Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ sau cách mạng 8/1945 đến 30/4/1975)
lượt xem 12
download
Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ sau cách mạng 8/1945 đến 30/4/1975) sau đây để nắm bắt được những nội dung về những xác định có tính chất cơ sở phục vụ nội dung nghiên cứu của đề tài; hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ sau cách mạng 8/1945 đến 30/4/1975).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ sau cách mạng 8/1945 đến 30/4/1975)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN CÔNG CHÁNH HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA TRÍ THỨC TIỀN GIANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ (TỪ SAU CÁCH MẠNG 8/1945 ĐẾN 30/4/1975) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
- MỤC LỤC MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3 LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... 7 MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 8 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 8 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................... 8 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 11 4.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 11 5.Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 12 6.Những đóng góp của luận văn ........................................................................................... 12 7.Bố cục của luận văn............................................................................................................ 13 CHƯƠNG 1: NHỮNG XÁC ĐỊNH CÓ TÍNH CHẤT CƠ SỞ PHỤC VỤ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ........................................................................... 14 1.1.Khái niệm trí thức ............................................................................................................ 14 1.2.Trí thức Tiền Giang ......................................................................................................... 14 1.3.Nguồn gốc của trí thức Tiền Giang ................................................................................ 15 1.4.Giới hạn địa bàn tỉnh Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày miền Nam giải phóng ...................................................................................................................... 19 1.4.1.Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến Hiệp định Genève 1954 ......................... 20 1.4.2.Từ sau Hiệp định Genève đến ngày miền Nam giải phóng ....................................... 22 1.4.2.1.Chính quyền cách mạng ..................................................................................... 22 1.4.2.2.Chính quyền Sài Gòn ......................................................................................... 22 3
- CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA TRÍ THỨC TIỀN GIANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954)............................................................ 25 2.1.Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 .................................... 25 2.1.1.Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ chung của cả nước................................................. 25 2.1.2.Tình hình và nhiệm vụ của Mỹ Tho - Gò Công sau Cách mạng tháng Tám............. 28 2.2.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp (từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Hiệp định Genève 1954) .................................. 36 2.2.1.Hoạt động ở nội đô .................................................................................................... 36 2.2.2.Hoạt động ở vùng kháng chiến .................................................................................. 50 CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA TRÍ THỨC TIỀN GIANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (TỪ SAU HIÊP ĐINH GENÈVE 1954 ĐẾN NGÀY TIỀN GIANG GIẢI PHÓNG 30/4/1975)......................................................... 62 3.1.Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau Hiệp định Genève năm 1954 .................................... 62 3.1.1.Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ chung của cả nước................................................. 62 3.1.2.Tình hình và nhiệm vụ cách mạng của Mỹ Tho - Gò Công ...................................... 63 3.2.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (từ sau Hiệp định Genève 1954 đến ngày miền Nam giải phóng 30/4/1975) ........................... 64 3.2.1.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong giai đoạn 1954 -1960 ................ 64 3.2.2.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang giai đoạn từ 1961 -1968 ..................... 70 3.2.3.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang giai đoạn từ 1969 - 1973 .................... 83 3.2.4.Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang giai đoạn từ 1973 - 1975 .................... 86 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 94 TÀI LIÊU THAM KHẢO ........................................................................................... 104 PHỤ LỤC: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA ........................................................ 109 4
- CHÂN DUNG MỘT SỐ TRÍ THỨC YÊU NƯỚC TIỀN GIANG DO TÁC GIẢ SƯU TẦM...................................................................................................................... 113 DIỆP BA (Luật sư) (1916- 1967) ......................................................................................... 114 NGUYỄN MỸ CA (Nhạc sĩ) (1920- 1946) .......................................................................... 115 NGUYỄN THÀNH CHÂU (Nghệ sĩ) (1906- 1978) ............................................................ 117 LÊ VĂN CHÍ (Giáo viên) (1907 - 1993) ............................................................................. 119 NGUYỄN VĂN CHÌ (Giáo viên) (1903 - 1989) .................................................................. 121 LÝ QUÍ CHƯNG (Nhà báo) (1940-2005) ........................................................................... 123 CAO HẢI ĐỂ (Nhà báo) (1895 - 1964)............................................................................... 126 LÊ QUANG ĐỒNG (Phó Trưởng Ban Tuyên Huấn Tỉnh ủy Tiền Giang) (1926) .......... 129 BẢO ĐỊNH GIANG (Nhà thơ) (1919-2006) ....................................................................... 130 NGUYỄN VĂN GIẢNG (Nhà sư) (1898 - 1974) ................................................................ 131 ĐOÀN GIỎI (Nhà văn) (1925 - 1989) ................................................................................ 135 NGUYỄN VĂN HÒA (Nhà báo) (1922 - 2000) .................................................................. 136 TRẦN NAM HƯNG (Bác sĩ) (1915 - 1993) ........................................................................ 137 TRẦN VĂN KHÊ (Nghệ sĩ) (1921) ..................................................................................... 139 LÊ THỊ NAM (Nghệ sĩ) (1913 -2004) ................................................................................. 142 NGUYỄN VĂN NGUYỄN (Nhà văn) (1910- 1953) ........................................................... 145 NGUYỄN QUANG NHẠC (Kiến trúc sư) (1924-2004) ..................................................... 148 LÊ THỊ NHIÊN (Giáo viên) (1924) .................................................................................... 149 LƯU TẤN PHÁT (Giáo viên) (1910- 1966) ........................................................................ 150 NGUYỄN THỊ HOÀI THƯ(Bộ trưởng ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội khóa IX) (1943) .................................................................................................................................... 152 TRẦN HỮU TRANG (Soạn giả) (1906- 1966) ................................................................... 153 5
- HUỲNH CÔNG TRỨ (Nhà văn) (1926 - 1990 ................................................................... 156 ĐẶNG MINH TRỨ (Giáo viên) (1900- 1981) .................................................................... 158 NGUYỄN THỊ TRỪ (Ni sư Huỳnh Liên) (1923 - 1987) .................................................... 160 DIỆP MINH TUYỀN (Nhạc sĩ) (1941 - 1997) ................................................................... 162 ĐỒNG NGỌC TỰ (Nhà sư) (1898 - 1984) ......................................................................... 164 PHẠM VĂN ÚT (Giáo viên) (1923 - 1969)......................................................................... 166 HOÀNG VIỆT (Nhạc sĩ) (1928 - 1967) .............................................................................. 168 TƯ LIỆU MỚI THU THẬP VỀ NHẠC SĨ HOÀNG VIỆT CHƯA ĐƯỢC CÔNG BỐ ... 169 6
- LỜI CẢM ƠN Để có được tập luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn: - Trước hết với trí thức yêu nước, đặc biệt là các bậc trí thức Tiền Giang đã cống hiến cuộc đời, sự nghiệp cho công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. - Quý Thầy Cô tham gia giảng dạy lớp Lịch Sử Việt Nam khóa XV (2004 -2007), Ban chủ nhiệm khoa Lịch Sử, Phòng Khoa học Công nghệ sau Đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập. - Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn TS. Lê Huỳnh Hoa. Cô đã hết lòng chỉ bảo, động viên, giúp tôi hoàn thành tập luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn NGUYỄN CÔNG CHÁNH 7
- MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Trong mỗi quốc gia trí thức luôn là lực lượng đại diện cho tri thức và trí tuệ của quốc gia đó. Lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay cho thấy dù ở bất kỳ thời điểm nào của lịch sử dân tộc, đội ngũ trí thức cũng đóng góp vai trò quan trọng của mình vào sự phát triển của dân tộc về cả hai mặt xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đội ngũ trí thức Việt Nam, trí thức Nam Bộ nói chung và trí thức Tiền Giang nói riêng đã góp phần không nhỏ vào quá trình chuẩn bị và tiến hành kháng chiến. Lực lượng này không chỉ trực tiếp chiến đấu trên chính mảnh đất đã sinh ra mình mà còn có mặt ở mọi miền đất nước, đáp ứng yêu cầu về mọi mặt của cuộc kháng chiến. Sinh ra, lớn lên tại tỉnh Tiền Giang, trong quá trình giảng dạy bộ môn lịch sử, đã ấp ủ trong tôi việc phục dựng lại hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến thần kỳ chống Pháp và chống Mỹ, đặc biệt là lịch sử địa phương từ sau Cách mạng tháng Tám. Qua đó bước đầu tìm hiểu đặc điểm vai trò của đội ngũ trí thức Tiền Giang trong quá khứ. Trên cơ sở những kết quả khoa học có thể giáo dục lòng tự hào về quê hương, rút ra những bài học kinh nghiệm vê việc xây dựng đội ngũ trí thức trong tương lai. 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vê đê tài hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975, rải rác đã có nhiều công trình, tác phẩm được nghiên cứu và lần lượt ra đời trong thời gian qua như: - Lịch sử Tiền Giang – nhiều tác giả, Nxb Tiền Giang, 1986. - Cuộc kháng chiến ba mươi năm của quân dân Tiền Giang (1945 -1975) - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang, Nxb Tiền Giang, 1988. - Những người con ưu tú của Tiền Giang, 2 tập - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, Nxb Tiền Giang, 1993. - Đứng lên đáp lời sông núi - nhiều tác giả, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1995. 8
- - Làm đẹp cuộc đời, Huỳnh Tấn Phát - cuộc đời và sự nghiệp - nhiều tác giả, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995. - Lịch sử Đảng bộ Tiền Giang (1927 - 1954) - nhiều tác giả, Nxb Tiền Giang, 1995. Tác phẩm chỉ trình bày về quá trình đấu tranh của nhân dân Tiền Giang trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp mà không đề cập cụ thể đến hoạt động yêu nước của lực lượng trí thức Tiền Giang. - Lịch sử Đoàn và phong trào thanh niên Tỉnh Tiền Giang - Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn Tiền Giang, Nxb Tiền Giang, 1996. Tác phẩm chủ yếu đề cập đến lịch sử và quá trình hoạt động cách mạng của Đoàn thanh niên, chưa chú ý đến các thành phần trí thức khác của Tiền Giang. - Những trang ghi chép về lịch sử văn hóa Tiền Giang - Nguyễn Phúc Nghiệp, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1998. Trong tác phẩm này, mặc dù có đề cập đến trí thức Tiền Giang nhưng còn tản mạn và chưa được đầy đủ. - Những viên ngọc quý thời đại Hồ Chí Minh - nhiều tác giả, Nxb Đà Nẵng, 2000. Tác phẩm chủ yếu liệt kê những nhân vật tiêu biểu của cả nước trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, trong đó lực lượng trí thức Tiền Giang thì không được nhắc đến nhiều. - Hồi ký Trần Văn Khê, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Tác phẩm chủ yếu ghi lại những hồi ức của tác giả quá trình hoạt động nghệ thuật ở trong và ngoài nước. - Tiểu sử danh tăng Việt Nam (thế kỳ XX) - Thích Đồng Bổn (chủ biên), Thành Hội Phật giáo Hồ Chí Minh (ấn hành tập I, 1996); Nxb Tôn giáo (ấn hành tập 2, (2002). Tác phẩm chủ yếu ghi lại tiểu sử của các danh tăng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. - Nam Bộ những nhân vật một thời vang bóng - Nguyên Hùng, Nxb Công An Nhân Dân, 2003). - Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) - Hồ Sơn Diệp, Nxb Đại Học Quốc Gia, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Tác phẩm chỉ giới hạn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và cũng không thấy đề cập đến hoạt động của trí thức Tiền Giang một cách cụ thể. - Cuộc đời và tác phẩm nhạc sĩ Hoàng Việt - nhiều tác giả, Hội Văn học Nghệ thuật Tiền Giang, 2005. Tác phẩm chủ yếu ghi lại những hồi ức của họ đối với nhạc sĩ Hoàng Việt trong quá trình hoạt động cách mạng. 9
- - Địa chí Tiền Giang - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, Nxb Tiền Giang, 2005. Tác phẩm trình bày tổng quát về quê hương và con người Tiền Giang từ thuở mới khai phá đến ngày nay, trong đó cũng có đề cập đến những hoạt động yêu nước của lực lượng trí thức nhưng còn khái quát, chưa có hệ thống. Đây chính là tác phẩm mà tác giả sẽ kế thừa có chọn lọc để nghiên cứu luận văn của mình. - Lịch sử và truyền thống trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu (1879 - 2005) - Nhiều tác giả, Nxb Tiền Giang, 2006. Tác phẩm phần lớn trình bày về lịch sử hình thành và truyền thống cách mạng của nhà trường, mặc dù có trình bày về hoạt động yêu nước của lực lượng trí thức Tiền Giang nhưng còn rất sơ lược. - Nhân vật tỉnh Tiền Giang - Nguyễn Phúc Nghiệp, Nxb Trẻ, Thành phố Hô Chí Minh, 2006. Tác phàm có đê cập đèn các trí thức Tiền Giang nhưng còn lẻ tẻ và chỉ được trình bày dưới dạng tiểu sử. Đây là tài liệu giúp tác giả tham khảo để trình bày ở phần phụ lục của luận văn. Ngoài ra, còn nhiều sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học đã đăng tải nhiều nội dung về hoạt động yêu nước của đội ngũ trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975. Các tác phẩm sách, báo kể trên ở nhiều góc độ khác nhau đã góp phần phản ánh quá trình tham gia cách mạng của trí thức; phản ánh phần nào bức tranh lịch sử của lực lượng trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tuy nhiên, so với vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Tiền Giang trong giai đoạn 1945 - 1975, các công trình nghiên cứu trên vẫn chưa phục dựng đầy đủ và hệ thống về hoạt động yêu nước của họ. Vì vậy cần những công trình mang tính khái quát, hệ thống, cụ thể hơn về lực lượng trí thức ở Tiền Giang trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến 30 tháng 4 năm 1975. Đề tài: "HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA TRÍ THỨC TIỀN GIANG TRONG cuộc KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ (TỪ SAU CÁCH MẠNG 8/1945 ĐẾN 30/4/1975" sẽ là một trong những công trình bước đầu "lấp dần chỗ trống" cần thiết ấy. Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang chính là sự tổng họp hoạt động của nhiều cá nhân riêng lẻ trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuy mỗi người mỗi việc trên nhiều 10
- lĩnh vực khác nhau nhưng hoạt động của họ, dù lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều toát lên tinh thần yêu nước và đều thiết thực đóng góp công sức của mình vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn này chủ yếu đề cập đến những hoạt động yêu nước của tầng lóp trí thức ở Tiền Giang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trong điều kiện tài liệu còn ít, sự kế thừa chưa nhiều luận văn do đó được giới hạn như sau: Một là, giới hạn về không gian của đề tài. Luận văn tập trung chủ yếu vào vùng đất Tiền Giang thời kỳ từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975 bao gồm các tỉnh Mỹ Tho và Gò Công. Hai là, giới hạn về thời gian từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến 30 tháng 4 năm 1975. Để làm phong phú nội dung của vấn đề, chúng tôi cố gắng sưu tập các nguôn tư liệu thành văn có liên quan, nhăm phục vụ thiêt thực nhát cho mục đích nghiên cứu về các hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong khoảng thời gian từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975. Mặt khác, luận văn còn có những tài liệu mà tác giả tự thu thập được. 4.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung phục dựng lại bức tranh toàn cảnh của lịch sử xã hội Tiền Giang tò sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đèn ngày miên Nam hoàn toàn giải phóng, qua đó tìm hiểu hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang. Trên nền cụ thể đó, bước đầu phân tích, rút ra đặc điểm, vai trò của lực lượng trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975. Kết quả này góp phần chứng minh lòng yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam và sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc nói chung, về việc xây dựng lực lượng trí thức trong kháng chiến, xây dựng mặt trận đoàn kết toàn dân và liên minh công - nông - trí nói riêng. 11
- 5.Phương pháp nghiên cứu Đe thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic để nghiên cứu nội dung đề tài. - Phương pháp lịch sử dùng để hệ thống những hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang thông qua hai cuộc kháng chiến thân thánh của dân tộc. - Phương pháp logic được dùng để khái quát và nêu lên đặc điểm, vai trò của lực lượng trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến tháng 4 năm 1975, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về việc xây dựng đội ngũ trí thức trong tương lai. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp hổ trợ khác như phương pháp liên ngành, đặc biệt là phương pháp điền dã nhằm gia tăng tính thực tiễn và khoa học của đề tài. 6.Những đóng góp của luận văn - Qua luận văn, người viết đã cố gắng phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 một cách sinh động, trung thực. Qua đó, phân tích, rút ra những đặc điểm, vai trò, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của lực lượng trí thức Tiền Giang trong thời gian này. - Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung nguồn tư liệu về hoạt động yêu nước của nhân dân Tiền Giang, giáo dục lịch sử truyền thống của địa phương, khơi dậy ngọn lửa yêu nước trong tầng lóp trí thức trẻ. - Ngoài ra, luận văn còn cho thấy sự xuyên suốt, sợi chỉ đỏ của chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử dân tộc, góp phần làm rõ một trong những đặc điểm nổi bật trong lịch sử Việt Nam, đó là tinh thần: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" của Nguyễn Đình Chiểu [55, tr.36], hay của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người khẳng định: "Nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong" [65, tr.120]. Tinh thần đó còn giúp để khẳng định: dân tộc Việt Nam, người dân Việt Nam dù ở địa phương nào, thành phần xuất thân nào trong mỗi người dân Việt Nam đều có lòng yêu nước. Hoạt động yêu nước vì vậy đã gắn bó máu thịt đối với người Việt Nam. 12
- 7.Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu (7 trang), kết luận (12 trang) và phụ lục (65 trang), nội dung luận văn gồm có 3 chương (90 trang): Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu (12 trang). Chương 2. Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến khi ký Hiệp định Genève (42 trang). Chương 3. Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang từ sau Hiệp định Genève đèn ngày miền Nam giải phóng (36 trang). 13
- CHƯƠNG 1: NHỮNG XÁC ĐỊNH CÓ TÍNH CHẤT CƠ SỞ PHỤC VỤ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.1.Khái niệm trí thức Trong lịch sử nước nhà, mỗi thắng lợi vang dội đều là kết quả của nguồn lực tổng họp toàn dân tộc, và trên mỗi chặng đường đều có dấu ấn để lại của đội ngũ trí thức. Vậy trí thức được hiểu như thế nào? Có nhiều cách hiểu khác nhau về trí thức, điều đó chứng tỏ cho đến nay khái niệm trí thức vẫn chưa thật định hình. Ở đây, chúng tôi xin nêu lên một vài nội đung tiêu biểu về khái niệm trí thức: - Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Nxb Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 1992 thì: "Trí thức là những người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Người ta thường gọi là tầng lớp trí thức"[51, tr.417]. - Còn Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998 thì trí thức được hiểu: "là những người làm công tác trí óc" [34, tr.549]. - Trong khi đó, Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 4) của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005 thì lại cho rằng: "Trí thức là tầng lớp xã hội làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh. Trí thức bao gồm các nhà xã hội, kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy thuốc, luật sư, nhà văn, nghệ sĩ, .V.V.." [48, tr.582]. Từ các định nghĩa trên có thể hiểu: Trí thức là những người chuyên lao động bằng trí óc và có trình độ kiến thức phù họp với chuyên môn của mình. Và nếu theo tinh thần này thì cũng có thể hiểu những người có nghề nghiệp không lao động bằng chân tay mà lao động bằng trí óc thì có thể xếp vào tầng lóp trí thức. Và như vậy, trong luận văn này, sư sãi cũng được xem là lực lượng trí thức. 1.2.Trí thức Tiền Giang 14
- Theo lý thuyết khi đề cập đến khái niệm trí thức Tiền Giang có thể hiểu như sau: - Một là, những trí thức sinh ra, lớn lên và hoạt động tại Tiền Giang. - Hai là, những trí thức được sinh ra, lớn lên ở Tiền Giang nhưng lại hoạt động ở những nơi khác. - Ba là, những trí thức không sinh ra và lớn lên ở Tiền Giang nhưng được đào tạo, rèn luyện và hoạt động ở Tiền Giang. - Bốn là, những trí thức do ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Tiền Giang nên đã tìm đến học tập và hoạt động. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung vào tìm hiểu hoạt động yêu nước của những người sinh ra, lớn lên và hoạt động tại Tiền Giang và những trí thức được sinh ra và lớn lên ở Tiền Giang nhưng lại hoạt động ở những nơi khác. Từ đó thây được những đóng góp thiết thực của họ trong cuộc kháng chiến chông Pháp và chống Mỹ ở tỉnh nhà và ở những địa phương khác trên cả nước. 1.3.Nguồn gốc của trí thức Tiền Giang Tiền Giang là vùng đất mới, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, do chiến tranh xảy ra giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, do sự áp bức, bóc lột thái quá của quan lại, địa chủ và do thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên tục, lưu dân người Việt từ miền Ngoài (Trung - Bắc) vượt biển vào Nam khai khẩn đất hoang, mở ruộng, lập làng. Những người đi Tiền phong mở đất đa số là nông dân lao động nghèo, ít học. Tuy nhiên, trong đoàn người di cư đó cũng có cả các thầy đồ, đôi khi còn có những vị quan cấp thấp. Đến vùng đất mới, các thầy đồ mở lớp dạy học hoặc được những hộ khá giả rước về nhà dạy học cho con em mình [50, tr.29]. Cũng có thầy đồ ngoài việc dạy học, còn tham gia khẩn hoang, lập làng cùng với nhân dân, được nhân dân rất nể trọng. Nhờ sức lao động khai phá của nhân dân, bộ mặt vùng đất mới không ngừng thay đổi: làng xã hình thành, dần dần ổn định, thị tứ mọc lên, dân số ngày một đông, kinh tế có sự phát triển rõ nét. Từ đó, nhu cầu học tập của nhân dân trở nên cấp thiết. Sau khi củng cố và làm chủ vùng đất này, các chúa Nguyễn đã tổ chức thi cử, để chọn người tài phục vụ chế độ phong kiến. Về sau, Nguyễn Ánh đã tổ chức ở Gia Định hai khoa thi 15
- vào năm Tân Hợi (1791) và năm Bính Thìn (1796). Qua hai khoa thi đó, ở Mỹ Tho, Gò Công có ba người đổ hạng ưu là Ngô Tùng Châu, Phạm Đăng Hưng và Nguyễn Hoài Quỳnh [50, tr.29]. Tuy vậy, đến thời vua Minh Mạng, hoạt động giáo dục mới thực sự được quan tâm. Các trường học ở tỉnh, phủ, huyện được thành lập và đóng vai trò quan trọng trong việc ôn tập, luyện thi. Bên cạnh đó, nhà Nguyễn cũng đặt ra các chức học quan ở địa phương, ở trường tỉnh có Tỉnh Đốc học (Học chánh), ở trường phủ có Giáo thọ, ở trường huyện có Huấn đạo. Ở cấp tổng hoặc cấp xã thôn cũng phân công những chức vụ trông nom khuyến khích việc học hành. Nhiệm vụ của các vị học quan này là vừa dạy học, vừa trông coi việc giáo dục trong địa phương, vừa tổ chức khảo hạch khi có thi cử. Về thi cử, từ khoa thi Hương đầu tiên năm 1813 đến khoa thi cuối cùng năm 1864, nhà Nguyễn tổ chức được 20 khoa thi Hương (19 khoa thi ở trường Gia Định, 1 khoa thi ở trường An Giang) với 270 người đậu cử nhân. Trong 20 khoa thi đó, khoa thi nào cũng có thí sinh Định Tường, Gò Công trúng tuyển, với 44 người đậu cử nhân, chỉ đứng sau Gia Định [50, tr.32]. Như vậy có thể nói, Định Tường là một trong những trung tâm văn hóa - giáo dục có từ rất sớm ở Nam kỳ, kể từ đầu thế kỷ XIX trở về sau. Giới trí thức ở Định Tường đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương và trong cả nước. Giáo dục đã có tác động mạnh mẽ đến tinh thần yêu nước của sĩ phu và nhân dân Định Tường. Những vị khoa bảng nổi danh hoặc những trí thức không bằng cấp, khi thực dân Pháp xâm chiếm Định Tường và Nam kỳ, đều đã đứng cùng trận tuyến với nhân dân, giương cao ngọn cờ dân tộc, lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Điển hình như: - Đốc học Định Tường Mạc Như Đông, đã soạn thảo bài "Hịch kêu gọi sĩ dân đánh Tây" cháy bỏng lòng yêu nước, được mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. - Cuộc kháng Pháp do Trương Định lãnh đạo ở Gò Công, thu hút nhiều trí thức tham gia và tất cả họ đều là những hạt nhân nòng cốt của phong trào. - Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, dù bị địch bắt hai lần và đày đi biệt xứ (đảo Cayenne ở Châu Mỹ Latinh), rồi lại bị địch dụ dỗ, mua chuộc, nhưng vẫn không lung lạc. Ông đã ba lần 16
- chiêu mộ nghĩa sĩ, dấy binh chống Pháp. Cuối cùng, ông đã hy sinh trên mảnh đất quê hương với tư thế của một đấng trượng phu anh hùng. Ngoài ra, sĩ phu Tiền Giang còn sử dụng ngòi bút của mình như là một thứ vũ khí cực kỳ lợi hại trong việc động viên tinh thần yêu nước của quân dân, đả kích bọn tay sai bán nước. Nguyễn Đình Chiểu, nhà trí thức lớn của Nam Bộ, đã có sự hợp tác chặt chẽ với Bình Tây đại tướng quân Trương Định. Đó là sự hợp tác tuyệt đẹp giữa hai nhân vật anh hùng, người cầm gươm, người cầm bút trong cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù. Do hoàn cảnh, mỗi người, nếu chưa đứng vào hàng ngũ nghĩa sĩ trực tiếp cầm gươm, cầm súng giết giặc, thì người sĩ phu Mỹ Tho, Gò Công cũng tỏ thái độ bất hợp tác với quân Pháp, không chịu cuộc sống cúi lòn trong vùng kiểm soát của địch. Điển hình là Huỳnh Mần Đạt, sau khi thành Định Tường thất thủ và qua vài trận đánh Pháp không thành, ông di chuyển về Rạch Giá. Đây là vùng đất còn đặt dưới sự quản lý của triều đình. Tại đó, ông sáng tác những bài thơ cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Giai đoạn thực dân Pháp đánh chiếm và bình định Nam kỳ là thời kỳ suy tàn của tầng lớp trí thức Nho học nhưng cũng chính từ đây lại bắt đầu xuất hiện một tầng lớp trí thức mới. Trong thực tế, song song với việc tổ chức bộ máy cai trị, thực dân Pháp đã rất quan tâm đến giáo dục. Mục đích của họ là dùng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp thay thế dần chữ Hán - Nôm, phổ biến văn hóa Pháp đến nhân dân Nam Kỳ để nhân dân quên dần văn hóa dân tộc, đồng thời đào tạo một lớp công chức phục vụ cho chế độ thuộc địa và tạo cơ sở xã hội đảm bảo chế độ cai trị của họ được lâu dài. Với mục đích đó, sau khi Hiệp ước 17-11-1874 được ký giữa chính phủ Pháp với triều đình Huế, Thống đốc Nam kỳ là Krantz đã ban hành Nghị định thành lập cơ quan giáo dục và ấn định đại cương tổ chức nền giáo dục cộng đồng toàn Nam Kỳ; đánh dấu nền giáo dục của thực dân Pháp đã chính thức xâm nhập vào Việt Nam. Sau đó, để thực hiện và bổ sung Nghị định do Thống đốc Nam kỳ Krantz đã ký, ngày 17 tháng 3 năm 1879, viên Thống đốc kế nhiệm là Bá tước Laíònt đã ra Nghị định thành lập Sở Học chính Nam kỳ (Service de rinstruction Publique) và đặt chương trình giáo dục hệ Pháp - Việt tại Nam kỳ. Như vậy, theo Nghị định ngày 17-3-1879, các tỉnh ở Nam kỳ đều có một trường Tiểu học (École primaire) gọi là trường tỉnh (École de province), các trường Tỉnh này chỉ dạy đến lớp Nhất (Cours supérieur). Sau đó, 17
- học sinh tốt nghiệp ở trường Tỉnh muốn học lên cao hơn phải lên Sài Gòn thi vào trường Trung học D'Adran ở Sài Gòn. Mỹ Tho là một tỉnh có diện tích rộng và dân số đông, nhu cầu học tập của người dân Mỹ Tho, Gò Công rất lớn. Mặt khác, với ý đồ đào tạo một tầng lớp tay sai người Việt phục vụ cho chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Nam kỳ, ngày 14 tháng 6 năm 1880, thống đốc Nam kỳ là Le Myre De Vilers đã ban hành Nghị định bổ sung Điều 6, Chương 1 Nghị định ngày 17-3-1879 cho phép tỉnh Mỹ Tho được thành lập một trường Trung học mang tên Collège de Mytho. Đây là một trường Trung học được chính quyền thuộc địa mở sớm nhất tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [50, tr.34]. Sự ra đời của Collège de Mytho (nay là trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, tọa lạc trên đường Hùng Vương, phường 1, thành phố Mỹ Tho) là một sự kiện lịch sử - văn hóa giáo dục quan trọng trong đời sống văn hóa - xã hội ở tỉnh Mỹ Tho nói riêng và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói chung thời bấy giờ; đồng thời nó cũng đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động giáo dục ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngôi trường này đã đào tạo nhiều nhà trí thức giàu lòng yêu nước, như nhà cách mạng kiên cường Phạm Hùng, giáo sư - viện sĩ Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ, người vinh dự được Bác Hồ đặt tên), kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và các chiến sĩ trung kiên trên nhiều mặt trận: - Chỉnh trị - quân sự có Bùi Thanh Khiết, Lê Quang Thành, Lê Văn Danh, Nguyễn Văn Sĩ, Hồ Hảo Hớn, Nguyễn Văn Tòng, Nguyễn Ngọc Ẩn, Huỳnh Văn Niềm, Cao Văn Sáu, Nguyễn Xuân Đào (Nguyễn Văn Tám), Lê Quang Đồng, Phan Văn Nhơn... - Văn hóa, khoa học có bác sĩ Trần Nam Hưng, giáo sư Nguyễn Văn Chì, giáo sư Lê Văn Chí, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Nguyễn Duy Cương, Nguyễn Thiện Thành, Trương Công Trung, Bùi Sĩ Hùng... - Về nghệ thuật có giáo sư - tiến sĩ Trần Văn Khê, soạn giả Nguyễn Thành Châu (tức Năm Châu), soạn giả Trần Hữu Trang... Họ đã có những cống hiến lớn lao cho sự nghiệp cách mạng, với những đóng góp xứng đáng trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa - nghệ thuật, v.v... ở khắp mọi miền đất nước. Trong đó đã có không ít tên tuổi đã được ghi vào sử sách. 18
- Lớn lên ở mảnh đất Tiền Giang, người trí thức đã kế thừa truyền thống dựng và giữ nước của cha ông qua tiến trình lịch sử. Bên cạnh đó, lực lượng "trí thức tân học" nhờ tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh nước Pháp, đặc biệt là sớm được tiếp cận những tài liệu, sách báo từ nước ngoài truyền về nên họ sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặt khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng trí thức Tiền Giang ngày càng trưởng thành và kiên định lập trường yêu nước của mình trong quá trình đâu tranh giải phóng dân tộc. Sau Cách mạng tháng Tám, đội ngũ trí thức Tiền Giang bắt đầu có sự phân chia. Trong đó, phần đông những trí thức có lòng yêu nước, căm phẫn trước hành động xâm lược của thực dân Pháp, xâm phạm chủ quyền của dân tộc đã phối hợp với quần chúng nhân dân đứng lên chống Pháp. Nhiều trí thức được đào tạo trong nền giáo dục Pháp, chịu ảnh hưởng nền văn minh Pháp và có cuộc sống giàu sang, phú quí nhưng họ đã từ bỏ tất cả để tham gia hoạt động cách mạng. Họ sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân, thậm chí cả bản thân mình để bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Nhiều người trong họ đã tham gia cách mạng do chịu ảnh hưởng từ những nhà trí thức lớn như kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, giáo sư Lê Văn Chí (quê ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), nhà văn - nhà báo Nguyễn Văn Nguyễn (quê ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang)... Vì vậy, trước yêu cầu lịch sử của dân tộc phần lớn trí thức Tiền Giang đã ra bưng biền tham gia kháng chiến, số còn lại ở nội thành công khai đấu tranh chống Pháp. vẫn tiếp nối truyền thống từ thời kỳ chống Pháp, đặc biệt được Đảng coi trọng cho nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhiều cá nhân đã bổ sung cho lực lượng trí thức ở Tiền Giang như ông Trương Quốc Khánh (quê ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang), nhạc sĩ Hoàng Việt (quê ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), nghệ sĩ Kim Cương (quê ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang)... đặc biệt là lực lượng sinh viên, học sinh, lực lượng Thành Đoàn Thành phố Mỹ Tho hoạt động đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Lực lượng trí thức yêu nước này hoạt động trên một địa bàn được giới hạn lúc ấy như sau: 1.4.Giới hạn địa bàn tỉnh Tiền Giang từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày miền Nam giải phóng 19
- 1.4.1.Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến Hiệp định Genève 1954 Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp nấp bóng quân đội Đồng minh Anh Ấn, gây hấn tại Sài Gòn, rồi đánh lấn ra các tỉnh ở Nam Bộ. Tháng 10, chúng tới tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công. Toàn dân cùng đứng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 9 tháng lo năm 1945, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra quyết nghị: Các kỳ, các thành phố, các tỉnh và các phủ huyện trong khăp nước Việt Nam vẫn giữ tên cũ. Tiền Giang bây giờ có hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công [7, tr.45]. Từ đó cho đến năm 1954, trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho cũng như tỉnh Gò Công, vùng tự do thuộc chính quyền cách mạng. Năm 1945 gọi là ủy ban Nhân dân (hoặc ủy ban Cách mạng), đến năm 1946 gọi là ủy ban Hành chánh, năm 1947 đổi thành ủy ban Kháng chiến Hành chánh lo tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp và cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Vì yêu cầu chỉ huy kháng chiến, huyện An Hóa được tách khỏi tỉnh Mỹ Tho nhập về tỉnh Bến Tre [7, tr.45]. Năm 1951, ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ ra Quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công thành tỉnh Mỹ Tho, trong nhân dân, có nơi gọi là Tân Mỹ Gò. Sau năm 1954, ba tỉnh trên được trả về như cũ. Vùng tạm chiếm thuộc quyền quản lý của chính quyền tay sai của quân đội Pháp mang tên là "Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam kỳ", lúc đầu chỉ kiểm soát được 2 tỉnh lỵ và một số làng hai bên các trục giao thông thủy bộ. Sau những trận càn đẫm máu của quân đội Pháp mới lần tới được các quận lỵ và các làng xung quanh. Để thắt chặt sự kìm kẹp dân chúng, ngày 4 tháng 2 năm 1947, chúng cho thành lập quận Tân Hiệp gồm 2 tổng Hưng Nhơn và Thạnh Quan (nay thuộc huyện Chợ Gạo). Sau năm 1954 thì quận Tân Hiệp bị giải thể. Ngày 30 tháng 8 năm 1946, chính quyền bù nhìn ban hành Nghị định cải tổ nên hành chính xã ấp, theo đó Hội đồng Hương chức gồm có các chức danh sau đây: Hương Cả hay Đại Hương Cả, Hương Chủ, Hương Chánh, Hương Quản, Hương Thân, Xã trưởng, Hương hào, Chánh Lục Bộ. Mỗi ấp có một Chủ ấp. Ban Hội tề tùy nghi có thể thêm một số chức danh như Hương Kiểm Điền, Hương Kiêm Thô, Phó Hương Quản, Hương Tuân, Cai Tuân, Cai Thị v.v... 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 200 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 198 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn