intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:167

34
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ về những hạt nhân ban đầu, sự ra đời và quá trình xây dựng, chiến đấu của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965). Từ đó, góp phần tìm hiểu về lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân trong điều kiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- CHU QUANG KHÁNH QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (1961-1965) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- CHU QUANG KHÁNH QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (1961-1965) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 03 13 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đình Lê Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đình Lê. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc và có sự bổ sung thêm những tài liệu mới. Hà Nội, tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Chu Quang Khánh
  4. LỜI CẢM ƠN Trƣớc hết, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Đình Lê, ngƣời thầy đã gợi mở cho tôi từ những ý tƣởng ban đầu của luận văn cũng nhƣ đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn. Tôi cũng trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tại Bộ môn Lịch sử Việt Nam, Khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo, động viên khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình học tập của tôi tại đây. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Chu Quang Khánh
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quân giải phóng miền Nam là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam ở chiến trƣờng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Đƣợc xây dựng và phát triển trên cơ sở các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền của các địa phƣơng miền Nam và lực lƣợng cán bộ, chiến sĩ, nhân viên kỹ thuật quân sự ở miền Bắc bổ sung, tăng cƣờng từ năm 1959, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đặt dƣới sự lãnh đạo về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng và sự chỉ huy thống nhất của Bộ Quốc phòng - Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà trực tiếp Trung ƣơng Cục miền Nam và Ban Quân sự trực thuộc Trung ƣơng Cục. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, kết hợp lực lƣợng tại chỗ với lực lƣợng bổ sung, tăng cƣờng hậu phƣơng lớn miền Bắc vào, cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân miền Nam và sự phối hợp chiến đấu của nhân dân và lực lƣợng vũ trang hai nƣớc bạn Lào và Cambodia, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã lớn mạnh, trƣởng thành nhanh chóng, nhất là từ năm 1961-1965. Từ đánh tập trung quy mô đại đội (1961), bộ đội đã tiến lên đánh tập trung quy mô tiểu đoàn (1963) và trung đoàn (1964). Đi sâu vào nghiên cứu quá trình xây dựng và chiến đấu của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời gian này, có thể thấy đƣợc sự trƣởng thành của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đồng thời tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và làm phong phú thêm đƣờng lối chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, tôi chọn đề tài “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965)” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch 3
  6. sử Việt Nam, với mong muốn góp phần tìm hiểu một giai đoạn lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Qua sƣu tầm, tìm hiểu, tác giả nhận thấy, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc kết thúc, vấn đề tổng kết cuộc kháng chiến đã đƣợc đặt ra. Ban Tổng kết chiến tranh B2 (Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ) đƣợc thành lập, đã thu thập tƣ liệu và dựng đề cƣơng tỉ mỉ cho cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường B2 với 5 tập, trong đó Quân giải phóng miền Nam đã đƣợc đề cập ở một số nội dung. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đƣợc thành lập năm 1990, tiếp thu những kết quả sau nhiều năm nghiên cứu đã cho xuất bản cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, dành nhiều trang với những nhận định, đánh giá sát với thực tế lịch sử đã diễn ra về Quân giải phóng miền Nam trong giai đoạn 1961-1965. Cuốn sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập 3 do Viện Lịch sử quân sự biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 cũng dành một số trang viết về Quân giải phóng miền Nam những năm 1961-1965. Cuốn sách Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 của Viện Lịch sử Đảng tuy không đi sâu về Quân giải phóng miền Nam, nhƣng đã giúp tác giả luận văn có cái nhìn khái quát về sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Cuốn sách Biên niên sự kiện lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 cũng giúp tác giả trong nhiều vấn đề về quân sự, chiến lƣợc của Quân giải phóng miền Nam. Sách Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 của Quân khu VII đã cung cấp một số tƣ liệu và nhận định khoa học về cơ quan đầu não của Quân giải phóng miền Nam trên mặt trận B2 để tác giả luận văn kế thừa trong quá trình nghiên cứu. 4
  7. Các cuốn sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975), thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994; Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập 2 (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995… đã miêu tả về Quân giải phóng miền Nam trong giai đoạn 1961-1965 ở nhiều mức độ khác nhau. Các tác phẩm của Lê Duẩn nhƣ Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970; Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985; Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993… đã chỉ rõ tính cấp thiết của việc xây dựng và phát triển lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1960-1965. Tác giả Trần Văn Giàu, nhà sử học Việt Nam, cán bộ lão thành cách mạng, đã nhiều năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam, viết cuốn sách Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2 và tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1965 và 1968. Cuốn sách đã dành nhiều trang viết về viết về quá trình ra đời và phát triển của Quân giải phóng miền Nam từ năm 1961-1965, nêu lên một số tƣ liệu và nhận định có giá trị khoa học định hƣớng cho luận văn. Hầu hết các quân khu và bộ chỉ huy quân sự các tỉnh đều đã xuất bản các cuốn sách về lịch sử lực lƣợng vũ trang nhân dân hay cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc tại địa phƣơng. Tiêu biểu là Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu VII (1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010 của Quân khu VII; Quân khu IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Quân khu IX; Lược sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre, 1993 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre; Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh 5
  8. Đồng Nai (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai; Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Dƣơng; Lịch sử lực lượng vũ trang Bà Rịa - Vũng Tàu (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Lịch sử cuộc kháng chiến quân dân Tiền Giang (1940-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang; Kiến Tường - lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 2008 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Long An; Lực lượng vũ trang An Giang, 30 năm kháng chiến (1945-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang; Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Tháp trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp… đã trình bày khá đầy đủ về Quân giải phóng miền Nam ở từng vùng miền. Tuy nhiên, các tài liệu trên chỉ phản ánh từng mặt, trên phạm vi khu vực, chƣa nói lên tính hệ thống, tính khái quát về Quân giải phóng miền Nam trên toàn chiến trƣờng miền Nam từ năm 1961-1965. Các bài báo khoa học đi sau nghiên cứu vào từng mặt, từng vấn đề của Quân giải phóng miền Nam chủ yếu đƣợc đăng trên các tạp chí Lịch sử quân sự, Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Đảng. Tiêu biểu trong số này có Nguyễn Đình Lê, Vài nét về lực lƣợng vũ trang cách mạng Nam Bộ thời kỳ 1954-1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4 năm 1996; Nguyễn Tƣ Đƣơng, Lực lƣợng vũ trang giáo phái miền Tây Nam Bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5 năm 2001; Trần Long, Làng rừng Cà Mau, một hiện tƣợng “Độc nhất vô nhị”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2 năm 1997; Nguyễn Đình Lê, Nghị quyết 15 với lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 năm 1999; Nguyễn Xuân Năng, Bắc Ruộng - Trận đánh mở đầu phong trào Đồng khởi ở Bình Thuận 6
  9. năm 1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 năm 2003, Võ Cao Lợi, Phong trào giải phóng nông thôn ở Quảng Ngãi, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 năm 2010; Nguyễn Hữu Đạo, Sự ra đời của đoàn vận tải quân sự 559, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 năm 2008; Việt Hồng, Vài nét về đấu tranh vũ trang và lực lƣợng vũ trang ở Nam Bộ trƣớc cuộc “Đồng Khởi” 1959-1960, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 155 năm 1974… Một số luận vặn, luận án cũng đề cập tới lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam giai đoạn 1961-1965 nhƣ Huỳnh Thị Liêm, Phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ (1961-1965), luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận án nghiên cứu về phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lƣợc ở miền Đông Nam bộ trong giai đoạn 1961-1965, qua đó cung cấp những luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng lực lƣợng cách mạng, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trần Thị Thu Hƣơng, Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá "quốc sách" ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1965), luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. Đề tài đã phân tích tính chất gay go, quyết liệt, giằng co lâu dài của cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lƣợc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Hệ thống, khái quát, phân tích những chủ trƣơng, biện pháp, kế hoạch và kế hoạch chỉ đạo tổ chức thực hiện chống phá chính sách đó của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lê Đình Hùng, Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở miền nam từ năm 1961 đến năm 1965, luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2009. 7
  10. Luận văn nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và chiến đấu của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1961-1965. Bùi Thị Trang, Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968, luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận văn nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự chống đế quốc Mỹ ở miền Nam từ năm 1961 đến năm 1968. Nhiều nhà nghiên cứu nƣớc ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam. William Westmoreland - ngƣời trực tiếp chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam viết cuốn Tường trình của một quân nhân, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988. Gabrien Kolko viết cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh do Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 1989 và 1991. Trong 2 tập sách, tác giả đã lý giải về nguồn gốc của chiến tranh; sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và khẳng định một kết cục tất yếu là Mỹ sẽ thất bại ở Việt Nam. Daniel Ellsberg viết cuốn Những bí mật của chiến tranh Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1985. J.Pimlott viết Việt Nam - những trận đánh quyết định, Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trƣờng, Bộ Quốc phòng phát hành năm 1997… Nhìn chung, những công trình ở trên đã đề cập ở những góc độ và mức độ khác nhau liên quan đến Quân giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Kết quả nghiên cứu và những tƣ liệu quý báu của các công trình này là cơ sở để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề Quân giải phóng 8
  11. miền Nam Việt Nam (1961-1965) một cách hệ thống, tổng quát dƣới góc độ Lịch sử Việt Nam. 3. Các nguồn tài liệu Luận văn chủ yếu đƣợc xây dựng trên cơ sở các nguồn tài liệu sau đây: - Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc và Quân đội nhân dân Việt Nam viết về cách mạng giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975). - Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Sử học, Viện Lịch sử Đảng và các công trình lịch sử địa phƣơng - Các tài liệu lƣu trữ liên quan tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc hiện đang lƣu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Trung tâm lƣu trữ Quốc gia II tại thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị và các tỉnh. - Ngoài ra, luận án cũng chú ý nghiên cứu một số sách, báo nƣớc ngoài viết về cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam của đế quốc Mỹ có liên quan tới đề tài. 4. Mục đích, nhiệm vụ luận văn Mục đích: Làm rõ về những hạt nhân ban đầu, sự ra đời và quá trình xây dựng, chiến đấu của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-1965). Từ đó, góp phần tìm hiểu về lực lƣợng vũ trang và quân đội nhân dân trong điều kiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Nhiệm vụ: 9
  12. Phân tích bối cảnh lịch sử, yêu cầu cấp thiết xây dựng lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam Việt Nam từ năm 1954-1960. Phân tích, luận giải về sự ra đời, những bƣớc trƣởng thành trong xây dựng lực lƣợng và chiến đấu của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961-1965. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thông qua phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic và sự kết hợp hai phƣơng pháp này là chủ yếu. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh… để phù hợp với từng nội dung của luận văn. 6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là về quá trình xây dựng, chiến đấu, trƣởng thành của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961-1965, trong đó tập trung vào các khối chủ lực và bộ đội địa phƣơng. Phạm vi nghiên cứu của đề tài nằm trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến năm 1965 trên không gian chiến trƣờng miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, tác giả có mở rộng tìm hiểu về lực lƣợng vũ trang cách mạng của miền Nam từ năm 1954-1960 trƣớc khi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. 7. Đóng góp của luận văn Bằng việc trình bày một cách có hệ thống về Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ 1961-1965, luận văn trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc ra đời của Quân giải phóng miền Nam? Quân giải phóng miền Nam đã lớn mạnh về lực lƣợng và đánh bại chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt của Mỹ, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh cục bộ nhƣ thế nào? 10
  13. Tuy nhiên, do nguồn tài liệu và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chƣa thể mở rộng, đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về các chiến lƣợc, chiến thuật của Quân giải phóng miền Nam. Hy vọng những hạn chế và thiếu sót này đƣợc khắc phục trong những công trình sau của tác giả. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Những đơn vị tiền thân của Quân giải phóng miền Nam (1954- 1960) Chƣơng 2: Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, xây dựng lực lƣợng và bƣớc đầu đánh bại chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt (1961-1963) Chƣơng 3: Quân giải phòng miền Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ về mặt lực lƣợng, đánh bại hoàn toàn chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt (1963-1965) 11
  14. Chương 1 NHỮNG ĐƠN VỊ TIỀN THÂN CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1954-1960) 1.1. Bối cảnh lịch sử và tính cấp thiết của việc xây dựng lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam Tình hình thế giới Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, tác động nhiều mặt đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội đã vƣợt ra khỏi phạm vi một nƣớc, trở thành hệ thống thế giới, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nƣớc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây cũng là thời kỳ mà các dân tộc bị áp bức vùng lên vì độc lập, tự do, phá vỡ và thu hẹp hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội của nhân dân lao động ở các nƣớc tƣ bản cũng phát triển mạnh mẽ, làm cho đế quốc không thể tùy ý quyết định chiến tranh nhƣ trƣớc. Ngoài những thuận lợi, tình hình thế giới cũng đƣa đến nhiều khó khăn đối với cách mạng Việt Nam. Trƣớc hết, nhờ chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ vƣợt lên về sức mạnh vật chất, kỹ thuật, trở thành một siêu cƣờng mới. Tính đến năm 1960, tổng sản phẩm xã hội của nƣớc Mỹ đạt 510 tỷ đôla, hơn Bắc Việt Nam 325 lần, đƣờng bộ gấp 505 lần, sắt thép 225 lần, xuất khẩu 310 lần… [4, 489]. Về quân sự, Mỹ đang có đội quân gồm “2,5 triệu ngƣời, 104 liên đội máy bay, ném bom hạng trung, gần 40 liên đội máy bay hạng nặng, 400 máy bay B52, 1.400 máy bay B57, 110 tàu ngầm…” [126, 14]. Vì vậy, trong cuộc chiến Việt Nam, Mỹ luôn sử dụng 12
  15. các vũ khí hiện đại, tối tân để tăng cƣờng viện trợ cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Để trở thành bá chủ thế giới, trong cuộc “Chiến tranh lạnh”, Mỹ đã tiến hành các chiến lƣợc toàn cầu, tiến công trực tiếp vào phong trào giải phóng dân tộc hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân mới đối với các nƣớc thuộc địa. Mỹ lựa chọn Việt Nam là nơi thực hiện chiến lƣợc này, bởi theo “học thuyết domino”: “nếu Mỹ rút khỏi cuộc xung đột ở miền Nam thì sự sụp đổ không những ở miền Nam Việt Nam mà cả toàn bộ vùng Đông Nam Á” [130, 158]. Mặt khác, sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, một số Đảng Cộng sản ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa có những quan điểm khác với Đảng về con đƣờng cách mạng Việt Nam. Họ muốn giữ nguyên trạng 2 miền Nam và Bắc, không ủng hộ Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh cách mạng. Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, việc thống nhất không phải là một việc trong thời gian ngắn mà phải là một việc “chỉ có thể dùng phƣơng châm thích hợp là trƣờng kỳ mai phục, tích trữ lực lƣợng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ” vì “vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…”. Trung Quốc tích cực giúp đỡ công cuộc xây dựng miền Bắc nhƣng chƣa ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam vì “Dùng lực lƣợng vũ trang để thống nhất nƣớc nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc” [32, 27]. Cũng nhƣ Trung Quốc, Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện các kế hoạch 3 năm 1955-1957 và 1958-1960 ở miền Bắc nhƣng không ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Chủ trƣơng của Liên Xô là giữ nguyên trạng, tập trung xây dựng miền Bắc vững mạnh để đấu tranh chính trị, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua con đƣờng thƣơng lƣợng hòa bình. Âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn 13
  16. Chỉ một ngày sau khi Hiệp định Geneva về Đông Dƣơng đƣợc ký kết, Tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên bố với báo chí rằng: Hoa Kỳ không tham dự vào những quyết định trong hội nghị Geneva và không bị rằng buộc vào những quyết định ấy. Từ đây, Mỹ thực hiện nhiều chƣơng trình, biện pháp để cản trở và phá hoại việc thi hành Hiệp định. Nhằm xây dựng chính quyền thực dân mới vững mạnh, Mỹ tìm mọi cách tiêu diệt các thế lực thân Pháp, xóa bỏ hoàn toàn ảnh hƣởng của Pháp. Ngay từ ngày 16-6-1954, Mỹ đã ép Bảo Đại đƣa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tƣớng, thành lập một nội các mới với nhiều thành phần thân Mỹ. Tháng 10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức “Trƣng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại, đƣa mình lên làm Tổng thống. Tháng 3-1956, dƣới sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn tổ chức tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10-1956, Ngô Đình Diệm ban hành Hiến pháp của nền “Đệ nhất cộng hòa”. Từ tháng 4/1955 - 6/1956, Mỹ - Diệm đã lần lƣợt thanh toán hết lực lƣợng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và tiêu diệt các đảng phái tay chân nhƣ Đại Việt, Quốc Dân Đảng… nhằm loại bỏ tận gốc ảnh hƣởng của Pháp, trừ hậu họa sau này. Để tạo chỗ dựa vững chắc cho chính quyền, tháng 8-1954, Ngô Đình Diệm thành lập Đảng Cần lao nhân vị do em trai (Ngô Đình Nhu) đứng đầu. Đảng đƣợc tổ chức thống nhất từ trên xuống với đảng viên là các viên chức cao cấp nhất của chính quyền, đƣợc coi là nòng cốt của chế độ cả về phƣơng diện chính trị, tinh thần lẫn thực lực lãnh đạo. Bên cạnh đó, từ tháng 10-1954, Ngô Đình Diệm còn tổ chức Phong trào cách mạng quốc gia với các đơn vị thành viên nhƣ Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới… Về quân sự, Mỹ tăng cƣờng cố vấn, chuyên viên kỹ thuật, sau đó lập ra Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn dƣới danh nghĩa Phái đoàn MAAG. Bên cạnh đó, 14
  17. Mỹ còn tổ chức lại hệ thống quân đội Viêt Nam Cộng hòa gồm các sƣ đoàn chủ lực và trung đoàn độc lập địa phƣơng. Từ 10 sƣ đoàn, Mỹ chấn chỉnh còn 7 sƣ đoàn, với quân số duy trì ở mức trên dƣới 150.000 ngƣời. Các cơ quan chỉ đạo chiến lƣợc, chiến thuật, các Bộ Tƣ lệnh binh chủng hải quân, không quân cũng từng bƣớc đƣợc kiện toàn với nhiều sĩ quan đƣợc cử đi học ở các nƣớc tƣ bản Âu - Mỹ [133, 30]. Lính chính quy đƣợc trang bị vũ khí, quần áo và cấp hiệu Mỹ. Hệ thống cố vấn Mỹ đặt từ Bộ Tổng tham mƣu đến các quân khu, sƣ đoàn, trung đoàn, trƣờng huấn luyện, căn cứ quân sự, kho tàng quan trọng và tiểu đoàn giới tuyến, chi phối mọi hoạt động của quân đội Sài Gòn [58, 258]. Về mặt hành chính, Mỹ - Diệm xây dựng một bộ máy cai trị từ Trung ƣơng đến tận thôn, xã. Ở Trung ƣơng, ngoài Quốc hội là cơ quan lập pháp, có Tổng thống và kèm theo đó là Phủ Tổng thống với các bộ chuyên về quốc phòng, nội vụ, kinh tế, tƣ pháp, y tế… Bộ máy kìm kẹp cơ sở gồm có hội đồng hƣơng chính xã, ban đại diện ấp, ủy viên cảnh sát, tổng đoàn, xã đoàn, dân vệ, tổ chức ngũ gia liên bảo, mạng lƣới công an, do thám chìm nổi. Chính quyền Sài Gòn đƣợc xây dựng hoàn bị đến địa phƣơng, tạo điều kiện cho việc bắt tay vào “bình định” miền Nam Việt Nam, trọng tâm là thực hiện chính sách “Tố cộng, diệt cộng”. Ngô Đình Diệm đã tổ chức bộ máy chỉ đạo tố cộng rất chặt chẽ và thống nhất từ trên xuống dƣới. Cao nhất là Hội đồng chỉ đạo chống cộng bao gồm tất cả bộ trƣởng trong Chính phủ do Tổng thống trực tiếp làm Chủ tịch. Dƣới là Ủy ban tố cộng Trung ƣơng với các ban thƣờng trực có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng. Cấp tỉnh, huyện, xã cũng có Ủy ban tố cộng. Để chuẩn bị cho việc tố cộng, chính quyền Sài Gòn thực hiện phân loại dân, chia làm 3 loại với phƣơng châm dựa vào loại C (không liên quan đến cách mạng), 15
  18. đánh vào loại A (cán bộ, đảng viên và ngƣời kháng chiến cũ), làm cho loại B (gia đình có ngƣời đi tập kết hoặc có liên quan tới kháng chiến) khiếp sợ và khuất phục. Sau đó, bắt đầu thực hiện chiến dịch tố cộng [59, 299]. Mở màn chiến dịch tố cộng là hoạt động tuyên truyền trên tất cả các phƣơng tiện thông tin từ truyền thanh, báo chí… nhằm nói xấu Đảng Cộng sản, tô vẽ cho bộ mặt chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tiếp theo, kết hợp quân Sài Gòn với bộ máy kìm kẹp cơ sở gồm bọn chỉ điểm, mật thám, công an… sục sạo vào xã, ấp, nhận mặt từng ngƣời cách mạng. Bên cạnh những biện pháp đàn áp, tù đày, còn có các hoạt động mua chuộc, lừa phỉnh, đánh vào tâm lý, tỉnh cảm và kinh tế, làm cho những phần tử hay dao động ra tự thú, đầu hàng. Ngoài ra, chính quyền Sài gòn còn sử dụng các sƣ đoàn quân đội chính quy kết hợp với các đoàn tố cộng đánh phá các cơ sở cách mạng tại các căn cứ địa kháng chiến cũ nhƣ chiến dịch Thoại Ngọc Hầu từ ngày 20/6/1956 - 24/2/1957 ở đồng bằng sông Cửu Long, chiến dịch Trƣơng Tấn Bửu từ ngày 10/7/1956 - 24/2/1957 tại các tỉnh Đông Nam Bộ hay cuộc hành quân mùa Thu đánh vào miền Tây Nam Bộ lần thứ hai từ ngày 1/10/1957 - 12/1957. Đi đôi với tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm còn ban hành ban hành các chính sách nhằm quản lý nông dân và nông thôn, trong đó “Cải cách điền địa” đƣợc coi là khâu trung tâm. Dù tuyên bố là để tái lập sự công bằng về sở hữu ruộng đất, thực hiện mục tiêu ngƣời cày có ruộng, nhƣng trên thực tế “Cải cách điền địa” chỉ đánh vào một bộ rất nhỏ đại địa chủ và thậm chí nhiều diện tích ruộng đất trƣớc đây đƣợc cách mạng chia cho nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp bị các tầng lớp thống trị chiếm đoạt lại… Từ tháng 4-1957, chính quyền Sài Gòn cho ra đời cái gọi là “Chính sách tái định cƣ và cứu tế dân di cƣ”, bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Các dinh điền 16
  19. đƣợc thiết lập trên các cao nguyên hẻo lánh và xung yếu nhằm mục tiêu xây dựng tuyến phòng thủ từ xa, từng bƣớc bao vây, cô lập cách mạng. Chính Ngô Đình Nhu, em trai Ngô Đình Diệm, đã xác định: “Khu dinh điền là biện pháp xẻ đƣờng đƣa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập” [7, 67]. Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, đến đầu năm 1959, trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn đƣợc 128.374 ngƣời vào 84 khu dinh điền, khai phá 12.322ha đất canh tác [133, 40]. Phần lớn dân chúng bị dồn ép, cƣỡng bức vào các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị o ép mọi bề nơi rừng thiêng, nƣớc độc nên số hộ bỏ trốn ngày càng tăng. Tính cấp thiết của việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva, cách mạng Việt Nam bƣớc sang một giai đoạn mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bƣớc vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, tình hình miền Nam lại có nhiều biến động. Trong kháng chiến chống Pháp, Nam Bộ là vùng du kích mạnh với các căn cứ lớn ở Đồng Tháp Mƣời, U Minh, Tây Ninh… Nam Trung Bộ cũng có vùng tự do rộng lớn tại duyên hải kéo dài từ Quảng Nam đến Phú Yên với trên 2 triệu dân cùng bộ máy chính quyền các cấp hoàn chỉnh và lực lƣợng vũ trang đông đảo [137, 237]. Đến giai đoạn 300 ngày chuyển quân tập kết, cán bộ và chiến sĩ chiến đấu, công tác ở miền Nam phải rời chiến trƣờng ra Bắc. Chính quyền kháng chiến các cấp giải thể, các khu căn cứ và vùng giải phóng rộng lớn phải giao cho đối phƣơng quản lý. Nhìn trong phạm vi cục bộ, cuộc đấu tranh chống với Mĩ - Diệm của đồng bào, đồng chí ở lại miền Nam không còn có những ƣu thế nhƣ đã từng có trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp [82, 11]. 17
  20. Trƣớc sự chuyển biến của tình hình, tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết: “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam lúc này là: “Tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với công tác không hợp pháp. Đối với các tổ chức quần chúng và tổ chức Đảng thì cố tranh thủ cho đƣợc tồn tại hợp pháp và hoạt động hợp pháp. Hình thức đấu tranh kịch liệt (nhƣ khởi nghĩa và chiến tranh du kích) cần đình chỉ ngay, những hình thức nhƣ biểu tình, đình công, bãi khóa, bãi thị… cũng cần sử dụng một cách thận trọng và phải tiến hành trên nguyên tắc có lý, có lợi, có mức, đừng để bọn phản động khiêu khích và tạo cơ hội cho bọn thực dân Pháp phá hoại đình chiến và ngụy quyền khủng bố” [56, 310]. Tin tƣởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, nhân dân miền Nam đã chấp hành nghiêm chỉnh chủ trƣơng chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng. Các mục tiêu và khẩu hiệu đấu tranh cụ thể là đòi đối phƣơng phải trả tù chính trị, thực hiện hiệp thƣơng tổng tuyển cử, thống nhất đất nƣớc nhƣ Hiệp định Geneva đã quy định. Phong trào diễn ra sâu rộng khắp nơi, trong cả thành thị và nông thôn, vùng giải phóng trƣớc kia lẫn vùng địch từng kiểm soát nhƣng sôi động nhất là ở các thành phố lớn với Sài Gòn - Gia Định là trung tâm. Lực lƣợng cách mạng lúc này là lực lƣợng chính trị, bao gồm hàng triệu ngƣời với đủ mọi thành phần, lứa tuổi, đảng phái dân chủ… nhƣng quan trọng nhất là nông dân, công nhân và trí thức. Tuy nhiên, thực tiễn chứng tỏ đấu tranh bằng phƣơng pháp hòa bình là không có hiệu quả do Mỹ - Diệm ngoan cố tiến hành chia cắt đất nƣớc, trắng trợn tuyên bố từ giữa năm 1956 là không thi hành Hiệp định Geneva, không hiệp thƣơng với miền Bắc, không tổng tuyển cử. Trƣớc chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, cách mạng miền Nam gặp vô vàn khó khăn, cơ sở bị tan rã hàng loạt, cán bộ, đảng viên bị bắt, giết, tù đày. Đến cuối năm 1957, ở Khu V, đã có 70% cấp ủy xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên ở các tỉnh đồng bằng đã bị bắt, bị giết, nhiều 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0