Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Tuyển chọn máy kéo để phay đất trồng lúa cho khu vực đồng bằng Cần Thơ
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho việc tuyển chọn máy móc, thiết bị làm đất nói chung và phay đất trồng lúa nói riêng. Trên cơ sở đó tiến hành tuyển chọn loại máy kéo để làm đất trồng lúa cho Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu Long. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Tuyển chọn máy kéo để phay đất trồng lúa cho khu vực đồng bằng Cần Thơ
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------------------------------- LÊ BÁ DẦN TUYỂN CHỌN MÁY KÉO ĐỂ PHAY ĐẤT TRỒNG LÚA CHO KHU VỰC ĐỒNG BẰNG CẦN THƠ LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT Hà Nội, 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------------------------------- LÊ BÁ DẦN TUYỂN CHỌN MÁY KÉO ĐỂ PHAY ĐẤT TRỒNG LÚA CHO KHU VỰC ĐỒNG BẰNG CẦN THƠ CHUYÊN NGÀNH: KỸ THUẬT MÁY VÀ THIẾT BỊ CƠ GIỚI HÓA NÔNG - LÂM NGHIỆP Mã số: 60.52.14 LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN BỈ Hà Nội, 2011
- 1 MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế có chiều hướng tăng tỷ trọng về dịch vụ và công nghiệp. Nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế nước nhà. Việt Nam một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với hàng triệu tấn gạo được bán ra nước ngoài mỗi năm. Sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò lớn trong nền kinh tế của nước nhà, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Với một tỷ lệ dân số cao sống ở nông thôn có mức thu nhập thấp, diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm phần lớn diện tích đất canh tác, để phát triển tương xứng với vai trò trong nền kinh tế, giảm lao động nặng nhọc và nâng cao thu nhập cho người nông dân, bên cạnh việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh rộng lớn thì thực hiện cơ giới hóa là rất cần thiết. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất đồng bằng phì nhiêu, rộng lớn có điện tích tự nhiên 3 973 000 ha với các loại cây trồng chủ yếu: lúa, hoa màu, cây ăn trái. Trong đó lúa là cây trồng chủ lực với diện tích trên hai triệu ha, năm 2009 cho sản lượng 20,633 triệu tấn chiếm hơn 80% lượng lúa xuất khẩu của cả nước. Để đáp ứng cho quá trình canh tác, người dân đã từng bước áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất. Hầu hết những khâu sản xuất nặng nhọc đã được cơ giới hóa, giải phóng sức lao động chân tay, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Một trong những khâu nặng nhọc trong quá trình sản xuất nông nghiệp đã được người dân ở đồng bằng sông Cửu Long áp dụng cơ giới hóa đó là khâu làm đất. Với diện tích đất sản xuất nông nghiệp rộng lớn, được phù sa phì nhiêu bồi đắp hàng năm nhờ dòng nước sông Mê-kông. Từ lâu, người dân nơi đây đã biết sử dụng máy cơ giới để thực hiện quá trình làm đất, các loại máy cơ giới được sử dụng trong khâu này lúc đầu là những máy móc thô sơ, năng suất thấp; sau này, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các loại máy móc hiện đại, năng suất cao đã được người dân sử dụng hiệu quả
- 2 hơn, có nhiều tính năng hơn. Các loại máy được sử dụng phổ biến hiện nay như: Belarut 510 – 512 (MTZ 50, MTZ 52 của Liên Xô cũ); John deere- 5310 của Mỹ, Kubota L2800, L3408, Yanmar, Fiat…. Cũng như toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long khu vục Cần Thơ các loại máy kéo trên cũng đang được sử dụng phổ biến để làm đất trồng lúa. Việc lựa chọn sử dụng máy kéo để làm đất trồng lúa từ trước tới nay chủ yếu dựa theo kinh nghiệm và điều kiện của từng cơ sở sản xuất, chưa có một nghiên cứu nào về việc đánh giá hiệu quả sử dụng của các loại máy kéo dùng để làm đất này. Vì vậy việc chọn và mua sắm thiết bị làm đất còn phân tán, nhỏ lẻ mạnh ai lấy làm. Việc nghiên cứu tuyển chọn một loại máy kéo thích hợp cho khâu làm đất ở khu vực đồng bằng Cần Thơ là rất cần thiết. Do đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Tuyển chọn máy kéo để phay đất trồng lúa cho khu vực Đồng bằng Cần Thơ”.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA NÔNG NGHIỆP VÀ SỬ DỤNG MÁY KÉO LÀM ĐẤT TRỒNG LÚA 1.1. Tổng quan tình hình cơ giới hóa nông nghiệp và sử dụng máy kéo làm đất. 1.1.1. Tình hình cơ giới hóa nông nghiệp và sử dụng máy kéo làm đất ở nước ngoài. Cơ giới hóa là một biểu tượng cho một nền nông nghiệp hiện đại, nó chỉ xuất hiện khi có nhu cầu lớn và nền công nghiệp nước sở tại phát triển mạnh. Nhiều nước thúc đẩy chương trình cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là khâu làm đất chỉ vì thiếu nhân công hoặc gia súc để cày kéo, hoặc khai thác đất đai rộng lớn quá sức người. Nhiều chính phủ của các nước đang phát triển như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan có chính sách khuyến khích nông dân sử dụng cơ giới để tăng hiệu suất, năng suất, lợi nhuận và giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động. Những biện pháp khích lệ thường bao gồm miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu cho các máy móc và thiết bị, cung cấp tín dụng dễ dàng, tài trợ các dịch vụ liên hệ cơ giới hóa nông nghiệp [7]. Ngành nông nghiệp truyền thống nhất là ngành trồng lúa đòi hỏi rất nhiều sức lao động, hiệu quả kinh tế thấp; nhưng nguồn nhân lực nông thôn từ từ giảm sút do sức thu hút việc làm và đời sống ở thành thị. Do đó, công nghiệp hóa có cơ hội lớn mạnh ở các nước đã phát triển như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác ở châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và châu á đang có nền kinh tế phát triển nhanh. Ngoài ra, còn có một số nước đang phát triển ở châu Phi, như Senegal, Côte divoire và Kenya đã có chính sách ưu tiên phát triển cơ giới hóa sản xuất lúa vào thập niên 1960 và 1970 của thế kỷ 20 để hiện đại hóa đất nước; trong khi lực lượng lao động làm việc ở nông thôn vẫn còn dư thừa. Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp đặc biệt là khâu làm đất không những là phương tiện hữu hiệu để đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm đầy đủ
- 4 cho nhu cầu dân số tăng nhanh, mà còn tiết kiệm được năng lượng, nguồn tài nguyên và góp phần vào phát triển công nghiệp và dịch vụ trong nước. Mục tiêu cuối cùng của cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp là làm thay đổi cuộc sống ở nông thôn được tốt đẹp và đấy đủ hơn trong các nước đang phát triển. Cuộc Cách Mạng Xanh xảy ra trên thế giới vào thập niên 1970 và 1980 thế kỷ 20 đã thúc đẩy mạnh sử dụng các lực lượng hỗ trợ nông dân, gồm cả các phương tiện cơ giới khâu làm đất và các khâu khác để đẩy mạnh sản xuất . Các nước Âu - Mỹ đã bắt đầu thực hiện cơ giới hóa từ những năm 30-40 của thế kỷ 20 [6], đến nay đã đạt đến mức đồng bộ và tự động một số khâu công việc. Do đất rộng người thưa (bình quân diện tích rất lớn: Mỹ 61 ha/người, Canađa 97 ha/người, các nước Anh Pháp, Đức bình quân 6-12 ha/người [7]. Do đó cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp là biện pháp hàng đầu. Các máy được trang bị và sử dụng là những máy có công suất lớn, làm việc năng suất cao như máy kéo bánh bơm công suất 75-300 kw để thực hiện các khâu công việc làm đất, chăm sóc, thu hoạch. Bình quân mã lực cho 1 ha đất canh tác tại Mỹ 25 Hp/ha, các nước Tây Âu 18 Hp/ha, các nước Đông Âu cũ 5-8 Hp/ha (1990), vì thế lao động nông nghiệp chỉ còn 5-10% [7]. Cơ giới hóa là sự biến đổi vô cùng quan trọng về công cụ sản xuất, làm cho năng suất lao động và chất lượng nông sản hàng hóa tăng lên nhiều lần, thu nhập của người nông dân tăng lên rất cao. Ở Mỹ năm 1994 mỗi lao động nông nghiệp trung bình sản xuất 9.929 kg lương thực các loại, 19.700 kg sữa, 1.223 kg trứng, thỏa mãn nhu cầu của 100 người dân trong nước và xuất khẩu 1/3 sản phẩm ra thị trường thế giới [7]. Sử dụng máy kéo làm đất có thể tạo ra công việc làm ở nông thôn bằng các hoạt động máy móc, và dịch vụ liên hệ ngoài nông nghiệp. Cơ giới hóa làm đất giúp chống lại xói mòn đất đai và giảm bớt thời gian làm việc, công sức của người lao động. Trong 1940 của thế kỷ 20, máy cày phay chôn các rơm rạ lúa mì làm giảm đất xói mòn do nước và gió, và đồng thời bảo tồn
- 5 nước lâu dài trong đất. Ở các nước đang phát triển, cơ giới hoá khâu làm đất nông nghiệp giúp nông dân có nhiều thời gian để thâm canh vụ và dành cho các công việc đồng áng khác khi vụ mùa đang ở đỉnh cao. Nông dân có thể áp dụng các kỹ thuật trồng trọt tiên tiến dễ dàng, không còn bị chậm thời vụ khi dùng nhiều sức lao động, nhưng công việc lại chậm chạp. Hình 1.1. Cơ giới hoá khâu làm đất Tình trạng sản xuất lúa cơ giới hóa trên thế giới đa dạng, thay đổi tùy theo từng lục địa. Ở những nước cơ giới hóa cao, nông dân không hẳn luôn luôn có nông trại lớn với hàng trăm hoặc hàng ngàn hecta, mà còn có các nông trại nhỏ độ 10-20 ha. Ở Mỹ và các nước châu Mỹ La Tinh phần lớn có những nông trại lớn từ 50 ha đến hàng ngàn ha, trong khi châu Âu và các nước Baltics có những nông trại trung bình từ 10-200 hecta. ở Nhật Bản và Hàn Quốc, phần lớn nông dân có các ruộng lúa rất nhỏ từ 0,5 đến 5 ha mà thôi. Hiện nay, thế giới có 58 nước trong tổng số 112 nước trồng lúa trên thế giới được cơ giới hóa hoàn toàn và một phần chủ yếu là khâu làm đất [7]. Cơ giới hóa khâu làm đất chiếm tỉ số tương đối ít, độ 5-10% trong các nước cơ giới có trồng thêm lúa rẫy ở các vùng đất gợn sóng hoặc đồi núi, như ở châu Mỹ La Tinh.
- 6 Khuynh hướng phát triển cơ giới hóa nông nghiệp được phản ánh qua đẩy mạnh sử dụng máy kéo làm đất trên thế giới. Sử dụng máy kéo tăng nhanh trong thời kỳ Cách Mạng Xanh (CMX), sau đó mức độ trở nên chậm chạp. Tổng số máy kéo tăng từ 13,3 triệu trong 1961 (trước CMX) lên cao điểm 26,7 triệu trong 1990 (sau CMX), hay tăng 4,5% mỗi năm. Từ 1990 đến nay, mức tăng trưởng số máy kéo rất chậm, chủ yếu do các nước Âu, Mỹ và các quốc gia chuyển tiếp (Ðông Âu) [7]; trong khi cơ giới hóa vẫn còn tiếp tục phát triển ở Châu Á, Trung Ðông và châu Mỹ La Tinh & Caribbean. Ở một số nước Châu Á mức độ cơ giới hóa trong từng khâu của sản xuất nông nghiệp thể hiện ở bảng (1.1), trong đó: mức độ cơ giới hóa làm đất, tưới tiêu và vận chuyển thực hiện trước và cao nhất, sau đó tiếp đến các khâu khác như gieo cấy, thu hoạch. Bảng 1.1: Mức độ cơ giới hóa các khâu canh tác chủ yếu (năm 1994) Khâu công việc, % Tên nước Làm đất Cấy lúa Tưới tiêu Thu hoạch Vận chuyển Trung Quốc 63,1 24,7 60,2 15 60 Hàn Quốc 100 97 94 95 100 Thái Lan 90 5 50 20 - Nhật Bản 100 99 - 99 100 Đài Loan 98 98 - 98 100 Mức trang bị động lực tùy theo từng nước, mức độ trang bị động lực của từng nước thể hiện ở bảng (1.2) và lọai máy kéo trang bị của một số nước ở bảng (1.3). Ở nước phát triển diện tích đất lớn, cây trồng cạn là chủ yếu, mức độ cơ giới hóa cao thì dùng máy có công suất lớn. Ở các nước đất chật người đông, ruộng đất nhỏ hẹp dùng máy kéo nhỏ là chính. Các nước xung quanh ta như Philippin, Indonexia, Thái Lan mức độ trang bị đều cao hơn nước ta. Riêng Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cao gấp nhi`ều lần.
- 7 Bảng 1.2. Mức độ trang bị động lực Tên nước Mã lực/ ha canh tác Nhật Bản 7 Hàn Quốc 4,2 Thái Lan 1,35 Ấn Độ 0,5 Philippin 0,8 Indonexia 0,72 CHDCNN Triều Tiên 0,5 Trung Quốc 3,8 Đài Loan 2,8 Bảng 1. 3: Máy móc trang bị năm 1994 Tên nước Loại máy Trung Quốc Hàn Quốc Thái Lan Ấn Độ Đài Loan Máy kéo 4 bánh 690.960 88.700 79.800 1.500.000 21.500 Máy kéo 2 bánh 8.180.100 836.800 984.500 180.000 128.700 Số liệu của Hàn Quốc, Trung Quốc tính đến 1998; Nhật Bản, Đài Loan trước 1996, các nước khác 1990. Tại một số nơi có nền sản xuất lúa nước phát triển ở châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan, quá trình sản xuất lúa được cơ giới hóa hoàn toàn, mang tính đồng bộ cao. Đặc biệt là khâu làm đất, ruộng đất được quy hoạch tốt, hệ thống thủy lợi đầu tư đầy đủ, kế hoạch sản xuất phải được thiết lập đảm bảo cho việc ứng dụng máy móc một cách đồng bộ và triệt để. Mỗi nước, mỗi quốc gia có một mô hình quản lý khác nhau. Tại Nhật Bản từ năm 1967 đã cơ giới hóa làm đất 66%, trong đó ruộng nước 96%, . Từ đầu những năm 90, Nhật Bản xúc tiến mở rộng quy mô trang trại, kích thước lô thửa ruộng để chuyển hướng sử dụng máy kéo và máy nông nghiệp cỡ 5 - 10 Hp sang 20 - 30 Hp và lớn hơn. Đến nay quy mô ruộng đã đạt từ 0,5 -1 ha, 2,5- 3 ha và lớn hơn, nhưng lớn nhất không vượt quá 10 ha. Tỷ lệ diện tích sử
- 8 dụng máy kéo làm đất tại Nhật Bản tăng dần năm đến 1980 đã đạt tỷ lệ 100% [16]. Đài Loan cơ giới hóa chủ yếu mang tính dịch vụ. Nhưng dù dưới hình thức nào thì việc lập kế hoạch trong sản xuất mang tính khoa học rất cao. Quá trình phát triển cơ giới hóa nông nghiệp ở Đài Loan chia 3 giai đoạn: - Từ năm 1955 – 1970: Chủ yếu sử dụng máy kéo tay, guồng tuốt lúa đạp chân nhập khẩu từ Nhật Bản. - 1970 – 1983: Cơ giới hóa làm dất và các khâu khác trong sản xuất nông nghiệp. - Từ năm 1984 đến nay: Cơ giới hóa đã phát triển đồng bộ, ngoài lúa, cơ giới hóa cây trồng cạn, làm vườn cũng được phát triển. Đến 1995 cơ bản hoàn thành cơ giới hóa nông nghiệp, tỷ lệ cơ giới hóa các khâu đạt 95%. Trung Quốc luôn coi nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc dân và cơ giới hóa đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp. Tính đến cuối năm 2008, tổng động lực máy nông nghiệp ở Trung Quốc đạt 822 triệu KW, tăng 6,5% so với năm 2007. Trong đó có hơn 3 triệu máy kéo cỡ lớn và cỡ trung, 17 triệu máy kéo cỡ nhỏ, và một lượng lớn máy cày, bừa. Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp là 45,85% (trong đó cơ giới hóa trong sản xuất lúa đạt 51,2%). Năm 2008, Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư 13 tỷ NDT để hỗ trợ nông dân mua máy [16]. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường về máy kéo cỡ trung và và cỡ lớn tăng nhanh nên các nhà máy chế tạo máy nông nghiệp nổi tiếng trên thế giới đã đặt văn phòng đại diện tại Trung Quốc như Công ty Tongyang của Hàn Quốc, hãng Kubota và Yanmar của Nhật Bản… 1.1.2. Tình hình cơ giới hóa và sử dụng máy kéo làm đất ở Việt Nam. Cơ giới hóa trong sản xuất lúa tại Việt Nam bắt đầu từ cuối những năm 1950 [16] và theo ba giai đoạn: - Giai đoạn 1(1950 – 1982): Phần lớn giai đoạn này gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Việc phát triển ngành cơ giới hóa nông
- 9 nhiệp chỉ ở những bước chập chững ban đầu. Áp dụng chủ yếu ở khâu làm đất với những loại máy kéo do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cũ sản xuất có công suất từ 40 mã lực trở lên. - Giai đoạn 2 (1983 – 1990): Giai đoạn xây dựng đất nước thống nhất sau cuộc chiến tranh trường kỳ kéo dài. Ngành cơ khí nông nghiệp phát triển mạnh mẽ với sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa và theo mô hình trạm đội tập trung số lượng nhiều máy kéo, chủng loại chủ yếu là MTZ 50/52, MTZ 80/82 do Liên Xô cũ sản xuất, ZETOR do Tiệp Khắc sản xuất, UTBE do Rumani sản xuất…vv và phục vụ chủ yếu cho khâu làm đất. - Giai đoạn 3 (1990 đến nay): Ruộng đất được chia lâu dài cho nông dân tự chủ canh tác. Mỗi hộ nông dân được coi là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ sản xuất trong phần đất của mình. Mô hình trạm, đội máy kéo lớn, chủng loại nghèo làn không còn phù hợp nữa. Khi đó hàng loạt máy kéo của các nước có nền cơ khí nông nghiệp phát triển mạnh như Mỹ với máy JOHNDEER, Nhật với máy KUBOTA, YANMA,… máy kéo FIAT, Trung Quốc và máy kéo do chính Việt Nam sản xuất……với nhiều cấp công suất từ 12 mã lực đến 80 mã lực có mặt trên thị trường Việt Nam. Người nông dân có nhiều lựa chọn để mua sắm máy kéo phục vụ cho làm đất trồng lúa hơn, nhưng do còn ảnh hưởng của chế độ bao cấp nên tốc độ phát triển chậm và không ổn định. Trong năm 2010, mức độ cơ giới hoá làm đất trồng lúa đạt 75%. Theo thống kê trong nông nghiệp nước ta hiện số lượng máy kéo các loại có khoảng 300.000 chiếc, tổng công suất 3,5 triệu mã lực. Trong đó máy kéo hai bánh dưới 15 mã lực chiếm khoảng 75,3%, máy kéo 4 bánh 15 – 35 mã lực khoảng 15,2%, máy kéo trên 35 mã lực chỉ chiếm 9,5% . Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn có tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp cao nhất đạt 69%, Tây Nguyên 34,54%, trung du miền núi phía Bắc 4,7- 6%, duyên hải Nam Trung Bộ 4,29 – 4,53% [11]. Mức độ trang bị công suất máy toàn quốc đạt 0,7 mã lực/ha canh tác, trong đó vùng Tây Nguyên 2,0 mã lực/ha là nơi có trang bị máy kéo cao nhất toàn quốc; thấp nhất vùng miền núi phía Bắc chỉ có 0,14 mã lực/ha.
- 10 Trong nhiều năm qua, mức độ tăng trưởng về cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp bình quân 8% năm góp phần nâng cao khả năng thâm canh, luân vụ, tăng năng suất, chất lượng nông sản chủ yếu và giảm tổn thất sau thu hoạch. Trong lĩnh vực sản xuất lúa, mặc dầu diện tích canh tác giảm, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất lúa gạo không ngừng nâng lên. Năng suất lúa tăng từ 45,9 tạ/ha năm 2002, lên 48,9 tạ/ha năm 2006. Sản lượng lúa tăng từ 34,4 triệu tấn năm 2002 lên 35,8 triệu tấn năm 2006, vượt chỉ tiêu Đại hội IX của Đảng đề ra là 34 triệu tấn; Trong đó, riêng ĐBSCL áp dụng máy móc trong khâu làm đất trên 80% bảo đảm sản xuất 3 vụ, khâu gặt 15%, sấy lúa chủ động 38,7% góp phần đạt 18,5 triệu tấn, chiếm 50% sản lượng và trên 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước [10]. Ngành cơ khí trong nước đã có bước chuyển biến tích cực, chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu thống kê, trong 3 năm (2002-2004), đã sản xuất 148.044 động cơ diezel, 7.747 máy kéo các loại. Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp (VEAM, Bộ Công Nghiệp), hàng năm cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản khoảng 40.000 động cơ, máy kéo và các loại máy nông nghiệp, chiếm 30% thị phần trong nước [11]. Tuy nhiên mức độ trang bị công suất trên diện tích canh tác (0,7 mã lực/ha) so với các nước trong khu vực còn thấp, như Thái Lan 4 Hp/ha, Trung Quốc 8,7 Hp/ha…Cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp mới chỉ tập trung cây lúa và khâu làm đất. Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp của các tỉnh trong cả nước cũng được chú trọng và đẩy mạnh như Thừa Thiên Huế có khoảng 50 chiếc loại máy kéo có công suất 35 mã lực, 820 chiếc loại công suất nhỏ 12 đến dưới 35 mã lực, máy kéo có công suất dưới 12 mã lực khoảng 1.854 chiếc và khoảng 4000 máy cày, bừa [24]. Theo Chi cục phát triển nông thôn Cần Thơ năm 2010 Cần Thơ có khoảng 2.500 máy làm đất và vận chuyển, khâu làm đất đã được cơ giới hóa đến 97% [23].
- 11 Mục tiêu đến năm 2020, cơ giới hóa sản xuất lúa trong khâu làm đất trong cả nước đạt 100%, diện tích trồng lúa ở 2 vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng được cơ giới hóa bằng các loại thiết bị tiên tiến và hiệu quả cao [16]. Việc đẩy nhanh cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu lao động, bảo đảm tính thời vụ, tăng năng suất, chất lượng và giảm tổn thất sau thu hoạch. 1.2. Những vấn đề cần nghiên cứu tuyển chọn máy kéo làm đất ở Việt Nam. Ở Việt Nam cũng đã có những công trình nghiên cứu tuyển chọn máy kéo làm đất và các công việc khác phục vụ cho cơ khí hóa nông nghiệp như: Đề tài “Nghiên cứu, tuyển chọn, thiết kế và chế tạo một số máy phục vụ canh tác ở vùng mía tại Cao Bằng” [25]. Do Trung tâm Cơ điện Nông nghiệp và Ngành nghề Nông thôn chủ trì thực hiện. Đề tài nhằm tuyển chọn, chế tạo một số máy canh tác phù hợp với điều kiện vùng trồng mía của tỉnh, góp phần giảm chi phí lao động, tăng năng suất và nâng cao thu nhập cho người trồng mía. Đã được hội đồng KH&CN tỉnh Cao Bằng nghiệm thu đề tài nêu trên. Đề tài đã lựa chọn được máy kéo 4 bánh Foton 324 là nguồn động lực cỡ trung bình phù hợp để liên hợp với máy canh tác mía; lựa chọn, thiết kế, chế tạo được liên hợp máy cày lật có năng suất 0,2-0,25 ha/h, liên hợp máy phay gốc mía và làm nhỏ đất có năng suất 0,35-0,45 ha/h, liên hợp máy phay sâu có năng suất 0,2-0,3 ha/h. Qua sử dụng, người dân cho biết: Chất lượng làm đất của liên hợp máy này tốt hơn nhiều chất lượng làm đất của liên hợp máy kéo 2 bánh hiện hành và đề nghị phổ biến nhanh hệ thống máy canh tác vào vùng sản xuất mía Cao Bằng. Hoặc các nghiên cứu tuyển chọn máy kéo làm đất, dọn thực bì, ….phục vụ cho trồng rừng và vườn ươm của Viện Khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam, lựa chọn máy kéo để liên hợp với máy cày ngầm chống xói mòn và làm giảm nhanh độ ẩm của đất của trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. “Phương pháp xác định hệ thống máy kéo cơ giới hóa khâu làm đất vùng trung du” của Nguyễn Văn An, Trường Cao Đẳng Nghề Cơ Khí Nông Nghiệp.
- 12 Việt Nam nói chung, vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ nói riêng hiện sử dụng máy kéo làm đất đang ở trong tình trạng, sử dụng theo khả năng với các định hướng còn ít dẫn đến sử dụng thiết bị rất đa dạng và nhiều chủng loại. Do đó việc mua sắm thiết bị và phụ tùng sửa chữa phân tán nhỏ lẻ, khó đánh giá được hiệu quả sử dụng của các máy kéo làm đất. Để tiến tới cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trong canh tác lúa cần phải nghiên cứu một loại máy kéo có thể dùng chung cho tất cả các đối tượng canh tác khác nhau. Từ đó dẫn đến việc mua sắm các thiết bị sản xuất tập trung được, các cơ sở sản xuất có thể sản xuất hàng loạt với giá thành rẻ hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế. 1.3. Công nghệ và thiết bị cơ giới hóa khâu làm đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ. 1.3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ. a) Đặc điểm tự nhiên: Vùng đồng bằng sông Cửu Long hình (1.2), theo ranh giới hành chính hiện nay gồm 13 tỉnh, thành phố là: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và TP Cần Thơ. Tòan đồng bằng có tổng số 102 huyện, thị xã, trung bình mỗi tỉnh có khoảng 8 huyện, mỗi huyện quản lý khoảng 35 - 40 ngàn ha đất tự nhiên và 130 - 150 ngàn dân, bình quân mỗi huyện có 11 xã, mỗi xã quản lý từ 3 - 3,5 ngàn ha đất tự nhiên và 12 - 14 ngàn dân. ĐBSCL có 700 km đường biên giới chung với Campuchia. Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích 4.060.200 ha. Có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là
- 13 Biển Đông. Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Hình 1.2: Bản đồ nông nghiệp và kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long
- 14 Sông Mê Kông cung cấp lượng nước trung bình hàng năm vào khoảng 4.000 tỷ m³ nước và vào khoảng 100 triệu tấn vật liệu phù sa (Morgan F. R., 1961) cho đồng bằng sông Cửu Long. Thủy văn vùng đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh hưởng bởi dòng chảy của hệ thống sông Mê Kông (chủ yếu là sông Tiền và sông Hậu) với lưu lượng khổng lồ 40 000 m3/s, tạo nên mùa lũ hàng năm từ tháng 7 đến tháng 11 với mức ngập trung bình từ 50-100cm. Đồng bằng sông Cửu Long có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 dương lịch, cung cấp 80% lượng mưa cả năm và mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 dương lịch năm sau. Hình 1.3: Bản đồ hành chính thành phố Cần Thơ Cần Thơ hình (1.3) nằm ở trung tâm trong vùng châu thổ nên mang đầy đủ những đặc điểm về tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung, đất đai trong phạm vi thành phố Cần Thơ khá tốt. So với tổng diện tích tự nhiên, đất phù sa chiếm tới 66,74%, đất líp chiếm 14,11%, đất phèn chỉ
- 15 chiếm 14, 01% (đất phèn năng chiếm 2,26%), thích hợp với phát triển nhiều loại cây trồng, rất thuận lợi cho thâm canh. b) Đặc điểm phân bố sử dụng đất: Theo nguồn liên giám 2008. Tổng diện tích tự nhiên của vùng đến ngày 01 tháng 01 năm 2008 là 4.060,2 ngàn ha (chiếm 12,3% diện tích cả nước), trong đó đất nông nghiệp 2.560,6 ngàn ha (chiếm 27,2% diện tích đất nông nghiệp cả nước), đất lâm nghiệp 336,6 ngàn ha (chiếm chưa đến 2,3% diện tích đất lâm nghiệp cả nước), đất chuyên dùng 234,1 ngàn ha (chiếm 15,1% tổng diện tích chuyên dùng của cả nước), đất ở 110 ngàn ha (chiếm 17,7% diện tích đất ở của cả nước) Cơ cấu diện tích đất sử dụng của vùng đồng bằng sông Cửu Long đến ngày 01 tháng 01năm 2008: dùng vào sản xuất nông nghiệp 63,1%; sản xuất lâm nghiệp 8,3%; đất chuyên dùng 5,8%; đất ở 2,7%. Về địa hình đất đai của vùng đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung khá bằng phẳng, màu mỡ, lô thửa một số vùng rộng lớn, rất thuận tiện cho canh tác và sử dụng cơ giới hóa các khâu canh tác các loại cây trồng. Cơ cấu diện tích đất nông nghiệp chiếm 63,1%, so với cả nước thì cao hơn rất nhiều (28,4%). Dự kiến năm 2010, diện tích trồng cây hàng năm: 1.925.007 ha (chiếm 66,92 % đất nông nghiệp: 2.876.594 ha); diện tích trồng cây lâu năm: 452.950 ha (chiếm 15,7 % đất nông nghiệp); trồng lúa: 1.803.455 ha (chiếm 62,7 % đất nông nghiệp, chiếm 93,7 % đất trồng cây hàng năm – 1.925.007 ha); diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 482.325 ha (chiếm 16,8% đất nông nghiệp); diện tích đồng cỏ chăn nuôi: 1.000 ha chiếm 0,1%. Những năm gần đây, thực hiện chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế việc phân bổ sử dụng quĩ đất ở đồng bằng sông Cửu Long có sự thay đổi nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá,
- 16 hiện đại hoá và đô thị hoá nông thôn. Xu hướng sử dụng đất là chuyển một diện tích đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng, trồng các cây hàng năm và cây ăn trái, đất lâm nghiệp và đất ở. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhất của cả nước. Gía trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp của vùng hàng năm chiếm khoảng 38 - 40% tổng gía trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp cả nước. Sản lượng lúa của vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 50% tổng sản lượng lúa và hàng năm đóng góp trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, không thể nghĩ rằng vì phải giải quyết vấn đề lương thực mà đồng bằng Sông Cửu phải là vùng độc canh lúa, mặc dù so với cả nước, đây là vùng sản xuất lúa thuận lợi nhất, có lợi thế cạnh tranh cao nhất. Phân bố diện tích đất cho các khu vực trong Thành phố Cần Thơ theo bảng (1.4): Bảng 1.4: Phân bố diện tích đất cho các khu vực trong Thành phố Cần Thơ Phân lọai đất/ khu vực Khu vực 1 Khu vực 2 Diện tích đất tự nhiên (%) 100 100 Diện tích đất NN (%) 81.07 76.20 Diện tích ao, hồ (%) 23.80 18.93 Tổng diện tích gieo trồng (%) 76.91 56.35 Tổng diện tích gieo trồng cây trồng chính (%) 68.49 47.76 Ghi chú: + Khu vực 1: vùng Phong Điền, Thới Lai, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh + Khu vực 2: vùng ven đô Ô Môn, Thốt Nốt, Cái Răng, Bình Thủy Với diện tích lô thửa chủ yếu 0,5 ha - 1ha chiếm trên 52%, có một số vùng diện tích thửa thường từ 1 ha - 3 ha như Nông trường Sông Hậu, Cờ Đỏ,
- 17 Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long…..vv. Phần có diện tích thửa dưới 0,5 ha có tỷ lệ tương đối thấp. c) Điều kiện kinh tế - xã hội: Dân số vùng đồng bằng sông Cửu Long tính đến ngày 1/04/2009 là 18,207 triệu người, trong đó 48,82% là nam và 51,18% là nữ; Dân số thành thị là 4,546 triệu người chiếm 24,97%, dân số nông thôn là 13,661 triệu người, chiếm 75,03%. Đồng bằng Sông Cửu là một trong những vùng có nền kinh tế – xã hội phát triển chậm hơn so với các vùng khác của đất nước. Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, nhất là hệ thống đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, hạ tầng kỹ thuật phục vụ đời sống và sản xuất. Mới năm gần đây nhà nước mới tập trung vào hòan thiện dần hệ thống giao thống chủ yếu như quốc lộ 1A, quốc lộ 53, 54.v.v, các cầu chủ yếu như cầu Mỹ Thuận, cầu rạch Miễu (đã xong), cầu Cần Thơ, đã thông xe vào cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 2010. Đến nay, đã có trên 90% số xã được dùng điện thắp sáng, có đường ô tô đến trung tâm, có trường tiểu học, có trạm xá và có chợ; trên 80% số xã có hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động; 99,7% số xã có trường mẫu giáo… Bảng (1. 5) cho thấy tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp của từng tỉnh trong vùng từ năm 2005 - 2007 tính theo (cơ cấu GDP theo giá thực tế %; Phân theo khu vực) Phát huy lợi thế về vị trí địa địa lý, điều kiện tự nhiên, trung tâm kinh tế - kỹ thuật của đồng bằng sông Cửu Long, nền kinh tế Cần Thơ có tốc độ tăng trưởng cao trong giai đọan 2001 - 2005 gấp 1,5 lần bình quân cả nước và cao hơn nhiều so với các tỉnh lân cận trong tòan vùng. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo xu hướng tích cực, công nghiệp - xây dựng đã đạt được tốc độ tăng trưởng vượt trội so với nông nghiệp và dịch vụ, cơ cấu kinh tế theo giá so sánh năm 1994 có sự chuyển dịch nhanh (nông nghiệp giảm từ 25,29% xuống 19,98%, công nghiệp tăng từ 29,03% lên
- 18 34,25%, dịch vụ từ 45,65% lên 45,86%), nhưng theo giá hiện hành thì chuyển dịch chậm hơn (giá nông sản năm 2000 ở mức thấp nhất và tăng liên tục từ 2001 đến 2005). Bảng 1.5: Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long TT Tỉnh, thành phố Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Long An 42,2 38,4 36,1 2 Tiền Giang 48,1 45,3 44,8 3 Bến Tre 58,4 54,0 51,8 4 Vĩnh Long 55,5 53,4 50,6 5 Đồng Tháp 58,1 56,9 57,1 6 Trà Vinh 59,8 57,9 56,6 7 An Giang 38,4 34,5 35,5 8 Cần Thơ 18,7 17,1 16,5 9 Hậu Giang 43,9 43,9 37,9 10 Sóc Trăng 57,7 54,4 50,9 11 Bạc Liêu 57,7 54,2 53,8 12 Cà Mau 52,5 48,3 46,2 13 Kiên Giang 46,7 43,8 43,7 (Theo nguồn niên giám 2007) Dân số Cần Thơ 1.137.269 người năm 2005, tốc độ tăng bình quân 1,05%, thấp hơn nhiều so với bình quân của Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Dân số đô thị tăng nhanh, từ 351.821 năm 2000 lên 567.952 người năm 2005 (tăng 10,69%/năm). Dân số nông thôn giảm tương ứng 727.638 người năm 2000 xuống 569.317 người năm 2005 (giảm 4,79%/năm). Dân số phi nông nghiệp tăng từ 376.225 người lên 405.136 người (tăng 1,49%/năm), dân số nông nghiệp tăng từ 703.234 người lên 732.133 người (tăng 0,81%/năm).
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu các công nghệ cơ bản và ứng dụng truyền hình di động
143 p | 350 | 79
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ quản lý chất lượng sản phẩm in theo tiêu chuẩn Iso 9001:2008 tại Công ty TNHH MTV In Bình Định
26 p | 302 | 75
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng hệ thống phục vụ tra cứu thông tin khoa học và công nghệ tại tỉnh Bình Định
24 p | 291 | 70
-
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Đánh giá các chỉ tiêu về kinh tế kỹ thuật của hệ thống truyền tải điện lạnh và siêu dẫn
98 p | 185 | 48
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 333 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Ứng dụng khai phá dữ liệu để trích rút thông tin theo chủ đề từ các mạng xã hội
26 p | 226 | 30
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu và xây dựng hệ thống Uni-Portal hỗ trợ ra quyết định tại trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng
26 p | 212 | 25
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Ứng dụng giải thuật di truyền giải quyết bài toán tối ưu hóa xếp dỡ hàng hóa
26 p | 241 | 23
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản tại thành phố Đà Nẵng
26 p | 122 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Khai phá dữ liệu từ các mạng xã hội để khảo sát ý kiến đánh giá các địa điểm du lịch tại Đà Nẵng
26 p | 201 | 15
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng giải pháp phòng vệ nguy cơ trên ứng dụng web
13 p | 146 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Phương pháp đồ thị và ứng dụng trong dạy Tin học THPT
26 p | 178 | 12
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Vấn đề bề rộng khe nứt ở khớp dẻo của dầm bê tông cốt thép
26 p | 96 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu ứng dụng thuật toán ACO cho việc định tuyến mạng IP
26 p | 156 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Khai phá luật kết hợp mờ đa cấp và ứng dụng
26 p | 128 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu đánh giá và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác Vỉa 10 mức -300 Công ty than Hà Lầm
98 p | 22 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp kỹ thuật phòng chống cháy nổ khí metan khi khai thác xuống sâu dưới mức -35, khu Lộ Trí - Công ty than Thống Nhất - TKV
73 p | 10 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và đề xuất công nghệ cơ giới hóa đồng bộ hạng nhẹ có thu hồi than nóc khai thác vỉa L7, Cánh Tây, công ty cổ phần than Mông Dương-Vinacomin
95 p | 15 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn