intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

110
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX bao gồm những nội dung về các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến trước khi thành lập Xứ ủy Nam kỳ; phong trào yêu nước ở Nam bộ sau khi có sự lãnh đạo của Đảng đến cách mạng tháng Tám (1930 - 1945); đặc điểm và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa yêu nước ở Nam bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Ngọc Sáng CÁC XU HƯỚNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VÕ XUÂN ĐÀN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn. Từ khi lập quốc, do không ngừng đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, cộng đồng dân tộc Việt Nam sớm có ý thức đoàn kết bảo vệ chủ quyền và xây dựng đất nước mình, lòng yêu nước Việt Nam cũng bắt nguồn từ đó. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, truyền thống ấy không ngừng được hun đúc và ngày càng phát triển. Các thế hệ dân tộc Việt Nam, nối tiếp nhau không những bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia mà còn ngày càng xây dựng đất nước phát triển đi lên. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ấy, lòng yêu nước thực sự là động lực để nhân dân ta có thể thực hiện được những chiến công hiển hách làm rạng ngời những trang sử vẻ vang của dân tộc, và bản thân lòng yêu nước, tự nó, cũng trở thành niềm tự hào không gì so sánh được của tất cả những ai mang trong mình dòng máu Việt Nam. Tuy vậy, lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam không phải là một khái niệm thuần nhất. Lòng yêu nước chịu sự chi phối trực tiếp từ những hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể, không những thế nó còn thay đổi cùng với quá trình vận động và phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy lòng yêu nước trong lịch sử của dân tộc Việt Nam tuy tồn tại hầu như xuyên suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc qua các thời kỳ, thế nhưng biểu hiện của nó thì lại không hề khô khan, bất biến mà vô cùng sinh động và phong phú. Do những đặc thù của hoàn cảnh kinh tế xã hội nước ta ở các thời điểm khác nhau và đặc điểm riêng của các địa phương cụ thể, mà lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam cũng có những biểu hiện đặc trưng trong từng giai đoạn lịch sử, đồng thời còn mang đậm dấu ấn vùng miền. Biểu hiện của lòng yêu nước trong khoảng thời gian đấu tranh chống thực dân Pháp ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất cho điều đó. Vùng đất Nam Bộ là một vùng đất mới được cư dân người Việt khai phá từ khoảng thế kỷ XVI - XVII. Do những điều kiện lịch sử cụ thể, thành phần cư dân nơi đây được cấu thành từ nhiều bộ phận có nguồn gốc khác nhau. Hơn thế nữa, Nam Bộ, do vị trí địa lý đặc biệt của nó, cũng là nơi hội tụ của rất nhiều luồng văn hóa từ những vùng khác nhau trên thế giới. Trong lịch sử nơi đây đã từng chịu ảnh hưởng của các trung tâm văn hóa lớn của thế giới như Ấn Độ, Trung Quốc, ảnh hưởng của văn hóa các quốc gia xung quanh như Thái Lan, Campuchia và các nước Đông Nam Á khác. Ngoài ra, từ thế kỷ XVIII, với vai trò là một trung tâm thương mại, thương thuyền của hàng loạt các quốc gia khác nhau trên thế giới đến đây buôn bán và đồng thời thông qua đó những luồng văn hóa trên thế giới có những điều kiện thuận lợi để du nhập vào Nam Bộ. Và nếu như các vùng khác của Đông Dương, sau khi bị thực dân Pháp tấn công xâm lược, chỉ là xứ bảo hộ của Pháp thì vùng Nam bộ có một lịch sử riêng. Năm 1972, nơi đây chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Trở thành thuộc địa của Pháp, bản sắc văn
  3. hóa của vùng Nam bộ, vì thế, lại có những đặc điểm riêng, không giống với các vùng miền khác trên lãnh thổ Việt Nam. Tất cả những điều đó đã tạo cho vùng Nam Bộ một bản sắc văn hóa đa dạng mà lại rất đặc thù. Từ những điều kiện cụ thể trên, lòng yêu nước ở Nam Bộ Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX có những đặc điểm riêng không thể nhầm lẫn. Sự đa dạng về bản sắc văn hóa dẫn đến việc ở Nam Bộ xuất hiện hàng loạt các xu hướng yêu nước khác nhau. Mỗi xu hướng yêu nước có một mục tiêu và phương pháp đấu tranh riêng. Trong một chừng mực nào đó, các phong trào yêu nước có những sự liên hệ và hỗ trợ nhau để hướng tới mục đích chung: Đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Sự phối hợp ấy thực sự đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên sức mạnh của phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Bộ. Nhưng mặc dù có nhiều điểm tương đồng, các xu hướng yêu nước ấy vẫn có những khác biệt rất cơ bản, và chính vì vậy, giữa các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX luôn có sự đấu tranh với nhau, khi êm ả, lúc quyết liệt. Trong quá trình ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng ở vị trí trung tâm, đóng vai trò đoàn kết và thống nhất các xu hướng yêu nước khác để hướng tất cả vào sự nghiệp chung. Và vì vậy những thành quả trong các phong trào đấu tranh cách mạng ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX không phải là sự thể hiện sức mạnh của bản thân Đảng Cộng sản, mà là sự thể hiện sức mạnh tổng hợp của tất cả các phong trào yêu nước, được hội tụ vào những mục tiêu cách mạng mà Đảng đề ra. Điều đó tạo nên sự sinh động và đặc thù của lịch sử Nam Bộ nói riêng. Nghiên cứu về những lòng yêu nước của một vùng đất xuất hiện nhiều xu hướng yêu nước khác nhau và lịch sử chứa đầy những biến động thăng trầm như vùng Nam Bộ là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Nhưng tất nhiên những vấn đề khó khăn luôn là một sức cuốn hút mãnh liệt đối với những người nghiên cứu khoa học. Đó cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài CÁC XU HƯỚNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX làm đề tài luận văn tốt nghiệp chương trình cao học niên khóa 2007 - 2010 của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài không gì khác hơn là góp phần khái quát lại những xu hướng yêu nước xuất hiện ở vùng đất Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XX, với những mối liên hệ, hỗ trợ và cả đấu tranh giữa chúng. Để từ đó có thể góp phần vào việc nhận thức toàn diện hơn về lịch sử vùng đất Nam Bộ nói riêng cũng như toàn bộ lịch sử Việt Nam nói chung. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Lịch sử vùng Nam Bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một bức tranh sinh động và rộng lớn với những vận động và biến đổi trên rất nhiều các phương diện, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nơi đây. Ngay bản thân cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp để giành lại độc lập chủ quyền, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Nam Bộ, vốn chỉ là một bộ phận của lịch sử vùng Nam Bộ, đã là một
  4. một hệ thống phức tạp các mặt trận đối đầu không khoan nhượng. Đề tài không thể và cũng không có ý định nghiên cứu một cách tường tận tất cả các phương diện trong giai đoạn lịch sử đầy biến động này của vùng Nam Bộ, mà chỉ tập trung vào một đối tượng nghiên cứu nhỏ, đó là vấn đề xem xét, tìm hiểu sự xuất hiện và phát triển, sự liên hệ cũng như đấu tranh của các xu hướng yêu nước ở vùng đất Nam Bộ trong khoảng thời gian đó dưới vai trò lãnh đạo trung tâm của Đảng và những đóng góp của các xu hướng này đối với tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ là một vấn đề nhỏ trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, lại chỉ gói gọn trong vùng Nam bộ, nhưng không vì vậy mà phạm vi nghiên cứu của đề tài bị thu hẹp, mà ngược lại, phạm vi nghiên cứu của đề tài là hết sức rộng lớn, đa dạng và phong phú. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở Nam bộ chỉ là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh trường kỳ và vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng tất nhiên cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ cũng mang một tầm quan trọng đặc biệt và có sự phối hợp và liên quan trực tiếp đến các vùng miền khác trên phạm vi cả nước. Mặt khác, do các xu hướng yêu nước luôn có cơ sở xuất phát từ những điều kiện kinh tế xã hội thực tế cụ thể. Vì vậy, đối với vấn đề nghiên cứu vấn đề các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, thực chất, phạm vi nghiên cứu của đề tài là tổng thể lịch sử Việt Nam giai đoạn này trên tất cả các phương diện. Và không chỉ có thế, kẻ thù và cũng là đối tượng chủ yếu của các cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ, hay rộng hơn là của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy chục năm trời gian khổ đầu thế kỷ XX là thực dân Pháp. Nhưng thực tế lịch sử không hoàn toàn đơn giản như vậy, kẻ thù xâm lược ở Nam Bộ Việt Nam còn quy tụ rất nhiều các lực lượng khác: Quân đội Nhật, quân đội Anh và đế quốc Mỹ. Vì vậy, nghiên cứu đề tài các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nhất thiết phải được mở rộng ra các đối tượng này. Hay nói cách khác là phạm vi nghiên cứu được tiếp tục mở rộng ra bối cảnh cụ thể của tình hình thế giới trong giai đoạn đó. Về mặt thời gian cũng tương tự như vậy, tuy đề tài chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nhưng trong quá trình nghiên cứu nhất thiết vẫn phải mở rộng nghiên cứu các khoảng thời gian trước và sau giai đoạn đó để có thể thấy được sự tiếp nối và kế thừa của lịch sử cũng như khuynh hướng phát triển của các xu hướng yêu nước ấy. Cần nhấn mạnh rằng, đối tượng nghiên cứu của đề tài nhỏ bé nhưng phạm vi nghiên cứu lại rộng lớn không phải là một sự mâu thuẫn, mà sẽ là một sự bổ sung hoàn hảo cho nhau. Tính chất rộng lớn của phạm vi nghiên cứu sẽ tạo tiền đề thuận lợi để có thể đào sâu nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu chính, nhằm thực hiện một cách tốt nhất những nhiệm vụ mà mục đích nghiên cứu đã đề ra.
  5. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề nghiên cứu về các phong trào đấu tranh yêu nước ở vùng đất Nam Bộ không phải là một đề tài nghiên cứu mới, vấn đề này từ trước tới nay đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến khá nhiều, gồm các nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng, cả các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài. Tùy vào mục đích của từng công trình nghiên cứu cụ thể mà các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX cũng có những cách tiếp cận vấn đề từ các góc độ khác nhau, trực tiếp cũng như gián tiếp. Mặc dù vậy, do các yếu tố chủ quan cũng như khách quan, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này vẫn có một số hạn chế. Một công trình chuyên sâu và đầy đủ về vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được xuất bản. Đối với các công trình trình bày chung về tiến trình lịch sử Việt Nam, như Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập 2 và 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội của các tác giả Lê Mậu Hãn chủ biên, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, xuất bản năm 2003; Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập: từ thời nguyên thủy đến năm 2000 của Trương Hữu Quýnh và những người khác, Nxb Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 2003; Lịch sử Việt Nam (Đầu thế kỷ XX - 1918) của Nguyễn Văn Kiêm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 1976; Lịch sử Việt Nam của Huỳnh Công Bá, Nxb. Thuận Hóa, Huế, xuất bản năm 2008… đều trình bày những nét lớn về tiến trình lịch sử của cả nước nói chung và vùng Nam Bộ nói riêng nửa đầu thế kỷ XX. Các công trình này dều đề cập đến các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ, với quá trình ra đời và phát triển cơ bản của chúng, nhưng bởi đây là những công trình mang tính chất đại cương, các tác giả không thể trình bày vấn đề một cách chi tiết và chuyên sâu. Tương tự như vậy là các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến các công trình như: Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX - Một cách tiếp cận của Đỗ Thanh Bình, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, xuất bản năm 2006; Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX của Đinh Trần Dương, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2006; Phong trào Duy Tân của Nguyễn Văn Xuân, Nxb Đà Nẵng, xuất bản năm 1995… Do các công trình này trình bày về các phong trào yêu nước trên phạm vi cả nước nên không thể trình bày một cách đầy đủ về phong trào yêu nước ở Nam Bộ nói riêng. Các công trình nghiên cứu về các tổ chức tôn giáo và chính trị ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX như Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Quốc gia hành chánh, Sài Gòn của Phan Kỳ Chưởng niên khóa năm 1973, Bộ đội Bình Xuyên, Nxb. Lao động, Hà Nội của các tác giả Hồ Sơn Đài, Đỗ Tầm Chương, Hồ Khang xuất bản năm 2005; Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Hương Sen, Sài
  6. Gòn của Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm 1968 … và các công trình nghiên cứu về các phong trào yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX như Phong trào Đông Du ở Miền Nam, của tập thể tác giả tham gia hội thảo “Phong trào Đông Du ở Miền Nam”, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, TP.HCM, xuất bản năm 2007; Phong trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam; Miền Nam đầu thế kỷ XX - Thiên Địa hội và cuộc minh tân, của Sơn Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM, xuất bản năm 2003; Nam Kỳ khởi nghĩa do Lưu Phương Thanh chủ biên, Nxb. TP.HCM, xuất bản năm 1990; Hội kín Nguyễn An Ninh, Nxb Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn, xuất bản năm 1961… Tất cả đều là các công trình đi sâu nghiên cứu về những tổ chức và phong trào yêu nước chủ yếu ở vùng Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XX, nhưng bản thân mỗi công trình chỉ đào sâu vào một tổ chức, một phong trào nhất định nên chưa bao quát được toàn bộ vấn đề nghiên cứu tổng quan về các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ trong khoảng thời gian này, đặc biệt là sự ảnh hưởng cũng như vai trò của Đảng đối với các phong trào yêu nước theo các xu hướng khác nhau ở Nam Bộ. Các công trình nói về những cá nhân có ảnh hưởng lớn đến sự xuất hiện và phát triển của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ cũng gián tiếp đề cập đến mảng đề tài này. Ví dụ như các công trình: Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, tuyển tập của tác giả Nguyên Hùng Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội xuất bản năm 2004; Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn Nghệ, TP.HCM, xuất bản năm 2001; Cao Triều Phát, nghĩa khí Nam Bộ của Phan Văn Hoàng, Nxb Trẻ, TPHCM, xuất bản năm 2001; Phan Châu Trinh - Thân thế và sự nghiệp, của Huỳnh Lý, Nxb Trẻ, TP.HCM, xuất bản năm 2002; Nguyễn An Ninh - Dấu ấn để lại của Lê Minh Quốc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, xuất bản năm 2007… Bởi trong một chừng mực nào đó, đây là các cá nhân đại diện và tác động sâu sắc đến các xu thế yêu nước khác nhau xuất hiện ở vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên cứu của các công trình này chỉ là các cá nhân cụ thể, nên không thể đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về các phong trào yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng nói chung và lịch sử Đảng các địa phương ở Nam Bộ như Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2000) của các tác giả Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Thị Phương Hồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2005; Lịch sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, của Phạm Văn Thắng, Cao Tự Thanh và những người khác, Nxb Tổng hợp TP.HCM, xuất bản năm 20007; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Minh Hải 1930 - 1975 của tác giả Huỳnh Lứa và những người khác, Nxb. Mũi Cà Mau, xuất bản năm 1995… lại chủ yếu đề cập đến sự phát triển của Đảng, với sự lãnh cụ thể bằng các chủ trương, sách lược trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà ít quan tâm đến các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác, đặc biệt là những đóng góp của các phong trào này cho phong trào cách mạng nói chung ở Nam Bộ.
  7. Đặc biệt gần gũi với đề tài này là công trình nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, gồm 3 tập ( tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 3: Thành công của chủ nghĩa Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb TP. HCM, xuất bản năm 1993. Đây là công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về mảng đề tài tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, và tất nhiên có đề cập đến vùng Nam Bộ. Nhưng vì công trình này tập trung nghiên cứu về sự phát triển của tư tưởng trên phạm vi cả nước, nên việc đề cập đến những xu hướng yêu nước ở Nam Bộ còn có những hạn chế nhất định, bởi đây chỉ là một bộ phận nhỏ trong đối tượng nghiên cứu của công trình. Tóm lại tất cả các công trình trên tuy hầu như đã khái quát được sự ra đời và phát triển của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, do các lý do chủ quan và khách quan, các công trình trên chưa thật sự đào sâu nghiên cứu về vấn đề các xu hướng yêu nước ở vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trong vấn đề phân tích vai trò của Đảng đối với các xu hướng yêu nước theo các xu hướng khác nhau, vốn xuất hiện rất nhiều ở Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Thực tế cho thấy mỗi công trình chỉ phản ánh một khía cạnh nhỏ của toàn bộ mảng đề tài này. Do đó, thực hiện đề tài này, hi vọng đề tài có thể kế thừa một cách tốt nhất những thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước để có thể khái quát lại một cách toàn diện và hệ thống hơn về toàn bộ vấn đề này. 4. Nguồn tư liệu Nghiên cứu về lòng yêu nước là một mảng đề tài chủ đạo đối với các nhà nghiên cứu lịch sử. Đặc biệt, đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước cũng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử dựng nước củacủa dân tộc. Nguồn tư liệu có thể phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, vì thế, vô cùng phong phú và đa dạng. Hơn thế nữa giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỷ XX của Việt Nam, từ trước tới nay là một lĩnh vực mà các nhà sử học, trong nước và cả nước ngoài đã dày công nghiên cứu. Nguồn tư liệu đầu tiên không thể không nhắc đến đó là các công trình đại cương nghiên cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến một số công trình: Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập: từ thời nguyên thủy đến năm 2000, Nxb. Giáo dục Hà Nội của Trương Hữu Quýnh và những người khác, xuất bản năm 2003; Lịch sử Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế của Huỳnh Công Bá, xuất bản năm 2008; Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội của tập thể tác giả Lê Mậu Hãn chủ biên, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, xuất bản năm 2003… Một nguồn tư liệu khác là các công trình nghiên cứu về cuộc đấu tranh chống Pháp ở Nam Bộ, công trình này phần nào cũng trình bày một cách khái quát giống như các công trình đại cương nói trên,
  8. nhưng chi tiết hơn rất nhiều bởi đây là các công trình chuyên sâu nghiên cứu về cuộc kháng chiến ở Nam Bộ: Nam Bộ và Nam Phần Trung Bộ trong hai năm đầu kháng chiến (1945 - 1946), Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội của Nguyễn Việt biên soạn xuất bản năm 1957; Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954), Nxb. TP.HCM của Hồ Sơn Đài, xuất bản năm 1996; Miền Đông Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội do Trần Viết Tá chủ biên, xuất bản năm 1990; Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển của Nguyễn Hanh, Nxb TPHCM, xuất bản năm 1984… Tiếp theo là những công trình nghiên cứu về các đảng phái và tổ chức chính trị ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, đơn cử như các công trình Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, tuyển tập, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội của tác giả Nguyên Hùng, xuất bản năm 2004; Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb. Hương Sen, Sài Gòn của tác giả Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm1968; Bộ đội Bình Xuyên, Nxb. Lao động, Hà Nội của tập thể tác giả Hồ Sơn Đài, Đỗ Tầm Chương, Hồ Khang, xuất bản năm 2005; Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Quốc gia hành chánh, Sài Gòn của Phan Kỳ Chưởng, niên khóa 1970 - 1973… Các công trình nghiên cứu về các phong trào đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp cũng là một nguồn tư liệu quý giá, có thể đem lại một cái nhìn toàn diện về cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ. Có thể kể đến các công trình như: Phụ nữ Nam Bộ thành đồng, Nxb. Phụ Nữ, TP.HCM của Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, xuất bản năm 1989; Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Nxb.Đại học quốc gia, TP.HCM của Hồ Sơn Diệp, xuất bản năm 2003… Các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử Đảng Bộ các địa phương ở Nam Bộ cũng là một nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng, nó giúp ta có một cái nhìn toàn diện hơn về những chủ trương đối với vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước và các phong trào đấu tranh ở Nam bộ trong giai đoạn này. Có thể kể đến các công trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện công nghệ bưu chính viễn thông, Hà Nội, của Trần Thị Minh Tuyết, Nguyễn Thị Hồng Vân, xuất bản năm 2007, Lịch sử Đảng bộ Miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của Lâm Hiếu Trung chủ biên, xuất bản năm 2003; Lịch sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp TP.HCM của Phạm Văn Thắng, Cao Tự Thanh và những người khác, xuất bản năm 2007; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Minh Hải 1930 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau của Huỳnh Lứa và những người khác, xuất bản năm 1995… Một nguồn tư liệu hết sức quan trọng khác là các tác phẩm thuộc thể loại hồi ký. Đây là những hồi ức của những con người đã từng trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, là những nhân chứng lịch sử. Có thể kể đến một số tác phẩm sau: Công nhân Nam Bộ trong khói lửa,
  9. Nxb. Lao Động, Hà Nội của Vũ Ngọc Nguyên, xuất bản năm 1959; Nam bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của nhiều tác giả, xuất bản năm 1999… Tuy nhiên, các câu chuyện của họ trong hồi ký mặc dù sinh động và hấp dẫn nhưng rất có thể không đảm bảo được sự chính xác. Một phần vì có sự thêm thắt, một phần vì trí nhớ của các nhân chứng đó không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối. Vì vậy, đối với các ông trình loại này cần phải có sự thẩm định và đối chiếu với các công trình nghiên cứu khoa học khác. Cũng gần giống như thể loại Hồi ký, các tiểu thuyết tư liệu về vùng Nam Bộ trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược cũng có tính chất tương tự. Bất cứ một tiểu thuyết nào cũng không thể tránh khỏi các tình tiết hư cấu. Đối với loại tiểu thuyết tư liệu, mặc dù tác giả đã cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất điều đó nhưng cố nhiên vẫn không thể nào loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu biết cách khai thác thì các tư liệu loại này cũng là một nguồn tư liệu hết sức quý giá, vấn đề chỉ là việc thẩm định và lựa chọn các sự kiện một cách chính xác nhất. Các công trình loại này gồm có: Sư thúc Hòa Hảo, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, xuất bản năm 1990 và Người Bình Xuyên, tiểu thuyết tư liệu, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1988 của tác giả Nguyên Hùng. Các công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của vùng Nam Bộ cũng có tác dụng không nhỏ trong việc phục vụ bổ trợ cho công tác nghiên cứu đề tài. Ví dụ như các công trình Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội của tập thể tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, xuất bản năm 1990; Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. TP.HCM của các tác giả Huỳnh Lứa chủ biên, Lê Quang Minh, Lê Văn Nam, Nguyễn Nghị, Đỗ Hữu Nghiêm, xuất bản năm 1987; Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội do các tác giả Vũ Minh Giang chủ biên, Nguyễn Quang Ngọc, Lê Trung Dũng, Cao Thanh Tân, Nguyễn Sỹ Tuấn, xuất bản năm 2006… Cuối cùng, đề tài cũng sử dụng một số tư liệu từ sách điện tử và internet. Đây là một nguồn tài liệu vô cùng phong phú và đa dạng nhưng tính khoa học lại không cao. Vì vậy trong quá trình khai thác nguồn tài liệu này rất cần có sự thận trọng, nhất thiết phải có sự so sánh, đối chiếu với các nguồn tài liệu khác để thẩm tra. Có như vậy mới đảm bảo tính chính xác và khoa học cho đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này, tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp so sánh và một số phương pháp khác. Bản thân lịch sử vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX là một chỉnh thể bao gồm tổng hòa của các hệ thống quan hệ. Cuộc đấu tranh của nhân dân ở Nam Bộ chống Pháp ở Nam Bộ thực chất chỉ là một bộ
  10. phận của toàn bộ hệ thống đó. Hơn thế nữa lịch sử vùng Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX cũng không nằm riêng rẽ độc lập mà chịu sự chi phối trực tiếp của bối cảnh thế giới trong giai đoạn ấy. Do đó, phương pháp nghiên cứu của đề tài nhất thiết cũng phải tiến hành trên quan điểm của phương pháp tiếp cận hệ thống. Đó là đặt quá trình xuất hiện, phát triển của các xu hướng đấu tranh yêu nước của nhân dân Nam Bộ với tư cách là một bộ phận trong hệ thống bối cảnh của cuộc lịch sử Nam Bộ nói riêng và toàn bộ cả nước nói chung, hay rộng hơn là trong hoàn cảnh cụ thể của thế giới giai đoạn đầu thế kỷ XX với những mối liên hệ, tác động qua lại của các yếu tố, của các lĩnh vực khác nhau. Phương pháp lịch sử thể hiện ở chỗ đặt bản thân vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ trong bối cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn đầu thế kỷ XX, trong mối tương quan lực lượng và tình thế cụ thể giữa nhân dân ta và thực dân Pháp xâm lược. Bất cứ việc nhìn nhận hoặc đánh giá một vấn đề nào cũng không thể không căn cứ vào bối cảnh lịch sử cụ thể cũng như đặc điểm riêng của điều kiện tự nhiên - xã hội và con người Nam Bộ. Đồng thời, phương pháp lịch sử còn thể hiện ở chỗ diễn biến của các sự kiện trong đề tài đều được trình bày theo trình tự thời gian. Phương pháp lịch sử không được sử dụng riêng rẽ mà cần thiết phải đi kèm với phương pháp logic. Nghiên cứu lịch sử không phải chỉ là dựng lại quá khứ, khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra mà còn phải tìm cho ra bản chất và quy luật của tiến trình phát triển của lịch sử. Phương pháp logic chính là công cụ đóng vai trò giải thích các biến cố, liên kết các sự kiện, rút ra những quy luật trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt trong vấn đề nhìn nhận và đánh giá tầm quan trọng của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, phương pháp logic sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc làm rõ sự tác động qua lại giữa các xu hướng yêu nước, sự chi phối của các điều kiện thực tế lịch sử cụ thể. Đồng thời qua đó phương pháp logic cũng là công cụ để rút ra những bài học lịch sử cụ thể để vận dụng vào hoàn cảnh xây dựng đất nước hiện nay, định hướng cho sự phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới. Cần nhấn mạnh rằng, phải có sự phối hợp sử dụng đồng thời cả hai phương pháp trên mới có thể phát huy được hiệu quả nghiên cứu cao nhất. Bởi chúng có sự bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Sử dụng phương pháp này mà không sử dụng phương pháp kia hoặc sử dụng cả hai phương pháp mà không có sự phối hợp với nhau thì cũng đều khó đi đến chân lý khách quan. Sự phối hợp hai phương pháp trên đều dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng. Lịch sử luôn luôn vận động và phát triển, nhưng sự vận động và phát triển đó không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà tuân theo quy luật, các biến cố lịch sử đều có nguồn gốc sâu xa từ những cơ sở kinh tế xã hội của bản thân xã hội đó. Nhiệm vụ của người nghiên cứu lịch sử là phải tìm ra được bản chất của lịch sử cũng như phát hiện ra cái nguyên nhân, cái quy luật chi phối tiến trình vận động của lịch sử. Và để có thể giải thích được các biến cố lịch sử một cách khoa học và chính xác nhất, nhất thiết phải quán triệt
  11. phương pháp duy vật biện chứng. Vấn đề nghiên cứu các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX cũng không phải là ngoại lệ. Riêng đối với đề tài này, phương pháp so sánh có vai trò đặc biệt quan trọng. Phương pháp so sánh không chỉ là công cụ để thấy được sự phát triển của các phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Nam Bộ trước và sau khi có sự lãnh đạo của Đảng, mà còn để thấy được những nét tương đồng và dị biệt của các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, cũng như tìm ra những nét đặc thù của các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ với các địa phương khác trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương phác khác như phương pháp liên ngành (khai thác một số tài liệu văn học, địa lý…), phương pháp liệt kê (để tìm hiểu một cách có hệ thống tất cả các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX) và một số các phương pháp khác. Chỉ có sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn và thích hợp toàn bộ các phương pháp trên mới có một cái nhìn thực sự khách quan và đúng đắn khi xem xét, đánh giá một hiện tượng hay một cá nhân trong lịch sử. 6. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu về các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX trong cách mạng Việt Nam không phải là một đề tài mới. Các công trình đi trước gần như đã bao quát được mảng đề tài này. Tuy nhiên, dựa vào kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, đề tài hi vọng có thể phát triển những thành quả đó để có thể có những đóng góp mới cho ngành khoa học lịch sử nói chung và cả cho công tác giảng dạy trong các trường phổ thông hiện nay. Trước hết, đối với công tác nghiên cứu khoa học. Mặc dù mảng đề tài về các xu hướng yêu nước xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX chỉ là một bộ phận rất nhỏ của lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, nhưng thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề này, tôi hi vọng đề tài sẽ góp phần đưa ra một cách tiếp cận giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX của Việt Nam theo một hướng mới, để thông qua đó có thể bổ sung thêm những tri thức quan trọng và cần thiết, nhằm lấp dần những khoảng trống trong nhận thức về giai đoạn lịch sử của vùng Nam Bộ nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Những tri thức mà đề tài này đề cập chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ để có thể nhận thức về một giai đoạn lịch sử hào hùng và vĩ đại của dân tộc Việt Nam một cách bao quát nhất, khoa học nhất. Đồng thời, từ những nhận thức đúng đắn đó, chúng ta mới có thể rút ra những bài học có giá trị thực tiễn đối với hoàn cảnh cụ thể hiện nay thông qua những bài học từ quá khứ. Thứ hai, đối với công tác giảng dạy. Giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỷ XX là một nội dung hết sức quan trọng trong chương trình giảng dạy lịch sử ở bậc phổ thông trung học. Việc có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về các xu hướng yêu nước, tuy chỉ gói gọn trong vùng Nam Bộ, nhưng cũng sẽ
  12. là một điều kiện hết sức thuận lợi để người giáo viên phổ thông có thêm tư liệu và những kiến thức cần thiết phục vụ cho công tác giảng dạy, góp phần làm cho việc giảng dạy trở nên sinh động và toàn diện hơn. Và cuối cùng thông qua đó, có thể giáo dục cho thế hệ tương lai của đất nước niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn để ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc thiêng liêng của dân tộc mình. Những đóng góp của luận văn như trên có thể vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều đó làm cho đề tài rất cần có những ý kiến đóng góp phản biện của những người cùng làm công tác nghiên cứu lịch sử. Đồng thời cũng đòi hỏi người thực hiện đề tài phải nỗ lực để tiếp tục hoàn thiện vấn đề này hơn nữa trong tương lai. 7. Bố cục luận văn Luận văn gồm có 162 trang, gồm: Phần mở đầu Phần nội dung: Có ba chương Chương một: Các xu hướng yêu nước ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến trước khi thành lập Xứ ủy Nam Kỳ Chương hai: Phong trào yêu nước ở Nam Bộ sau khi có sự lãnh đạo của Đảng đến Cách mạng tháng Tám (1930 - 1945) Chương ba: Đặc điểm và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa yêu nước ở Nam Bộ KẾT LUẬN PHỤ LỤC Tài liệu tham khảo
  13. B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG MỘT CÁC XU HƯỚNG YÊU NƯỚC Ở NAM BỘ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN TRƯỚC KHI THÀNH LẬP XỨ ỦY NAM KỲ 1.1 Một số nét khái quát về vùng Nam Bộ 1.1.1 Vấn đề tên gọi Nam Bộ và Nam Kỳ trong lịch sử Việt Nam Trong lịch sử của các vùng miền lãnh thổ trên đất nước Việt Nam, có lẽ hiếm có địa phương nào lại có một hoàn cảnh đặc biệt như vùng Nam Bộ. Đặc biệt ở cả những biến động thăng trầm của lịch sử và cả vấn đề tên gọi. Có thể nói, vùng đất Nam Bộ từ khi in dấu chân con người đến nay đã trải qua không ít lần thay đổi tên gọi. Mỗi tên gọi đều ứng với một giai đoạn lịch sử nhất định và có lẽ những tên gọi ấy phần nào cũng gợi lên trong tiềm thức mỗi người dân Nam Bộ những hoài niệm và tự hào về một thời đại đã qua của thế hệ cha ông nơi mảnh đất này. Riêng đối với các nhà nghiên cứu lịch sử, thì việc nắm bắt một cách rõ ràng những tên gọi của vùng đất Nam Bộ qua các thời kỳ phát triển lại càng quan trọng hơn nữa, bởi điều đó đảm bảo cho tính khoa học của công tác nghiên cứu. Thể hiện sự chính xác của các công trình khoa học lịch sử. Và không chỉ có vậy, trong một chừng mực nào đó, việc xác định và phân biệt rõ ràng các tên gọi của Nam Bộ trong các giai đoạn khác nhau còn thể hiện tính đảng, tức lập trường chính trị của người nghiên cứu, do bởi có những thời kỳ, những tên gọi của Nam Bộ có liên quan mật thiết đến yếu tố chính trị của những lực lượng tranh chấp trên vùng đất vốn đầy biến động này. Vì những lý do trên, có thể nói, đối với việc nghiên cứu về những xu hướng yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, vấn đề tên gọi của vùng Nam Bộ trong giai đoạn ấy cũng là một vấn đề cần phải chú ý và cần phải làm rõ. Từ khi được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam, vùng đất Nam Bộ đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau. Vào năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Tên gọi Gia Định khi ấy là cái tên được dùng để chỉ chung vùng lãnh thổ ở phía cực nam đất nước. Tất nhiên vùng lãnh thổ ấy chưa phải là toàn bộ vùng Nam Bộ, mà nhỏ bé hơn khá nhiều. Cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ, tên gọi Gia Định mới dần dần được sử dụng để chỉ vùng đất tương ứng với Nam Bộ ngày nay. Đến năm 1802 vua Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định; năm 1808 lại đổi tên trấn Gia Định ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
  14. Năm 1832 vua Minh Mạng đổi tên thành Gia Định ra thành Phiên An, năm trấn trước kia được chia lại thành sáu tỉnh (Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định. Như vậy tên Lục Tỉnh đã có từ năm 1832. Hai năm sau, tức năm 1834, Lục Tỉnh được gọi chung là Nam Kỳ, theo nghĩa Kỳ là một cõi đất. Nam Kỳ là cõi đất phương Nam. Tên gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh từ ấy thực sự đã trở thành một tên gọi gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam trong một giai đoạn dài sau đó. Khác với Việt Nam, thực dân Pháp sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng Nam Bộ, phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi Cochinchine, nhưng vẫn chưa ngã ngũ. Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa (1862) và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (1867), thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn. Năm 1899, Lục Tỉnh của Nam Kỳ bị phân lại thành hai mươi mốt tỉnh. Chia lại đất Nam Kỳ, có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống yêu nước của người dân Nam Bộ, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Song mặc dù vậy, cái tên Nam Kỳ vẫn được duy trì cho đến tận năm 1945. Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9/3/1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Việt Nam. Song song với quá trình thanh lập chính phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành ba khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ, theo nghĩa Bộ là một phần. Nam Bộ là một phần đất nước ở phía Nam. Tên gọi Nam Bộ được chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lựa chọn và được sử dụng lâu dài cho đến tận ngày nay, thay cho tên gọi Nam Kỳ. Nam Bộ là một trong ba xứ, hai xứ kia là Bắc Bộ và Trung Bộ. Như vậy, với tư cách là một người nghiên cứu đương đại tìm hiểu về quá khứ. Trong bản thân đề tài này chỉ sử dụng thuật ngữ Nam Bộ làm tên gọi thống nhất. Tuy nhiên, trong các tài liệu trích dẫn hoặc trong một số trường hợp đặc biệt cụ thể, đề tài có thể vẫn sử dụng tên gọi Nam Kỳ, được dùng để chỉ chung một đối tượng lịch sử. Tất cả đều không ngoài mục đích đảm bảo tính khoa học và tính đảng cho đề tài nghiên cứu. 1.1.2 Đặc điểm tự nhiên - xã hội của vùng Nam Bộ
  15. Vùng đất Nam Bộ Việt Nam là một vùng đồng bằng rộng lớn ở hạ lưu sông Mêkông, phía đông giáp biển Đông, phía đông bắc giáp với cao nguyên Trường Sơn, phía tây giáp vịnh Thái Lan, phía bắc nối liền với đồng bằng của Campuchia. Đất đai nơi đây rất màu mỡ do được phù sa của các hệ thống sông Mêkông, sông Đồng Nai và các hệ sông nhỏ khác bồi đắp. Địa hình nhìn chung khá bằng phẳng nhưng rất phức tạp. “Miền đông bắc có nền đất tương đối cao hơn các nơi khác của đồng bằng, nhưng đổ về phía biển, mặt đất thấp, sông ngòi và kinh rạch quanh co chằng chịt, nhiều chỗ đồng lầy nước đọng, nơi sinh trưởng của từng ngập mặn, của cây bần, cây đước… địa thế rất hiểm trở”. [59, tr 17] Khí hậu của vùng Nam Bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Cây cối quanh năm xanh tốt, hệ động thực vật rất đa dạng và phong phú. Hệ thống sông ngòi nơi đây chằng chịt, thuận lợi cho giao thông đi lại cũng như phát triển các ngành kinh tế thủy sản. Tuy nhiên, hàng năm nước các con sông dâng lên gây ra tình trạng ngập úng. Vì vậy vùng này rất nhiều vùng trũng ngập nước, tạo ra trở ngại lớn cho cư dân sinh sống ở đây. Do những đặc điểm của điều kiện địa hình, Nam Bộ được chia thành hai vùng thiên nhiên khá rõ rệt: Vùng đất tương đối cao ở phía đông bắc thường được gọi là miền Đông Nam Bộ, diện tích khoảng 27.920 km2 và vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long thấp phẳng ở phía tây nam diện tích khoảng 39.590 km2. Do mỗi vùng có những điều kiện tự nhiên rất khác biệt, dẫn đến nền tảng kinh tế và xã hội của hai vùng cũng có sự khác biệt căn bản. Sự khác biệt ấy, đến đầu thế kỷ XX, lại trở thành tiền đề cho những sắc thái rất khác nhau của các phong trào yêu nước ở đây. Thực tế lịch sử cho thấy, vùng Nam Bộ là một trong những địa điểm đầu tiên có mặt con người sinh sống và khai phá. Hơn thế nữa, văn minh của các cư dân nơi đây là một trong những nền văn minh vào loại sớm nhất không chỉ của Việt Nam mà còn ở cả khu vực Đông Nam Á. Các di chỉ khảo cổ được khai quật cho thấy vùng Nam Bộ đã có con người sinh sống ngay từ thời đại đá cũ. “Vào những năm 1968 - 1971, nhà địa chất học người Pháp E. Saurin đã công bố những phát hiện đồ đá cũ của ông tại hai địa điểm Hàng Gòn 6 và Dầu Giây 2. Tiếp cho đến nay, nhất là từ năm 1975 đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện thêm, được biết đến 14 địa điểm có công cụ thuộc thời đại đá cũ…”. [67, tr 10] Đến khi cư dân Nam Bộ bước vào ngưỡng cửa văn minh, việc lập quốc diễn ra vào khoảng đầu công nguyên. Sau đó giai đoạn từ đầu công nguyên đến thế kỷ VII, vùng Nam Bộ là địa bàn chủ yếu của vương quốc Phù Nam, quốc gia của những người Môn cổ. Vương quốc Phù Nam nhanh chóng phát triển trở thành một nước hùng mạnh và tấn công chinh phục các nước xung quanh, trở thành một cường quốc cổ đại Đông Nam Á. “Vào lúc cực thịnh, Phù Nam chiếm nhiều nước nhỏ xung quanh làm chư
  16. hầu, lãnh thổ bao gồm diện tích ngày nay của Campuchia, vùng Hạ Lào, nam Thái Lan, nam Miến Điện, bắc bán đảo Mã Lai, nam Trung Bộ và Nam Bộ của Việt Nam…”. [107, tr 42] Các quốc gia lân cận Phù Nam ở Đông Nam Á đều phải thần phục quốc gia này. Tuy nhiên đến thế kỷ VI, do những biến động của lịch sử, Phù Nam dần dần suy yếu, đó chính là lúc các thuộc quốc của Phù Nam nổi lên tách khỏi sự lệ thuộc, thậm chí quay lại tấn công Phù Nam. Trong đó có quốc gia của người Khơ me ở vùng bình nguyên Cò Rạt, quanh lưu vực sông Sê mun và trung lưu sông Mê công, đang trong giai đoạn phát triển lớn mạnh. Tộc người Khơ me vốn thần phục Phù Nam từ thế kỷ III. Sau đó nhân lúc Phù Nam gặp khủng hoảng suy thoái, người Khơ me từ bỏ việc thần phục Phù Nam, thậm chí còn tiến hành cuộc nam tiến chinh phục lại Phù Nam. Cuối cùng đến khoảng giữa thế kỷ VII, Phù Nam bị tiêu diệt. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII, vùng Nam Bộ thuộc quyền quản lý của vương quốc Chân Lạp. Đến khoảng thế kỷ XVII - XIX, vùng Nam Bộ được chuyển vào tay những người Việt di cư. Cho đến thế kỷ XVII, trên vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay, các cư dân Khơ me và các dân tộc ít người khác đã sống lẻ tẻ, rải rác trên các giồng đất cao, các vùng đồi núi, với số lượng dân cư ít ỏi, trình độ kỹ thuật thấp kém. Về cơ bản, vùng đất Nam Bộ thời điểm đó phần lớn vẫn còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, mặc dù nơi đây từ lâu đã tồn tại nhiều lớp cư dân khác nhau từng sinh sống. Bước vào thế kỷ XVII, những biến động của lịch sử trên đất nước Đại Việt cũng kéo theo những thay đổi lớn lao ở vùng đất Nam Bộ. Những tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến họ Trịnh và họ Nguyễn dẫn tới cục diện chia cắt đất nước thành hai miền riêng biệt: Đàng Trong thuộc quyền kiểm soát của chúa Nguyễn và Đàng Ngoài thuộc quyền kiểm soát của vua Lê chúa Trịnh. Cuộc chiến tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài nổ ra quyết liệt và kết quả là đất nước Đại Việt bị chia cắt kéo dài suốt gần hai thế kỷ. Chiến tranh đã làm xáo trộn cuộc sống của người dân, là nguyên nhân trực tiếp cũng như gián tiếp cho những cuộc di cư ồ ạt của người Việt về phía nam, trong đó một trong những điểm đến quan trọng nhất chính là vùng Nam Bộ. Cùng với quá trình di cư của người Việt, vùng Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII còn tiếp nhận thêm một bộ phận cư dân lớn người Chăm vốn là những cư dân còn lại của vương quốc Champa vừa sụp đổ. Bên cạnh đó dòng lưu dân vào vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII còn phải kể đến người Hoa. Bộ phận người Hoa này chủ yếu là quan quân nhà Minh và gia quyến của họ, vốn không chịu thần phục nhà Mãn Thanh vừa được lập nên ở Trung Quốc. Các lớp cư dân người Việt, người Hoa và người Chăm đua nhau kéo vào vùng Nam Bộ để tìm một cuộc sống mới. Vùng đất Nam Bộ bắt đầu được khai phá trên quy mô rộng lớn.
  17. Các thành quả khai phá của các cư dân mới đến đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của vùng đất Nam Bộ. Và cuối cùng từ những phong trào di cư tự phát, chính quyền chúa Nguyễn và sau này là vương triều Nguyễn đã thực hiện tiếp các hoạt động chính trị để sát nhập thành công vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của mình. Tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp đưa lịch sử của vùng Nam Bộ bước sang một trang mới. Sau khi không thành công trong việc tấn công ở Đà Nẵng năm 1858. Thực dân Pháp quay xuống tấn công Nam Bộ, thực hiện chủ trương đánh lâu dài. Bằng các thủ đoạn quân sự và chính trị, thực dân Pháp đã thành công trong việc thôn tính Nam Bộ. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn ký hai bản hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), cắt vùng Nam Bộ cho Pháp. Như vậy, từ thời điểm ấy trên danh nghĩa vùng đất Nam Kỳ coi như trở thành một bộ phận của lãnh thổ nước Pháp, không giống như Trung Kỳ và Bắc Kỳ chỉ là xứ bảo hộ. Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn không còn chút quyền hạn nào trên khu vực này. Chính quyền trung ương Nam Kỳ do người Pháp nắm giữ, nhưng hệ thống chính quyền từ cấp tổng trở xuống thì được tuyển lựa từ người bản xứ. Việc tuyển lựa từ cuối năm 1918 được cải cách theo hướng dân chủ hóa, nhưng thật ra, điều đó chỉ có lợi cho một bộ phận tầng lớp trên của xã hội, được Pháp sử dụng như một thứ tay sai để củng cố bộ máy cai trị thực dân ở đây. Lợi dụng những yếu tố thuận lợi của điều kiện tự nhiên Nam Bộ, các chính sách, mục tiêu, biện pháp của thực dân Pháp trong việc khai thác vùng Nam Bộ có những sắc thái rất riêng biệt. Vùng Đông Nam Bộ chủ yếu phát triển các đồn điền, nhất là đồn điền cao su. “Loại cây công nghiệp duy nhất trong số các cây công nghiệp và cũng là loại canh tác duy nhất trong số các loại canh tác được người Pháp du nhập vào vùng đất Nam Kỳ dưới thời thuộc Pháp phát triển được và có một tầm mức tương đối quan trọng, đó là cây cao su” [59, tr 205]. Những đồn điền cao su mọc lên nhiều, nhưng hầu như nằm hoàn toàn trong tay người Pháp, bởi nó đòi hỏi một số vốn khổng lồ và chậm đem lại lợi nhuận. Các loại cây công nghiệp khác như đay, cà phê, tiêu cũng có được trồng ở một số nơi nhưng không chiếm vị thế quan trọng trong cơ cấu kinh tế như cây cao su. Còn miền Tây Nam Bộ lại trở thành một vựa lúa khổng lồ. Diện tích canh tác lúa chiếm ưu thế tuyệt đối trong vốn đất canh tác. Năm 1913, diện tích trồng lúa ở đây là 1.426.485 ha, năm 1921 là 1.758.383 ha, năm 1930 là 2.112.500 ha. Hơn hẳn diện tích canh tác lúa vùng Đông Nam bộ, vốn chỉ trên dưới 300.000 ha. Do ảnh hưởng từ chính sách khai thác của Pháp, vùng Nam Bộ xuất hiện những tầng lớp mới: Đại địa chủ, tư sản, trí thức tây học, tiểu tư sản… Một bộ phận trong số đó dựa vào quyền lực của thực dân Pháp, câu kết với kẻ thù, phản bội quyền lợi của quốc gia dân tộc; nhưng bộ phận còn lại, vẫn có phần
  18. nào tinh thần yêu nước, và trong những điều kiện cụ thể, họ cũng có tham gia với một chừng mực nào đó các phong trào yêu nước, đặc biệt nếu phong trào ấy có đề cập đến lợi ích của họ. Giai cấp công nhân, xuất hiện khá sớm ở Nam Bộ, nhưng do những đặc thù của điều kiện kinh tế xã hội nên có những đặc điểm rất đặc trưng. Giai cấp công nhân ở Nam Bộ ra đời sớm, số lượng phát triển khá nhanh, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Cùng với sự du nhập những luồng tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là chủ nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân Nam Bộ dần hình thành và trở thành ngọn cờ đầu trong các phong trào yêu nước. Do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử cụ thể nói trên, cư dân và nền kinh tế xã hội Nam Bộ đã xuất hiện những nét đặc thù. Từ đó phong trào yêu nước ở Nam Bộ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cũng có xu hướng phát triển riêng, không giống với các địa phương khác trên đất nước Việt Nam. Nhân dân Nam Bộ đứng lên chống Pháp ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Cuối thế kỷ XIX, các phong trào khởi nghĩa vũ trang chống Pháp từ Nam chí Bắc về cơ bản đều đã thất bại, trong đó bao gồm cả các phong trào ở Nam Bộ. Nhưng dân tộc Việt Nam vốn có một tinh thần đấu tranh bất khuất, càng bị đè nén bao nhiêu càng quyết liệt vùng lên quật khởi bấy nhiêu. Sự thất bại tạm thời của các phong trào yêu nước ấy không thể dập tắt được ý chí quật cường đó. Đến đầu thế kỷ XX, những người yêu nước Việt Nam nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng vẫn cố gắng tìm ra một con đường đi mới giải phóng cho dân tộc thoát khỏi xích xiềng nô lệ. Trước những biến động lớn lao của tình hình trong nước và thế giới trong hoàn cảnh mới, các xu hướng trong phong trào đấu tranh yêu nước ở Nam Bộ không ngừng nở rộ, điểm thêm những nét vẽ sinh động cho bức tranh lịch sử bi tráng nhưng cũng thật đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. 1.2 Các phong trào yêu nước chống Pháp trước khi có sự lãnh đạo của Đảng ở Nam Bộ 1.2.1 Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo xu hướng phong kiến: Phong trào Hội kín Nam Kỳ Bước vào những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã cơ bản bình định xong và thiết lập được bộ máy cai trị thực dân ở vùng Nam Bộ. Từ năm 1874, Nam Kỳ chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Với việc thi hành chính sách trực trị, chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn không còn chút quyền hạn nào trên khu vực này. Nói cách khác, vùng đất Nam Kỳ bị biến thành một phần lãnh thổ của nước Pháp ở Đông Dương. Vùng Nam Kỳ từ đó khi ấy được định nghĩa là “một phần đất thuộc gia sản đất đai của nước Pháp và được cai trị trực tiếp bởi những người đại diện cho nước Pháp”. [59, tr 164] Trong bối cảnh đó, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp không còn điều kiện thuận lợi để phát triển nữa. Điều này có thể nhận thấy rõ qua phong trào Cần Vương, một phong trào nổ ra dưới sự lãnh
  19. đạo của phái chủ chiến trong triều định Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết. Các cuộc khởi nghĩa Cần Vương nổ ra trên khắp các địa phương miền Bắc và miền Trung nhưng ở Nam Bộ, phong trào gần như im ắng. Đó không phải do người dân Nam Bộ thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc, mà thực sự là do chưa có những điều kiện để chống Pháp một cách rầm rộ như những giai đoạn trước. Mặc dù vậy, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Nam Bộ vẫn được duy trì một cách bền bỉ. Một hình thức đấu tranh mới xuất hiện dưới hình thức thành lập các hội kín là minh chứng cho điều đó. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, “danh từ “hội kín” mãi cho đến vụ án Nguyễn An Ninh năm 1929 thì mới phổ biến trên báo tiếng Việt để dịch chữ “sociétés secrète”của Pháp; chứ hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cái tên của những tổ chức bí mật (…) không phải là “hội kín” mà là “Hội…”. [33, tr 565 - 566] Các hội bí mật mọc lên rất nhiều, hễ có bao nhiêu hội thì có bấy nhiêu tên gọi khác nhau: Duy Tân, Hòa Đồng, Nghĩa Hòa, Nhân Hòa… và đặc biệt là tổ chức Thiên Địa Hội. Thiên Địa hội vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, theo chân những người Hoa phản Thanh phục Minh du nhập vào Việt Nam. Thiên Địa Hội nhanh chóng được những người Việt Nam yêu nước ủng hộ để phát triển thành phong trào đấu tranh chống Pháp dưới hình thức hội kín ở Nam Bộ trong những năm đầu thế kỉ XX. Những nơi có phong trào hội kín phát triển mạnh là Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Bến Tre, Châu Đốc. Mục đích chủ yếu của các hội kín là chống Pháp, quan lại tham ô, khôi phục Việt Nam. Những hội kín ở Nam Kỳ mang màu sắc tôn giáo, nhưng tôn giáo chỉ là phương tiện để tập hợp, cố kết các thành viên lại với nhau, còn mục đích chung vẫn là đấu tranh chống bọn đế quốc cướp nước và bọn phong kiến tay sai bán nước. Tôn giáo và phương thuật (pháp sư, bùa chú, uống máu ăn thề, dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc...) chỉ giữ vai trò trong việc tổ chức hội viên và tuyên truyền cho dân chúng. “Tuy các hội kín chịu nhiều ảnh hưởng của thầy chùa (Phật), thầy pháp (Đạo), nhưng trong hội kín, trong các cuộc trực tiếp hành động khởi nghĩa thì hoàn toàn không có thầy chùa, thầy pháp nào hết. Cộng tất cả các vụ bị bắt năm 1916, chỉ phát hiện thấy hai thầy pháp trong hội kín toàn Nam Kỳ, còn thầy chùa thì chỉ can dự ở cấp lãnh đạo bên trên thôi. Lực lượng hội kín là lực lượng của người dân thường, người thế tục”. [33, tr 569] Nghĩa quân của các hội này có chừng vài trăm người được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đã tiến hành đánh phá các trụ sở mộ lính, phá nhà giam, bắt giết bọn quan lại tay sai gian ác. Thực dân Pháp e ngại hội kín, những kẻ cường hào ác bá cũng sợ hãi mà không dám hung hăng. Sức mạnh thực sự của hội kín không phải chỉ nằm ở bản thân số hội viên hội kín, mà trong những trường hợp cụ thể, khi trực
  20. tiếp đấu tranh, các hội kín có thể và thực sự đã huy động, lôi kéo được một bộ phận quần chúng, đặc biệt là tầng lớp dân lao khổ. Trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các hội kín Nam Kỳ thực hiện được hàng loạt những hoạt động yêu nước có tiếng vang lớn, trong đó tiêu biểu là việc phát động phong trào đấu tranh chống chính sách động viên của thực dân Pháp và cuộc đột nhập phá Khám Lớn ở Sài Gòn. Trước hết, về phong trào chống chính sách động viên. Từ cuối năm 1915 đầu 1916, trong bối cảnh thực dân Pháp tăng cường hoạt động vơ vét sức người sức của để đổ vào cuộc chiến tranh đế quốc, các hội kín ở Nam Bộ ngày càng hoạt động mạnh mẽ để chống lại chính sách đó. Các cuộc xung đột vũ trang đã lẻ tẻ nổ ra ở một số nơi. Cuối tháng 1/1916, các hội kín ở Trà Vinh tổ chức bạo động, công khai chống chính sách mộ lính của thực dân Pháp. Cũng trong thời gian này, các hội kín ở Biên Hòa cũng vũ trang nổi dậy, nhà ngục Biên Hòa bị phá. Tháng 2/1916, nhóm hội kín của Vương Văn Lê, Nguyễn Văn Thạch, Lê Văn Hà nổi lên ở Tây Ninh, nhóm hội kín Nguyễn Văn Huệ tấn công Ô Cấp - Bà Rịa. Ngoài ra còn có một số cuộc nổi dậy ở những nơi khác. Các cuộc tấn công lan rộng, nhưng lực lượng các hội kín rất yếu, vũ khí chủ yếu chỉ là gậy gộc, súng đạn rất ít, lại tin vào bùa phép nên thực dân Pháp dễ dàng đàn áp. Phong trào cuối cùng đành tạm lắng xuống. Bên cạnh phong trào chống chính sách động viên của thực dân Pháp, cuộc đột nhập phá Khám Lớn Sài Gòn cũng là một trong những hoạt động gây tiếng vang lớn nhất của phong trào hội kín Nam Kỳ. Cuộc đấu tranh này gắn liền với tên tuổi của Phan Xích Long (1893 - 1916). Ông tên thật là Phan Phát Sanh, tên tự là Lạc, con trai của Phan Núi, một viên chức cảnh sát gốc Hoa ở Chợ Lớn. Năm 1912, Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Văn Hiệp, hai nhân sỹ yêu nước tôn Phan Phát Sanh làm lãnh tụ Thiên Địa Hội, nhằm tập hợp lực lượng chống Pháp. Sau đó Phan Phát Sanh đổi tên là Phan Xích Long, tự xưng là Đông cung (con vua Hàm Nghi), tự phong là hoàng đế. Buổi đầu, Phan Xích Long đặt cơ sở đầu tiên ở Cần Vọt (Campuchia). Ở đó, nhờ tiền quyên góp, ông cho cất một ngôi chùa để làm nơi tụ họp, chế tạo lựu đạn, trái phá, in truyền đơn đưa ra tuyên cáo Phản Pháp phục Nam, kêu gọi mọi người chống Pháp... Sau này, ông lập căn cứ ở vùng núi Thất Sơn (Châu Đốc, tỉnh An Giang). Đêm 23 rạng sáng ngày 24/3/1913 Phan Xích Long tổ chức rải truyền đơn và đặt bom tại một số nơi quan trọng ở Sài Gòn. Kế hoạch không thành công vì các trái bom đều không nổ và vì kế hoạch đã bị
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2