ích cho các công ty nội địa qua việc đẩy mạnh truyền bá kỹ thuật công nghệ mới. Điều này có thể xảy ra thông qua thay đổi trong lực lượng lao động hoặc tương tự hoặc những hình thức khác. Một hình thức có thể xảy ra qua cơ chế cân bằng trên thị trường khi tự do hóa, ở đây là việc khai thông của khu vực Trung và Đông Âu đối với phần còn lại của thế giới được bổ sung. Một số nghiên cứu dựa vào cách tiếp cận tân cổ điển đã cho rằng, FDI chỉ tác động đến mức thu nhập và không làm thay đổi sự tăng trưởng trong dài hạn (chẳng hạn Solow, 1957; De Mello, 1999). Các tác giả này chỉ ra rằng, tăng trưởng chỉ có thể tăng do sự phát triển của khoa học công nghệ và/hoặc sự tăng trưởng của dân số, cả hai điều này đều được xem xét ngoại sinh. Do đó, theo như các mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế, FDI chỉ có thể thúc đẩy tăng trưởng nếu như nó tác động một cách tích cực đến khoa học công nghệ và tác động này là bền vững. Mặt khác, có nhiều hơn các mô hình tăng trưởng nội sinh gần đây đã hàm ý rằng, FDI có thể tác động đến sự tăng trưởng nếu như nó tạo ra thu nhập gia tăng trong sản xuất thông qua các tác động bên ngoài và tác động lan tỏa. Trong những mô hình này, FDI được xem xét là một nhân tố quan trọng của nguồn nhân lực và sự phổ biến kỹ thuật công nghệ. FDI đưa ra những thực tế quản trị và sắp xếp tổ chức mới bên cạnh việc cung cấp sự huấn luyện lao động cho điều kiện sản xuất tại quốc gia chủ nhà. FDI khuyến khích cho sự kết hợp của những đầu vào và kỹ thuật mới trong hệ thống sản xuất của nước chủ nhà. Borensztein, Gregorio, và Lee (1998) cũng cho rằng, FDI là một phương tiện quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhiều hơn so với đầu tư nội địa. Các tác giả này cũng tạo ra một ngưỡng tối thiểu nguồn nhân lực cần thiết nhằm thu hút công nghệ từ nước ngoài một cách hiệu quả nhất.
  17. 13 Ngoài ra, cũng có những giả thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu được đưa ra. Kim ngạch xuất khẩu làm tăng năng suất nhân tố nhờ vào việc tận dụng tốt hơn năng lực và quy mô kinh tế. Các giả thuyết này cũng cho ra kết quả rằng, xuất khẩu có vẻ như sẽ làm giảm bớt các hạn chế về ngoại hối và do đó, tạo điều kiện nhập khẩu công nghệ và phương pháp sản xuất tốt hơn. Một chế độ thương mại tự do liên quan chặt chẽ với một môi trường đầu tư, trạng thái kỹ thuật công nghệ và hiệu quả tiếp nhận tốt. Một câu hỏi khác được đặt ra là, FDI và kim ngạch thương mại sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, hay sự phát triển của nền kinh tế sẽ mang lại FDI và giá trị thương mại là một vấn đề chưa được giải quyết. Một tác động tích cực của FDI và kim ngạch thương mại lên tăng trưởng kinh tế có thể đơn giản chỉ là phản ánh lại sự thật rằng, FDI sẽ được thu hút tới những quốc gia mong đợi có sự phát triển nhanh chóng và theo đuổi một chính sách thương mại mở cửa. Do đó, các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng, việc hiểu và nắm bắt được mối tương quan giữa FDI, kim ngạch thương mại và tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Tuy nhiên, do lý thuyết này vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng, nên vẫn còn là một chủ đề quan trọng cần những nghiên cứu thực nghiệm sâu hơn. 2.2.2. Lý thuyết về tác động cản trở tiêu cực Tuy nhiên, không phải lúc nào dòng FDI đi vào một quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển đều tạo ra những kết quả ảnh hưởng tích cực. Dòng FDI đi vào một quốc gia sẽ làm tăng tiền công và giá các nguyên liệu đầu vào tại các nước nhận đầu tư, điều này sẽ gây ra một sự sụt giảm trong việc sử dụng yếu tố đầu vào đó và làm giảm việc làm, từ đó dẫn đến tác động tiêu cực. Khi sự khác biệt về công nghệ giữa các công ty nước ngoài và nội địa trên quy mô lớn và có rất ít nguồn nhân lực có kỹ năng, FDI sẽ buộc các công ty nội địa rơi vào tình trạng dễ bị thay thế (Kokko, 1994; Aitken và Harrison, 1999). Ngoài ra, tác động cản trở của FDI có thể xảy ra khi các công ty nước ngoài và nội địa hoạt động trong cùng một ngành. Khi FDI đi vào
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2