intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:159

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1965 đến năm 1975. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ HUYỀN ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội, 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ HUYỀN ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Thức Hà Nội, 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này do chính tôi thực hiện. Những số liệu và kết quả đưa ra trong luận văn là trung thực và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Huyền
  4. LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều thầy, cô, gia đình, bạn bè và các cơ quan đơn vị. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới quý Thầy Cô giáo trong khoa Lịch sử nói chung, các Thầy Cô trong bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo, truyền thụ những kiến thức quý báu cho tôi trong quá trình học cao học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy, TS. Trần Văn Thức – người hướng dẫn khoa học. Thầy đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình chuẩn bị đề cương, nghiên cứu và bảo vệ luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, Thư viện tỉnh Bình Định, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, Trường Đại học Quang Trung đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này Hà Nội, tháng 7 năm 2015. Học viên Nguyễn Thị Huyền
  5. MỤC LỤC Trang MỤC LỤC ................................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 7 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 8 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8 7. Bố cục luận văn .................................................................................................. 9 CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” (1965-1968) ........................................................................... 10 1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định .......................................................................... 10 1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội......................................... 10 1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng. ...................................... 14 1.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh (từ năm 1965 đến năm 1968) ............................................................................... 25 1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 25 1.2.2. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện ....................................... 30 1.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 39 Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 63 CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1969-1975) .............................. 66 2.1. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần đánh bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ( 1969-1973) ...................................................... 66 2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 66
  6. 2.1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích (từ năm 1969 đến năm 1973) ............................................................................ 69 2.1.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 74 2.2. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1973-1975) ..................................................................................... 88 2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 88 2.2.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh từ năm 1973 đến năm 1975 ....................................................................... 89 2.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định. ......................................... 95 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................ 102 3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT .............................................................................. 102 3.1.1. Ưu điểm .............................................................................................. 102 3.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 113 3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ....................................................................... 118 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 137 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 147
  7. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Chiến tranh là một đề tài được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin quan tâm bàn bạc khá nhiều. Những luận chứng về chiến tranh của các nhà kinh điển trở thành cơ sở quan trọng cho hầu hết các cuộc chiến tranh vệ quốc từ cuối thế kỷ XIX. Việt Nam – một quốc gia mà lịch sử dựng nước luôn luôn gắn liền với lịch sử giữ nước thì những cơ sở lý luận về chiến tranh càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt từ cuối thế kỉ XIX khi Việt Nam trực tiếp đương đầu với một kẻ thù hoàn toàn mới, đó là thực dân Pháp, sang thế kỷ XX là cả Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là những kẻ xâm lược có sự khác biệt lớn so với Việt Nam về phương thức sản xuất. Họ mạnh hơn Việt Nam nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quốc phòng. Cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc Việt Nam vì thế trở nên khó khăn hơn lúc nào hết. Tiếp thu, chọn lọc sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, kế thừa kinh nghiệm giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, ngay từ những ngày đầu Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương huy động toàn dân vào cuộc kháng chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Với phương thức chiến tranh nhân dân ở một nước đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế quốc phòng nhỏ bé như Việt Nam thì đi từ đánh nhỏ tiến dần lên đánh lớn là giải pháp tối ưu để Việt Nam từng bước khắc phục được những khó khăn của mình trong cuộc chiến. Và hình thái chiến tranh du kích trở thành hình thái chiến tranh chủ đạo trong cả kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam. Chiến tranh du kích là “chiến tranh được tiến hành theo phương thức đánh du kích với lực lượng nhỏ, lẻ và nòng cốt là lực lượng vũ trang địa phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về sức mạnh quân sự. Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược 1
  8. khi so sánh lực lượng ở các nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính quy. Chiến tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn phối hợp với chiến tranh chính quy” [135; tr224]. Những lý luận về hình thái chiến tranh này được Bác Hồ và nhiều nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc của Việt Nam phản ánh trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói mà điển hình là cuốn “Cách đánh du kích” của Hồ Chí Minh (1944). Thực tế sinh động, sáng tạo của chiến tranh du kích được thể hiện rõ nét trong chiến tranh giải phóng ở hầu khắp các tỉnh thành của Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), chiến tranh giải phóng ở Bình Định không nằm ngoài phạm vi của hình thái chiến tranh du kích. Là một tỉnh nằm ở khu vực Nam Trung Bộ, án ngữ tuyến đường từ Bắc vào Nam hơn 100 km, là cửa ngõ lên Tây Nguyên từ biển Đông, là tỉnh thuộc vùng tự do Liên khu V trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Bình Định trở thành vùng do đối phương tạm thời kiểm soát. Suốt 21 năm tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, Mỹ và bọn tay sai đã gây không biết bao nhiêu đau thương cho mảnh đất, con người Bình Định. Máu, nước mắt kẻ thù gây ra trở thành động lực to lớn cho đồng bào chiến sĩ nơi đây vùng dậy tạo ra sự hồi sinh cho mảnh đất này. Ngay từ buổi đầu đánh Mỹ, Đảng bộ tỉnh Bình Định đã xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, huy động tối đa sức người sức của của Bình Định phục vụ cho chiến tranh du kích chống lại các chiến lược chiến tranh của Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng bào Bình Định đã đi qua song những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến vẫn có giá trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Với mong muốn làm rõ phong trào chiến tranh du kích của đồng bào chiến sĩ Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, qua đó chỉ ra những ưu khuyết điểm sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với 2
  9. phong trào chiến tranh du kích của tỉnh, rút ra một số kinh nghiệm góp phần phục vụ một số nhiệm vụ quân sự tỉnh Bình Định hiện nay tôi quyết định chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề Gần 40 năm kể từ khi nhân dân Bình Định hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một khoảng thời gian dài đủ để chúng ta có cái nhìn khái quát đa chiều về cuộc kháng chiến này. Đã có không ít công trình nghiên cứu về kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định của các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh. Và do đó nhiều vấn đề xung quanh cuộc chiến đã được làm rõ. Tuy nhiên chủ đề chiến tranh du kích ở Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Điểm lại các công trình nghiên cứu về chủ đề này có thể chia thành hai nhóm như sau. 2.1. Các công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh, kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc liên quan đến Bình Định và ở Bình Định. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), các tập từ tập 1đến tập 9 do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn. Khu 5- 30 năm chiến tranh giải phóng (tập 2, tập 3) do Bộ tư lệnh Quân khu 5 xuất bản năm 1989. Công trình nghiên cứu này trình bày quá trình hình thành, phát triển chiến tranh cách mạng của quân và dân Khu 5, trong đó có Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Khu 5 trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975). Chuyên đề: Chống phá bình định giành dân và giữ dân trên địa bàn khu 5,do Trần Quý Cát chủ biên, xuất bản năm 1997. Đây là công trình nghiên cứu đề cập đến diễn biến quá trình chống phá bình định giành dân ở địa bàn khu 5, trong đó có Bình Định. 3
  10. Công trình nghiên cứu Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 – 1975) của Viện Lịch sử Đảng xuất bản năm 1992, trình bày quá trình kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của quân dân các tỉnh Nam Trung Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ Tổ quốc do Hoàng Minh Thảo (chủ biên) là công trình này tập hợp những bài nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, về nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, quan điểm quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bình Định còn có nhiều công trình được thực hiện bởi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự các huyện, thị trên địa bàn tỉnh Bình Định như: Bình Định lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 -1975) do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh biên soạn, xuất bản năm 1992. Công trình này tập trung phản ánh phong trào cách mạng tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Chiến tranh du kích trên chiến trường Bình Định (1945 – 1975) xuất bản năm 1991 là công trình mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1945 đến năm 1975, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm từ phong trào chiến tranh này. Trong công trình Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bình Định xuất bản năm 1994, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả một cách sinh động một số trận đánh tiêu biểu của các lực lượng vũ trang tỉnh đồng thời chỉ ra những đặc điểm nổi bật của các trận đánh đó. Ngoài những công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng Bình Định do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh biên soạn, còn một số công trình nghiên cứu về phong trào đấu tranh của nhân dân các huyện trên địa bàn tỉnh được thực hiện bởi Ban chỉ huy quân 4
  11. sự ở các huyện. Ví như công trình Phù Cát lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 – 1975, Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hoài Ân (1945 – 2005), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ (1945 – 2005)… 2.2 Những công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ các cấp ở tỉnh Bình Định. Loại công trình này gồm có: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (tập 1, tập 2, tập 3) do Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định biên soạn và xuất bản năm 1992. Công trình này nghiên cứu về sự ra đời và phát triển của Đảng bộ tỉnh Bình Định, quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Cùng với đó, hầu hết các huyện của tỉnh Bình Định đều có công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ huyện. Ví như, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Quy Nhơn có công trình Lịch sử Đảng bộ thành phố Quy Nhơn (1930 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tuy Phước nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy Phước (1945 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vân Canh nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ huyện Vân Canh (1930 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Ân ra mắt công trình Lịch sử Đảng bộ huyện Hoài Ân (1930 – 1975), Ban chấp hành huyện An Nhơn biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện An Nhơn (1930 – 1975), Lịch sử Đảng Bộ Phù Cát (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát biên soạn năm 1996; Lịch sử Đảng Bộ Tây Sơn (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tây Sơn biên soạn năm 1999; Lịch sử Đảng Bộ Vĩnh Thạnh (1945 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh biên soạn năm 1998 v.v. Những công trình nghiên cứu lịch sử Đảng bộ của các huyện đều tập trung làm rõ quá trình ra đời, phát triển của Đảng bộ huyện, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong huyện qua các thời kỳ cách mạng. Nhìn chung có khá nhiều công trình nghiên cứu công bố có đề cập ít nhiều đến phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với 5
  12. phong trào này trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. Những công trình nghiên cứu này chưa làm rõ: - Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975. - Những ưu điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Những hạn chế và một số kinh nghiệm rút ra từ lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 của Đảng bộ tỉnh Bình Định. 2.3 Những vấn đề luận văn tập trung nghiên cứu. Nhằm góp phần giải quyết những vấn đề tồn đọng của các công trình đã công bố. Cụ thể là: - Trình bày có hệ thống, toàn diện về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh trong những năm 1965-1975 - Làm sáng rõ quá trình hiện thực hóa chủ trương của Đảng về chiến tranh du kích của lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định trong những năm 1965-1975 - Phân tích đánh giá những thành công, hạn chế trong quá trình Đảng bộ Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích. - Rút ra các kinh nghiệm. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Luận văn nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1965 đến năm 1975. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Làm rõ chủ trương, đường lối, phương thức chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong phong trào chiến tranh du kích giai đoạn 1965 – 1975. - Dựng lại phong trào chiến tranh du kích dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định. 6
  13. - Rút ra một số nhận xét về mặt tích cực, hạn chế trong công tác lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh giai đoạn 1965-1975. Chỉ ra nguyên nhân của những tích cực và hạn chế đó. - Nêu lên một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975, nhằm góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng phương án tác chiến, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh, huyện hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu. Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. - Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975. - Thời gian, không gian nghiên cứu của luận văn là địa bàn tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975 bao gồm 10 huyện là Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Vân Canh, Bình Khê (huyện Tây Sơn ngày nay) và thị xã Quy Nhơn (nay là thành phố Quy Nhơn). - Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi có đề cập đến bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào chiến sĩ ở miền Nam Việt Nam và khu 5, bối cảnh chung ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975, chủ trương của Trung ương Đảng và Quân ủy khu 5 về chống Mỹ, cứu nước nhằm làm rõ hơn chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh giai đoạn này. 7
  14. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tƣ liệu Nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau: Các tác phẩm của Mác – Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh viết về chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Các Văn kiện Đảng về chống Mỹ cứu nước tập 1, tập 2, NXB chính trị quốc gia, H. 2011, 2012. Các tư liệu gốc là các bản báo cáo, Nghị quyết của Tỉnh ủy Bình Định. Các báo cáo, Nghị quyết, tổng kết quân sự, tổng kết chiến tranh du kích của Tỉnh đội Bình Định từ năm 1965 đến năm 1975. Công trình nghiên cứu lịch sử của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định, Ban chấp hành Đảng bộ của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Bình Định. Nhiều công trình nghiên cứu viết về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Các công trình nghiên cứu viết về mảnh đất, con người Bình Định. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn tôi sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, phân loại, so sánh và một số phương pháp khác. 6. Đóng góp của luận văn - Làm rõ quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng, Khu ủy, Quân khu ủy 5. - Đánh giá khách quan những thành tựu, hạn chế, đưa ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 8
  15. - Góp phần làm sáng tỏ, đầy đủ hơn về lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn tỉnh Bình Định trong 10 năm cuối ( 1965-1975) - Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về lịch sử quân sự ở Bình Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bố cục thành 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968). Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bình Định tăng cường lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 – 1975). Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm. 9
  16. CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” (1965-1968) 1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định 1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Bình Định là tỉnh tương đối lớn, nằm ở khu vực Nam Trung Bộ. Với diện tích khoảng 6.025 km2 trải dài từ vĩ tuyến 130 03‟ đến 140 42‟ bắc (chiều dài 110 km), 108036‟ đến 109022‟ kinh đông (chiều ngang trung bình 55 km). Phía bắc giáp Quảng Ngãi được phân cách bởi đèo Bình Đê, phía Nam giáp Phú Yên được phân cách bởi đèo Cù Mông, phía Tây giáp Gia Lai qua đèo Mang Giang và phía Đông giáp biển Đông. Theo sử cũ ghi lại, từ xa xưa Bình Định là vùng đất thuộc vương quốc Chăm Pa, cuối thế kỉ X đầu thế kỉ XI vua Chăm Pa quyết định dời đô từ Quảng Nam về đóng tại thành Đồ Bàn (thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Trong khoảng 5 thế kỉ, với vị thế là kinh đô của quốc gia Chăm Pa, những dấu ấn biểu trưng cho những giá trị văn hóa Chăm còn để lại khá nhiều ở Bình Định mà tiêu biểu là hệ thống thành quách, đền tháp, bia, tượng.v.v. Năm 1471 đội quân chinh chiến của vua Lê Thánh Tông đánh bại vương quốc Vijaya xác lập ranh giới của quốc gia Đại Việt đến núi Thạch Bi (Phú Yên), từ đây Bình Định trở thành một vùng lãnh thổ của Đại Việt. Cũng từ đây, tên gọi và lãnh giới của vùng đất này nhiều lần biến thiên theo thời gian. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, Bình Định được gọi là phủ Hoài Nhơn, gồm 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn (bao gồm địa phận huyện An Khê và huyện Chư Bang của tỉnh Gia Lai ngày nay) thuộc tỉnh Quảng Nam (tức đạo Thừa Tuyên lúc bấy giờ). Dưới thời cai trị của các chúa Nguyễn, tên gọi của tỉnh nhiều lần thay đổi. Vào năm 1602 phủ Hoài Nhơn đổi thành Quy Nhơn. Đến năm 1651 đổi thành Quy Ninh. Năm 1742 chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên Quy Nhơn. Năm 1802, Nguyễn 10
  17. Ánh – ông vua Nguyễn đầu tiên đã đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định dinh. Năm 1806 đổi thành Bình Định trấn. Phủ Quy Nhơn được gọi từ thời vua Minh Mạng kể từ năm 1826. Năm 1832 với chính sách bãi bỏ cấp Bắc Thành, Gia Định Thành thành lập các tỉnh của Minh Mạng, tên gọi tỉnh Bình Định lần đầu tiên xuất hiện. Năm 1890, tỉnh Bình Định gộp với tỉnh Phú Yên thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. 8 năm sau, tức năm 1899 hai tỉnh này lại tách ra như cũ. Từ đây cho đến trước năm 1975, dưới thời thực dân phong kiến và Ngụy quyền Sài Gòn mặc dù tên gọi tỉnh Bình Định không thay đổi nhưng ranh giới tỉnh có nhiều thay đổi theo từng thời kỳ, nhiều vùng lãnh thổ của Gia Lai, Kon Tum thuộc địa phận tỉnh Bình Định. [136; tr269] Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 10 năm 1975 Bình Định và Quảng Ngãi gộp lại với tên gọi tỉnh Nghĩa Bình. Đến cuối tháng 6 năm 1989 hai tỉnh này lại tách ra với tên gọi và ranh giới như cũ. Hiện nay tỉnh Bình Định bao gồm 10 huyện: Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Vân Canh, Tuy Phước, Tây Sơn và 01 thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Quy Nhơn. Trong 10 huyện này có 3 huyện miền núi không giáp biển là An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh. Còn lại các huyện khác đều được phân bố trên khu vực với ba dạng thức địa hình chính là đồng bằng ven biển, trung du và đồi núi. Nhìn một cách tổng quan thì Bình Định cũng giống như nhiều tỉnh miền Trung khác, đó là nơi có kiểu bố trí địa hình phức tạp, cao dần từ đông sang tây với nhiều đồi núi, sông ngòi, xen kẽ có những đồng bằng nhỏ hẹp, đầm phá ven biển. Đây là dạng thức địa hình lý tưởng cho việc tiến hành các chiến thuật chiến tranh du kích. Đồi núi chiếm hai phần ba diện tích của tỉnh được phân bố rải rác ở tất cả các huyện và ngay cả trong nội thành thành phố Quy Nhơn. Các núi ở đây có độ cao trung bình từ 700m đến 1000m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1000m, đỉnh cao nhất 11
  18. 1.202m ở xã An Toàn (huyện An Lão) [136; tr12]. Toàn bộ mặt phía Bắc, phía Tây và phía Nam tỉnh được ôm trọn bởi dãy núi Trường Sơn với những cánh rừng bạt ngàn. Diện tích rừng của Bình Định khoảng 208.065 ha chủ yếu là rừng kín, mang đặc trưng của kiểu rừng thứ sinh, thường có 3 đến 4 tầng rõ rệt với nhiều loài thực vật. Địa thế rừng hiểm trở nối liền với rừng núi của Gia Lai ở phía Tây, Ba Tơ (Quảng Ngãi) ở phía Bắc và Phú Yên ở phía Nam, hình thành vùng căn cứ địa kháng chiến liên hoàn giữa các tỉnh, là chỗ đứng chân của nghĩa quân trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Cả dải dài phía đông tỉnh Bình Định giáp biển. Nếu không tính các đường bờ của các hải đảo, bán đảo thì Bình Định có khoảng 134 km bờ biển. Khu vực bờ biển thềm lục địa tỉnh có diện tích khoảng 36.000km2 lớn gấp 6 lần diện tích tự nhiên của tỉnh. [136; tr101] Ngăn cách giữa vùng núi và biển là khu vực đồng bằng nhỏ hẹp. Hầu hết các cánh đồng nơi đây đều bị cắt xẻ mạnh bởi đồi núi và sông suối. Trên địa bàn tỉnh có nhiều sông suối với hướng chảy chính là hướng tây – đông. Có một số con sông lớn như: sông Hà Thanh, sông Kôn, sông Lại Giang, sông La Tinh, còn lại hầu hết các sông đều nhỏ, lòng sông nhiều đoạn gấp khúc bị cát bồi nên thường cạn vào mùa khô, mùa lũ nước chảy xiết. Mật độ sông suối dày dẫn đến mật độ cầu đường ở Bình Định cũng dày đặc, trung bình 0,2 đến 0,4 km đường có một chiếc cầu. Trên địa bàn tỉnh có 204 cầu cống lớn nhỏ. [46; tr21] Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các kế hoạch cơ động trong thời chiến. Về khí hậu: Bình Định thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, một năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, mưa nhiều nhất trong khoảng 4 tháng, từ tháng 9 đến tháng 12. Thời tiết ở đây khá ổn định, ít chịu ảnh hưởng của giông bão. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 270C. Bình Định có hệ thống đường giao thông khá phong phú, bao gồm giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không. Hệ 12
  19. thống đường bộ được xây dựng rộng khắp, dày đặc trên địa bàn tỉnh. Trong đó có một số tuyến đường quan trọng, như tuyến đường quốc lộ 1A chạy dọc theo chiều dài tỉnh, tuyến đường quốc lộ 19 chạy từ cảng biển Quy Nhơn nối liền với tỉnh Gia Lai sang Hạ Lào và đông bắc Campuchia. Hai tuyến đường này Mỹ Ngụy thường xuyên hoạt động mạnh mẽ trong suốt thời kỳ chúng đánh chiếm ở miền Nam. Đường số 3 đi từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) đến Kim Sơn (Hoài Ân). Đường số 5 từ Bồng Sơn đi An Lão. Đường số 6 từ Diêu Trì qua Vân Canh đi Phú Yên v.v.[46; tr21] Đường sắt xuyên Việt chạy qua tỉnh có chiều dài 135,8 km. Ngoài ra còn hai nhánh đường sắt: từ Quy Nhơn đi Diêu Trì (10,2 km), từ ga Quy Nhơn đi cảng Quy Nhơn (3,2 km). [128; tr30] Hàng loạt cửa biển có giá trị giao thông ở Bình Định được biết đến như cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi, cửa Quy Nhơn. Trong đó cửa biển Quy Nhơn là lớn nhất có giá trị cao về giao thông và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Những tàu nhỏ có thể đến cập bến, hàng hóa nhập cảng bốc lên xe hơi hoặc tàu hỏa để tiếp tế trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Phú Yên, Quảng Ngãi, Kon Tum, Pleicu, Phú Bổn. Theo tài liệu của ngụy quyền Sài Gòn nhận định: “hải cảng Quy Nhơn rất có tương lai nếu để kiến thiết cho các tàu lớn có thể cập bến được thì hải cảng này sẽ đứng vào bậc nhất Trung Phần”. [128; tr30] Giao thông đường không cũng sớm được chú trọng xây dựng và vận hành ở đây. Tỉnh có hai sân bay lớn là sân bay Gò Quánh ở Phù Cát và sân bay Quy Nhơn. Ngoài ra còn một số sân bay dã chiến ở các huyện do Mỹ Ngụy xây dựng nhằm phục vụ cho kế hoạch đè bẹp phong trào đấu tranh của quần chúng, ứng phó nhanh chóng với các chiến lược quân sự của ta. Được thiên nhiên ưu đãi, nguồn lợi thủy sản biển ở Bình Định khá nhiều và phong phú về chủng loại. Khu vực ven biển hình thành nhiều đầm phá: đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại,v.v. Các đầm ngăn cách với biển bởi các dãy núi thấp hoặc các dải cát. Đây là nơi ngư dân nuôi trồng thủy hải sản nước mặn, nước lợ. Bên cạnh nguồn lợi từ khai thác thủy hải sản, trong những năm 13
  20. gần đây tỉnh Bình Định còn chú trọng phát triển ngành du lịch biển với nhiều dạng thức du lịch đa dạng, đặc biệt là dự án Quy Nhơn vinper trên bán đảo Phương Mai. Bình Định cũng được biết đến là tỉnh có tiềm năng phát triển nông nghiệp ở khu vực miền Trung Tây Nguyên. Mặc dù diện tích đồng bằng ở đây không lớn nhưng trên toàn tỉnh đã hình thành một hệ thống các đồng bằng lòng chảo xen lẫn thung lũng nhỏ hẹp được phân bố trên lưu vực các con sông, ven biển. Với chất đất pha cát, ít màu mỡ, không thực sự thích hợp cho trồng lúa nước song với sự nỗ lực của người dân, một số cánh đồng trồng lúa lớn đã được hình thành như: cánh đồng Phù Mỹ, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn,v.v, góp phần cung cấp nguồn lương thực trực tiếp cho nhu cầu của nhân dân trong tỉnh. Ngoài trồng lúa, trong nông nghiệp ở đây còn phát triển một số cây thực phẩm ngắn ngày như đỗ, lạc, ngô, khoai, sắn, rau.v.v, một số cây gia vị như ớt, tỏi, kiệu, nhiều nơi còn trồng mía xen với diện tích trồng các cây công nghiệp lâu năm. Toàn tỉnh có 322.621 ha diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm: chè, cà phê, điều, tiêu, dừa, ca cao, quế, cao su,v.v, phân bố ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân và Hoài Nhơn. Ngoài ra còn một diện tích đáng kể cây ăn quả: xoài, chuối, dứa, cam, quýt, bưởi,v.v. Tóm lại: với vị trí chiến lược quan trọng cùng cấu tạo địa hình phức tạp, Bình Định là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển. 1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng. Bình Định là tỉnh sớm quy tụ người dân từ nhiều địa phương khác nhau đến sinh sống. Những cư dân đầu tiên trên mảnh đất này là người Chăm. Sau đó cùng với quá trình “Nam tiến” của quốc gia Đại Việt, người Kinh bắt đầu di cư vào đây lập nên những làng xóm mới. Quá trình di cư của người Việt vào Bình Định được đẩy mạnh từ thế kỉ XVI, XVII, kéo dài cả thời cận đại, hiện đại. Trong những đợt “Nam tiến” của người Việt thì ồ ạt nhất là sau mỗi lần chúa Nguyễn ở Đàng Trong đánh thắng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Bởi vì sau mỗi lần đánh thắng chúa Trịnh, chúa Nguyễn lại tiến hành bắt tù binh và dân thường, số này được đưa vào khai phá 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2