intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802 – 1883)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:145

297
lượt xem
71
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời biển đảo Việt Nam(1802 – 1883) khái quát các vùng biên giới, biển đảo Việt Nam; hoạt động bảo vệ biên giới Việt Nam của triều Nguyễn (1802 - 1883).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802 – 1883)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Ái HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO VIỆT NAM THỜI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1883) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Ái HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO VIỆT NAM THỜI VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1883) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 03 13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Thúy Ái
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1. KHÁI QUÁT CÁC VÙNG BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO VIỆT NAM ...... 12 1.1. Vị trí địa lí các vùng biên giới, biển đảo Việt Nam ............................................... 12 1.1.1. Các vùng biên giới ....................................................................................... 12 1.1.2. Các vùng biển đảo ........................................................................................ 19 1.2. Tầm quan trọng của vùng biên giới, biển đảo Việt Nam....................................... 24 1.2.1. Tầm quan trọng của khu vực biên giới quốc gia .......................................... 24 1.2.2.Tầm quan trọng của các vùng biển đảo Việt Nam ........................................ 25 1.3. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biên giới, biển đảo Việt Nam .................. 30 1.3.1. Vấn đề biên giới trong nhận thức của triều Nguyễn .................................... 30 1.3.2. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biển đảo ........................................... 32 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 35 Chương 2. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI VIỆT NAM CỦA TRIỀU NGUYỄN (1802-1883) ............................................................................. 36 2.1. Xây dựng cơ sở chuẩn bị cho việc phòng thủ, bảo vệ biên giới thời vương triều Nguyễn (1802-1883). ........................................................................................ 36 2.1.1. Xây dựng lực lượng quân đội ...................................................................... 36 2.1.2. Xây dựng các đồn, bảo ở biên giới .............................................................. 40 2.2. Hoạt động bảo vệ biên giới Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883) .............. 44 2.2.1. Chính sách “phủ dụ, vỗ yên”đối với các dân tộc thiểu số vùng biên giới ... 44 2.2.2. Kiên quyết đấu tranh chống thổ phỉ, giữ gìn cương giới quốc gia .............. 55 Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 76 Chương 3. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIỂN ĐẢO CỦA TRIỀU NGUYỄN (1802-1883) ............................................................................................. 78 3.1. Triều Nguyễn tiếp tục xác lập và thực thi chủ quyền đối với các vùng biển đảo Việt Nam .............................................................................................................. 78
  5. 3.1.1. Vùng biển miền Trung (chủ yếu là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) ........... 78 3.1.2. Vùng biển Tây Nam ................................................................................................ 79 3.2. Thực hiện phòng thủ, bảo vệ các vùng biển đảo Việt Nam .................................. 81 3.2.1. Xây dựng lực lượng thủy quân .................................................................... 81 3.2.2. Đầu tư đóng thuyền và phát triển hệ thống tàu thuyền ................................ 89 3.2.3. Hoạt động phòng thủ ở các cửa biển ............................................................ 95 3.2.3.1. Xây dựng hệ thống đồn bảo, pháo đài ở các cửa biển trọng yếu .............. 95 3.3. Hoạt động đảm bảo an ninh các vùng biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883) ............................................................................................................... 102 3.3.1. Tuần tra, giám sát các vùng biển đảo ......................................................... 102 3.3.1.1. Hoạt động tuần tra các vùng biển đảo ..................................................... 102 3.3.2. Hoạt động tiễu trừ giặc biển ....................................................................... 116 Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 128 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 132
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một quốc gia được tạo nên từ bốn thành tố: Lãnh thổ, Nhà nước, thị trường và Dân cư. Trong đó, lãnh thổ chính là phần đất đai thuộc chủ quyền của một nước. Lãnh thổ giữa các nước với nhau được phân biệt bởi đường biên giới. Biên giới quốc gia là nơi phân chia chủ quyền lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác hoặc với các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Nước Việt Nam ta có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước là Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia với tổng cộng chiều dài khoảng 4.610 km (trong đó với Trung Quốc là 1.406 km, với Lào là 2.067 km, với Campuchia là 1.137 km) [115, tr.3]. Là quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng trải qua nhiều biến cố thăng trầm. Song song đó, biển đảo - một phần lãnh thổ quốc gia Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng, đóng vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Trong lịch sử, các triều đại phong kiến nước ta đã rất quan tâm thực thi chủ quyền, khai thác các nguồn lợi từ biển đảo để góp phần phát triển kinh tế: Thời Lý, năm 1149, vua Lý Anh Tông đã xây dựng trang Vân Đồn; thời Lê, năm 1426, đặt Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, đảo… để quản lý, thu thuế các tàu thuyền nước ngoài qua lại nước ta. Sang thời chúa Nguyễn, các chúa đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để khai thác đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đối với mọi quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ là điều rất thiêng liêng. Do đó, quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta gắn liền với cuộc đấu tranh giữ gìn biên cương, biển đảo của Tổ Quốc. Ý thức bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong lịch sử nước ta được ghi lại bởi những trận chiến oanh liệt: Chống giặc Quỳnh Châu ở biên giới phía Bắc; diệt Hồ Tôn từ phía Nam (thời Hùng Vương); quân thủy của nữ tướng Lê Chân làm khiếp đảm quân thủy của địch ở vùng biển Hải Phòng ngày nay (thời Hai Bà Trưng); chặn đánh Trần Bá Tiên ở sông Tô Lịch, hồ Điển Triệt, đầm Dạ Trạch (thời Lý Nam Đế); trận Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 của Ngô Quyền; trận chiến ở biên giới Đông Bắc thời Lê Hoàn; trận Bạch Đằng lần thứ hai năm
  7. 2 981; náo động châu Khâm, châu Liêm năm 1075; chặn đứng quân địch ở ngoài vùng biển năm 1077 (thời Lý). Trong kháng chiến chống quân Mông- Nguyên lần thứ 3 năm 1288, quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn đã tạo nên chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng lịch sử, tiêu diệt toàn bộ đạo quân thủy 6 vạn tên… Bước sang thế kỉ XVI, XVII và những năm đầu thế kỉ XVIII, thủy quân Việt Nam đã chiến thắng hạm đội của thực dân Hà Lan năm 1642-1643, đánh thắng hạm đội thực dân Anh năm 1702… Thế kỉ XIX, triều Nguyễn được thành lập, cai quản lãnh thổ đất nước từ Bắc đến Nam. Các vị vua triều Nguyễn đều nhận thức được tầm quan trọng của biên giới, biển đảo đối với sự tồn vong, an ninh của quốc gia, vận mệnh dân tộc. Do vậy, cùng với việc quản lí đất nước, phát triển kinh tế, các vị vua triều Nguyễn cũng ra sức bảo vệ vững chắc vùng biên giới, biển đảo – phần máu thịt thiêng liêng của Tổ Quốc. Vậy, triều Nguyễn đã có những hoạt động quân sự cụ thể nào để bảo vệ các vùng biên giới, biển đảo của Tổ Quốc? Là một giáo viên THPT, đang công tác và giảng dạy tại một tỉnh vùng sâu, tôi hi vọng với việc tìm hiểu, tổng hợp lại về những hoạt động quân sự của triều Nguyễn nhằm bảo vệ vùng biên giới, biển đảo Việt Nam sẽ góp một phần nhỏ trong việc đánh giá khách quan về triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng sẽ là nguồn tư liệu hữu ích, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu của giáo viên, học sinh và sinh viên sau này. Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802-1883)” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Liên quan đến đề tài, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố: Trước tiên phải nhắc đến những sách và những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó có đề cập ở những mức độ khác nhau về những hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam của triều Nguyễn. - Bộ sách “Đại Nam Thực Lục”do Quốc Sử Quán triều Nguyễn thừa lệnh triều đình biên soạn theo lối biên niên, tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch – Nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành, gồm hai phần: Công trình Đại Nam Thực Lục tiền biên do các sử
  8. 3 thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết xong năm 1844. Đây là bộ sử viết về toàn bộ mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao thời các chúa Nguyễn từ năm 1558-1778. Trong công trình này, các tác giả có viết về Vạn Lý Hoàng Sa, về hải đội Hoàng Sa (số lượng người, nhiệm vụ, thời gian thực thi công tác…). Công trình Đại Nam Thực Lục chính biên viết về mọi lĩnh vực thời các vua Nguyễn. Phần viết về các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848. Trong công trình này, các tác giả ghi chép về sự kiện các vua triều Nguyễn chiếm hữu các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, thực thi và bảo vệ chủ quyền các vùng biên giới, biển đảo của Việt Nam. Đây là bộ sách lớn viết về lịch sử triều Nguyễn, có giá trị pháp lý cao, nội dung đầy đủ, chân thực và sinh động về toàn cảnh xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự và ngoại giao; trong đó đề cập rất nhiều về những hoạt động của triều Nguyễn trong việc bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam. - Sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”là bộ sách do các đại thần triều Nguyễn theo lệnh vua ghi chép những công tác của triều đình thuộc Lục bộ, về pháp luật, điển chương, chính trị, văn hóa…Trong đó, tập V của bộ sách đã dành rất nhiều trang viết về hoạt động huấn luyện thủy quân, công tác diễn tập thuyền bè, trang bị của lực lượng quân đội, phòng ngừa, bảo vệ vùng biên giới, biển đảo Tổ Quốc, hoạt động tuần biển, công tác khen thưởng ban cấp cho lực lượng thủy quân, trang bị ở các đồn đài vùng biên giới, cửa biển, về Hoàng Sa, Trường Sa… Cách viết là tập hợp những ghi chép chi tiết của các đại thần đứng đầu Lục bộ rồi chuyển cho một vị đại thần có trách nhiệm do triều đình chỉ định trước, viết thành sách. Sách này được viết từ năm Thiệu Trị thứ ba (1843) đến năm Tự Đức thứ tư (1851) thì hoàn tất. Sách gồm 97 quyển, chép từ thời Gia Long năm thứ nhất (1802) đến Tự Đức năm thứ tư (1851). Sau đó được tiếp tục với tên “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên”(1852-1945). - Bộ sách “Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ phương lược chính biên”do Cơ Mật Viện, Bộ Binh và Nội các triều Nguyễn tuân theo chỉ dụ của vua Minh Mạng biên soạn, gồm 153 quyển, bao gồm: Phần 1: Quyển đầu gồm Tổng mục, các bài tấu, biểu xin biên soạn và báo cáo sách đã hoàn thành xin được khắc in dâng lên vua Minh Mạng, tiếp theo là 2 quyển Thiên chương Ngự chế thi - tập hợp 72 bài thơ với lời chú cụ thể từng bài của vua Minh
  9. 4 Mệnh về tâm trạng lo lắng cũng như vui mừng trước diễn biến của quá trình trấn áp những cuộc nổi dậy ở các vùng trong cả nước. Phần 2: Khâm định tiễu bình Bắc Kì nghịch phỉ phương lược chính biên (gồm 80 quyển) Phần 3: Khâm định tiễu bình Nam Kì nghịch phỉ phương lược chính biên (gồm 47 quyển). Phần 4: Khâm định tiễu bình Xiêm khấu phương lược chính biên (gồm 15 quyển). Phần 5: Khâm định tiễu bình Thuận tỉnh man phỉ phương lược phụ biên (gồm 8 quyển). Nội dung của bộ sách tập hợp toàn bộ công văn, chỉ dụ của nhà vua, các bản tấu, biểu của các viên đại thần, tướng lĩnh cầm quân đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy và xâm lược trên cả miền Bắc, miền Nam trong thời gian 3 năm, từ năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835). Bộ sách được biên soạn theo phương pháp thực lục, tức là các sự kiện được chép liên quan theo thứ tự ngày, tháng, năm. - Bộ sách “Minh Mệnh chính yếu” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, viết về những phương cách cai trị đất nước thời Minh Mạng, được chia ra làm 3 tập, đáng chú ý là tập 3, quyển 23, 24, 25 đề cập đến các vấn đề phòng thủ vùng biên giới, biển đảo và chính sách cụ thể đối với những nơi này… - Mục lục châu bản triều Nguyễn, châu bản triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là tư liệu tiếng Hán được lưu lại cho đến ngày nay. Đến năm 1963, các châu bản này lần lượt được học giả Trần Kinh Hòa dịch ra tiếng Việt, nội dung chính là tập hợp các chiếu chỉ, sắc dụ của nhà vua về công việc của đất nước, trong đó có nhiều sắc lệnh về việc bảo vệ biên cương, biển đảo Tổ Quốc. - Bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”- do Phan Huy Chú biên soạn từ năm 1821 đến 1833, sau đó được khắc in ở Huế và Chợ Lớn. Đây là tác phẩm bách khoa lớn, gồm 49 quyển, chia làm 10 phần, trong đó, riêng phần Địa dư chí, sau được khắc in thành bộ sách riêng có nhan đề là “Hoàng Việt địa dư chí”. Sách đã chép đủ các địa danh dù đương thời các địa danh này còn hay thay đổi. Trong quyển 5, nghiên cứu về đạo Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa; phần lớn đều viết về Hoàng Sa, Trường Sa, việc thực thi và bảo vệ chủ quyền của đội Hoàng Sa, Bắc Hải.
  10. 5 - Sách “Phủ Biên tạp lục”– Lê Quý Đôn, đây là bộ sách được tác giả viết vào thời gian trấn nhậm tại hai đạo Thuận Hóa và Quảng Nam nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Sách có giá trị lớn về văn học, lịch sử, địa lí. Sách được viết vào năm 1776. Tên “Phủ biên tạp lục”có nghĩa là ghi lại những việc đang xảy ra và cách giải quyết các vấn đề phủ dụ, trấn an vùng biên thùy phía nam. Sách gồm 6 quyển, trong đó đáng chú ý là quyển II, và quyển IV. Quyển thứ II có 2 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, về việc tổ chức hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải nhằm thực thi và bảo vệ chủ quyền trên vùng biển đảo Việt Nam thời Nguyễn. Đây là một sử liệu đầy đủ và chính xác về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quyển IV viết về vấn đề ở vùng thượng du và biên phòng trên vùng đất phía Nam. Sách được dịch sang tiếng Việt vào năm 1964. Ngoài những công trình mang tính chính thống trên, gần đây, có nhiều tác phẩm cũng đề cập đến việc bảo vệ biên giới, biển đảo dưới triều Nguyễn, tiêu biểu như: - Sách “Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam”- Nguyễn Thái Anh chủ biên, nhà xuất bản Thời Đại ấn hành, chia làm 3 phần: Phần 1: Những cứ liệu lịch sử quan trọng - cung cấp những tài liệu, cứ liệu mang tính pháp lý về chủ quyền biển đảo Việt Nam như: Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, một số nội dung văn bản từ các triều đại phong kiến Việt Nam khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… Phần 2: Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam- gồm những bài viết đặc sắc, những tuyên bố khẳng định quyền bất khả xâm phạm về chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Những biện pháp đấu tranh khôn khéo không khoan nhượng để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam. Những bài viết thế hiện sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong công cuộc gìn giữ bảo vệ Tổ Quốc. Phần 3: Biển đảo Việt Nam trong văn chương, thơ ca, âm nhạc. - Sách “Người Việt với biển”do Nguyễn Văn Kim chủ biên. Dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, tác phẩm này có ba nội dung cơ bản, đáng chú ý là nội dung thứ 3 - chủ quyền và hoạt động bảo vệ an ninh biển đảo: Chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và nhiều vùng đảo khác được đề cập thông qua tài liệu ghi chép trong
  11. 6 chính sử Trung Quốc và qua sự quan sát của các thương nhân. Trong phần này, tác giả cũng đề cập đến “Thủy quân Việt Nam thế kỉ XVII, XVIII và đầu thế kỉ XIX qua nguồn sử liệu phương Tây”. Từ đó cho ta thấy rằng, các chúa Nguyễn cũng như vua Nguyễn đã có ý thức cao trong việc bảo vệ biển đảo Việt Nam. - Kỷ yếu hội thảo khoa học có tiêu đề “Biển Đông và hải đảo Việt Nam”- của nhiều tác giả. Nội dung chính của sách là cung cấp sử liệu của nhà Nguyễn về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa; những hoạch định của triều Nguyễn trong việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này và quy chế pháp lý của biển đảo Việt Nam… Qua đó, góp phần khẳng định chủ quyền và việc thực thi chủ quyền cũng như những hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam qua các thời kì, trong đó có triều Nguyễn. - Kỷ yếu hội thảo khoa học “Châu bản triều Nguyễn tiềm năng di sản tư liệu”do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước tổ chức tại Hà Nội. Kỷ yếu tập hợp nhiều báo cáo của các Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ hàng đầu trong cả nước nghiên cứu về Châu bản triều Nguyễn. Hội thảo này không giới thiệu tất cả các bài viết mà tập trung vào những báo cáo trực tiếp khảo cứu các văn bản và đưa ra nhận xét, đánh giá về tình hình chính trị, quân sự, ngoại giao, các chủ trương chính sách đối nội, đối ngoại, các mặt hoạt động của triều Nguyễn cùng những vấn đề của đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa…Trong đó, chủ quyền biển đảo thực sự được nhiều tác giả quan tâm, nổi bật nhất là các bài: “Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa qua các châu bản triều Nguyễn thế kỉ 19”- TS. Nguyễn Nhã, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bài viết tập hợp lại nội dung các châu bản ghi những nhiệm vụ cụ thể của công tác Hoàng Sa; nói rõ việc đi cắm mốc chủ quyền đã thành lệ hàng năm, cách tổ chức thủy quân thi hành nhiệm vụ và bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. “Châu bản triều Nguyễn- những giá trị đặc trưng của di sản văn hóa và văn bản pháp lý nhà nước quân chủ Việt Nam”- PGS. TS. Đỗ Bang, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế, khẳng định triều Nguyễn là nhà nước duy nhất vào thế kỉ 19 có văn bản của triều đình được Hoàng Đế phê duyệt đề cập đến nhiệm vụ của các đơn vị, quan chức quản lý Hoàng Sa, là bằng chứng khẳng định chủ quyền nước Việt Nam đối với Hoàng Sa- Trường Sa.
  12. 7 “Tư duy hướng biển trong Châu bản triều Nguyễn” - TS. Lê Huỳnh Hoa, Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, khẳng định Việt Nam là nước có truyền thống hướng biển. Truyền thống và tư duy hướng biển của dân tộc Việt Nam được thể hiện rất rõ trong lịch sử dân tộc và Châu bản triều Nguyễn, qua hoạt động đóng tàu, thuyền, phân loại và quản lí tàu thuyền; giữ gìn an ninh vùng biển và chống thủy phỉ; hoạt động cứu hộ, cứu nạn trên biển; tổ chức, thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. - “Châu bản triều Nguyễn - cơ sở lịch sử về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa”- bài viết của TS. Lê Huỳnh Hoa, khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử; trong đó tác giả khẳng định Châu bản là nguồn tài liệu gốc phản ánh lịch sử một cách khách quan nhất, chính xác nhất và cụ thể nhất, đồng thời đưa ra 14 Châu bản triều Nguyễn có nội dung nói đến việc cứu hộ, cứu nạn các tàu gặp nạn ở Hoàng Sa, ban thưởng, hay xử phạt những người thực thi công vụ ở Hoàng Sa, thời gian thực thi nhiệm vụ của những người lính trong đội Hoàng Sa…Qua đó, cho thấy hoạt động chiếm hữu và khai thác của nhà nước phong kiến Nguyễn không gặp phải bất cứ sự phản đối của quốc gia nào khác trong khu vực (kể cả Trung Quốc), chứng tỏ từ lâu Hoàng Sa, Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. - “Chính sách của vua Gia Long và Minh Mạng đối với vùng biển Đông Bắc Việt Nam (1802-1840)”– Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Hữu Hạnh, Đại học Thái Nguyên, 2011, tác giả đã trình bày về vị trí địa lý, tầm quan trọng của vùng biển Đông Bắc Việt Nam, cùng chính sách kinh tế đối với vùng biển này. Đồng thời, tác giả cũng trình bày khá chi tiết về chính sách bảo vệ của vua Gia Long và Minh Mạng đối với vùng biển Đông Bắc: xây dựng thủy quân, tàu thuyền, hoạt động tuần tra, phòng chống cướp biển… Bên cạnh đó, rải rác trên các tạp chí như: Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Xưa và Nay, nghiên cứu Đông Nam Á, lịch sử Quân sự…cũng có những bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau trong việc bảo vệ biên giới, biển đảo Tổ quốc. Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề bảo vệ biên giới, biển đảo triều Nguyễn, nhưng chưa có công trình
  13. 8 nào thể hiện chủ đề này một cách hệ thống, tập trung. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam thời vương triều Nguyễn (1802- 1883)” để làm luận văn Thạc sĩ của mình. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo của Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Biên giới Việt Nam dưới triều Nguyễn (Biên giới phía Bắc, biên giới phía Nam, vùng Tây Nguyên); các vùng biển đảo Việt Nam. - Về thời gian: từ năm 1802, khi Nguyễn Ánh chính thức lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, triều Nguyễn thành lập đến năm 1883, khi vua Tự Đức qua đời, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Khi đó, triều Nguyễn không còn chủ quyền đối với đất nước, đồng thời những hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo thời kì này phần lớn do thực dân Pháp chi phối. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài Luận văn tập trung làm rõ về những hoạt động quân sự nhằm bảo vệ ở các vùng biên giới và các vùng biển đảo Việt Nam của triều Nguyễn, thời 4 vị vua đầu tiên: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Đề tài được nghiên cứu dựa trên các nguồn tư liệu sau: - Những bộ biên niên sử được biên soạn dưới triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Phủ Biên Tạp Lục, Gia Định Thành Thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Châu bản triều Nguyễn, Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ phương lược chính biên… Những bộ sách này đều đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, vì vậy giúp cho các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến lịch sử Việt Nam triều Nguyễn có thể tham khảo một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Đây được xem là những tài liệu gốc, tài liệu quan trọng nhất phục vụ cho luận văn.
  14. 9 - Các bộ sách thông sử và giáo trình của các trường đại học cũng là nguồn tham khảo chính cho luận văn. - Các tác phẩm và công trình nghiên cứu về vùng biên giới, các vùng biển đảo Việt Nam có liên quan đến luận văn. - Các bài viết đăng trên các tạp chí liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp như Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Xưa và Nay, tạp chí Lịch sử quân sự…đã đăng các bài viết có nội dung phong phú, làm tài liệu tham khảo, để nhận thức sâu hơn về triều Nguyễn. - Các tiểu luận, khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn cao học có nội dung liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện bằng hai phương pháp quan trọng nhất là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, còn vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp. 5. Đóng góp của luận văn Thực hiện đề tài này, luận văn sẽ góp phần làm rõ hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam của triều Nguyễn - đây cũng là một mảng kiến thức quan trọng nhưng chưa được tổng hợp và đưa vào giảng dạy ở bậc phổ thông. Ngoài ra, đề tài này sẽ góp phần nhỏ hưởng ứng chủ trương của nhà nước trong việc thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn- triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Góp phần bổ sung, cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho học tập, giảng dạy và nghiên cứu lịch sử. Qua đó, giáo dục học sinh về tầm quan trọng của các vùng biên giới, các vùng biển đảo quê hương, hưởng ứng tích cực phong trào tuyên truyền về biển đảo quê hương của Ban Tuyên Giáo trung ương dành cho tuổi trẻ Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành 3 chương, được bố cục như sau: Chương 1: KHÁI QUÁT CÁC VÙNG BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1883) 1.1.Vị trí địa lí các vùng biên giới, biển đảo Việt Nam 1.1.1. Các vùng biên giới 1.1.1.1. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
  15. 10 1.1.1.2. Biên giới Việt Nam - Lào 1.1.1.3. Biên giới Việt Nam – Cao Miên 1.1.2. Các vùng biển đảo. 1.2. Tầm quan trọng của vùng biên giới, biển đảo Việt Nam 1.2.1. Tầm quan trọng của khu vực biên giới quốc gia 1.2.2. Tầm quan trọng của các vùng biển đảo Việt Nam 1.2.1.1. Đối với lịch sử - an ninh Tổ Quốc. 1.2.1.2. Vai trò kinh tế 1.3. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biên giới, biển đảo Việt Nam. 1.3.1. Vấn đề biên giới trong nhận thức của triều Nguyễn 1.3.2. Tầm nhìn của triều Nguyễn về vấn đề biển đảo. Tiểu kết chương 1. Chương 2: HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI VIỆT NAM CỦA TRIỀU NGUYỄN (1802-1883). 2.1. Xây dựng cơ sở chuẩn bị cho việc phòng thủ, bảo vệ biên giới thời vương triều Nguyễn (1802-1883). 2.1.1. Xây dựng lực lượng quân đội 2.1.2. Xây dựng các đồn, bảo ở biên giới. 2.2. Hoạt động bảo vệ biên giới Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883). 2.2.1. Chính sách “phủ dụ, vỗ yên”đối với các dân tộc thiểu số vùng biên giới. 2.2.1.1. Chính sách đối với dân tộc thiểu số ở biên giới phía Nam. 2.2.1.2. Chính sách đối với dân tộc thiểu số ở miền Trung, Tây Nguyên. 2.2.1.3. Chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc. 2.2.2. Kiên quyết đấu tranh chống thổ phỉ, giữ gìn cương giới quốc gia. 2.2.2.1. Ở vùng biên giới phía Bắc. 2.2.2.2. Ở vùng biên giới phía Nam. Tiểu kết chương 2.
  16. 11 Chương 3: HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIỂN ĐẢO CỦA TRIỀU NGUYỄN (1802- 1883). 3.1. Triều Nguyễn tiếp tục xác lập và thực thi chủ quyền đối với các vùng biển đảo Việt Nam. 3.2. Thực hiện phòng thủ, bảo vệ ở các vùng biển đảo Việt Nam. 3.2.1. Xây dựng lực lượng thủy quân. 3.2.2. Đầu tư đóng thuyền và phát triển hệ thống tàu thuyền. 3.2.3. Hệ thống phòng thủ ở các cửa biển. 3.3. Hoạt động đảm bảo an ninh các vùng biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1883). 3.3.1. Tuần tra, giám sát vùng biển đảo. 3.3.2. Hoạt động tiễu trừ giặc biển. Tiểu kết chương 3.
  17. 12 Chương 1. KHÁI QUÁT CÁC VÙNG BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO VIỆT NAM 1.1. Vị trí địa lí các vùng biên giới, biển đảo Việt Nam 1.1.1. Các vùng biên giới 1.1.1.1. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc Lịch sử đã đặt nước Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc, một nước mà toàn bộ lịch sử mấy ngàn năm là một quá trình chinh phục, xâm chiếm các vùng lãnh thổ láng giềng. Nước Việt Nam luôn luôn là đối tượng dòm ngó của các triều đại thống trị phương Bắc. Suốt gần 20 thế kỷ qua, tất cả các triều đại phong kiến phương Bắc từ Tần, Hán, Ngô, Tấn, Lương, Tùy, Đường, Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh... đều đã sử dụng quân đội để xâm lược và lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam. Mưu đồ thôn tính, đồng hoá của các thế lực phong kiến phương Bắc đối với Việt Nam thật là dai dẳng. Họ không chỉ sử dụng lực lượng quân sự đông đảo để xâm lược mà còn thường xuyên lấn chiếm, lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới. Từ thế kỷ thứ X, phong kiến phương Bắc đã dùng mọi thủ đoạn để lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam như dụ dỗ, cưỡng ép, mua chuộc các tù trưởng để họ mang đất nộp cho thiên triều; lợi dụng những khi nội triều Việt Nam không ổn định, việc phòng bị ở biên giới lơi lỏng để tiến hành xâm lấn; nuôi dưỡng, xúi giục các lực lượng chống đối cũng như gây áp lực với các tập đoàn cai trị khi họ vừa giành được chính quyền để dâng nộp đất đai. Để giữ gìn sự ổn định về cơ bản ranh giới truyền thống giữa hai nước, dân tộc Việt Nam đã phải chịu nhiều hy sinh sức người, sức của mới bảo vệ được cương vực lãnh thổ cho đến khi bị thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và các nước Đông Dương. Đường biên giới truyền thống đó đã là cơ sở lịch sử - pháp lý để Pháp và triều Thanh xác định một đường biên giới chính thức giữa Việt Nam và Trung Quốc bởi hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Lịch sử hình thành đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc có từ rất lâu đời. Thời kỳ nước Văn Lang ra đời, sử sách chỉ ghi chép cương vực một cách chung chung, không rõ ràng cụ thể. Sách sử Trung Hoa đời nhà Đường (618-907) chép rõ tên nước ta thời Hùng Vương là “Văn Lang”; sách Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường cũng chép “Phong Châu là
  18. 13 nước Văn Lang xưa”. Sách xưa của Trung Quốc thường nói đến cương giới Việt Nam và Trung Quốc ở núi Phân Mao. Tương truyền Mã Viện sau khi dẹp xong Giao Chỉ đã dựng một cột đồng ở núi Phân Mao ở vùng Đông Cổ Sâm. Song song với quá trình hình thành, xây dựng nhà nước đầu tiên của người Việt cổ biên giới chung giữa Việt Nam và Trung Quốc từ xa xưa cũng từng bước được định hình, trên cơ sở sự tồn tại của những vùng lãnh thổ nước Việt Nam từ thời cổ đại. Thời kỳ sơ khai, biên giới chung giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ dừng lại ở khái niệm “vùng biên giới”, trên địa bàn cư trú và sinh sống của cư dân Lạc Việt và Âu Lạc. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, lãnh thổ Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ, ranh giới giữa hai nước không được phân định rõ ràng. Đến năm 938, khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân đập tan cuộc xâm lược của quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, vấn đề lãnh thổ và chủ quyền quốc gia mới được phân định rõ nét trong mối quan hệ giữa nước Việt với đế chế phong kiến phương Bắc. Vấn đề này luôn trở thành mối quan tâm hàng đầu của các triều đại phong kiến Việt Nam. Theo Tống sử, Tống Cảo là sứ giả nhà Tống được phái sang nước Việt năm 990 đã báo cáo lên vua Tống rằng khi họ đến “hải giới” Giao Chỉ thì vua Lê Đại Hành đã cho 9 thuyền và 300 quân lên đón ở Thái Bình Tưởng (Trân Châu) và dẫn đoàn sứ thần đến địa điểm quy định. Như vậy, ngay trong nghi thức tiếp đón sứ thần khi đó đã đề cập đến cương vực "hải giới” và chủ quyền lãnh thổ. Năm 1078, vua Lý Nhân Tông gửi thư cho vua Tống đòi lại vùng Quảng Nguyên (Quảng Hoà và Thạch An thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay) và vùng Tô Mậu (Đình Lập và An Châu thuộc tỉnh lạng Sơn ngày nay) mà nhà Tống đã chiếm trên đường rút quân trong cuộc chiến tranh xâm lược thất bại năm 1076, nhưng phải đến sáu lần vua Lý đi đòi đất vẫn không thành. Năm 1127, trong di chiếu vua Lý Nhân Tông đã điểm lại việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cương vực lãnh thổ và hài lòng nhận thấy "bốn biển yên lành, biên thuỳ ít biến". Năm 1171, 1172, vua Lý Anh Tông đích thân đi xem xét biên cương, vùng biển phía Nam, phía Bắc, biên soạn ra cuốn sách "Nam Bắc phân giới địa đồ”ghi chép về hình thế núi sông, cương vực đất nước.
  19. 14 Đến thế kỷ 12, vua Trần giao nhiệm vụ bảo vệ các hướng biên giới cho các trọng thần. Trần Hưng Đạo phụ trách hướng Lạng Sơn; Trần Nhật Duật phụ trách hướng Tuyên Quang; Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, bảo vệ hướng biển Đông Bắc. Năm 1349, triều Trần nâng vị trí trang Vân Đồn thời Lý lên thành một trấn trực thuộc triều đình với nhiệm vụ tổ chức bảo vệ vùng biển Đông Bắc và quản lý việc thông thương với nước ngoài. Năm 1432, vua Lê Thái Tổ cho khắc vào vách núi ở Hoà Bình “Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc ưng tu kế cửu an”. Năm 1446, vua Lê Thánh Tông đã phản kháng nhà Minh cho quân cướp bóc vùng Thông Nông, bảo Lạc (Cao Bằng ngày nay) và đòi họ phải bồi thường, mặt khác ra lệnh đày hai viên quan cai quản Cao Bằng đi xa vì tội phòng giữ biên cương không cẩn mật. Chính nhờ cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ và khôn khéo của các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau qua các triều đại, dù so sánh lực lượng chênh lệch nhưng biên cương phía Bắc nước ta vẫn được bảo tồn và cơ bản ổn định. Từ sau kỷ nguyên độc lập và suốt trong thời kỳ phong kiến, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hình thành mà đặc điểm chính của sự hình thành này là sự đan xen giữa biên giới tập quán và biên giới được xác định. Trên toàn tuyến là biên giới tập quán được sự thừa nhận của hai bên dựa trên ranh giới các đơn vị hành chính, các khu dân cư thuộc quyền quản lý của mỗi bên và sự phân biệt đó thường được dựa vào địa hình tự nhiên như sông, suối, núi, đồi... lâu dần hình thành đường biên giới tập quán cùng được hai bên tôn trọng. Tại những nơi có đường giao thông đi qua biên giới (cắt đường biên giới), hai bên đặt đồn ải để quản lý việc qua lại, duy trì an ninh cho dân cư của các vùng biên giới. Song, cá biệt cũng có những đoạn biên giới được nhà nước phong kiến hai bên cùng xác định. Đó là đoạn biên giới phía Bắc Cao Bằng ngày nay đã được ấn định từ năm 1084 và đoạn sông Đỗ Chú phía Tây Bắc huyện Vị Xuyên được dựng bia làm dấu năm 1732. Tuy nhiên, toàn bộ đường biên giới cũng có sự khác biệt giữa đoạn biên giới phía Đông và đoạn biên giới phía Tây. Đoạn biên giới phía Đông từ biển đến đỉnh cao Đồng Văn nói chung ổn định, hai bên có hệ thống đồn ải hình thành trong quá trình lịch sử. Ngược lại, ở phía Tây từ đỉnh cao Đồng Văn đến Điện Biên, do dân cư thưa thớt, địa hình phức tạp nên đường biên giới không rõ ràng. Từ thời chúa Nguyễn cho đến cuối thế kỉ XIX, một đường biên giới trên đất liền giữa
  20. 15 Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành, tồn tại khá ổn định, được hai bên tôn trọng. Biên giới đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc còn gọi là biên giới phía Bắc, dài 1406 km. Việt Nam có 7 tỉnh tiếp giáp với Trung Quốc là Quảng Ninh, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, và Điện Biên. Các địa phương của Trung Quốc tiếp giáp với đường biên giới này là tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang ở Quảng Tây. 1.1.1.2. Biên giới Việt Nam- Lào Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng có lịch sử phát triển lâu đời, có mối quan hệ và lợi ích kinh tế - xã hội gắn bó, có chung số phận là thường phải chiến đấu chống ngoại xâm. Cách đây hàng trăm năm, trong thời kỳ phong kiến, hai nước Việt Nam và Lào đã có mối quan hệ láng giềng thân thiện, bang giao kinh tế và hỗ trợ nhau chống xâm lược. Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ triều đại Tây Sơn, lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long, đổi tên nước là Việt Nam. Năm 1804, Gia Long cắt đất các xứ Sầm Châu thuộc trấn Thanh Hoá (tỉnh Hủa-phăn), các phủ Trấn Ninh, Ngọc Ma, Lâm An xứ Lục Hoàn thuộc trấn Nghệ An (tỉnh Xiêng-khoảng và tỉnh Khăm-muộn) cho Quốc vương Lạn Xang vì có công giúp Gia Long đánh quân Tây Sơn. Năm 1829, Minh Mạng cho cắt đất Sầm Châu đặt ra phủ Trấn Nam thuộc tỉnh Thanh Hoá và phủ Trấn Biên thuộc tỉnh Nghệ An, phục hồi phủ Trấn Ninh, lấy đất Ngọc Ma cũ đổi thành phủ Trấn Định, lấy đất Lâm An cũ đổi thành phủ Trấn Tịnh, lấy xứ Lục Hoàn đổi thành phủ Lục Biên và đều thuộc tỉnh Nghệ An. Như vậy, các vùng đất này sau 24 năm bị cắt cho Lạn Xang nay lại thuộc lãnh thổ Việt Nam. Dưới triều Minh Mạng, lãnh thổ phía Tây của Việt Nam đã bao gồm các vùng đất rộng lớn gồm các trấn, phủ ở phía tả ngạn sông Mê Công là: Trấn Man Phủ thuộc tỉnh Thanh Hoá (vị trí tỉnh Hủa-phăn của Lào ngày nay); trấn Ninh Phủ thuộc tỉnh Nghệ An (vị trí tỉnh Xiêng-khoảng của Lào ngày nay); trấn Định Phủ thuộc tỉnh Nghệ An (vị trí tỉnh Khăm-muộn của Lào ngày nay); trấn Tịnh Phủ thuộc tỉnh Nghệ An (vị trí tính Khăm- muộn và tỉnh Sa-vẳn-nạ-khệt của Lào ngày nay); Lạc Biên phủ thuộc tỉnh Nghệ An (vị trí tỉnh Khăm-muộn của Lào và một phần đất ở phía Tây sông Mê Công của Thái Lan
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0