Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975)
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ hơn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng, từ đó bước đầu rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm lịch sử. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐỖ THỊ HIÊN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐỖ THỊ HIÊN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trƣơng của Đảng (1960-1975)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú thích nguồn trung thực. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2015 Tác giả Đỗ Thị Hiên
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Quang Hiển đã tận tâm định hướng cho tôi ngay từ những ngày đầu thực hiện luận văn. Những góp ý, chia sẻ, nhận xét của thầy là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này. Đó cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong cuộc sống tương lai. Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi hoàn thành khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình. Tác giả Đỗ Thị Hiên
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 5 6. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 5 7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 6 Chƣơng 1. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢIPHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN THÁNG 5-1969 ................................................................................................ 7 1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng ............................................... 7 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................................ 7 1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận ................................... 11 Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 11 1.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 20 1.2.1. Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt Nam . 20 1.2.2. Đấu tranh ngoại giao trực diện với Mỹ trên bàn đàm phán Pari.............................. 39 Chƣơng 2. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAMDUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TỪ THÁNG 6-1969 ĐẾN THÁNG 4-1975............................................................................................... 44 2.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng .............................................. 44 2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ...................................................................................................... 44 Tình hình trong nước ........................................................................................................... 46 2.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Mặt trận ................................................... 47 Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 47 2.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 54
- 2.2.1 Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị ......................................................................................................... 54 Nhân dân thế giới tiếp tục ủng hộ Mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược .......................... 59 2.2.2 Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hỗ trợ ngoại giao Nhà nước trên bàn đàm phán Pari và đấu tranh thi hành Hiệp định Pari. ......................................................................... 68 Chƣơng 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ .......... 75 3.1 Nhận xét chung ......................................................................................... 75 3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................................................... 76 3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................................... 83 3.2. Kinh nghiệm lịch sử ................................................................................. 89 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 104 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. CTQG: Chính trị quốc gia 2. HN: Hà Nội 3. KHXH: Khoa học Xã hội 4. Nxb: Nhà xuất bản 5. Sđd: Sách đã dẫn 6. Tp: Thành phố 7. Tr: Trang
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, liên tiếp chống giặc ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập, tự do là đặc trưng nổi bật của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết chống xâm lăng đó là truyền thống vẻ vang của những người dân đất Việt. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khối đại đoàn kết dân tộc càng được xây dựng và củng cố vững chắc hơn trong việc thành lập các mặt trận đoàn kết toàn dân chống kẻ thù. Sức mạnh dân tộc tập hợp trong Mặt trận Việt Minh đã đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy động mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo dưới ngọn cờ cách mạng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc to lớn, vững chắc, cô lập cao độ kẻ thù, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến toàn thắng. Mặt trận là một vấn đề chiến lược, một trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Nhưng ở mỗi thời kỳ lịch sử, với hoàn cảnh khác nhau, yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, Đảng có những hình thức mặt trận phù hợp. Ngày 21-1-1954, Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết, nhưng bị đế quốc Mỹ và tay sai phá hoại. Cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam đứng trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Trong lúc nhân dân Việt Nam cần phải tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng để hoàn thành độc lập và thống nhất đất nước, thì tình hình thế giới có những diễn biến rất phức tạp, nhất là tác động của xu thế hòa hoãn đến các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa. Để thúc đẩy Cách mạng miền Nam tiến lên, đồng thời làm yên lòng bạn bè quốc tế, cần phải có một giải pháp phù hợp để giải quyết mối quan hệ giữa chiến tranh và hòa bình, giữa dân tộc và quốc tế, giữa đất nước và thời đại. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và căn cứ vào hiện thực lịch sử miền Nam lúc đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập ngày 20-12-1960 tại vùng căn cứ Tây Ninh. Đó là một thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam khi mới từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. 1
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh cứu nước, đồng thời phải đảm đương cả chức năng chính quyền, thi hành những chính sách đối nội và đối ngoại. Hoạt động đối ngoại là một nhiệm vụ được tiến hành song song với cuộc đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố chính sách đối ngoại “hòa bình và trung lập”. Chính sách này xuyên suốt quá trình quan hệ đối ngoại giữa Mặt trận với nhân dân thế giới. Từ đó, Mặt trận không chỉ tranh thủ nhận được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng miền Nam; mà còn góp phần làm trọn nghĩa vụ quốc tế. Chính bởi vậy, uy tín của Mặt trận ngày càng được nâng cao và khẳng định trên trường quốc tế. Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một đặc điểm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Vì thế tôi chọn đề tài: “Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975)” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu Đã có một số công trình viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau: Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên), (NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2010). Nội dung cuốn sách là sự tập hợp, chọn lọc các bài nghiên cứu, các văn kiện tiêu biểu về vị trí, vai trò và những đóng góp quan trọng của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1977), Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, (NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, HCM, 2010). Cuốn sách phân tích và khẳng định tính tất yếu sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, nhằm đoàn kết tập hợp các lực lượng, tầng lớp yêu nước ở miền Nam, tiếp tục thực hiện chuyển thế chiến lược cho cách mạng miền Nam. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã phất cao trên các chiến trường 2
- miền Nam, hướng dẫn nhân dân đấu tranh trong cuộc chiến đấu một mất một còn với chiến tranh thực dân mới của Mỹ và chế độ tay sai. Cuốn sách đã trình bày ngắn gọn và đầy đủ về mặt trận giải phóng với những nội dung cơ bản về quá trình ra đời, hoạt động và vai trò của mặt trận giải phóng. Một số sách viết về lịch sử Đảng, lịch sử Việt Nam, lịch sử ngoại giao Việt Nam và lịch sử cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đề cập tới sự ra đời và hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: Cuốn “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nguyễn Đình Bin (chủ biên), (NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2002). Đây là một công trình nghiên cứu khảo học công phu của tập thể tác giả các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Cuốn sách phác họa những nét chính hoạt động ngoại giao Việt Nam trong năm mươi lăm năm từ 1945 đến 2000. Trên nền của đời sống chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế trong thời kỳ này, đồng thời gắn liền với quá trình vận động của cách mạng nước ta, cuốn sách trình bày một cách hệ thống và tổng hợp các sự kiện ngoại giao của Việt Nam. Cuốn sách đề cập các đặc điểm, tính chất của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong hoạt động ngoại giao, những thành công và có cả một số mặt tồn tại. Cuốn “Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử”, Nguyễn Phúc Luân, (NXB Bộ Công an Nhân dân, HN, 2005). Kết hợp hài hòa cùng với đấu tranh trên mặt trận chính trị, quân sự, tác giả đã thể hiện lại một cách khá đầy đủ những đường lối, chính sách cũng như những cống hiến của Ngoại giao Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ… Viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn có một số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học như: Nguyễn Bình Minh, Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngọn cờ đại đoàn kết, ngọn cờ tất thắng, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 57 (tháng 12-1963). Trần Huy Liệu, Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh yêu nước chống đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 69 (tháng 12-1964); Nguyễn Hoài, Từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt 3
- Nam đến Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 153 (tháng 12-1973)… Nhìn chung, những cuốn sách, bài viết trên với góc độ khác nhau đã đề cập tới những vấn đề cơ bản là quá trình ra đời, hoạt động và vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đối với cách mạng miền Nam. Nhưng những tác phẩm đó chưa đề cập một cách cụ thể và hệ thống về vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo chủ trương của Đảng. Bởi vậy, từ góc độ lịch sử, kế thừa những công trình đã nghiên cứu, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của PGS.TS Vũ Quang Hiển tôi đã đi sâu nghiên cứu vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ hơn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng, từ đó bước đầu rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm lịch sử. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày một cách có hệ thống hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam dưới chủ trương chỉ đạo của Đảng qua hai giai đoạn: 1960 - 1969; 1969 - 1975 gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và những kết quả cụ thể. - Khôi phục một cách khách quan các hoạt động đối ngoại chủ yếu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975. - Qúa trình hiện thực hóa những chủ trương của Đảng thông qua thực tiễn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. 4
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo chủ trương của Đảng. - Thời gian nghiên cứu vấn đề từ năm 1960 đến năm 1975. Bởi năm 1960 là thời điểm thành lập Mặt trận và năm 1975 Mặt trận đã hoàn thành nhiệm vụ tập hợp lực lượng, đấu tranh giải phóng miền Nam. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu - Luận văn dựa trên Văn kiện của Đảng, những cương lĩnh và văn kiện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. - Những cuốn sách liên quan và chuyên khảo tới hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. - Những bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập tới vấn đề; cùng những bài viết đăng trên Báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng có nội dung đề cập tới Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn trọng sự thật khách quan, nói rõ sự thật theo tinh thần của Đại hội VI của Đảng. - Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic chủ yếu nhằm trình bày một cách có hệ thống, toàn diện các sự kiện lịch sử và thực tiễn lịch sử về vấn đề Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận từ năm 1960 đến năm 1975. - Ngoài ra còn có sử dụng một số phương pháp khác như tổng hợp, so sánh, phân tích để đánh giá sự kiện và làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu. 6. Những đóng góp của luận văn - Trình bày một cách có hệ thống và khách quan sự chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như các hoạt động đối ngoại của Mặt trận những năm 1960-1975. - Đánh giá và rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975. 5
- - Cung cấp thêm một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về lịch sử Đảng và lịch sử đối ngoại Việt Nam. 7. Bố cục của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ tháng 12- 1960 đến tháng 5-1969. Chương 2: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam duy trì hoạt động đối ngoại từ tháng 6-1969 đến tháng 4 - 1975. Chương 3: Nhận xét chung và kinh nghiệm lịch sử. 6
- Chương 1 HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN THÁNG 5-1969 1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử Tình hình thế giới Xu hướng hòa bình – trung lập trên thế giới sau năm Chiến tranh thế giới thứ II. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, nguyện vọng l ớn của nhân dân thế giới là hòa bình. Xu hướng chung là giữ nguyên trạng châu Âu và nguyên trạng thế giới, không làm thay đổi bàn cờ chính trị quốc tế. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, trên thế giới có nhiều quốc gia bị chia cắt (Đức, Trung Quốc, Triều Tiên), nhưng do quan niệm cân bằng quyền lực, không ở đâu có chủ trương đấu tranh cách mạng để thống nhất đất nước. Trên thế giới lúc đó cũng xuất hiện xu hướng hoà bình, trung lập. “Các nước theo chính sách trung lập, chính quyền thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy cũng chống đế quốc nhưng cũng không thích - thậm chí chống lại - phe xã hội chủ nghĩa”. Thái độ cơ bản và lâu dài của họ là “dựa vào cả hai phe và lợi dụng cả hai phe”. “Tình hình giằng co ấy trên thế giới không thể không ảnh hưởng đến tương quan lực lượng ở miền Nam Việt Nam” [8, tr.1070]. Từ khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thực chất là một cuộc đọ sức giữa hai phe kết thúc mà không phân thắng bại, các nước lớn đều cho rằng tương quan lực lượng quốc tế đang ở thế cân bằng. Xu thế hòa hoãn xuất hiện. Tiếp sau Chiến tranh ở Triều Tiên, cuộc chiến tranh ở Đông Dương (1945-1954) chấm dứt, làm cho những điểm nóng ở châu Á có liên quan tới các nước lớn và hai phe tạm thời được giải quyết, nhưng trên thế giới chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang vẫn diễn ra gay gắt. Ở châu Âu, hình thành hai liên minh quân sự và kinh tế đối lập nhau. Hai nhà nước Đức ra đời. Hệ thống Xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và được củng cố, những năm 50 của thế kỷ XX, các nước đều tập trung thực hiện những kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, thiết lập liên minh chính trị - kinh tế (Hội đồng tương trợ kinh tế - SEV) và liên minh quân sự (Khối Hiệp ước phòng thủ Varsava). Phong 7
- trào giải phóng dân tộc ngày càng dâng cao ở các nước Á, Phi và Mỹ latinh. Cuộc đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ diễn ra liên tiếp ngay tại các nước tư bản chủ nghĩa. Trung Quốc tập trung thực hiện kế hoạch 5 năm và giải quyết những công việc nội bộ, e ngại việc Mỹ có thể tiếp tục can thiệp vào khu vực, làm cho tình hình căng thẳng và đe dọa an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc tích cực giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc xây dựng miền Bắc, nhưng chưa thể ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Theo Trung Quốc, Hiệp định Giơnevơ đã tạo ra tiền đề chính trị tốt hơn cho Việt Nam so với tình hình Đức và Triều Tiên, và Việt Nam đã giành được thế chủ động. Miền Bắc có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội và thông qua đấu tranh lâu dài để ảnh hưởng và tranh thủ miền Nam. Cũng như Trung Quốc, Liên Xô giúp Việt Nam thực hiện các kế hoạch ba năm 1955-1957 và 1958-1960 ở miền Bắc, nhưng không ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Khơrútsốp chủ trương “thi đua hòa bình”, hòa hoãn với Mỹ, trong lúc Mỹ đang nhảy vào thay chân Pháp ở miền Nam Việt Nam, cùng thời điểm xảy ra những vụ bạo động ở Ba Lan và Hunggari (1956). Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô (1956) nhận định: 1- Tất cả các cuộc xung đột trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách thương lượng hòa bình, 2- Phong trào cách mạng trong nhiều nước có thể tiến triển hòa bình được. Đại hội đề ra đường lối “tam hòa” (“cùng tồn tại hòa bình”, “quá độ hòa bình”, “thi đua hòa bình”). Trọng tâm chiến lược của Liên Xô lúc đó là châu Âu, tập trung củng cố Đông Âu. Vì lợi ích của mình, Liên Xô coi nhiệm vụ chiến lược hàng đầu là thực hiện hòa hoãn Đông - Tây, tránh đối đầu với Mỹ, giữ nguyên trạng châu Âu và nguyên trạng thế giới, tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và các nước phương Tây, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên Xô lo ngại sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc cản trở hòa hoãn, ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược của Liên Xô. Điều đáng chú ý là vào những năm 1954-1959, Liên Xô quan hệ với Việt Nam có phần dè dặt, thận trọng hơn so với các nước khác. Trong một thời gian dài các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô không trực tiếp lên án những hành động của chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Chủ trương của Liên Xô là giữ nguyên trạng Việt Nam; tập trung xây dựng miền Bắc 8
- vững mạnh để động viên đấu tranh chính trị, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua con đường thương lượng hòa bình. Mặc dù trong phe xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, nhưng vẫn còn giữ được sự thống nhất, đặc biệt là vấn đề bảo vệ hòa bình, vì càng tranh thủ giữ vững hòa bình được lâu dài thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng cường mau chóng lực lượng. Tháng 11-1957, Hội nghị 64 Đảng Cộng sản họp tại Matxcơva, tổng kết các quy luật của chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố kêu gọi nhân dân thế giới đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh. Tuyên bố của Hội nghị nêu rõ: “Ngày nay, đấu tranh cho hoà bình và cho sự chung sống hoà bình đã trở thành yêu cầu của những tầng lớp quần chúng đông đảo nhất ở tất cả các nước trên thế giới. Các đảng cộng sản coi cuộc đấu tranh cho hoà bình là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Cùng tất cả các lực lượng yêu chuộng hoà bình, các đảng cộng sản sẽ làm tất cả mọi việc theo khả năng của mình để ngăn ngừa chiến tranh” [37, tr.622]. Trong lúc Mỹ công khai tuyên bố ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam Á; xu thế hoà bình, trung lập phát triển ở nhiều nơi, cả Liên Xô và Trung Quốc đều lo sợ “đốm lửa cháy rừng”, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt Nam có thể lan rộng thành chiến tranh thế giới. Điều đó sẽ rất nguy hiểm. Vì thế hai nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa đều thuyết phục Việt Nam chấp nhận sự chia cắt đất nước lâu dài. Sự bất đồng trong phe Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quan hệ Xô – Trung. Tình hình thế giới cũng có những diễn biến rất phức tạp. Bất đồng giữa một số Đảng cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng sâu sắc và bộc lộ công khai, nhất là bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Sự mất đoàn kết trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn Trung - Xô được Mỹ lợi dụng triệt để nhằm phá hoại phong trào cách mạng thế giới, chia rẽ, gây mất ổn định chính trị và làm suy yếu lực lượng chủ nghĩa xã hội, đồng thời hạn chế sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam, nơi đang diễn ra cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của Mỹ. Trong tình hình đó, Việt Nam không thể trông chờ vào sự đồng thuận trong phe xã hội chủ nghĩa như một sự hợp sức, thống nhất hành động giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Vấn đề lúc đó chỉ có thể là tranh thủ sự giúp đỡ của từng nước. 9
- Tình hình trong nước Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi với chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết Hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương (21-7- 1954). Ranh giới quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử là hai năm. Nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa theo hướng chủ nghĩa xã hội, củng cố và tăng cường an ninh - quốc phòng, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Lẽ ra sau hai năm, khi quân Pháp rút hết khỏi miền Nam, nhân dân Việt Nam sẽ Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng Mỹ đã vào thay chân Pháp, chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt thân Mỹ, nằm trong “thế giới tự do”, đối lập với “phe cộng sản”. Đế quốc Mỹ trở thành đối tượng trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trực tiếp của Mỹ trong việc can thiệp vào Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ là xóa bỏ một chế độ chính trị trong hệ thống thế giới mới đang hình thành. “Chính quyền Aixenhao kiên quyết tạo dựng miền Nam Việt Nam thành một quốc gia mà sau này sẽ là thành trì chống chủ nghĩa cộng sản và làm cơ sở để chứng minh cho “nền dân chủ” ở châu Á” [53, tr.52-56]. Thực hiện ý đồ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm khước từ hiệp thương tổng tuyển cử với miền Bắc để thống nhất đất nước, tổ chức “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên vị trí tổng thống, tổ chức bầu cử riêng rẽ ở miền Nam, thành lập cái gọi là “Việt Nam cộng hoà”. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung mọi lực lượng, vừa dụ dỗ, lừa bịp, vừa đàn áp, khủng bố quần chúng bằng nhiều thủ đoạn thâm độc; thi hành chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm đánh vào cơ sở của Đảng Cộng sản, trả thù những người yêu nước, nhất là những người tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây và những gia đình có người thân đi tập kết ở miền Bắc. Đất nước bị chia cắt, ước mơ của nhân dân Việt về gia đình được đoàn tụ sau 2 năm với cuộc tổng tuyển cử tự do, bị chế độ thực dân mới chôn vùi. Lòng uất hận căm thù của nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng đối với đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng “dâng cao như núi”, “tràn đầy như biển cả”. 10
- Đế quốc Mỹ và tay sai chẳng những xâm chiếm miền Nam, mà còn ráo riết chuẩn bị “Bắc tiến”, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn chẳng những là kẻ thù của nhân dân miền Nam đang bị chúng thống trị, mà còn là kẻ thù chung của nhân dân miền Bắc đã được giải phóng, của cả dân tộc Việt Nam. Việc thi hành những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về ranh giới quân sự tạm thời, thực hiện tập kết, chuyển quân làm so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi không có lợi cho cách mạng. Do những chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng với đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng phát triển gay gắt, đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Tình thế cách mạng cho cuộc khởi nghĩa từng phần ở miền Nam đã chín nguồi, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, cuối năm 1959 và đầu năm 1960 phong trào Đồng khởi bùng nổ. Phong trào đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã làm lung lay tận gốc rễ bộ máy chính quyền của chủ nghĩa thực dân mới, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh dấu bước nhảy vọt về chất của phong trào cách mạng miền Nam. 1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận Chủ trương của Đảng Trước tình hình đất nước tạm thời chia làm hai miền, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Lúc này Đảng khẳng định: Mũi nhọn đấu tranh chĩa vào đế quốc Mỹ, kẻ thù chính của nhân dân thế giới, kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân hai miền Nam, Bắc trong giai đoạn mới là bộ phận của xu hướng đấu tranh cho mục tiêu thời đại, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình mới trên thế giới và những biến động ở trong nước, tháng 1- 1959, Ban Chấp Hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15, ra Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng miền Nam. 11
- Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) họp từ ngày 12 đến 22-1-1959 (đợt 1), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Ban Chấp hành Trung ương phải có đối sách đặc biệt tế nhị, khéo léo và mềm mỏng trước mọi sức ép rất nặng nề từ nhiều phía trên thế giới đối với Đảng ta lúc đó [37, tr.22]. Ngay sau Hội nghị 15, Ban Bí thư Trung ương Đảng gửi cho Xứ ủy Nam Bộ bản Chỉ thị và nêu rõ: “Nam Bộ có thể và phải lập căn cứ địa cách mạng để xây dựng và xúc tiến phong trào cách mạng… tiến tới làm nơi trung tâm hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất để nêu cao ngọn cờ giải phóng cứu nước, đánh đổ Mỹ - Diệm” [37, tr.516]. Nghị quyết 15 chỉ rõ phương hướng và yêu cầu ở miền Nam: “Đảng phải đẩy mạnh công tác dân vận, tiến tới thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm thật rộng rãi lấy liên minh công nông làm cơ sở, bao gồm tất cả những lực lượng yêu nước ở miền Nam, tranh thủ mọi người có thể tranh thủ được, ngay cả những phần tử có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm trong chính quyền của đối phương” [37, tr.85-86]. Trung ương Đảng chủ trương: “Củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và toàn dân ta. Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, cho nên nhiệm vụ, tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt trận riêng cho miền Nam” [37, tr.87]. “Mặt trận ở miền Nam phải có một bản Cương lĩnh cụ thể, và phải đề ra những khẩu hiệu thiết thực, phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để động viên và tập hợp quảng đại quần chúng, thống nhất hành động chống Mỹ - Diệm trong mọi trường hợp cụ thể từ thấp đến cao”. “Mặt trận miền Nam tuy là riêng cho miền Nam, không nằm trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng phải cùng thực hiện mục tiêu chung với Mặt trận Tổ quốc là nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và thực tế do Đảng ta lãnh đạo” [37, tr.89]. Tiếp thu Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ đã họp Hội nghị vào tháng 11- 1959, bày tỏ hoàn toàn tin tưởng đường lối cách mạng do Trung ương vạch ra, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất, Nghị quyết Hội nghị nhất trí với chủ trương của Trung ương và nhấn mạnh thêm: “Không ngừng củng cố và 12
- mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm. Muốn củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm phải ra sức củng cố khối công nông liên minh. Vì phong trào công nông mạnh mẽ bao nhiêu thì tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho việc củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhứt chống Mỹ - Diệm bấy nhiêu” [37, tr.997]. Tháng 9-1960, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được triệu tập. Nghị quyết nêu rõ nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại là: ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với các nước anh em theo những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản; kiên quyết đấu tranh để góp phần bảo vệ và củng cố hòa bình, chống chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ; ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân các nước Á, Phi và Mỹ la tinh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc; kiên quyết đấu tranh làm cho Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được thi hành đầy đủ nhằm duy trì hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á; tăng cường quan hệ hữu nghị giữa Chính phủ và nhân dân Việt Nam với Chính phủ và nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: Để đảm bảo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới... Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 199 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 149 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 197 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 17 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn