Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5/2008)
lượt xem 66
download
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5/2008) nêu lên khái quát về địa chính trị và yếu tố địa chính trị trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước, trong và sau chiến tranh lạnh; yếu tố địa chính trị trong sự tham dự của Mỹ vào các sự kiện và vấn đề tiêu biểu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5/2008)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------- Nguyễn Thị Kim Hằng Chuyên ngành : Lịch sử thế giới Mã số : 60 22 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ MINH OANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học cùng tập thể Thầy, Cô khoa Lịch sử. Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Ngô Minh Oanh, thầy đã dành nhiều thời gian và tận tình hướng dẫn tôi từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn thành luận văn. Cảm ơn gia đình và bạn bè đã hỗ trợ vật chất cũng như đã làm chỗ dựa tinh thần cho tôi trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn!
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới đang có nhiều diễn biến sâu sắc và phức tạp như hiện nay, nghiên cứu cục diện chính trị quốc tế không thể không nghiên cứu địa-chính trị, nghĩa là nghiên cứu sự biến đổi chính trị trong những quy mô không gian địa lý nhất định với tất cả sự tác động qua lại giữa hai nhân tố đó. Cụ thể là việc xác định các nước láng giềng, các khu vực có vị trí trọng yếu với những ý đồ và chiến lược có thể là đối tác quan hệ hoặc là đối tượng đấu tranh ... luôn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hoạch định chiến lược đối ngoại của mỗi quốc gia sao cho phù hợp với tình hình thế giới và khu vực, để phục vụ kịp thời mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt là sau Chiến tranh lạnh, địa-chính trị đã được sử dụng phổ biến hơn để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực. Mỹ là một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế và đang ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối và làm bá chủ thế giới. Mỹ cũng là một trong những nước thành công nhất trong việc nghiên cứu và vận dụng khoa học địa-chính trị: bắt nguồn từ nhân tố địa lý để khảo sát, phân tích mối quan hệ chính trị quốc tế, từ đó xác định chiến lược an ninh và phát triển quốc gia. Chiến lược toàn cầu của Mỹ là sự vận dụng nội dung của các học thuyết địa-chính trị, đó là: lợi ích an ninh quốc gia không tách rời khỏi các hoạt động chính trị và trong mỗi một thời kỳ lịch sử, trên bản đồ chính trị quốc tế thường có một trung tâm chiến lược mà nếu nước nào khống chế được trung tâm đó thì sẽ chi phối được toàn bộ thế giới. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mục tiêu địa-chính trị của Mỹ chủ yếu nhằm vào đối tượng chiến lược toàn cầu là Liên Xô và châu Âu là “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế. Châu Âu là nơi giới lãnh đạo của cả Mỹ lẫn Liên Xô coi là có ý nghĩa hàng đầu đến sự sống còn của quốc gia mình. Sau Chiến tranh lạnh, thực tế cạnh tranh địa-chính trị giữa các nước lớn cho thấy: đại lục Âu - Á đang trở thành “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế đầu thế kỷ XXI. Mục tiêu chiến lược đối ngoại của Mỹ là tiếp tục xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo đối với thế giới. “Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là một vấn đề thời sự, việc tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề này là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc, góp phần phục vụ cho công việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử thế giới hiện đại của sinh viên và học sinh. Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đó, chúng tôi thấy rằng vấn đề “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là đề tài đầy lý thú và đem lại những kết quả hữu ích. Do đó, chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Lịch sử vấn đề
- Trong những năm gần đây, khái niệm “địa-chính trị” thường được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Đó là vì quá trình nghiên cứu về chính trị thế giới hiện nay vẫn dựa trên việc phân tích tình hình ở các khu vực, các quốc gia. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất. Để bảo vệ địa vị bá chủ của mình, Mỹ muốn xây dựng trật tự thế giới đơn cực dưới sự chỉ đạo của Mỹ bằng cách bảo vệ cho được vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị ở lục địa Âu - Á. Vì vậy, “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước với nhiều góc độ, phạm vi phân tích và đánh giá khác nhau. Năm 1993, John Rennie Short có công trình nghiên cứu “An Introduction to Political Geography” mang tính lý luận về địa-chính trị của trật tự thế giới, địa-chính trị của nhà nước, địa-chính trị của sự tham dự. Tác giả phân tích trật tự thế giới được hình thành từ sự phát triển không đều trong vòng xoáy tư bản chủ nghĩa, thể hiện ở trật tự Bắc - Nam: giữa những nước giàu và nước nghèo, cuộc đối đầu Đông - Tây: giữa hai khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), sự phát triển và tiêu vong của Liên bang Xô viết, sự nổi lên của những trung tâm quyền lực mới tạo nên một thế giới đa cực. Trong chương địa-chính trị của nhà nước, nội dung đáng chú ý là mối liên hệ giữa nhà nước và trật tự thế giới, phạm vi của mỗi quốc gia, tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia - dân tộc hàm chứa quan điểm của mỗi quốc gia dân tộc và nhà nước được nghiên cứu với tư cách là thực thể trong không gian. Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ được tác giả đề cập nhằm minh họa cho những lý luận, chưa phải là một hệ thống nghiên cứu toàn diện, chuyên biệt. Năm 2000, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp có bài “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa-chính trị thế giới” đăng trên tạp chí Khoa học Chính trị. Bài viết định nghĩa “địa-chính trị là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa lý và chính trị” [47, tr.13]. Tư tưởng về địa-chính trị đã có từ rất lâu đời, ngay khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia-dân tộc, nhưng phải đến nửa sau thế kỷ XIX, địa-chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Các tác giả đã chia quá trình phát triển tư tưởng địa-chính trị thành các giai đoạn chủ yếu sau: giai đoạn từ thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới thứ nhất, giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Bài viết tập trung vào các nhà tư tưởng địa-chính trị nổi tiếng như Alfred Thayer Mahan với luận điểm “việc kiểm soát quyền lực trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền lực quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường quốc hơn các quốc gia trên bộ”, Halford Mackinder với quan điểm nổi tiếng: “Ai chiếm được vùng Đông Âu thì sẽ chiếm được vùng đất trung tâm (hàm ý nói về nước Nga); ai nắm được vùng đất trung tâm sẽ chỉ huy được hòn đảo của thế giới (đại lục Á - Âu); ai nắm được hòn đảo của thế giới sẽ chi phối được cả thế giới” và Saul Cohen với bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa-chiến lược dưới áp lực của các siêu cường, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng địa-chiến lược của hai lãnh địa đối với Mỹ, đó
- là: lãnh địa mậu dịch hàng hải hướng ngoại (Tây Âu, châu Phi, các nước châu Mỹ) và lãnh địa lục địa hướng nội (Liên Xô trước đây, Trung Quốc). Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập đến thuyết “Vùng rìa” (Rim Land) của Nicholas John Spykman, thuyết “Sức mạnh trên không” (Air Power) của Alexander Procofieff de Seversky. Năm 1996, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI” của Maridon Tuareno do Nguyễn Văn Hiến dịch. Bà Maridon Tuareno là một chuyên gia có uy tín ở Pháp về các vấn đề chiến lược và quan hệ quốc tế, đã từng làm cố vấn về các vấn đề chiến lược và quốc phòng cho thủ tướng Pháp Misen Rôca trong những năm 1988 - 1991. Cuốn sách cho ta một bức tranh sinh động và chi tiết về những thay đổi diễn ra trên thế giới sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, và những thay đổi ấy được phân tích rất cặn kẽ trong bối cảnh lịch sử và bối cảnh khu vực của chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một lý thuyết về quan hệ quốc tế hiện đại mà chúng ta không thể đồng tình: theo bà, với sự chấm dứt của “trật tự Yanta”, thế giới sẽ là một thế giới chịu sự chi phối của châu Âu, của sức mạnh và các giá trị của châu Âu. Năm 2004, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Nước Mỹ nửa thế kỷ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh” của Thomas J. McCormich do Thùy Dương dịch. Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh là thực hiện kế hoạch bá quyền Mỹ. Chiến tranh lạnh là một phần của kế hoạch bá quyền, một phần quan trọng trong kế hoạch đó là việc ngăn chặn và chế ngự Liên Xô, việc ràng buộc nước Anh vào một “mối quan hệ đặc biệt”, việc kiềm chế Đức và Nhật Bản, cũng như việc kiềm chế chủ nghĩa dân tộc cách mạng ở Thế giới thứ ba bằng “củ cà rốt và cây gậy” cũng chỉ là một phần của nhiệm vụ này. Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc song Chính phủ Mỹ vẫn tin rằng cấu trúc của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đòi hỏi phải có một trung tâm bá quyền để đặt ra và cưỡng chế thi hành các luật lệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản tự do, và chỉ Mỹ mới có sức mạnh để đóng vai trò đó. “Bàn cờ lớn” là tác phẩm tiêu biểu của Zbigniew Brzezinski về địa-chính trị thế giới, mô tả và lý giải chiến lược toàn cầu của nước Mỹ trong thế kỷ XXI dưới lăng kính lợi ích chính trị và khả năng duy trì vị trí siêu cường của quốc gia này. Theo Brzezinski, trên “bàn cờ lớn” đó, lục địa Âu - Á là nơi sẽ diễn ra những tranh chấp chủ yếu và chính tại nơi đó, Mỹ sẽ khẳng định được vị trí lãnh đạo thế giới của mình. Vì vậy, đảm bảo vị trí lãnh đạo của Mỹ trong NATO, mở rộng tổ chức này về địa lý và phạm vi tác chiến, duy trì sự hiện diện quân sự và ảnh hưởng tuyệt đối của Mỹ tại các khu vực then chốt như Trung Đông, Viễn Đông (Nhật Bản và Hàn Quốc), tăng cường xâm nhập những địa bàn chiến lược then chốt (Trung Á, Đông Nam Á) sẽ là những bước đi mang tính “chiến thuật” nhằm đảm bảo không một đối tượng nào có thể nổi lên tranh giành quyền lãnh đạo thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, Brzezinski đã đánh giá chưa đúng vai trò của Trung Quốc, tuyệt đối hóa vai trò của Mỹ trong trật tự thế giới ngày nay. Brzezinski đã gọi tên bàn cờ lớn là “bàn cờ Âu - Á” để giới hạn không
- gian mô tả của mình. Sự quá chú trọng đến khu vực Âu - Á đã khiến cho quan điểm về thế giới mới của Brzezinski thiếu đi tính toàn diện, dù không hẳn là phiến diện. Cho dù vai trò của lục địa Âu - Á trong việc hình thành trật tự thế giới có lớn đến mức nào thì cũng không thể xem nhẹ các khu vực khác (châu Phi, châu Mỹ). Năm 2003, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản công trình nghiên cứu “Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế”. Trong công trình, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về khủng bố: “Khủng bố là những hành vi bạo lực không tuyên bố nhằm vào những mục tiêu không được trang bị các phương tiện quân sự hoặc không được báo trước để tự bảo vệ mình, nhằm mục đích gây sức ép đối với nhà cầm quyền về mặt chính trị” [80, tr.24], đồng thời phân tích nguyên nhân của chủ nghĩa khủng bố nằm ở mối quan hệ giữa nhà nước với dân chúng, giữa những người cai trị với người bị cai trị, giữa khu vực trung tâm và khu vực ngoại vi, vì vậy xây dựng tốt các mối quan hệ này sẽ có cơ hội loại trừ được chủ nghĩa khủng bố. “Vụ chấn thương ngày 11/9 đòi hỏi phải thực hiện nhiều công việc tái cơ cấu về mặt địa-chính trị và thể chế”, cụ thể là Mỹ cần “tập hợp rộng rãi các quốc gia thành một mặt trận hợp tác linh hoạt chống khủng bố; trợ giúp về mặt kinh tế, chính trị, quân sự để ổn định khu vực cho vùng Trung Đông, Trung Á, thậm chí cho cả Đông Nam Á; khuyến khích dân chủ hóa đối với các chế độ bị nhiều nước phản đối đồng thời với cả những nước phương Tây ủng hộ họ; cuối cùng cần hợp nhất dân nhập cư đến phương Tây đang ngày càng gia tăng do logic toàn cầu hóa” [80, tr.154- 155]. Thông qua cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã củng cố được vị trí địa-chính trị của mình. Năm 2003, Nguyễn Đình Luân có bài nghiên cứu “Tìm hiểu logic địa-chính trị trong chiến lược đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế. Bài viết phân tích tầm quan trọng của địa-chính trị trong ván bài của các nước lớn, làm rõ khái niệm “cấu trúc nền” và các “cửa ô” của cơ cấu địa-chính trị đầu thế kỷ XXI. Quan trọng nhất là Nguyễn Đình Luân đã có những nhận định về các tính toán địa-chính trị của Mỹ, cụ thể như việc Iraq tiến công Kuwait tạo cơ hội cho Mỹ đóng quân lâu dài ở Trung Đông, quá trình Đông tiến của NATO với mục tiêu vẽ lại bản đồ địa- chính trị ở châu Âu, khủng hoảng Balkan và cuộc chiến Kosovo với ý đồ khống chế bán đảo Balkan, sự kiện 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố với mục tiêu biến “nguy cơ” thành “thời cơ” tiến quân vào Trung Á, thay đổi bàn cờ chính trị ở Trung Đông, trở lại Đông Nam Á về quân sự. Bài viết cũng đề cập đến những tác động và giới hạn chiến lược của Mỹ. Giá trị tham khảo của bài viết là rất lớn, tuy nhiên do số lượng trang của bài nghiên cứu còn hạn chế - chỉ 13 trang nên cần bổ sung những nội dung chi tiết, cụ thể làm sáng tỏ những nhận định trên. Năm 2005, Hồ Châu có bài viết “Chiến lược Á - Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh - nhìn từ góc độ địa-chính trị” đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu. Như tên của bài viết, nội dung chính được đề cập ở đây là sự phân tích chính sách của Mỹ đối với lục địa Âu - Á sau hơn 10 năm Chiến tranh lạnh kết thúc dưới góc nhìn địa-chính trị. Bài viết nêu rõ: “Điều quan trọng nhất để tìm kiếm vai trò bá
- chủ thế giới chính là làm sao để khống chế và giữ vai trò chủ đạo trong các công việc tại lục địa Á - Âu” [7, tr.19]. Từ đó Mỹ đã hình thành một chiến lược quan trọng khác là ngăn chặn bất kỳ nước lớn hoặc một liên minh nào khác ở châu Âu có khả năng vươn lên loại bỏ hoặc đe dọa gạt Mỹ ra khỏi lục địa Âu - Á. Trọng tâm trong hoạt động đối ngoại của Mỹ là khống chế châu Âu đặc biệt là Tây Âu, mở rộng NATO, tăng cường sức mạnh quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, gia tăng ảnh hưởng ở các khu vực Trung Đông, Trung Á và Nam Á. Bài viết chủ yếu đề cập đến các quan hệ Mỹ - Liên minh châu Âu, quan hệ Mỹ - Nhật, quan hệ Mỹ - Ấn Độ; quan hệ Mỹ - Nga chỉ điểm vài nét quanh vấn đề các nước SNG, khu vực Trung Á, chưa nói đến quan hệ cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và một số vấn đề khác như vấn đề Kosovo, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên v.v... Năm 2006, John Bellamy Foster có bài nghiên cứu “The New Geopolitics of Empire” đăng trên tạp chí Monthly Review. Bài viết phân tích những tư tưởng địa-chính trị của Mackinder, Haushofer, Spykman và ảnh hưởng của nó đến chính sách đối ngoại của các cường quốc Anh, Đức, Mỹ và lịch sử thế giới. Cụ thể là địa-chính trị của “hòa bình kiểu Mỹ” là nội dung của yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh và “địa-chính trị mới” giai đoạn sau Chiến tranh lạnh “đã di chuyển từ vùng đến phạm vi toàn cầu”. Mục tiêu địa-chính trị xuyên suốt trong chiến lược toàn cầu của Mỹ là ngăn chặn sự xuất hiện của bất cứ một nước hay liên minh nào chống lại uy quyền tối cao trên phạm vi toàn cầu của Mỹ. Foster cũng khẳng định sự thất bại của địa-chính trị đế quốc và trật tự đơn cực của Mỹ, đồng thời tìm kiếm sự hòa bình ở một thế giới công bằng của chủ nghĩa xã hội. Qua vài nét mang tính tổng quan như trên cho thấy vấn đề “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” hết sức rộng lớn và phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu - Về thời gian, luận văn nghiên cứu yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh (12/1989) đến nay (5/2008). - Về không gian nghiên cứu của vấn đề, chủ yếu ở châu Âu, châu Á - những khu vực địa-chính trị trọng tâm của thế giới, châu Phi và châu Mỹ được đề cập ở mức độ hạn chế. - Về nội dung nghiên cứu, bên cạnh những nét khái quát về địa-chính trị và yếu tố địa-chính trị trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước và trong Chiến tranh lạnh, luận văn chủ yếu trình bày yếu tố địa- chính trị trong chính sách đối ngoại của Mỹ với các khu vực và trong sự tham dự của Mỹ vào các sự kiện và vấn đề tiêu biểu. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành sau đây:
- - Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử nhằm tái hiện lại bức tranh sinh động về sự vận dụng yếu tố “địa-chính trị” trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ ở các khu vực chủ yếu trên thế giới từ sau Chiến tranh lạnh (12/1989) đến nay (5/2008). - Chúng tôi sử dụng phương pháp logic để lý giải những tính toán địa-chính trị của Mỹ, phát hiện ra mục đích của việc vận dụng yếu tố “địa-chính trị” là nhằm tìm kiếm những nguồn lực kinh tế cho sự sinh tồn và phát triển quốc gia, củng cố và giữ vững địa vị bá quyền của Mỹ. - Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế nhằm tìm hiểu các sự kiện, các vấn đề quốc tế; phương pháp khu vực học nghiên cứu mối quan hệ giữa Mỹ và các khu vực; và sử dụng những kiến thức của địa-văn hóa, địa-kinh tế… nhằm hiểu rõ nguồn gốc của các vấn đề quốc tế có liên quan đến chiến lược toàn cầu của Mỹ. 5. Đóng góp của luận văn - Luận văn trình bày một cách tương đối đầy đủ, hệ thống và toàn diện về vấn đề địa chính trị nói chung và yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nói riêng từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, góp phần lấp đầy khoảng trống này trong nghiên cứu lĩnh vực địa chính trị. - Phục dụng bức tranh toàn cảnh về sự vận dụng yếu tố “địa-chính trị” trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ ở các khu vực chủ yếu ở trên thế giới từ sau Chiến tranh lạnh đến nay. - Kết quả nghiên cứu đạt được phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy và những ai quan tâm đến khoa học địa-chính trị, cũng như vận dụng tư tưởng địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Khái quát về địa-chính trị và yếu tố địa-chính trị trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước và trong Chiến tranh lạnh Chương 2: Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay Chương 3: Yếu tố địa-chính trị trong sự tham dự của Mỹ vào các sự kiện và vấn đề tiêu biểu
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA-CHÍNH TRỊ VÀ YẾU TỐ ĐỊA-CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ NƯỚC MỸ GIAI ĐOẠN TRƯỚC VÀ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH 1.1. Khái quát về địa-chính trị 1.1.1. Khái niệm Trong những năm gần đây, khái niệm “địa- chính trị” (geopolitics) thường được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Thuật ngữ “địa-chính trị” được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1899 với tên tuổi của Rudolph Kjellen (1864-1922) - nhà địa lý học Thụy Điển. Năm 1905, Kjellen sử dụng thuật ngữ này nhằm biểu thị “khoa học của một quốc gia với tư cách là một vùng trong không gian”. Quan niệm này của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng địa-chính trị của Friedrich Ratzel (người Đức). Kjellen quan niệm quốc gia như một cơ thể sống và có một quyết tâm sống mãnh liệt. Năm 1917, Kjellen đã nêu lên định nghĩa về địa-chính trị: đó là khoa học coi quốc gia là một tổ chức về mặt địa lý hay là một hiện tượng trong không gian. “Tổ chức” này bị ràng buộc với cuộc đấu tranh không bao giờ kết thúc để có được các nguồn lực cần thiết cho sự sống, trong đó lãnh thổ là cái quan trọng nhất. Mở rộng lãnh thổ vì vậy luôn là mục tiêu của mỗi quốc gia nhằm tìm kiếm nguồn lực kinh tế, tài nguyên thiên nhiên cho sự sinh tồn và phát triển quốc gia. Hệ thống thuộc địa của các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ ... vào cuối thế kỷ XIX - giữa thế kỷ XX cũng là nhằm tận dụng nguồn nguyên nhiên liệu, nhân lực, thị trường tiêu thụ của thế giới để đáp ứng nhu cầu phát triển của những nước này. Trước thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới nửa sau thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dân có sự thay đổi tinh vi về mặt hình thức. Các cường quốc tìm cách gây ảnh hưởng về kinh tế, chính trị ở những nước nhỏ yếu hơn nhằm thu hút những nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, chất xám phục vụ cho những mục tiêu tăng trưởng của quốc gia, biến những nước nhỏ thành những công cụ, phương tiện để thực hiện sự bá quyền. Vị trí địa lý là yếu tố trọng yếu của địa-chính trị gồm các khía cạnh chính là vị trí địa lý tự nhiên, vị trí địa lý giao thông, vị trí địa lý quốc phòng. Vị trí địa lý, đặc biệt là vị trí giao thông và vị trí quốc phòng có ý nghĩa xác định tầm quan trọng của một quốc gia trong quan hệ với các nước khác và giữa các nước khác với nhau, đặc biệt là giữa các cường quốc. Trong lịch sử, Thái Lan đã biết tận dụng vị trí địa lí để làm trái độn giữa các cường quốc. Thái Lan nằm giữa các vùng thuộc địa của Anh và Pháp. Phía Đông là Đông Dương - thuộc địa của Pháp, phía Tây là Mianma - thuộc địa của Anh. Lợi dụng vị trí nước “đệm” và mâu thuẫn giữa hai thế lực Anh và Pháp, Thái Lan đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo (chính sách ngoại giao cây tre), cho tư bản nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh, cắt nhượng một số vùng đất phụ thuộc (vốn là
- lãnh thổ của Campuchia, Lào, Mã Lai). Kết quả Thái Lan trở thành vùng trung lập, cơ bản giữ được chủ quyền đất nước, không lệ thuộc hẳn vào nước nào. Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. “Chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế” nên cạnh tranh địa-chính trị luôn có nội hàm kinh tế xác định như vấn đề năng lượng chẳng hạn, nhưng chính trị có tính độc lập tương đối. Chính trị có quy luật riêng. Một nước Nhật Bản mạnh về kinh tế (là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới) nhưng vẫn là “chú lùn về chính trị”. Về phương diện kinh tế, cả Trung Quốc và Nga đều thua xa Mỹ nhưng vẫn có vai trò chính trị lớn trên thế giới. Chính trị quốc tế là cuộc đấu tranh giành quyền lực và quyền lực được xác định trong mối quan hệ với lợi ích: ai giành được cái gì, được bao nhiêu, khi nào và bằng cách nào [46, tr.25-26]. Trên thực tế, giữa địa lý và chính trị có quan hệ nhân quả; nói cụ thể hơn, địa lý thường ảnh hưởng đến các quyết định chính trị và ngược lại, quyền lực chính trị có ảnh hưởng đến địa lý. Việt Nam là một nước nhỏ, giàu tài nguyên lại ở sát nách một nước Trung Quốc khổng lồ nên đã được Trung Quốc đặc biệt quan tâm. Trung Quốc đã từng thống trị nước ta đến cả ngàn năm và còn nhiều lần xâm lăng nhưng đã bị quân dân ta đánh bại. Sự quan tâm ấy đến nay vẫn tồn tại vì Việt Nam nằm trên trục giao thông của nhiều nước và do đó, chiếm một vị trí đặc biệt về quân sự, chính trị và kinh tế tại Đông Nam Á và, lẽ dĩ nhiên, Việt Nam luôn nằm trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc có tham vọng trở thành cường quốc thế giới và lãnh đạo khu vực, do đó Trung Quốc tăng cường khống chế biển Đông và gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đối với Trung Quốc, biển Đông có tầm quan trọng sống còn: 80% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc cũng như phần lớn hàng hóa thông thương giữa Trung Quốc với châu Âu và Trung Đông đi qua đây. Địa-chính trị chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa chính trị và các nhân tố mang tính chất địa lý, các hình thức tập hợp lực lượng và các chiến lược (quân sự và chính trị) theo một quan điểm mang tính địa lý. Ví dụ các nhà địa-chính trị cổ điển như Mahan, Mackinder thường phân biệt cường quốc đại dương như Anh, Mỹ với cường quốc lục địa như Nga, Trung Quốc. Từ đó hình thành nên bản đồ địa- chính trị thế giới phục vụ cho chính sách đối ngoại của Anh và Mỹ với những khái niệm “heartland” của Mackinder, “rimland” của Spykman... Tài nguyên địa-chính trị của một nước là sự kết hợp của địa thế, tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn của nước đó với những vận hội mà cục diện chính trị và kinh tế quốc tế mở ra cho nước đó. Tài nguyên địa-chính trị của một khu vực là những lợi thế có được do địa lý - cả tự nhiên lẫn nhân văn - của khu vực đó trên bản đồ chính trị quốc tế [38, tr.18]. Tài nguyên địa- chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vận mệnh của một nước. Người ta thường nghĩ một nước giàu có là nhờ khoáng sản phong phú hoặc dân cư cần cù nhưng trong nhiều trường hợp,
- chính tài nguyên địa chính trị là yếu tố có tầm quan trọng số một trong việc quyết định sự phồn thịnh của một quốc gia. Hai ví dụ tiêu biểu là Hồng Kông và Singapore và một phản ví dụ là Congo (Kinshasa). Congo Kinshasa là nước rất giàu tài nguyên khoáng sản, với trữ lượng kim cương và nhiều loại quặng quý khác đứng hàng đầu thế giới, nhưng cho đến nay vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên địa cầu. Trong khi đó thì Hồng Kông và Singapore đều không có chút tài nguyên thiên nhiên gì, ngoài một vị trí trung chuyển rất thuận lợi trên con đường biển nối giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương (Singapore) và một vị trí vừa trung chuyển trên con đường giao thương nói trên vừa là cửa ngõ của thế giới vào Trung Quốc (Hồng Kông). Đặc điểm địa-chính trị của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Thí dụ, cùng với sức ép của toàn cầu hóa và sự leo thang của khủng bố bạo lực, sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là Mỹ - Trung ở Đông Nam Á đã và đang làm thay đổi sâu sắc môi trường địa - chính trị khu vực này. Xét tầm với của các nước lớn hiện nay và trong tương lai gần thì Việt Nam có thể trở nên quan trọng hơn đối với ba nước là Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản; trong tầm trung và dài hạn, Việt Nam còn có khả năng nằm trong bàn cờ chiến lược của cả Nga và Ấn Độ. Sự cạnh tranh chiến lược trên đang làm tăng vị thế địa-chính trị của Việt Nam. Việt Nam có thể trở thành “đầu mối” của các nỗ lực hợp tác và liên kết kinh tế cho khu vực và thế giới với tư cách là “cửa ngõ” ra biển cho vùng Tây Nam của Trung Quốc, Lào, Campuchia và miền Bắc Thái Lan, và “đầu cầu” trên đất liền, trên biển và trên không giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, giữa Âu - Mỹ và các nước trong khu vực [47, tr.67]. Bán kính vùng ảnh hưởng của địa-chính trị có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong hơn 20 năm qua của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng giờ đây “chiếc chổi” của Trung Quốc đã đủ dài để quét khắp thế giới, mở rộng phạm vi ảnh hưởng địa-chính trị của Trung Quốc và xây dựng được những cơ sở chiến lược cung cấp năng lượng và nguyên vật liệu cho Trung Quốc. Chiến lược “Một vòng ba tuyến” thể hiện tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. “Một vòng” là các nước láng giềng xung quanh, hình thành vành đai gần thông qua hợp tác Trung Quốc - ASEAN, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Trung Á, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên, Nga..., tiếp đó là ba trọng điểm phân bố thành “ba tuyến” ở ba châu lục: Nam Mỹ, châu Đại Dương và châu Phi. Đây là điều rất quan trọng đảm bảo cho sự phát triển trong tương lai của Trung Quốc. Từ lý thuyết về địa-chính trị, có thể vận dụng hai khái niệm là “cấu trúc nền” và “cửa ô” để mô tả trung tâm địa - chính trị và các vị trí chiến lược then chốt, nơi các cường quốc thường cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau để giành được vị thế tối ưu trong việc chi phối khu vực hoặc cả thế giới. Hai khái
- niệm này có mối quan hệ qua lại với nhau. Nhìn vào bản đồ chính trị thế giới có thể thấy các vị trí “cửa ô” đó là: + Ba bán đảo: Ban Căng, Triều Tiên, Đông Dương. + Hai “trung”: Trung Đông và Trung Á. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là 3 vị trí chiến lược: Trung Đông, Trung Á, bán đảo Đông Dương, ngoài tầm quan trọng về giao thông chiến lược, đều là những khu vực có trữ lượng dầu lửa và khí đốt lớn nhất thế giới (vùng Vịnh, biển Caspian và biển Đông). Theo Jefferey Park, tác giả cuốn “Tư tưởng địa-chính trị phương Tây thế kỷ XX”, địa-chính trị học nghiên cứu hiện tượng không gian địa lý của một quốc gia hoặc khu vực, chỉ ra cơ sở địa lý đối với thực lực và ảnh hưởng chính trị của quốc gia hoặc khu vực đó. Địa-chính trị học khảo sát hoạt động của đất nước trong bối cảnh lãnh thổ, khu vực, tài nguyên thiên nhiên, phân bố nhân khẩu, hoạt động kinh tế, cơ cấu chính trị - quyền lực. Như vậy, “địa-chính trị là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa lý và chính trị. Mục đích của nó là nhằm luận giải các quan hệ quốc tế dựa trên các yếu tố địa lý, tức là nghiên cứu các thực thể, quá trình, xu hướng cũng như sự phân bố quyền lực chính trị trên phạm vi địa lý và trong thời điểm lịch sử cụ thể” [47, tr.13]. Ngoài khái niệm quen thuộc “địa-chính trị”, ngày nay người ta còn nhắc đến khái niệm “chính trị dầu lửa” (petropolitics) vì giá dầu cao đang chi phối mạnh mẽ đến chính trị và ngược lại chính trị cũng đang tác động đến giá dầu. Địa-chính trị có mối quan hệ gần gũi với địa-văn hóa, địa-kinh tế, cả ba đều thuộc địa lý nhân văn. Địa-văn hóa là khoa học nghiên cứu, tìm hiểu những đặc thù về văn hóa của các dân tộc do sự tác động và ảnh hưởng qua lại giữa môi trường tự nhiên và văn hóa tạo nên. Chẳng hạn môi trường tự nhiên Đông Nam Á có núi, sông, đồng bằng, chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa nên nền văn hoá Đông Nam Á có bản sắc riêng. Đó là một phức thể văn hóa của các cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển, trong đó văn hóa đồng bằng tuy có sau nhưng lại đóng vai trò chủ đạo. Văn hóa Đông Nam Á có nền nông nghiệp lúa nước do điều kiện môi trường và sự lựa chọn của cư dân ở đây. Chính vì vậy, nghề trồng lúa nước kết hợp với chăn nuôi, làm vườn, đi biển đánh cá là một đặc điểm tiêu biểu của người dân Đông Nam Á. Địa-kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này. Yếu tố địa-văn hóa, địa-kinh tế là nguồn gốc nảy sinh các vấn đề địa-chính trị. Ví dụ như xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo giữa người Albania theo Hồi giáo và người Serbia theo Chính thống giáo đã dẫn đến sự ly khai của Kosovo ra khỏi Serbia; hay các mỏ dầu ở vùng Trung Đông là nguồn gốc của
- sự can thiệp thường xuyên của các thế lực bên ngoài vào khu vực này và đã biến Trung Đông thành “thùng thuốc súng”. 1.1.2. Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa-chính trị thế giới Với tư cách là một môn khoa học độc lập, địa-chính trị đã ra đời tại các nước phát triển Âu-Mỹ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau đó phát triển mạnh mẽ trên thế giới đến giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai. “Người được coi là cha đẻ của địa- chính trị học là một lý thuyết gia người Mỹ - ông Alfred Thayer Mahan (1840-1914)” [47, tr.13]. Alfred Thayer Mahan được giới khoa học đánh giá là một nhân cách và tài năng đa dạng đặc biệt. Ông vừa là cố vấn của Tổng thống Mỹ, quan hệ thân thiết với quan chức Anh, vừa là nhà sử học, nhà cải cách hải quân, là nhà thần học. Mahan được xem là “nhà truyền giáo” về quyền lực đại dương với tác phẩm nổi tiếng “The enfluence of sea power upon history” (Ảnh hưởng của quyền lực đại dương trong lịch sử) (1890) được coi là kinh điển của địa-chính trị học. Trong cuốn “The enfluence of sea power upon history”, Mahan một mặt phân tích tác động của việc kiểm soát các vùng biển, lãnh hải (nhất là các vùng hẹp) đối với đường giao thông biển của các quốc gia; mặt khác ông cũng nghiên cứu về sự lớn mạnh của đế chế Anh với tư cách là một quốc gia hải đảo. Khái niệm cơ bản được ông sử dụng là “các vùng biển và quyền lực quốc gia”. Theo ông có sáu điều kiện khiến cho một quốc gia phát triển được sức mạnh trên biển của mình, đó là: 1. Vị trí địa lý đối với biển của quốc gia đó 2. Những đặc trưng địa chất của lãnh thổ quốc gia trong tương quan với các đại dương, chiều dài bờ biển, số lượng hải cảng, độ sâu của nước và địa hình che chắn các hải cảng 3. Chiều rộng của lãnh thổ quốc gia và tương quan giữa địa lý địa chất và địa lý nhân văn 4. Dân số 5. Có hay không truyền thống thương mại trong bản tính dân tộc 6. Đặc trưng của lãnh đạo quốc gia, thiên về một quốc gia chuyên chế (như Tây Ban Nha) hay dân chủ (như Anh, Mỹ) [30, tr.142]. Công trình lý luận này đã gây ảnh hưởng lớn đến tư duy của vua Phổ Wilhelm II. Ông vua hiếu chiến này hết lời ca ngợi và áp dụng vào chiến lược hải quân của mình. Như vậy, nội dung của thuyết “Sức mạnh trên biển” của Mahan là: việc kiểm soát quyền lực trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền lực quốc gia, là tiêu chí và nhân tố cơ bản đối với sự giàu mạnh và phồn vinh của một quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường quốc hơn các quốc gia trên bộ. Có thể nói, ai khống chế được biển sẽ trở thành cường quốc thế giới. Vấn đề then chốt để khống chế biển là chiếm giữ các eo biển và khống chế các tuyến hàng hải quan trọng huyết mạch. Tư tưởng này của Mahan có ảnh hưởng rất lớn đối với các lý thuyết địa-chính trị sau này.
- Người có sự mô tả rõ ràng và tương đối phong phú về thế giới dưới góc độ địa - chính trị là nhà địa lý học người Anh - Sir Halford Mackinder (1861-1947). Mackinder không chỉ là một nhà địa lý học, ông còn là nhà kinh tế học và một chính trị gia. Ông bắt đầu phát triển những tư tưởng địa-chính trị năm 1904 với bài viết: “The Geographical Pivot of History” (Mấu chốt địa lý của lịch sử). Ông đã nêu ra tư tưởng về “trục quay địa lý của lịch sử”. Ông cho rằng, trái đất là một hệ thống đóng, trong đó sự thay đổi trên một bộ phận của hệ thống này sẽ làm thay đổi sự cân bằng của các mối quan hệ trên tất cả các phần còn lại. Trong bài viết này, Mackinder đã thể hiện mối quan hệ giữa 3 yếu tố địa lý - kỹ thuật - chính trị của một quốc gia, sự phát triển của 3 yếu tố ấy sẽ đem lại quyền lực trên đất liền chứ không phải trên biển như Mahan quan niệm. Mackinder rất quan tâm tới sự chi phối về mặt địa lý, đặc biệt là quyền lực của đất và quyền lực của nước (biển và đại dương). Nét đặc sắc trong cách nhìn của ông là không chia lịch sử theo thời gian, mà theo các khái niệm không gian, nghĩa là theo cách nhìn không gian hóa lịch sử với những chuyển hóa bên trong hết sức sinh động. Dưới con mắt của ông, trái đất hiện ra như là một không gian duy nhất, thống nhất và đã được chiếm lĩnh, là một hệ thống khép kín. Ông dự báo rằng thời của cường quốc hải quân (như nước Anh) đã hết, và thế giới bắt đầu kỷ nguyên cường quốc lục địa. Mackinder đã viết trong “Democratic Ideals and Reality” (Tư tưởng dân chủ và sự thực) (1919) là “những cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của sự phát triển không đều của các quốc gia” và “sự phát triển của các đế quốc cần đến yếu tố địa-chính trị” [87, tr.1-2]. Mackinder là tác giả của luận điểm vùng đất trung tâm (heartland). Ông đã dành trọn cuộc đời hoạt động học thuật và chính trị của mình cho mục tiêu bảo vệ vị trí cường quốc của nước Anh trước nguy cơ Mỹ, Đức, Nga lớn mạnh. Theo ông, Trung Á là pháo đài quyền lực trong nền chính trị toàn cầu. Pháo đài ấy trở thành bất khả xâm phạm trước sức tấn công của các cường quốc biển bởi nó được bảo vệ bởi hai vành đai: vành đai bên trong là các nước Đông Âu và vành đai bên ngoài là các không gian Á - Phi - châu Mỹ. Vai trò chiến lược sống còn của vùng đất trung tâm được Mackinder khái quát trong công thức: “Ai khống chế Đông Âu, sẽ làm chủ vùng đất trung tâm (vùng Trung Á). Ai làm chủ vùng đất trung tâm, sẽ cai quản hòn đảo của thế giới (đại lục Âu - Á - Phi). Ai cai quản hòn đảo của thế giới Âu - Á - Phi sẽ bá chủ toàn cầu” [87, tr.186]. Mackinder muốn dùng sơ đồ chiến lược này để chỉ ra con đường làm bá chủ thế giới cho nước Anh. Nhưng lập luận của ông lại rất “hợp khẩu vị” của nước Đức, cho nên nó đã bị các nhà địa-chính trị Đức lợi dụng, xây dựng thành cơ sở lý luận của chiến lược bành trướng phát xít. Quan điểm địa-chính trị của người Đức vào những năm 20 của thế kỷ XX đặc biệt nhấn mạnh tới yêu cầu về không gian lãnh thổ của một quốc gia. Karl Haushofer (1869-1946) là nhà địa-chính trị nổi tiếng của nước Đức, từng phục vụ trong quân đội với cấp bậc thiếu tướng trước khi giảng dạy tại Đại học Munich vào năm 1919. Haushofer có mối quan hệ thân thiết với Hitler và phục vụ Hitler với tư
- cách là cố vấn quân sự. Từ năm 1924, Haushofer đã sáng lập ra tạp chí chuyên ngành về địa-chính trị với tên gọi “Zeitschirift Fiir Geopolitik”, trong đó đăng nhiều bài bào chữa và khuyếch trương cho chính sách dân tộc cực đoan, cũng như hành động xâm chiếm lãnh thổ đầy tội ác của chủ nghĩa phát xít Đức. Ông đã đưa ra khái niệm “không gian sinh tồn” quốc gia và nhìn thế giới dưới góc độ có một vùng đất trung tâm (nước Đức) và các khu vực liên quan. Từ đó, ông ta cho rằng nước Đức là một tổ chức quan trọng sống còn được thiên phú cho cái quyền tự nhiên đi bành trướng xâm lược, thống trị các dân tộc khác. Có thể nói, lý thuyết địa-chính trị của Haushofer lúc ấy đã trở thành nền móng về mặt tri thức, cung cấp cơ sở lý luận cho việc phát xít hóa nước Đức và là công cụ tuyên truyền cho cuộc chiến tranh nhằm chia lại thế giới của nước Đức quốc xã. Nicholas John Spykman có thể được xem là học trò và nhà phê bình của cả hai nhà địa chiến lược Alfred Mahan và Halford Mackinder. Spykman (1893-1943) là một nhà địa chiến lược người Mỹ gốc Hà Lan, là “cha đẻ của thuyết bao vây khoanh vùng”. Ông là một trong những nhà sáng lập trường phái chủ nghĩa hiện thực cổ điển trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Spykman từng là Viện trưởng Viện nghiên cứu quốc tế Đại học Yale. Một trong những quan tâm hàng đầu của ông là tạo cho sinh viên cách học địa lý. Ông quan niệm không thể tiếp cận khoa học địa-chính trị nếu không có những hiểu biết về địa lý. Spykman nổi tiếng với hai cuốn sách viết về chính sách đối ngoại là “America’s Strategy in World Politics” và “The Geography of the Peace”. Trong “America’s Strategy in World Politics”, xuất bản năm 1942, ông cho rằng chủ nghĩa biệt lập, dựa vào đại dương để bảo vệ nước Mỹ đã đến lúc kết thúc. Mục đích của ông là ngăn chặn sự rút lui của Mỹ sau chiến tranh tương tự như chính sách của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chính sách của Mỹ phải là “chỉ huy việc ngăn chặn bá quyền”. Thực tế cho thấy quan điểm này chỉ nhằm khuyến khích sự mở rộng phạm vi thống trị của đế quốc Mỹ. “The Geography of the Peace” được xuất bản một năm sau khi ông mất. Trong đó, ông trình bày quan điểm địa chiến lược của ông là sự cân bằng quyền lực ở châu Âu ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nước Mỹ. Vì vậy, Mỹ cần đảm bảo việc ngăn chặn Liên Xô thiết lập quyền lãnh đạo quanh vùng rìa châu Âu. Ông cho rằng trong nghiên cứu chính sách đối ngoại, cần chú ý trước tiên đến vị trí địa lý của nước đó. Địa lý chính trị cần xây dựng một bản đồ các cường quốc theo khu vực và thời gian nhất định. Xuất phát từ quan điểm sùng bái bạo lực, ông tin rằng nền hòa bình thế giới phải dựa vào công cụ bạo lực mà chỉ các cường quốc mới đủ sức đảm trách. Spykman nổi tiếng với học thuyết “vùng rìa”. Vùng rìa là vùng đệm giữa sức mạnh vùng trung tâm và sức mạnh đại dương, an ninh của vùng rìa lệ thuộc vào sự chống đỡ từ hai luồng sức mạnh. Theo Spykman, vùng rìa chia thành 3 vùng: vùng đất ven biển ở Châu Âu, vùng sa mạc Arabia - Trung Đông, vùng chịu ảnh hưởng gió mùa Châu Á. Tầm quan trọng của vùng rìa căn cứ vào số lượng nhân khẩu, tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển công nghiệp. Vùng rìa có ý nghĩa quyết định trong việc
- kiềm chế vùng trung tâm. Spykman cho rằng bằng việc kiểm soát vùng rìa của châu Âu, Trung Đông, châu Á - Thái Bình Dương, nước Mỹ có thể hạn chế sức mạnh của vùng trung tâm Âu - Á. Vì vậy, nước Mỹ cần xây dựng nền móng hải quân và không quân ở Bắc Atlantic và toàn bộ Thái Bình Dương nhằm bao vây đại lục Âu - Á. Ông nhận xét: “Sức mạnh to lớn của nước Nga Xô viết không đủ để chống lại một vùng rìa thống nhất dưới sự lãnh đạo của Mỹ, và sự tồn tại của vùng rìa đó sẽ đem đến cho Mỹ một uy quyền toàn cầu” [91, tr.57]. Vì vậy, Spykman kết luận “Ai kiểm soát vùng rìa sẽ khống chế được lục địa Âu - Á, ai khống chế được lục địa Âu - Á sẽ làm chủ vận mệnh của thế giới” [91, tr.43]. Một học thuyết địa-chính trị quan trọng nữa là thuyết “Sức mạnh trên không” (Air Power) của Alexander Procofieff de Seversky. Seversky (1894-1974) là người Mỹ gốc Nga đi đầu trong lĩnh vực hàng không, đồng thời là một nhà phát minh và là người ủng hộ sức mạnh trên không với luận điểm: lực lượng nào khống chế được bầu trời, giành ưu thế trên không thì sẽ đạt được thắng lợi. Thuyết “Sức mạnh trên không” được Seversky trình bày qua tác phẩm “Victory Through Air Power” xuất bản năm 1942, sau sự kiện Trân Châu cảng và sự tham gia của nước Mỹ vào chiến tranh thế giới thứ hai. Seversky cho rằng sự phát triển nhanh chóng về phạm vi và sức mạnh tấn công của không quân dẫn đến một điều chắc chắn là nước Mỹ sẽ bị đặt vào tình trạng nguy hiểm của sự phá hủy từ trên không. Vì vậy, nước Mỹ cần chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến xuyên đại dương và phải trở thành nước thống trị sức mạnh trên không. Seversky biện luận cho việc phát triển ngay lập tức những máy bay ném bom tầm xa (khoảng 3000 dặm hoặc hơn), đặc biệt là những máy bay ném bom xuyên lục địa có khả năng bay từ Mỹ đến tấn công trực tiếp Đức và Nhật mà không cần phải tiếp thêm nhiên liệu. Nhà làm phim nổi tiếng Walt Disney đã đọc “Victory Through Air Power” và cảm thấy thông điệp của tác phẩm rất có ý nghĩa đến mức Walt Disney đã tự bỏ tiền làm bộ phim điện ảnh mang tên tác phẩm. Bộ phim đã thể hiện chính xác tư tưởng của Seversky và thu hút sự quan tâm chú ý của các quan chức Chính phủ. Seversky là một trong số những người ủng hộ việc thành lập Bộ tư lệnh không quân năm 1946 và phát triển máy bay B-36 và B-47. Seversky tiếp tục quảng bá những ý tưởng cải tiến các loại vũ khí và máy bay, đáng chú ý là năm 1964, máy bay một người lái đã được chế tạo. Như vậy, nội dung chính của các học thuyết địa-chính trị trên đó là: “lợi ích an ninh quốc gia không tách rời khỏi các hoạt động chính trị và trong mỗi một thời kỳ lịch sử, trên bản đồ chính trị quốc tế thường có một trung tâm chiến lược mà nếu nước nào khống chế được trung tâm đó thì sẽ chi phối được toàn bộ thế giới” [46, tr.26]. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, địa-chính trị gần như bị lãng quên do ảnh hưởng của sự căm ghét chủ nghĩa phát xít Đức tại các nước phương Tây. Địa-chính trị không còn được ưa thích như trước và đã mất tính cách chính thống vì đã bị các lý thuyết gia quốc xã Đức sử dụng để tạo ra một học
- thuyết đề cao chủ nghĩa bành trướng (expansionism) dựa trên khái niệm Lebensraum (không gian sinh tồn) và Social Darwinism (xã hội tiến hóa luận, căn cứ theo học thuyết Darwin). Thuật ngữ địa-chính trị được hiểu theo nghĩa tiêu cực, các thuyết địa-chính trị là học thuyết chính trị xuyên tạc các tư liệu của khoa học địa lí để luận chứng cho chính sách đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc nhằm bành trướng và thống trị thế giới, và bị loại ra khỏi danh mục các môn khoa học chính trị. Phải đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX, địa-chính trị mới bắt đầu được chú ý trở lại và dần dần được phát triển theo quan điểm của những nhà tư tưởng Mỹ, tiêu biểu trong số đó là Saul Cohen. Do có nhận thức sâu sắc rằng những vấn đề địa - chính trị là cực kỳ quan trọng, nên Cohen đã cố gắng duy trì nghiên cứu thế giới từ góc độ địa-chính trị và ông đã khuyến cáo các chính trị gia không được xem thường hoặc phủ nhận các vấn đề đó. Trong tác phẩm “Geography and Politics in a World Divided” xuất bản năm 1963, Cohen đã đưa ra bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa- chiến lược dưới áp lực của các siêu cường. Khái niệm khu vực địa-chiến lược do Cohen đưa ra được dùng để chỉ một không gian quyền lực với quy mô toàn cầu. Hai khu vực địa chiến lược đều nằm ở bán cầu Đông. Khu vực thứ nhất, thuộc thế giới hải đảo phụ thuộc thương mại, bao gồm Tây Âu, Bắc Âu, Nam Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Khu vực thứ hai, thuộc thế giới lục địa Á - Âu, là dải đất mênh mông trải dài từ Đông Âu sang khắp toàn bộ vùng đất trái tim. Ngoài ra, còn hai khu vực địa chiến lược tiềm tàng là Nam Á và Đông Nam Á. Từ khu vực địa-chiến lược, Cohen chia nhỏ thành các khu vực địa-chính trị. Khái niệm khu vực địa-chính trị được Cohen dùng để chỉ các không gian quyền lực với quy mô khu vực. Các khu vực địa chính trị trên thế giới gồm có: Trung Á (nằm trong khu vực địa chiến lược thứ hai), Nam Thái Bình Dương, châu Phi Nam Sahara, Bắc Mỹ - Trung Mỹ - Caribe và Nam Mỹ. Kẹp giữa hai khu vực địa chiến lược là hai khu vực vành đai xung yếu là Trung Đông và Đông Nam Á. Sau đó, Cohen bổ sung thêm vành đai xung yếu thứ ba là vùng Đông Bắc khu vực châu Phi Nam Sahara. Những vành đai xung yếu là những không gian chính trị chứa đựng nhiều nhân tố mất ổn định tiềm tàng và đều là nơi tranh chấp giữa các cường quốc thế giới. Các siêu cường cạnh tranh nhau để có được các nước trong khu vực địa chính trị gắn bó, trung thành với mình. Theo Cohen, các quốc gia có quyền lực lớn ngày càng đóng vai trò quyết định trong những vấn đề toàn cầu. Một nhà nghiên cứu địa-chính trị nổi tiếng nữa của Mỹ là Zbigniew Brzezinski, sinh ngày 28/3/1928 tại Ba Lan, từng là Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter (1977-1981), hiện là giáo sư về chính sách đối ngoại của trường Nghiên cứu Quốc tế cao cấp Paul H.Nitze thuộc Đại học Johns Hopkins ở Washington D.C. Đóng góp của Brzezinski cho khoa học địa- chính trị chính là việc đưa ra ý tưởng về bàn cờ chính trị Âu-Á, một lần nữa đề cao ý nghĩa “xương sống”của lục địa Âu - Á trên bản đồ chính trị thế giới.
- Âu - Á là lục địa lớn nhất toàn thế giới và là trục địa chính trị. Một cường quốc thống trị được lục địa Âu - Á sẽ kiểm soát được 2 trong số 3 khu vực tiên tiến nhất và có năng lực sản xuất nhiều nhất về kinh tế. Kiểm soát được lục địa Âu - Á sẽ gần như tự động đưa châu Phi vào lệ thuộc, làm cho Tây bán cầu và châu Đại Dương trở thành ngoại vi về địa chính trị đối với lục địa trung tâm của thế giới. Khoảng 75% dân số thế giới sống ở lục địa Âu - Á và hầu hết của cải vật chất thế giới cũng ở nơi đay, bao gồm cả doanh nghiệp lẫn tài nguyên dưới lòng đất. Âu - Á chiếm khoảng 60% GNP và khoảng ¾ nguồn năng lượng đã được biết của thế giới. Lục địa Âu - Á cũng là khu vực của hầu hết các nước có chủ quyền và năng động về chính trị của thế giới. Hầu hết các cường quốc hạt nhân công khai và bí mật của thế giới đều ở lục địa Âu - Á. Tất cả những nước có khả năng thách thức tiềm tàng về chính trị và kinh tế đối với vị thế đứng đầu của Mỹ đều là các nước Âu - Á. Gộp cả lại thì sức mạnh của Âu - Á mạnh hơn sức mạnh của Mỹ rất nhiều. May mắn cho Mỹ, lục địa Âu - Á quá lớn, không thể là một thực thể chính trị duy nhất. Do vậy, Âu - Á là bàn cờ mà ở đó cuộc tranh giành vị thế đứng đầu thế giới diễn ra [5, tr.38-39]. Brzezinski đã chỉ ra chính xác những điểm nóng trên thế giới, những lỗ hổng “chính trị” có thể gây nên tình trạng bất ổn, đe dọa hòa bình khu vực và quốc tế. “Khoảng trống đen” tại lục địa Âu-Á sau khi Liên Xô tan rã là một phát hiện mới của Brzezinski. Trong cuốn “The Grand Chessboard” (Bàn cờ lớn - 1997), ông nhìn từ góc độ an ninh toàn cầu và quyền lợi của Mỹ để đặt ra bốn khu vực: châu Âu là đầu cầu dân chủ (Democratic Bridgehead); Nga là Hố đen (Black Hole), khu vực Caucases và Trung Á là vùng Balkan mới, hàm ý hỗn loạn, của lục địa Âu-Á (Eurasia) và Đông Á là mỏ neo. Mỹ cần có những chính sách phù hợp để xây dựng trật tự thế giới đơn cực trong đó Mỹ nắm quyền chi phối quan hệ quốc tế. Trong thế giới toàn cầu hóa, cạnh tranh địa chiến lược đang điễn ra đồng thời trong 5 không gian chiến lược là: Tam lục địa liên kết Á - Âu - Phi; Tam đại dương liên hoàn là Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương - Đại Tây Dương, không gian trái đất, không gian vũ trụ và không gian thông tin. Hạm đội hải quân là thành quả của thế kỷ XIX và vũ khí hạt nhân là sản phẩm của thế kỷ XX vẫn tiếp tục được sử dụng như công cụ chủ yếu để bành trướng ảnh hưởng và răn đe trong cạnh tranh địa chiến lược ở thế kỷ XXI. Ngày nay, địa-chính trị chịu tác động rất lớn từ vấn đề hạt nhân, từ cuộc cách mạng khoa học-công nghệ và từ nền kinh tế thị trường. Với những tiến bộ vượt bậc của cách mạng truyền thông và thông tin, các tham số về không gian và thời gian dường như không còn nguyên giá trị trong so sánh lực lượng quốc tế. Không gian và thời gian đã bị rút ngắn bởi hệ thống vệ tinh không gian cũng như những phương tiện đạn đạo ngày càng hiện đại và chuẩn xác. Lý luận địa-chính trị hiện đại lập luận rằng lực lượng nào khống chế được không gian sẽ khống chế được hành vi của mọi chủ thể trên Trái đất. Kiểm soát khoảng không vũ trụ hoặc ít nhất là đảm bảo cho mình một khả năng tiếp cận với
- vũ trụ giờ đây đang là yêu cầu cấp thiết của mọi quốc gia nếu họ mong muốn ít ra là được tồn tại theo cách của riêng mình. Chiến tranh lạnh kết thúc, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới hai cực tan rã đã làm biến đổi sâu sắc bản đồ địa - chính trị thế giới. Sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nhóm nước, các khu vực và các châu lục diễn ra nhanh chóng, diễn biến quá trình hợp tác và đấu tranh trên thế giới rất phức tạp. Thực tế, nhiều nhà hoạch định chính sách trên thế giới thường xuyên sử dụng các tri thức khoa học địa-chính trị để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực... Chính điều này đã làm tăng giá trị và tính phổ biến của môn khoa học này. Trong đó, Mỹ là nước thành công trong việc nghiên cứu và vận dụng yếu tố địa-chính trị phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. 1.2. Ảnh hưởng của yếu tố địa lý trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước Chiến tranh lạnh (1783 - 1947) 1.2.1. Vị trí địa lý của nước Mỹ Mỹ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Quốc gia được thành lập ban đầu với mười ba thuộc địa của vương quốc Anh nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi giành độc lập từ sự bảo hộ của Anh, đầu thế kỷ XIX, Mỹ bắt đầu chú trọng vào việc bành trướng quốc gia thông qua “ngoại giao điền thổ”. Lợi dụng lúc Napoleon rất cần tiền để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Anh, Mỹ đã mua toàn bộ vùng Louisiana từ tay Pháp (1803). Cuộc mua bán ngoạn mục này đã làm cho diện tích của Mỹ tăng lên gấp đôi. Tiếp theo là các vụ mua bán khác, gây chiến tranh, sáp nhập nhằm mở rộng lãnh thổ: mua lại Florida từ Tây Ban Nha (1819), sáp nhập Texas (1845). Hiệp ước Oregon với Anh năm 1846 đưa đến việc Mỹ kiểm soát vùng mà ngày nay là Tây Bắc Mỹ. Chiến thắng của Mỹ trong chiến tranh Mexico - Mỹ năm 1848 đưa đến việc Mexico nhượng lại California và phần nhiều những vùng đất mà ngày nay là Tây Nam Mỹ. Nội chiến nước Mỹ (1861-1865) kết thúc chế độ nô lệ tại nước Mỹ, ngăn ngừa một sự chia xé quốc gia và góp phần gia tăng đáng kể quyền lực của Chính phủ liên bang. Năm 1867, tranh thủ cơ hội khi Nga đang gặp khó khăn về tài chính, Mỹ cũng đã nhanh chóng mua lại toàn bộ vùng Alaska rộng lớn từ Nga với cái giá rẻ khó tưởng tượng - 7,2 triệu USD. Vùng đất này có vị trí hết sức quan trọng trong việc bố trí chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh và cả hiện nay. Việc mua Alaska năm 1867 từ Nga đã hoàn thành việc mở rộng nước Mỹ trên lục địa. Như vậy, có thể thấy chỉ trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, bằng “ngoại giao điền thổ” và chiến tranh thôn tính, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ, tạo cho Mỹ một vị thế địa-chiến lược mới trên bản đồ địa-chính trị quốc tế so với nước Mỹ thuở lập quốc. Hiện nay, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và một quận liên bang. Quốc gia này nằm gần như hoàn toàn trong Tây bán cầu: 48 tiểu bang lục địa và Thủ đô Washington nằm giữa Bắc Mỹ; giáp Thái Bình Dương ở phía tây, Đại Tây Dương ở phía đông,
- Canada ở phía bắc và Mexico ở phía nam. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng tây bắc của lục địa Bắc Mỹ, giáp với Canada ở phía đông. Tiểu bang Hawaii nằm giữa Thái Bình Dương. Mỹ cũng có 14 lãnh thổ hay còn được gọi là vùng quốc hải rải rác trong vùng biển Caribbe và Thái Bình Dương. Với 3,79 triệu dặm vuông (9,83 triệu km²) và trên 300 triệu dân, nước Mỹ là quốc gia lớn hạng ba về tổng diện tích (sau Nga và Trung Quốc) và dân số (sau Trung Quốc và Ấn Độ). Tài nguyên thiên nhiên của Mỹ rất đa dạng và phong phú: than đá, đồng, chì, molybden, phốt phát, uranium, bô xít, vàng, quặng sắt, thuỷ ngân, nicken, muối kali, bạc, tungsten, thiếc, dầu lửa, khí tự nhiên, gỗ. Nước Mỹ nằm giữa hai đại dương đông tây mênh mông - Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Phía Bắc giáp giới với Canada, một nước có cùng văn hóa Anglo-Saxon, giàu có, chỉ có hơn 20 triệu dân, thân thiện với Mỹ. Phía Nam là Mexico - một nước nghèo, hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế Mỹ. Với vị trí địa lý như vậy, người Mỹ không hề bị đe dọa bởi cường quốc láng giềng nào như nhiều nước khác. Ảnh hưởng của vị trí địa lý đó đối với người dân của Mỹ cũng có một tầm quan trọng lịch sử: chủ nghĩa biệt lập trở thành nét cơ bản trong đường lối ngoại giao của Mỹ từ khi lập quốc đến trước chiến tranh thế giới thứ hai và vẫn còn tồn tại đến ngày nay. “Nước Mỹ nằm ở Tây bán cầu, dưới góc độ địa-chính trị, nước Mỹ chỉ là một hòn đảo trên bờ của lục địa Âu - Á. Nếu muốn làm bá chủ thế giới, bắt buộc Mỹ phải vượt đại dương để có mặt ở lục địa Âu - Á, khống chế và giữ được vai trò chủ đạo ở lục địa này” [7, tr.20]. 1.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố địa lý trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước Chiến tranh lạnh (1783 - 1947) 1.2.2.1. Mỹ là cường quốc trên biển Vị trí địa lý đã góp phần quy định đặc điểm của Mỹ là một cường quốc trên biển. Thực tế, Mỹ đã thông qua ưu thế về biển để có thể phát huy sức mạnh vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia, thực hiện vai trò bá quyền trên thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử nước Mỹ. Sau trận chiến này, Mỹ nắm hoàn toàn quyền kiểm soát các đảo trong vùng biển Caribe và Thái Bình Dương. Theo Hiệp định hòa bình được ký kết ngày 10/12/1898, Cuba thuộc quyền kiểm soát tạm thời của Mỹ trước khi quốc đảo này giành độc lập. Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng nhượng lại Puerto Rico và Guam thay cho các đền bù thiệt hại do chiến tranh và nhượng lại cho Mỹ quần đảo Phillipines để đổi lấy 20 triệu USD. Can thiệp của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương không chỉ giới hạn ở quần đảo Phillipines mà còn mở rộng đến quần đảo Hawaii. Năm 1893, vương quyền của vương quốc Hawaii Thái Bình Dương bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do cư dân người Mỹ lãnh đạo. Hawaii trở thành một lãnh thổ độc lập trên danh nghĩa cho đến cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ năm 1898, khi đó với sự hậu thuẫn của Tổng thống McKinley, Quốc hội đã phê chuẩn hiệp định sáp nhập. Năm 1959, Hawaii trở thành bang thứ 50 của Mỹ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 198 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 149 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 194 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 136 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 16 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn