Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Cải cách ruộng đất tại Kiến An (1955-1957)
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là nêu lên một cái nhìn khách quan và lịch sử về quá trình thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An; rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo và chỉ đạo trong cải cách ruộng đất ở Kiến An, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Cải cách ruộng đất tại Kiến An (1955-1957)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU HẰNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI KIẾN AN (1955-1957) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU HẰNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI KIẾN AN (1955-1957) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn Hà Nội - 2010
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 Chƣơng 1. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở KIẾN AN (1955-1956) 8 1.1. Một số nét về địa lý, lịch sử, con ngƣời Kiến An 8 1.2. Tình hình chiếm hữu và sử dụng ruộng đất ở Kiến An trƣớc cải cách ruộng đất 12 1.3. Chủ trƣơng cải cách ruộng đất của Đảng, Chính phủ 26 1.4. Quá trình thực hiện cải cách ruộng đất 34 Chƣơng 2. THỰC HIỆN CÔNG TÁC SỬA SAI, HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (1956-1957) 38 2.1. Những sai lầm trong cải cách ruộng đất ở Kiến An 38 2.2. Chủ trƣơng và biện pháp sửa sai 45 2.3. Quá trình thực hiện và kết quả công tác sửa sai 51 2.4. Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử 64 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 PHỤ LỤC 83 1
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - UBCCRĐ: Ủy ban Cải cách ruộng đất - UBHC: Ủy ban hành chính 2
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nông dân là một động lực to lớn của cách mạng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nếu không có sự tham gia của nông dân thì cách mạng sẽ không thể thành công. Việc đem lại quyền lợi cho nông dân, trong đó quyền sở hữu ruộng đất – cái lợi ích thiết thực nhất của ngƣời nông dân vừa là một nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, vừa là một nhân tố thúc đẩy thắng lợi của cách mạng. Nhận thức đƣợc điều này, Đảng ta đã chủ trƣơng thực hiện một cuộc cải cách ruộng đất trên phạm vi cả nƣớc từ 1953 – 1957, đánh đổ địa chủ và phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân. Thực hiện chủ trƣơng đó của Trung ƣơng Đảng, đầu năm 1955, Đảng bộ Kiến An đã lãnh đạo quần chúng nhân dân, phát động cuộc cải cách ruộng ở địa phƣơng, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, Đảng bộ đã nghiên cứu, thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phƣơng, từng bƣớc tổ chức vận động và lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất. Công cuộc cải cách ruộng đất ở Kiến An đã đƣợc đƣợc một số kết quả, song trong quá trình thực hiện cũng đã phạm phải những hạn chế, sai lầm nghiêm trọng. Việc tổng kết những thành tựu và hạn chế trong quá trình Đảng bộ Kiến An lãnh đạo cuộc cách mạng ruộng đất vừa có ý nghĩa trong việc cung cấp những nhận thức khách quan và khoa học về cuộc cải cách ruộng đất chung trong cả nƣớc, đồng thời từ đó rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Với ý nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Cải cách ruộng đất tại Kiến An (1955-1957)” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành lịch sử Đảng của mình. 3
- 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân vừa là nhiệm vụ, vừa là động lực của cách mạng. Sự thành công của cách mạng tuỳ thuộc một phần lớn vào sự giải quyết đúng đắn nhiệm vụ trên. Vì vậy đây là một vấn đề không chỉ Đảng và Nhà nƣớc ta mà các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu hết sức chú ý, quan tâm. Những tác phẩm đầu tiên có tính chất lý luận phản ánh về vấn đề này là của một số nhà lãnh đạo cách mạng nhƣ: Trƣờng Chinh và Võ Nguyên Giáp với Vấn đề dân cày – Nxb Sự thật. Hà Nội. 1959. Lê Duẩn – Giai cấp công nhân với vấn đề nông dân trong cuộc vận động cách mạng Việt Nam – Nxb Sự thật. Hà Nội. 1965. Trƣờng Chinh – Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Nxb Sự thật. Hà Nội. 1976. Một số công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết đề cập đến vấn đề ruộng đất và nông dân nhƣ: Viện Kinh tế thuộc UBKHXH – Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam – Nxb KHXH, 1968. Viện Kinh tế thuộc UBKHXH – Kinh tế Việt Nam 1945-1960 – Nxb Sự thật, 1960. Văn Phong – Đánh giá cho đúng những thắng lợi của nhiệm vụ phản phong và những sai lầm trong cải cách ruộng đất – Nxb Sự thật, 1957. Văn Tạo - Cải cách ruộng đất thành quả và sai lầm, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 2 năm 1993. Tuy nhiên những tác phẩm trên đây chƣa nghiên cứu một cách cụ thể xung quanh vấn đề: Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất những năm 1955 – 1957 ở Kiến An. Trong những năm gần đây, một số giáo trình lịch sử nhƣ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, 1998 của các tác giả Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thƣ; Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2005 của Lê Mậu Hãn… đều ít nhiều đề cập đến cuộc cách mạng ruộng đất ở Việt Nam nói chung, chƣa đi vào nghiên cứu cải cách ruộng đất ở các địa phƣơng, ở Kiến An. 4
- Ngoài ra cần phải đề cập đến tình hình nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh. Trong đó phải kể đến Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hải - Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất trong những năm 1945 – 1953; Luận văn tiến sĩ của Nguyễn Duy Tiến - Vấn đề ruộng đất ở Thái Nguyên từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến hết cải cách ruộng đất, Lƣu trữ tại thƣ viện khoa Lịch sử, trƣờng ĐH KHXH&NV. Về địa phƣơng cũng đã có một số công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến vấn đề ruộng đất ở Kiến An nhƣ: Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Phòng - Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập II (1955-1975), Nxb Hải Phòng, 1996; Thành uỷ Hải Phòng - 72 năm công tác tổ chức xây dựng Đảng của Đảng bộ Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, 2002; Ban Chấp hành Đảng bộ quận Kiến An - Lịch sử Đảng bộ quận Kiến An, Nxb Hải Phòng, 2000; Nguyễn Văn Khoan – Nhìn lại cuộc cải cách ruộng đất ở Hải Phòng - Kiến An, Tạp chí nghiên cứu lịch sử. Mặc dù vậy, những công trình này mới chỉ đề cập mang tính khái quát chung chứ chƣa đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện về cuộc cải cách ruộng đất ở Kiến An. Những công trình nghiên cứu trên đây đã có những tìm tòi, tiếp cận vấn đề ở những góc độ khác nhau, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề trong quá trình nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về quá trình “cải cách ruộng đất tại Kiến An (1955 – 1957)” 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nêu lên một cái nhìn khách quan và lịch sử về quá trình thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An. - Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo và chỉ đạo trong cải cách ruộng đất ở Kiến An, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng mới. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu 5
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là nội dung các chủ trƣơng, chính sách của Đảng; quá trình chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An . Trên cơ sở thu thập, tổng hợp những kết quả đạt đƣợc và những đánh giá của Đảng, của các cơ quan hữu quan trong việc chỉ đạo thực hiện; những công trình nghiên cứu liên quan nhằm làm rõ thêm một số bài học kinh nghiệm về việc thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An trong thời gian từ 1955 đến 1957. 5. NGUỒN TÀI LIỆU CHÍNH VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Tài liệu nghiên cứu - Các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, Sắc lệnh, Thông tƣ của Đảng và Nhà nƣớc, Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh Kiến An về ruộng đất và việc thực thi chính sách ruộng đất. - Các Báo cáo của Ban Kinh tế Trung ƣơng, Bộ Canh nông, Văn phòng Chính phủ, Ban ruộng đất Trung ƣơng và UBKCHC các Liên khu, Tỉnh uỷ và Uỷ ban hành chính kháng chiến Kiến An về việc thực thi chính sách ruộng đất trong những năm 1955-1957. - Các công trình nghiên cứu khoa học về cách mạng ruộng đất, về kinh tế nhà nƣớc nói chung đã đƣợc viết thành sách hoặc đăng trên các tạp chí khoa học. - Tài liệu thống kê của Tổng cục thống kê. - Các luận văn cao học, luận án tiến sĩ. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng là phƣơng pháp lịch sử, kết hợp với phƣơng pháp logic. Ngoài ra các phƣơng pháp nhƣ so sánh, thống kê, 6
- phân tích, tổng hợp cũng đƣợc vận dụng để giải quyết nội dung nghiên cứu của luận văn. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Tái hiện một cách hệ thống quá trình thực thi cuộc cải cách ruộng đất ở Kiến An những năm 1955 -1957. - Rút ra nhận xét, đánh giá và nêu một số bài học kinh nghiệm về việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chƣơng: Chương 1. Quá trình thực hiện cải cách ruộng đất ở Kiến An (1955-1956). Chương 2. Thực hiện công tác sửa sai, hoàn thành cải cách ruộng đất (1956-1957). 7
- Chƣơng 1. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở KIẾN AN (1955-1956) 1.1. Một số nét về địa lý, lịch sử và con ngƣời Kiến An Địa danh Kiến An bắt đầu có từ năm 1906. Trƣớc đây, năm Minh Mạng thứ 12 (1832), địa bàn Kiến An thuộc phủ Kiến Thuỵ, xứ Hải Dƣơng. Ngày 11.9.1887, Pháp cho lập nha Hải Phòng trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hải Dƣơng, bao gồm các huyện: Nghi Dƣơng, An Lão, An Dƣơng (Phủ Kiến Thụy), 2 tổng của huyện Kim Thành cùng 4 xã của huyện Thủy Nguyên. Ngày 1.11.1887, phủ thống sứ Bắc kỳ đặt tỉnh Hải Phòng. Năm 1888, lập thành phố Hải Phòng, tỉnh lỵ Hải Phòng. Ngày 19.1.1898, thành phố Hải Phòng tách ra khỏi tỉnh Hải Phòng, chuyển tỉnh lỵ Hải Phòng sang làng Phù Liễn, và đổi tên thành tỉnh Phù Liễn (5.8.1902), sau đó đến 17.2.1906 chuyển thành tỉnh Kiến An. Từ đó, Hải Phòng là thành phố thuộc địa do ngƣời Pháp trực tiếp cai trị (Tòa Đốc lý), Kiến An là tỉnh bảo hộ vẫn duy trì bộ máy vua quan phong kiến cai trị bên cạnh Tòa Công sứ do ngƣời Pháp nắm quyền. Trong kháng chiến chống Pháp, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh của thành phố Hải Phòng cần có sự hỗ trợ và phối hợp chiến đấu với tỉnh Kiến An, ngày 26.11.1946, đƣợc sự chấp thuận của Trung ƣơng Đảng và Chính phủ, Hải Phòng và Kiến An thực hiện việc hợp nhất thành liên tỉnh Hải Phòng – Kiến An. Đầu năm 1949, Liên tỉnh Hải Phòng – Kiến An lại tách ra thành tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng. Trong các năm 1952-1953, sau trận càn “Con sứa” (Méduse), tháng 4.1951, Pháp lập tỉnh Vĩnh Ninh (gồm Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thuỵ Anh) nhằm tạo vành đai cố thủ cho thành phố Hải Phòng. Nhƣng chính quyền kháng chiến của ta vẫn giữ nguyên đơn vị hành chính cũ. Kiến An khi đó thuộc Liên khu 3 và có 5 huyện: Tiên Lãng, Hải An, An Lão, An Dƣơng, Kiến Thụy (gồm 89 xã). 8
- Trong đó chỉ còn vùng Tiên Lãng là địch không lấn chiếm đƣợc trọn vẹn, các làng xã khác hầu nhƣ thuộc vùng tề, chịu nhiều càn quét. Tháng 5.1952, huyện Vĩnh Bảo đƣợc tách ra từ tỉnh Hải Dƣơng và nhập vào Kiến An. Sau hoà bình, ngày 26.9.1955, huyện Hải An của Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng. Nhƣ vậy cho đến năm 1955, địa bàn của Kiến An bao gồm 5 huyện: Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Lão, An Dƣơng, Kiến Thụy (gồm 84 xã). Từ 1.1.1963, thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An đƣợc sáp nhập lấy tên gọi là “Thành phố Hải Phòng”, thị xã Kiến An đƣợc giữ nguyên tên và hiện nay là quận Kiến An. Kiến An là một tỉnh nhỏ miền duyên hải với diện tích 900 km2; phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Yên, phía Tây và Tây Nam giáp Hải Dƣơng, phía Nam giáp Thái Bình, phía Đông giáp biển. Tỉnh lỵ Kiến An cách Thành phố Hà Nội 92 km2 về phía Đông. Kiến An là vùng đồng bằng ven biển, ruộng đất tốt, diện tích ruộng đất toàn tỉnh khoảng 124.791 mẫu [3, 4]. Dân số Kiến An vào thời điểm cải cách ruộng đất là 86.295 hộ với khoảng 368.000 nhân khẩu [3, 4]. Phần lớn dân số Kiến An là nông dân, nguồn sống chính là dựa vào ruộng đất, một số nơi có nghề khác nhƣ đánh cá ở Đồ Sơn, nghề làm muối ở Tiêu Ban (Kiến Thụy), lẻ tẻ có những nơi nông dân làm thêm nghề phụ nhƣ dệt vải, làm đồ gốm… Kiến An là nơi gần thành phố Hải Phòng, địa bàn quan trọng nên trƣớc cách mạng và trong thời kỳ kháng chiến đế quốc tập trung lực lƣợng ở đây. Cơ sở Việt Nam quốc dân Đảng cũng có ở một số nơi nhƣ Vĩnh Bảo, Kiến Thụy. Các huyện lẻ tẻ đều có giáo dân, nhiều nhất là ở hai huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo. Kiến An là 1 tỉnh có truyền thống cách mạng anh dũng, có cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng ngay từ thời kỳ tiền khởi nghĩa. Trƣớc Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Kiến An dƣới sự lãnh đạo của Đảng đã tham gia nhiều cuộc 9
- đấu tranh chống đế quốc nhƣ phong trào đánh Nhật ở Tân Trào (Kiến Thụy), phong trào chống thuế, phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo... Sau Cách mạng, Kiến An là một trong những nơi đầu tiên tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lƣợc ở Bắc bộ. Ba huyện An Lão, An Dƣơng, Kiến Thụy bị địch chiếm sâu. Các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo đến năm 1950 cũng bị chiếm, sau trở thành khu du kích của ta. Trong thời gian kháng chiến, nhân dân Kiến An đã chiến đấu rất kiên cƣờng, đánh bại các trận càn quét lớn nhỏ của địch nhƣ: trận tiêu diệt địch ở Hòn Dáu - Đồ Sơn, trận phá 5 máy bay ở Đồ Sơn, trận đột kích đánh vào thị xã Kiến An, trận chống càn Claudese ở Tiên Lãng… Đặc biệt trong phối hợp với chiến trƣờng Điện Biên Phủ, quân dân Kiến An đã đột nhập phi trƣờng Cát Bi - Hải Phòng, phá hủy hoàn toàn 62 máy bay, tiêu diệt sinh lực địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, theo quy định của hiệp định Giơ-ne-vơ, khu tập kết 300 ngày của thực dân Pháp bao gồm: Thành phố Hải Phòng và 4 tỉnh Kiến An, Hải Dƣơng, Quảng Yên, Hòn Gai. Ở Kiến An, lực lƣợng địch tập kết tại thị xã Kiến An, Đồ Sơn và các huyện An Lão, An Dƣơng, Kiến Thụy. Với hệ thống cảng biển, sân bay (Cát Bi, Kiến An, Đồ Sơn), Hải Phòng – Kiến An trở thành vị trí chiến lƣợc quan trọng nhất trong khu tập kết 300 ngày. Tại đây, các cơ quan quân, dân, chính và binh lính Pháp dồn về chờ xuống tàu vào Nam. Dân số Kiến An tăng vọt do giáo dân từ các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo bị địch dụ dỗ cƣỡng ép vào Nam. Tình hình Kiến An cũng trở nên phức tạp do địa bàn có nhiều đầu mối mật thám, gián điệp, tay sai do địch cài lại. Các thế lực phản động đang nuôi âm mƣu phá hoại lâu dài sự nghiệp xây dựng miền Bắc. 10
- Tình hình trên đặt ra cho Đảng bộ Kiến An nhiệm vụ cấp thiết trƣớc mắt là hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, trên cơ sở đó thực hiện nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – mang lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân lao động. Kiến An là một tỉnh nông nghiệp, với trên 90% dân số làm nghề nông. Trƣớc cải cách, ruộng đất tập trung trong tay địa chủ, thực d ân Pháp và nhà chung, nhất là nơi gần bờ biển, có nhiều ruộng sa bồi t hì địa chủ dựa vào thế lực đế quốc để khai khẩn. Nông dân Kiến An thƣờng không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng, lại bị đế quốc, địa chủ phong kiến áp bức bóc lột thậm tệ về sƣu thuế, tô tức, nên đời sống của nông dân vô cùng khổ cực. Sau cách mạng, chính quyền dân chủ nhân dân đƣợc thành lập, một số tên địa chủ cƣờng hào gian ác, tay sai của đế quốc đã bị ta trừ khử. Từ năm 1949, Đảng bộ Kiến An đã phát động quần chúng nhân dân hƣởng ứng chính sách giảm tô của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách ruộng đất cũng gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của Kiến An là vùng địch chiếm đóng. Chủ yếu chúng ta mới thực hiện đƣợc ở những vùng du kích dƣới hình thức vận động hiến điền, trƣng vay cứu đói, và từ năm 1953 trở đi mới phát động phong trào đấu tranh giảm tô, giảm tức, rút ruộng công, ruộng đồn điền trong tay địa chủ chia cho nông dân thiếu ruộng. Trải qua thời kỳ kháng chiến, đời sống nông dân đƣợc cải thiện một phần, giai cấp địa chủ cũng phân hóa rõ rệt, một số tên địa chủ có tội ác lớn cũng đã theo Pháp vào Nam. Trong bối cảnh đó, Kiến An đã phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất ngay mà không qua phát động giảm tô. 11
- 1.2. Tình hình chiếm hữu và sử dụng ruộng đất ở Kiến An trƣớc cải cách ruộng đất Từ sau cách mạng Tháng Tám đến trƣớc cải cách ruộng đất, tình hình chiếm hữu và sử dụng ruộng đất của các giai cấp ở Kiến An có nhiều biến chuyển. 1.2.1. Giai cấp địa chủ Theo số liệu 12 xã điều tra, tình hình địa chủ Kiến An có sự chuyển biến nhƣ sau: Bảng 1.1. Biến chuyển thành phần địa chủ ở 12 xã Kiến An qua các thời kỳ [3, 7] Hộ Nhân khẩu Năm Số hộ Tỷ lệ Số NK Tỷ lệ 1945 316 3% 1.776 4% Trƣớc CCRĐ 237 2% 977 2.2% Về thành phần, địa chủ Kiến An có xu hƣớng giảm mạnh từ sau cách mạng tháng Tám đến trƣớc cải cách ruộng đất. Năm 1945, số hộ địa chủ là 316 hộ, chiếm tỷ lệ 3% hộ, và 1.776 nhân khẩu, chiếm 4.1% nhân khẩu. Đến trƣớc cải cách ruộng đất, số hộ địa chủ giảm 79 hộ, còn 237 hộ, chiếm 2% tổng số hộ, gồm 1.172 nhân khẩu, chiếm tỷ lệ 2.2% dân số toàn tỉnh. Mức độ giảm không giống nhau giữa các vùng. Vùng du kích giảm mạnh hơn vùng tạm chiếm (xã Quang Phục – Tiên Lãng giảm 13 hộ, tỷ lệ giảm 48%), vùng tạm chiếm giảm ít hơn (tính riêng 8 xã vùng tạm chiếm ở ba huyện giảm 15 hộ, tỷ lệ giảm 21%). Tỷ lệ địa chủ giữa các xã không đều nhau, có xã địa chủ chiếm tới 4% dân số (nhƣ xã Tân Hƣng - huyện Vĩnh Bảo, xã An Hƣng - huyện An 12
- Dƣơng); trong khi đó, có xã chỉ chiếm dƣới 1% (xã Tân Trào - huyện Kiến Thuỵ). Ngoài 12 xã trên, trong tỉnh còn có 1 xã của huyện Tiên Lãng và 2 xã miền biển Đồ Sơn không còn địa chủ nào. Tình hình chiếm hữu và sử dụng ruộng đất của địa chủ cũng có nhiều biến chuyển kể từ sau cách mạng Tháng Tám đến trƣớc cải cách ruộng đất. Năm 1945, tính trong toàn tỉnh, địa chủ chiếm khoảng 31.049 mẫu, chiếm tỷ lệ 24.8% tổng diện tích ruộng đất của địa phƣơng [3,18]. Đi sâu 12 xã điều tra, năm 1945, địa chủ chiếm 6.094 mẫu 9 sào, chiếm tỷ lệ 34% ruộng đất của các xã. Bình quân mỗi nhân khẩu là 3 mẫu 4 sào. Nơi cao nhất là xã Hoà Nghĩa (Kiến Thuỵ), địa chủ chiếm 65% ruộng đất, bình quân mỗi nhân khẩu là 8 mẫu; xã thấp nhất là Đông Phƣơng (Kiến Thuỵ), bình quân mỗi địa chủ chiếm hữu 1 mẫu 1 sào [3,18]. Từ năm 1945 đến trƣớc cải cách ruộng đất, chiếm hữu ruộng đất của địa chủ có nhiều biến chuyển, đƣợc thể hiện qua bảng dƣới đây: Bảng 1.2. Tình hình ruộng đất chuyển đi của địa chủ Kiến An qua các thời kỳ [3, 18] Số ruộng đất mà địa chủ đã chuyển đi Thời kỳ Hiến Bỏ Tịch Phân tán Tổng điền hoang thu 1945- 3.154m8 2.634m7s 76 m 444m1s 1949 s 1949- 9.081m2 5.947m1s 892m1s 834m 1.408m 1953 s 1953- 2.567m 120m 759m 3.446m 1955 1945- 11.148m8s 968m1s 1.398m1s 2.167m 15.682m 1955 13
- Dựa vào bảng trên có thể thấy, tình hình chiếm hữu ruộng đất của địa chủ ở Kiến An có xu hƣớng giảm mạnh. Nếu nhƣ năm 1945, địa chủ toàn tỉnh chiếm hữu 31.049 mẫu, chiếm tỷ lệ 34% ruộng đất địa phƣơng, thì đến trƣớc cải cách ruộng đất, đã giảm 15.682 mẫu (bao gồm ruộng phân tán, hiến điền, bỏ hoang, bị tịch thu), tỷ lệ giảm 50.5%, địa chủ chỉ còn chiếm hữu chƣa đầy một nửa so với trƣớc đó, với diện tích chiếm hữu là 15.367 mẫu, chiếm 12.2% ruộng đất toàn tỉnh. Trong số ruộng đất chuyển đi của địa chủ, tỷ lệ ruộng đất phân tán nhiều hơn cả. Địa chủ thƣờng phần phán dƣới các hình thức nhƣ: chia gia tài cho con cái, bán, cho chuộc, cho hẳn, hoặc giao canh. Ở vùng du kích, địa chủ giao canh và cho là chính, còn vùng tạm chiếm chủ yếu là bán và cho thuê. Tỷ lệ giảm ruộng đất của địa chủ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng thời kỳ và từng vùng. Từ năm 1945 đến 1949, ruộng đất của địa chủ chỉ giảm 3.154 mẫu 8 sào do đây là thời kỳ đầu sau cách mạng thành công, chính sách của ta lúc đó cũng chƣa động chạm nhiều đến quyền lợi của giai cấp địa chủ. Nhƣng từ năm 1949 đến năm 1953, Đảng và Chính phủ đẩy mạnh chính sách ruộng đất lên một bƣớc, thực hiện giảm tô, giảm tức và thuế nông nghiệp thì địa chủ phân tán ruộng đất nhiều hơn nhằm chống lại chính sách của ta. Cũng trong thời gian này, ở vùng du kích, ta còn có điều kiện thi hành chính sách tịch thu ruộng đất của địa chủ Việt gian phản động. Vì vậy ruộng đất của địa chủ giảm gấp 3 lần so với thời kỳ trƣớc (9.081 mẫu 2 sào). Từ năm 1953 trở đi, do ảnh hƣởng về thắng lợi quân sự của ta cùng với chủ trƣơng phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và thí điểm thực hiện cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên, địa chủ ở những vùng tạm chiếm cũng bắt đầu phân tán ruộng đất mạnh hơn. Thời kỳ 1953-1955, ruộng đất của địa chủ giảm 3.446 mẫu. Về từng vùng, vùng du kích biến chuyển nhiều hơn vùng tạm chiếm. Ruộng đất của địa chủ ở vùng du kích chỉ có phân tán, không có tập trung; 14
- còn ở vùng tạm chiếm vừa có phân tán vừa có tập trung, do trong kháng chiến một số địa chủ ra làm tay sai cho Pháp, một số thuộc thành phần khác lên địa chủ hay địa chủ ở nơi khác đến. Phương thức bóc lột của địa chủ: là phát canh thu tô và thuê mƣớn nhân công. Trƣớc cách mạng Tháng Tám, giai cấp địa chủ bóc lột địa tô rất nặng từ 50 – 70% hoa lợi thu hoạch; thậm chí có nơi 100% về lúa, còn nông dân chỉ đƣợc hƣởng một vụ màu phụ. Dã man hơn, có địa chủ còn sử dụng hình thức thu tô đồng loạt và hằng năm nông dân phải biếu lễ tết khoảng 80 kg thóc thì mới tiếp tục đƣợc lĩnh canh ruộng đất vụ mùa sau. Địa chủ bóc lột nhân công dƣới hình thức thuê ngƣời ở năm, ở tháng, ở mùa và làm ngày. Bọn địa chủ cƣờng hào gian ác thƣờng sử dụng thủ đoạn bạc đãi nông dân, cho ăn uống khổ sở, có khi không trả công hoặc trả không đầy đủ. Ngoài hình thức thuê mƣớn nhƣ trên, địa chủ còn dùng thủ đoạn nuôi con nuôi hay cƣới vợ lẽ để bóc lột sức lao động của họ (địa chủ Tâm xã Toàn Nghĩa có 5 con nuôi). Từ sau cách mạng Tháng Tám, hình thức và thủ đoạn bóc lột của địa chủ có giảm bớt, một số nơi nông dân đã đấu tranh đòi giảm tô từ 18 – 20%. Tuy nhiên bóc lột phong kiến vẫn chƣa bị xoá bỏ hoàn toàn. Địa chủ chuyển sang hình thức bóc lột tinh vi hơn nhƣ thu tô rẽ, tô ngầm, tô nhân công. Việc quỵt tiền công, bạc đãi ngƣời làm không còn nữa. Tuy nhiên, một số địa chủ cƣờng hào gian ác ở vùng tạm chiếm vẫn dựa vào uy thế của đế quốc để bóc lột nhƣ cũ. Sở dĩ có xu hƣớng giảm mạnh về thành phần giai cấp, mức chiếm hữu ruộng đất và mức độ bóc lột của địa chủ nhƣ trên là do những nguyên nhân sau: 15
- - Ảnh hƣởng của một số chính sách dân chủ của ta từ sau cách mạng Tháng Tám thành công nhƣ chia lại công điền, vận động giảm tô, thủ tiêu chế độ quá điền… Trong kháng chiến ta đã tịch thu ruộng đất của một số địa chủ việt gian phản động chia cho dân cày nghèo, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân cày cấy, do đó đã hạn chế phần lớn sự bóc lột của giai cấp địa chủ. - Do hoàn cảnh chiến tranh, một số ít địa chủ bỏ ruộng đi nơi khác làm ăn, buôn bán… Một số hộ có thu tô nhƣng nhẹ hơn trƣớc. Có nơi ruộng đất bị chiếm làm vành đai trắng nên bỏ hoang và việc thuê mƣớn nhân công cũng gặp nhiều khó khăn. 1.2.1. Giai cấp nông dân * Phú nông Thành phần phú nông cũng có nhiều biến chuyển từ sau cách mạng Tháng Tám đến trƣớc cải cách ruộng đất, đƣợc thể hiện ở bảng dƣới đây. Bảng 1.3. Biến chuyển thành phần phú nông ở 12 xã – Kiến An qua các thời kỳ [3,10] Hộ Nhân khẩu Thời kỳ Số hộ Tỷ lệ (%) Số NK Tỷ lệ (%) Năm 1945 158 1.5 938 2.3 Trƣớc CCRĐ 91 0.77 412 0.8 Căn cứ vào số liệu trên đây, có thể thấy: phú nông chiếm tỷ lệ nhỏ bé ở nông thôn và ngày càng giảm dần. Năm 1945, 12 xã điều tra có 158 hộ phú nông, chiếm tỷ lệ 1.5% tổng số hộ, thì đến trƣớc cải cách ruộng đất đã giảm 67 hộ, xuống còn 91 hộ, chỉ còn chiếm 0.77% ở 12 xã. Số nhân khẩu cũng 16
- giảm mạnh trên một nửa, từ 938 nhân khẩu xuống còn 412 nhân khẩu, từ 2.3% dân số còn lại chỉ chiếm 0.8% dân số trong các xã. Tỷ lệ phú nông trong các xã không giống nhau: Năm 1945, xã có tỷ lệ cao là Hoà Nghĩa (Kiến Thuỵ) phú nông chiếm 5.6%, xã có tỷ lệ thấp nhƣ Tân Trào (Kiến Thuỵ), tỷ lệ phú nông là 0.7%. Đến trƣớc cải cách ruộng đất, tỷ lệ cao nhƣ xã An Tiên (An lão) mới có 1.2%, thấp nhƣ xã Đông Phƣơng (Kiến Thuỵ) chỉ còn 0.2% [3, 11]. Về chiếm hữu ruộng đất của phú nông tƣơng đối nhỏ bé, và có xu hƣớng giảm đƣợc thể hiện ở bảng dƣới đây: Bảng 1.4. Tình hình chiếm hữu ruộng đất của phú nông ở 12 xã, qua các thời kì [3, 21] Thời kỳ Diện tích Tỷ lệ % Bình quân NK Năm 1945 1.149m6s 6.5 1m2s4t Trƣớc CCRĐ 487m9s 2.8 1m1s Căn cứ vào bảng trên có thể thấy sự chiếm hữu ruộng đất của phú nông cũng không phải là lớn. Theo số liệu 12 xã điều tra năm 1945, chiếm hữu ruộng đất của phú nông là 1.149 mẫu 6 sào, tƣơng đƣơng với 6.5% ruộng đất toàn tỉnh. Bình quân mỗi nhân khẩu là 1 mẫu 2 sào 4 thƣớc. Hộ nào có nhiều ruộng đất mới đƣợc trên 10 mẫu, trung bình từ 5 đến 7 mẫu, còn lại rất ít; có một số hộ còn lĩnh canh thêm ruộng đất của địa chủ. Đến trƣớc cải cách ruộng đất, phú nông chỉ còn chiếm 487 mẫu 9 sào, tƣơng đƣơng với 2.8% ruộng đất toàn tỉnh. Trung bình mỗi nhân khẩu là 1 mẫu 1 sào. Tỷ lệ giảm giữa các vùng cũng khác nhau. Vùng tạm chiếm giảm nhanh hơn vùng du kích. Cụ thể từ năm 1945 đến năm 1953, vùng du kích giảm 46%, trong khi đó vùng tạm chiếm giảm 61.7% [3, 21]. Nguyên nhân là 17
- do ở vùng tạm chiếm việc thuê nhân công gặp nhiều khó khăn hơn, bên cạnh đó một số ít phú nông đã chuyển lên thành phần địa chủ. Sau cách mạng Tháng Tám, chính sách của ta bảo tồn kinh tế phú nông, nhƣng thành phần cũng nhƣ chiếm hữu ruộng đất của phú nông vẫn giảm mạnh là do hoàn cảnh thực tế trong kháng chiến: địch tàn phá, trâu bò bị bắn giết, công cụ sản xuất bị phá huỷ… Bên cạnh đó, cũng do ảnh hƣởng của một số chính sách ruộng đất của ta, đời sống nông dân lao động đƣợc cải thiện đáng kể, một số nông dân không phải đi làm thuê nhƣ trƣớc nữa, vì vậy việc thuê mƣớn nhân công gặp nhiều khó khăn. Nhiều phú nông đã chuyển dịch một phần ruộng đất bằng cách bán hoặc cho chuộc. Năm 1951, ta lại lấy mốc quy định thành phần phú nông và ban hành chính sách thuế nông nghiệp, vì vậy phú nông càng trốn tránh nên đã phân tán một số ruộng đất vào tay nông dân. Tính riêng trong 12 xã điều tra, từ năm 1945 đến năm 1953, phú nông đã phân tán 183 mẫu 6 sào 14 thƣớc ruộng đất [3, 21]. Phương thức bóc lột của phú nông: chủ yếu sử dụng hình thức thuê nhân công, một số ít cho phát canh thu tô và cho vay nợ lãi. Thủ đoạn bóc lột nhân công của phú nông cũng khéo léo hơn, họ không bạc đãi nhân công nhƣ địa chủ, thƣờng tranh thủ họ hàng thân thích đến làm công. Phú nông cũng bóc lột tô phụ nhƣng rất ít. Sau cách mạng, do việc thuê mƣớn nhân công gặp khó khăn nên phú nông chuyển sang phổ biến dùng hình thức phát canh thu tô, đặc biệt là ở vùng tạm chiếm (xã Đặng Cƣơng, tỷ lệ phát canh ruộng đất của phú nông 1945-1949: 5%, đến năm 1953 là 35% [3, 12]). Ở vùng du kích phú nông thƣờng cho họ hàng cấy không bằng hình thức giao canh, có phú nông cũng nhƣợng phần ruộng đất công cho nông dân cày cấy. * Nông dân lao động 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 198 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 149 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 194 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 136 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 16 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn