Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014
lượt xem 8
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trương, biện pháp, kết quả tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) từ năm 2008 đến năm 2014 là mục đích nghiên cứu chính của đề tài. Từ đó, nhằm làm rõ thêm lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức thời kỳ này. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- LÊ THỊ LOAN §¶NG Bé HUYÖN Mü §øC (Hµ NéI) THùC HIÖN NHIÖM Vô X¢Y DùNG §¶NG Tõ N¡M 2008 §ÕN N¡M 2014 Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 60.22.03.15 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri HÀ NỘI - 2015
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một trong những đóng góp to lớn và vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin đó là chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đặt ra yêu cầu đối với giai cấp công nhân muốn hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, đưa cách mạng đi đến thành công thì phải thành lập được một chính đảng của giai cấp công nhân, chính đảng đó là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải bao gồm những người ưu tú nhất, có đủ năng lực và phẩm chất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng chung. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang giành được những thắng lợi vĩ đại trong đấu tranh cách mạng, giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để có được những thắng lợi vĩ đại đó, một nhân tố không thể thiếu đó là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng suốt của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đảng có vững, cách mạng mới thành công”. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng cần tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời và phát huy được hiệu quả. Trong suốt quá trình hoạt động các mạng, nhất là trước những bước ngoặt của lịch sử, mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chăm lo “xây dựng Đảng”. Ngày nay, cách mạng nước ta đang chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, càng đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo 1
- cách mạng của Đảng, đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng. Kể từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn coi nhiệm vụ xây dựng Đảng là một yêu cầu bức thiết, là nhu cầu tồn tại và phát triển không chỉ của bản thân Đảng mà của sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Đảng ta đã có nhiều nghị quyết cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng, coi đây là “một nhiệm vụ then chốt”, đặc biệt, vấn đề này càng được nhấn mạnh hơn trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những điều kiện lịch sử mới. Những nghị quyết quan trọng về công tác xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),... đã đặt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất quan trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, tư tưởng và tổ chức tốt công tác cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên kết quả thu được là có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ta. Tình hình Đảng có một số những chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc thực hiện chưa đạt được những hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, vấn đề là phải làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh “nói phải đi đôi với làm”, phải làm cho bằng được các nghị quyết đã đề ra. Đảng phải tự chỉnh đốn, không ngừng rèn luyện, phấn đấu nâng cao phẩm chất và năng lực để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành đã lãnh đạo các chi bộ Đảng địa phương và nhân dân trong huyện tiến hành sự nghiệp cách mạng chung giành được nhiều thắng lợi. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh về cả số lượng và chất lượng đảng viên. Đảng bộ đã không ngừng được tăng cường và củng cố. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành được những thành tựu to lớn không chỉ trong thời kỳ đấu tranh cách mạng mà cả trong thời kỳ đất nước đổi mới, cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa 2
- xã hội hiện nay. Các cán bộ đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn phấn đấu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giữ gìn sự trong sạch của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đặc biệt, kể từ 01/08/2008, tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào thành phố Hà Nội, cùng với đó là sự sáp nhập về mọi mặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã thu được những kết quả đáng tự hào, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay có một số hiện tượng cán bộ đảng viên bị thoái hóa, biến chất, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt đảng viên đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng lại vi phạm Điều lệ Đảng. Ngoài ra, kẻ thù tấn công vào Đảng thông qua hình thức mua chuộc một số các cán bộ, đảng viên không có lập trường kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, thoái hóa biến chất, tham ô tham nhũng,…Hiện tượng “tự diễn biến” trong Đảng sẽ trở thành một nguy cơ to lớn gây ảnh hưởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù đó chỉ là những hiện tượng rất ít, chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng cũng phần nào làm suy yếu Đảng, méo mó hình ảnh Đảng trong lòng nhân dân, ít nhiều làm mất niềm tin của dân vào Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví đó là một căn bệnh, một u nhọt có thể dẫn tới căn bệnh ung thư cho Đảng. Trong “Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện Mỹ Đức nhiệm kỳ 2010 – 2015” trong công tác xây dựng Đảng, đã đề cập một cách toàn diện về công tác giáo dục chính trị; công tác củng cố tổ chức xây dựng Đảng; công tác kiểm tra, giám sát; công tác dân vận,… Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã và đang triển khai thực hiện học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (12/2011)Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị khóa XI “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020” và 9 chương trình công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XV. Những kết quả bước đầu thu 3
- được đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Mỹ Đức và hứa hẹn những kết quả tốt đẹp, đầy triển vọng, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng hiện nay. Chính vì vậy, tác giả chọn luận văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014” để nghiên cứu nhằm góp phần khẳng định giá trị to lớn của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và của Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói riêng về công tác xây dựng Đảng giai đoạn 2008 – 2014. Đồng thời, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng là một yêu cầu bức thiết. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Xây dựng Đảng là mảng đề tài đã được nhiều tác giả, tổ chức hoặc các cơ quan ngôn luận nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những nội dung đã được đề cập trước đó giúp tôi tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày vấn đề một cách hệ thống, cụ thể hơn đối với Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội (2008 – 2014), đặc biệt là vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (12/2011) của Đảng ta. Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng đã được công bố là rất nhiều và có những đóng góp quan trọng về cả lí luận và thực tiễn đối với Đảng ta, góp phần chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta. Trong đó không thể không kể đến những tác phẩm lí luận xuất sắc về vấn đề này của các nhà lãnh đạo Đảng như: Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004): Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội thảo đã khẳng định vị trí then chốt của Đảng cách mạng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới; khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng; tổng kết một bước những kinh 4
- nghiệm lí luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thúc đẩy đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc. Hội thảo đặt ra yêu cầu tất yếu phải luôn kiên trì đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ, phương thức lãnh đạo, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, một số vấn đề chỉ ra còn giới hạn trong phạm vi lí thuyết và một số những biện pháp còn chưa cụ thể, thiết thực đối với Đảng Cộng sản của mỗi nước. Bùi Ngọc Thanh (2012): Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả Bùi Ngọc Thanh đã chỉ ra những vấn đề cơ bản nhất của công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ theo tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, phải biết lựa chọn và sử dụng cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy là “phải khéo dùng người”, và những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Mặc dù vậy, trong cuốn sách tác giả mới chỉ đề cập tới một vài khía cạnh của người cán bộ đảng viên mà chưa đề cập tới một cách toàn diện, chưa chỉ ra được những hiện tượng phức tạp của một số cán bộ đảng viên có những hành vi vi phạm Điều lệ Đảng thì cần phải có những biện pháp gì để giáo dục họ và tăng cường sức mạnh cho Đảng ta? Nguyễn Phú Trọng (2012): Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là một cuốn sách mới được xuất bản do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng viết. Trong tác phẩm này, đồng chí Tổng Bí thư đã tổng kết các công tác xây dựng Đảng của Đảng ta kể từ khi ra đời cho đến nay. Trong đó, Tổng Bí thư đã đưa ra những lí luận của các nhà kinh điển 5
- của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như các lãnh tụ của các Đảng Cộng sản như quan điểm của Mao Trạch Đông,… về xây dựng Đảng. Bên cạnh mặt lí luận là những bài học thành công và thất bại từ thực tiễn của công tác xây dựng Đảng của Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc cũng như của thực tiễn nước ta. Từ đó, chỉ ra những vấn đề mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung cuốn sách đề cập nhiều vấn đề phong phú về lý luận và thực tiễn gồm bốn phần: Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về Đảng và công tác xây dựng Đảng. Phần thứ hai: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Phần thứ ba: Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ. Phần thứ tư: Rèn luyện đạo đức, lối sống. Ngoài ra, còn có rất nhiều các tác phẩm, các tài liệu, các công trình nghiên cứu hay các hội thảo đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng trên những khía cạnh cụ thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam được đăng trên các tạp chí Thông tin lý luận, tạp chí Cộng sản, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch sử quân sự,... Một số các bài viết như: Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt tạo chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng của tác giả Nguyễn Đức Hạt đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng (2006), Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ trong toàn bộ cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng của đồng chí Lê Khả Phiêu đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng (1999),... Đồng thời, có một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt NamTrường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội nghiên cứu về xây dựng Đảng như: Đoàn Thị Khánh Hà (2002): Đảng bộ thành phố Việt Trì thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1996 – 2000. Ngô Thị Lan Hương (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010. 6
- Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2001. Tất cả những tạp chí, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu, luận văn, ... trên đề cập đến những vấn đề chủ yếu, cốt lõi của công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, mỗi tác giả tiếp cận ở những góc độ, khía cạnh khác nhau và có những ý kiến riêng của mình. Đây là những tư liệu mang tính chất nền tảng, cơ sở và chính là tài liệu quan trọng cho Đảng ta trong quá trình thực hiện công tác xây dựng Đảng và đặc biệt giúp cho tác giả thực hiện luận văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014”. Tuy luận văn còn có một số hạn chế nhất định nhưng đã thể hiện một cách hệ thống những thành tựu cũng như những hạn chế của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014, đồng thời chỉ ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó trong giai đoạn hiện nay. Để việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng thu được những kết quả như mục tiêu đã đề ra thì cần có sự tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp ở các cấp chi bộ Đảng địa phương, ở tất cả các cấp. Mặc dù phạm vi nghiên cứu là Đảng bộ một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng cũng đóng góp những giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng ở các Đảng bộ các cấp các nghành khác với những biện pháp cụ thể, linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp. 3.Mục đích, nhiệm vụ 3.1. Mục đích Tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trương, biện pháp, kết quả tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) từ năm 2008 đến năm 2014 là mục đích nghiên cứu chính của đề tài. Từ đó, nhằm làm rõ thêm lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức thời kỳ này. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014 sẽ là những kiến nghị, đề xuất, giải pháp để Đảng bộ huyện Mỹ Đức đạt được 7
- những kết quả tốt hơn nữa trong lĩnh vực xây dựng Đảng thời gian tới 3.2. Nhiệm vụ Luận văn có nhiệm vụ thu thập, bổ sung và xử lí những nguồn tư liệu về đề tài một cách khoa học để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện các nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014. Từ đó, rút ra được những nhận xét về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Những chủ trương, kế hoạch, biện pháp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong công tác xây dựng chính Đảng và những kết quả, ý nghĩa của việc thực hiện những chủ trương trên. 4.2. Phạm vi - Về nội dung: Tìm hiểu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; những thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức hiện nay. - Về thời gian: từ năm 2008 đến năm 2014. - Về không gian: Trên địa bàn huyện Mỹ Đức bao gồm 22 xã, thị trấn. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ 2008 – 2014. * Nguồn tài liệu: Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập; Các công trình khoa học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề xây dựng Đảng; những văn kiện, 8
- Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo chính trị của Trung ương Đảng; các chủ trương, chương trình hành động, báo cáo của Thành uỷ Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân thành phố, các Báo cáo tổng kết, Nghị quyết, kế hoạch,... của Đảng bộ huyện Mỹ Đức, Đảng uỷ cấp cơ sở về vấn đề xây dựng Đảng. Ngoài ra luận văn còn sử dụng tài liệu, các công trình trình bày ở trên. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp liên ngành như: Phân tích, tổng hợp, đánh giá, thống kê, so sánh, khảo sát, điều tra... 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết. Chương 1:CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M 2008 Đ N N M 2010 Chương 2: CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M 2011 Đ N N M 2014 Chương 3: NH N X T V KINH N HI M 9
- Chương 1 CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU NM Đ C T NĂM 200 Đ N NĂM 2010 1.1 Chủ trương d ng Đảng của Đảng ộ hu ện M Đức (2008 – 2010) 1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và t nh h nh thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng huyện Mỹ Đức đến năm 2008 * Các yếu tố tác động, chi phối đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức Về tự nhiên: Huyện Mỹ Đức nằm ở phía tây nam của thành phố Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội gần 50 km; gồm 22 xã, thị trấn, trong đó có 21 xã, thị trấn đồng bằng dọc sông Đáy, một xã miền núi có dân tộc Mường. Huyện có hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. “Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ, phía Đông giáp huyện Ứng Hoà (ranh giới tự nhiên là sông Đáy), phía Tây giáp huyện Lương Sơn, Kim Bôi và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình, phía Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam”[07; 05]. Địa dư hành chính huyện Mỹ Đức ra đời trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc đến cuối thế kỷ thứ XIX. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Mỹ Đức hiện nay là 23.146,93 ha, chiếm 6,93% tổng diện tích tự nhiên của Hà Nội (trong đó đất nông nghiệp là 14.396,26ha, chiếm 62,2% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 6.567,42ha, chiếm 28,37% so với tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng 2.183,25ha, chiếm 9,43% tổng diện tích tự nhiên). Dân số năm 2012 là 170.831 nhân khẩu (chiếm 2,65% tổng dân số của Hà Nội). Mật độ dân số trung bình là 747 người/km2. Trung tâm của huyện là thị trấn Đại Nghĩa. [13; 02]. Huyện Mỹ Đức có điều kiện thuận tiện giao lưu kinh tế - xã hội với các 10
- địa phương trong và ngoài tỉnh thông qua hệ thống đường bộ và đường thủy, khai thác thị trường Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam. Mỹ Đức là một huyện có cả đồng bằng và rừng núi, có nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp chế biến, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp khai thác. Hơn nữa, huyện có rừng và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Chùa Hương, điểm du lịch Hồ Quan Sơn. Toàn huyện có trên 200 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 67 di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Vì vậy, Mỹ Đức có nhiều điều kiện phát triển, mở rộng dịch vụ du lịch văn hóa. Là huyện thuần nông, thổ nhưỡng của Mỹ Đức chủ yếu là đất phù sa không được bồi, đất vùng trũng thuộc loại đất thịt nặng, nghèo nàn. Đất đai vùng này thích ứng cho cây lương thực, cây rau màu, cây nông nghiệp,... cho năng suất cao, khối lượng sản phẩm lớn không thua kém các vùng có trình độ thâm canh khá. Về kinh tế Người dân Mỹ Đức từ xưa tới nay luôn cần cù, giản dị, trung thực, chịu thương, chịu khó và có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động – sản xuất, trong chiến đấu và trong cuộc sống. Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được sau những năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua, Đảng bộ huyện xác định phát triển kinh tế nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù là một huyện nông nghiệp, xuất phát điểm thấp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân trong huyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên và giành được nhiều kết quả đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng,… Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 9,5 %. Bình quân thu nhập đầu người năm 2008 là 5,9 triệu đồng, năm 2010 là 10,40 triệu đồng [13; 03]. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tính đến năm 2008 tỷ trọng nông- lâm nghiệp 57,9% ; tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 18,8%; dịch vụ- du lịch là 23,3% [13; 03]. Công tác đầu tư xây dựng cơ bản giao thông – thủy lợi và các công 11
- trình phúc lợi xã hội phục vụ cho đời sống dân sinh, thúc đẩy cho kinh tế phát triển được huyện chủ động và có nhiều cố gắng. Đầu tư xây dựng cơ bản tăng bình quân 30,3%/năm. Huyện đã chủ trương tranh thủ sự hỗ trợ vốn của Nhà nước, của thành phố và huy động nguồn lực trong nhân dân để xây dựng: điện, đường, trường, trạm, trụ sở làm việc, nhà văn hóa thôn, công trình thủy lợi, vệ sinh môi trường,… Các công trình này đều được đẩy mạnh và triển khai thực hiện tốt. Đến nay hệ thống đường giao thông trong huyện, nhất là hệ thống giao thông nông thôn đã cơ bản được bê tông hóa, nhựa hóa đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển cho nhân dân. Về chính trị Mỹ Đức là huyện sớm có phong trào cách mạng ở phía nam thành phố, với hai chi bộ Đốc Tín và Vĩnh Lạc từng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng trên địa bàn huyện trong cuộc vận động giải phóng dân tộc thời kỳ 1939 - 1945. Tháng 9/1945, Chi bộ Đảng huyện Mỹ Đức ra đời. Trong bối cảnh sau cách mạng tháng Tám, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật, tổ chức Đảng gọi là Hội. Giữa năm 1946, Ban cán sự Đảng bộ huyện Mỹ Đức được thành lập. Tháng 10/1946, Ban cán sự chuyển thành Ban Huyện ủy. Đó là cơ sở để tháng 11/1947 Đảng bộ huyện Mỹ Đức ra đời. Xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong những năm qua, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được các cấp ủy Đảng từ huyện đến cơ sở thường xuyên chú trọng. Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Thành phố và của huyện đều được quán triệt đầy đủ, kịp thời tới toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đặc biệt, trong việc triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hàng năm đều có kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm túc các chuyên đề theo đúng kế hoạch chỉ đạo của cấp trên. Thông qua việc học tập, giúp cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản, về những giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức cách mạng của 12
- Người, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng bộ và toàn dân. Điều kiện chính trị xã hội ở huyện Mỹ Đức còn có những đặc thù riêng tác động đến chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn của huyện. Đó là một số xã ở huyện vừa có đồng bào người kinh xen lẫn với đồng bào dân tộc, chủ yếu là dân tộc Mường, hai xã phần lớn theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy, những vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc và tôn giáo, chính sách đối với cán bộ dân tộc cần phải được quan tâm. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây của huyện Mỹ Đức đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở huyện, tạo điều kiện cho huyện phát triển về các mặt kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế. Điều đó đã phản ánh qua kết quả và những hạn chế chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn của huyện Mỹ Đức. Về văn hóa- xã hội, giáo dục, y tế Sự nghiệp giáo dục – y tế được đầu tư xây dựng kiên cố, phát triển mạnh. “Cả 22/22 trạm y tế xã, thị trấn đã đạt chuẩn quốc gia và đều có bác sỹ. Hiện nay toàn huyện Mỹ Đức có 83 trường học các cấp (trong đó 5 trường phổ thông trung học và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên; 23 trường trung học cơ sở, 29 trường tiểu học, và 24 trường mầm non). Chất lượng giáo dục và chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao. Năm 2000, huyện đã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2001 huyện được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đang tích cực triển khai phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông. Đội ngũ giáo viên từ mầm non đến trung học phổ thông 100% đã đạt chuẩn (trong đó trên 45% vượt chuẩn). Bình quân mỗi năm Mỹ Đức có 150 đến 200 em học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học” 13
- [30; 46].Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Nghị quyết TW10 (khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc gắn với phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư”, xây dựng “người Hà Nội thanh lịch, văn minh,” được các tầng lớp nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng và đẩy mạnh. Toàn huyện có 2820 nh hùng liệt sỹ (trong đó liệt sỹ chống Pháp 553, liệt sỹ chống Mỹ 1906, liệt sỹ bảo vệ tổ quốc 361), ghi nhận những thành tích to lớn đó, năm 2000, huyện vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu đơn vị nh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8/22 xã, thị trấn trong huyện cũng đã vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu này vì đã có công lao đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu nước của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Toàn huyện có 117 bà mẹ Việt Nam được Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam nh hùng. Hiện nay 100% số gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng trong huyện đã có mức sống khá, so với mức sống chung của nhân dân toàn huyện [30; 49]. Về An ninh- Quốc phòng Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến xã, trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn huyện luôn được bảo đảm và giữ vững, không có vụ việc lớn xảy ra. Công tác quân sự địa phương thực hiện tốt. Lực lượng quân sự địa phương luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Các xã, thị trấn đều có lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên sẵn sàng ứng phó với bất kỳ tình huống nào xảy ra. Hàng năm các xã, thị trấn đều hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân cấp trên giao. * Chủ trương của Đảng và tình hình xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đến năm 2008 (bổ sung thêm chủ trương của Đảng) Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nộinhưng là địa phương sớm có những thanh niên tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. 14
- Ngay từ khi chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở khu vực Hà Nội ra đời (1926), ở Mỹ Đức đã có những thanh niên, học sinh sống và học tập ở các thành thị tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên học sinh yêu nước do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ đạo. Đốc Tín chính là chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Mỹ Đức được thành lập năm 1939. Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ được mỗi quan hệ với Ứng Hòa, với các cơ sở cách mạng ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Một số cán bộ ở Ứng Hòa và Kim Bảng qua lại giúp đỡ phong trào cách mạng ở Đốc Tín và tuyên truyền gây nhân mối ở một số các nơi khác trong địa bàn huyện. Từ giữa năm 1939, tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp. Nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai do trục phát xít Đức – Ý – Nhật gây ra ngày một đến gần. Chính phủ Pháp nghiêng dần về phía hữu, bọn phản động thuộc địa của Pháp ở Đông Dương cũng ngày càng trắng trợn khủng bố, uy hiếp phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trong tình hình đó, Tỉnh ủy Hà Đông chỉ đạo phong trào ở vũng nam Mỹ Đức tranh thủ điều kiện còn thuận lợi tiếp tục mở rộng Mặt trận dân chủ, tập hợp lực lượng quần chúng, đồng thời chú ý củng cố phong trào, chuẩn bị đề phòng khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn thống trị sẽ trở mặt đàn áp. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức chuyển sang thời kỳ mới. Đầu năm 1940, phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức bị tổn thất nghiêm trọng do khủng bố ở Cao Mật (Hà Nam). Tháng 8/1941, Tỉnh ủy Hà Đông đề ra kế hoạch chỉ đạo các cơ sở thành lập Mặt trận Việt Minh. Ban Tỉnh ủy phân công cán bộ về các vùng chỉ đạo và giúp đỡ các cơ sở thành lập Mặt trận Việt Minh, chuyển các đoàn thể phản đế thành các đoàn thể cứu quốc, truyền đạt Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương. Đến giữa 1942, trên địa bàn huyện Mỹ Đức, phong trào và cơ sở cách 15
- mạng đã hình thành ở cả ba khu vực: Bắc, Trung và Nam huyện. Trong đó, Đốc Tín có chi bộ Đảng, là trung tâm của các cơ sở phía nam và khu vực miền trung huyện. Vĩnh Lạc là trung tâm phong trào ở khu vực phía bắc. Đối với phong trào và công tác xây dựng tổ chức chính trị của Đảng ở Mỹ Đức, cuộc mittinh lớn dịp hội chùa Hương năm 1943 đã có ảnh hưởng vang dội không chỉ trong địa phương mà còn lan xa ra nhiều tỉnh, động viên mạnh mẽ niềm tin và tinh thần cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, đứng trước sự phát triển của các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của các cơ sở Đảng trong huyện, thực dân Pháp ráo riết theo dõi, đe dọa. Phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đối với một số xã từ sau cuộc tuyên truyền ở chùa Hương bị lắng xuống. Đây chính là thời điểm mà phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng phải chống phá với những luận điệu tuyên truyền về học thuyết “máu đỏ da vàng”, “khối thịnh vượng chung” của bọn tay sai thân Nhật. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình hình có những thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, dưới sự lãnh đạo của các cán bộ Đảng như: đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Bùi Quang Tạo,... đã tích cực mở các lớp huấn luyện, đẩy mạnh tuyên truyền, mở rộng địa bàn hoạt động của Đảng ta. Tháng 5/1945, chi bộ Vĩnh Lạc đã kết nạp thêm ba quần chúng vào tổ chức Đảng. Như vậy, phải tới 6 năm sau (từ 1939 đến 1945), phong trào cách mạng ở huyện Mỹ Đức mới thành lập thêm một chi bộ. Phong trào cách mạng và công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã thu được những kết quả bước đầu. Lúc đầu trong huyện chỉ có hai chi bộ là chi bộ Đốc Tín ở phía Nam, chi bộ Vĩnh Lạc ở phía Bắc huyện, mỗi chi bộ có một vai trò và thời điểm lịch sử rất khác nhau, nhưng đây là hai tổ chức Đảng đầu tiên của Đảng bộ huyện Mỹ Đức. Tiếp đó là sự phát triển của hàng loạt các chi bộ Đảng như: 10/1945, thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Vệt Minh hay còn gọi chi bộ đội công tác huyện do đồng chí Trương Thị Mỹ làm Bí thư. “Chi bộ cơ quan huyện ra đời giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo mọi phong trào, trong đó chú trọng việc đào tạo, 16
- bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên mới và xây dựng củng cố tổ chức Đảng trên phạm vi toàn huyện. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng nhất là về chính trị tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng từ huyện đến các xã” [27; 47]. Để làm công tác phát triển Đảng, chi bộ đội công tác huyện thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở các tiểu khu, chọn lọc những quần chúng tiên tiến, tích cực ở các thôn, xã đưa vào Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để giáo dục, bồi dưỡng về Đảng, về đường lối và nhiệm vụ cách mạng, khi đủ điều kiện thì kết nạp và sinh hoạt ở chi bộ ghép. Theo phương hướng đó, những cán bộ đảng viên của chi bộ đội công tác huyện phụ trách các tiểu khu vừa lãnh đạo phong trào, vừa làm công tác phát triển đảng viên mới và xây dựng tổ chức Đảng. Công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức trong năm 1946 được đẩy mạnh. Cho đến giữa 1946, toàn huyện có năm chi bộ ghép tiểu khu và hai chi bộ là: Chi bộ Đội công tác huyện và chi bộ Vĩnh Lạc. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 6/1946, Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức được thành lập. Chi bộ Đội công tác huyện đã hoàn thành sứ mệnh và không giữ vai trò lãnh đạo cách mạng như trước, là chi bộ cơ quan huyện. Tháng 9/1946, Ban Cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển thành Ban huyện ủy. Công tác xây dựng Đảng ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy mạnh. Huyện ủy lãnh đạo các xã, ngành tích cực làm công việc chuẩn bị kháng chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển đảng viên mới, tiến tới mỗi xã thành lập một chi bộ Đảng. Công tác phát triển đảng viên mới ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy mạnh. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Huyện ủy phát động đợt kết nạp “lớp đảng viên kháng chiến”. Từ tháng 7/1947 đến tháng 12/1947, Huyện ủy Mỹ Đức quyết định thành lập 14 chi bộ cơ sở gồm: Thiết Tháp, Phúc Lâm, Do Lễ, Yên Lạc, Đục Khê, Phú Yên, n Mỹ, Lễ khê, Trinh Tiết, Hà Xá, Viêm Khê, n Phúc. Thượng Vệ và chi bộ ghép Khảm Lâm – Yên Cốc. 17
- Như vậy, kể từ năm 1939 đến 1947 là 8 năm, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức tiến hành trên cơ sở của nhiệm vụ cách mạng ở các thời kỳ: iải phóng dân tộc (1939 – 1945); xây dựng củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng (9/1945 – 12/1946) và năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo chính quyền làm nhiệm vụ của nền chuyên chính dân chủ nhân dân, công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức bước vào giai đoạn mới, với phương hướng và cách đi mới mà thời gian đầu là vai trò của chi bộ đội công tác huyện và chi bộ ghép tiểu khu. Đây là bước đi quan trọng, là nền tảng cho sự ra đời của Ban Huyện ủy và chi bộ Đảng ở các xã. Yêu cầu đặt ra là bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện chính thức theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Điều lệ của Đảng. Do vậy, việc Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ nhất vào tháng 11/1947. Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, quê hương Mỹ Đức được giải phóng (7/1954) cho đến năm 2000 là 46 năm. Đây là chặng đường cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt của quân và dân Mỹ Đức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Từ 1947 đến 2010, trải qua 53 năm, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã diễn ra 22 lần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện. Kể từ khi ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở Đốc Tín – Mỹ Đức (1939) chỉ với 2 đảng viên, tiếp đó là chi bộ Vĩnh Lạc và thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Việt Minh ban đầu chỉ có 4 đồng chí. Tuy số lượng chi bộ và đảng viên còn rất ít nhưng đã phần nào phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân trong huyện. Các chi bộ Đảng không ngừng được củng cố, tăng cường và mở rộng, số lượng đảng viên và các chi bộ Đảng nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng.Năm 1946, Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức được thành lập gồm 5 ủy viên. Đây được coi là một tổ chức tiền thân của Đảng bộ huyện Mỹ Đức hiện nay. “Tháng 9/1946 Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển thành Ban Huyện ủy, đây được coi là một mốc đánh dấu sự phát triển trong tư 18
- duy của Đảng bộ huyện, một bước kiện toàn trong bộ máy chính trị Đảng của huyện Mỹ Đức” [27; 99]. Tháng 11/1947, Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ I. Tháng 3/ 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ II. Tiếp đó, trong các năm 1952 – 1986 đã diễn ra 15 lần Đảng bộ huyện Mỹ Đức tiến hành Đại hội đại biểu huyện. Đến 1986, số đảng viên của đảng bộ huyện đã lên tới 4000 đảng viên. “Tháng 1/1989 diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII với sự tham dự của 287 đại biểu thay mặt cho 4721 đảng viên trong huyện. Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVIII gồm 37 ủy viên chính thức” [28; 227]. Trong Đại hội đại biểu huyện lần thứ XVII (9/1986) chỉ đạo về công tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng phải được tăng cường củng cố về tổ chức và rèn luyện đội ngũ đảng viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng bằng các hình thức: học tập trung, học tại chức tại các cơ sở và trường Đảng của huyện làm cho cán bộ đảng viên đổi mới nhận thức, nhất là tư duy kinh tế. Biết vận dụng đường lối chính sách vào từng cơ sở và ở từng ngành khác nhau để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến xã. Củng cố kiện toàn lại tổ chức văn hóa thông tin, đài truyền thanh. Các cấp ủy, Đảng bộ, chi bộ cải tiến nội dung sinh hoạt đảm bảo vai trò lãnh đạo, tính tiền phong gương mẫu ở mỗi cán bộ, đảng viên: nói và làm theo Nghị quyết của Đảng. Ngoài ra, trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đại hội còn chỉ ra những yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ đảng viên, đặc biệt đề cao công tác kiểm tra Đảng: “Công tác kiểm tra của Đảng phải được xây dựng thành chương trình công tác của các cấp ủy” [28; 206]. Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII (1/1989) đề ra phương hướng nhiệm vụ chung về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng: 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 202 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 198 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn