intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

120
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trình bày về Phật giáo - tinh thần dân tộc của Myanmar; Phật giáo trong xã hội Myanmar 1824 - 1948; vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Trương Ánh Ngọc VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Trương Ánh Ngọc VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI MYANMAR TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành : Lịch sử Thế giới Mã số : 60 22 03 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ BÍCH LIÊN Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là một công trình nghiên cứu độc lập, những trích dẫn nêu trong luận văn đều chính xác và trung thực. An Giang, tháng 9 năm 2014 Tác giả luận văn Lê Trương Ánh Ngọc
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn này, trước hết tôi xin cảm ơn các thầy cô trường Đại học An Giang, Phòng Quản lý sau Đại học của trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô hướng dẫn khoa học TS Hà Bích Liên cùng tập thể thầy cô khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tận tâm giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Tôi xin chân thành gửi lời tri ân đến cán bộ thư viện Đại học Sư phạm TPHCM, Khoa học tổng hợp TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian của khoá học. An Giang, tháng 9 năm 2014 Tác giả luận văn Lê Trương Ánh Ngọc
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn DẪN LUẬN .................................................................................................................... 1 Chương 1. PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR ............... 8 1.1. Myanmar – vùng đất của Phật ......................................................................................... 8 1.1.1. Vị trí địa lý.................................................................................................. 8 1.1.2. Bức tranh các tộc người.............................................................................. 8 1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar.............................................................................. 13 1.2.1 Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo.............................................. 13 1.2.2 Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI) ..................................................... 14 1.2.3 Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII) ...................................... 15 1.2.4. Phật giáo ở Myanmar (thế kỉ XIII – XVII) .............................................. 19 1.2.5. Phật giáo ở Myanamar (thế kỉ XVII – XIX) ............................................ 21 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 26 Chương 2. PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948... 27 2.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar và những chính sách đối với Phật giáo ................. 27 2.1.1. Thực dân Anh xâm lược Myanmar ......................................................... 27 2.1.2. Những chính sách đối với Phật giáo......................................................... 33 2.2. Sự phát triển của Phật giáo giai đoạn 1824 – 1948 ....................................................... 39 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 45 Chương 3. VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ..................... 46 3.1. Phật giáo trong đấu tranh chống thực dân Anh ............................................................ 49 3.2 . Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho nền độc lập và vai trò lãnh đạo của lực lượng Phật giáo ....................................................................................................................... 56 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 66 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 71 PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
  6. 1 DẪN LUẬN 1. Lý do chọn đề tài Đạo Phật là một trong những hệ tư tưởng cổ xưa nhất trên thế giới, vừa là triết học vừa là tôn giáo. Đó là một hệ tư tưởng bắt nguồn từ quá khứ xa xưa nhưng triết lý của Đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển trong thế giới hiện đại. Nhận xét về vấn đề này, nhà vật lý học thiên tài Enstein đã khẳng định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” [43]. Xét trên nhiều khía cạnh, Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà còn là một ngành khoa học, và có những đóng góp nhất định cho xã hội loài người. Năm 250 BC, một vị hoàng đế vĩ đại Ashoka đã có công trong việc thống nhất Ấn Độ cổ đại và truyền bá tư tưởng Phật giáo trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều thế kỷ sau đó, dưới sự bảo trợ của Ashoka, Phật giáo đã vượt ra khỏi quê hương nó được sinh ra và lan tỏa ra nhiều nơi trên thế giới. Trong quá trình Phật giáo phát triển, Phật giáo một mặt đã có ảnh hưởng đến các nền văn hóa mà nó thâm nhập để truyền bá; mặt khác, nó cũng bị bản địa hóa và phân hóa thành các giáo phái. Có ít nhất 18 giáo phái trong đó có hai phái chính: Theravada Buddhism – Phật giáo Tiểu thừa được phổ biển ở Nam và Đông Nam Á, Mahayana Buddhism – Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Bắc và Đông Á. Chính điều này tạo nên sự sinh động và phong phú trong thế giới Phật giáo đầy màu sắc. Mặc dù không phải là một trong bảy quốc gia có được “Bảy kỳ quan của thế giới Phật giáo” (Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia, Hong Kong, Mỹ), nhưng Myanmar được cả thế giới biết đến như là một vùng đất vàng, một vùng đất của Phật. Là một quốc gia nằm không xa Việt Nam, với hơn 2500 năm Phật giáo Theravada ngự trị, Myanmar thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với những tháp chùa lấp lánh ánh vàng, với những con người chân chất thuần lương; bởi lẽ, Phật giáo là đạo đức cơ bản của xã hội Myanmar từ trong quá khứ cho đến hiện tại.
  7. 2 Năm 1954, Đại hội Phật Đản được tổ chức thành công ở chùa Kaba Aye – Chùa Hòa Bình Thế Giới, nơi họp mặt của 2500 vị đại biểu các quốc gia trên thế giới, tượng trưng cho 2500 đệ tử Phật thời Phật tại thế. Năm 1960, U Nu lãnh đạo khối Phật giáo, đắc cử một cách vẻ vang, thành lập chính phủ dân sự. Tháng 10/1962, ông đưa ra dự thảo đạo luật lấy Phật Giáo làm Quốc giáo. Để trấn an những tôn giáo khác, ông chủ trương tự do tôn giáo, triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Năm 1980, trường Đại Học Phật giáo được thành lập tại Yangon và Mandalay. Xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước Myanmar, Phật giáo nổi bật lên với vai trò là một lực lượng kết nối các thành phần trong xã hội vốn chứa đựng những bất đồng sâu sắc về mặt sắc tộc và tôn giáo. Những thập niên cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế XX (1885 – 1948), là một giai đoạn có nhiều sự biến động trong xã hội Myanmar. Cùng chung số phận với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, Myanmar rơi vào sự thống trị của chủ nghĩa thực dân Anh và sau đó là phát xít Nhật. Dưới ách cai trị và đô hộ của kẻ đi xâm lược, xã hội truyền thống Miến Điện bị thay đổi nhanh chóng bởi sự sụp đổ của chế độ quân chủ và sự tách rời giữa tôn giáo và nhà nước, bản chất kinh tế xã hội bị thay đổi đáng kể, trong đó có sự du nhập Kitô giáo vào Myanmar. Những biến động đó của lịch sử, hiển nhiên có sự tác động đến sự phát triển của Phật giáo Myanmar. Nhưng cho dù thế nào, trong suốt giai đoạn này, Phật giáo vẫn tiếp tục là một nhân tố không thể tách rời trong xã hội Myanmar, Phật giáo – Tăng già đã kết hợp tinh thần Phật giáo với tinh thần dân tộc trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như đã có những đóng góp to lớn trong đời sống xã hội ở Myanmar. Sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là một sự cụ thể hóa về tư tưởng và tính ứng dụng tích cực của đạo đức Phật giáo được Đức Phật khai sinh hơn 2500 năm cách nay, là sự tiếp nối dòng chảy chủ đạo xuyên suốt lịch sử Myanmar và cũng là sức thu hút mãnh liệt nhất của nền văn hóa Myanmar từ quá khứ cho đến hiện tại. Vì lý do đó, đề tài “Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX” là một nội dung quan trọng cần được nghiên cứu.
  8. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nếu như Ấn Độ với những sa mạc khô cằn nhưng luôn thu hút sự quan tâm của thế giới bởi Ấn Độ có một sông Hằng kỳ bí gắn liền với thế giới Ấn giáo đầy màu sắc như bản chất sống động của người Ấn; thì Myanmar – đất nước chùa vàng đã tạo nguồn cảm hứng sâu sắc cho những ai thích tìm hiểu khám phá những gì liên quan đến giá trị truyền thống, niềm tin và đạo đức Phật giáo. Quả đúng như vậy, không bất kỳ nơi đâu trên thế giới này có nhiều chùa tháp được xây cất như ở Myanmar; đấy chính là công sức, là trí tuệ và sự lao động quên mình của con người. Các học giả người Anh, Pháp, Liên Xô… và kể cả Việt Nam đã tập trung nghiên cứu về đất nước Myanmar với nhiều khía cạnh khác nhau đã để lại những công trình vô cùng giá trị. Anh là quốc gia hàng đầu trong việc nghiên cứu về Myanmar. Trung tướng Arthur Purves Phayre (1812 – 1885) là ủy viên cai trị đầu tiên của Anh ở Myanmar. Với nguồn tài liệu thu thập được và cùng với thời gian sinh sống ở Myanmar, Phayre đã cho ra đời “History of Burma including Burma proper, Pegu, Taungu, Tenasserim, and Arakan, London: Teubner & co, Ludgate Hill, 1883” là tác phẩm đầu tiên của người Anh nhưng rất quý giá về lịch sử tổng quan của Miến Điện từ buổi đầu cho đến trước khi thực dân phương Tây đến nô dịch. Một tác giả người Anh khác đã có những nghiên cứu sâu sắc về Myanmar. Đó chính là Daniel George Edward Hall (1891-1979). Ông đã viết khá nhiều về lịch sử Miến Điện, về văn hóa Miến Điện cũng như châu Á. “Lịch sử Đông Nam Á (sách tham khảo), Nxb CTQG HN, 1997”, ở chương 44 – Miến Điện thuộc Anh 1886 - 1942, Hall đã đề cập rất nhiều nội dung liên quan đến chính sách cai trị của Anh đối với Phật giáo, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với chính quyền thực dân ngày càng trở nên sâu sắc. Liên Xô cũ trước đây cũng là một trong nhiều quốc gia có những nghiên cứu có giá trị về Myanmar. Đáng kể là tác phẩm “Miến Điện vào đêm trước sự xâm lược của Anh” của M.G. Cudơluva viết về 100 năm cuối cùng của nhà nước Miến Điện độc lập. Ph. Vaxiliep “Lược sử Miến Điện (1885 - 1948)”. Trong cuốn sách tác giả không chỉ
  9. 4 nêu lên lịch sử hình thành và hành động của chế độ thực dân mà còn đưa ra sự đánh giá rõ ràng về phong trào giải phóng dân tộc diễn ra ở Myanmar. Tác giả Nguyễn Bích Liên trong thời gian làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Miến Điện, đã dày công nhận xét và kê cứu, soạn thành quyển đia phương chí là một tập tài liệu tuy tác giả gọi là giản lược nhưng cũng khá đầy đủ về một nước mà vị trí không xa gì Việt Nam. “Nguyễn Bích Liên, Miến Điện, Nxb Cơ sở Phạm Quang Khai, 1968” là một bức tranh tổng hòa về các mặt kinh tế – chính trị – xã hội – văn hóa ở Myanmar từ buổi bình minh của quốc gia cho đến khi Miến Điện giành độc lập và thi hành chính sách trung lập. Trong suốt công trình nghiên cứu, tác giả đặc biệt đề cập một cách sâu sắc về sự trung lập của Myanmar đối với thế giới. Ở Việt Nam, nhiều nhà sử học lớn cũng nghiên cứu về Myanmar với các tác phẩm tiêu biểu như: Lương Ninh (chủ biên) – Đỗ Thanh Bình – Trần Thị Vinh, Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 2008; PGS.TS Nguyễn Văn Kim, Lịch sử Đông Nam Á, tập 4, Nxb KHXH, 2012; Phan Ngọc Liên (chủ biên) – Nghiêm Đình Vỹ – Đinh Ngọc Bảo – Trần Thị Vinh, Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, 1998. Tuy nhiên đây chỉ là những nghiên cứu một cách tổng quan chung về Đông Nam Á, trong đó có Myanmar. Vũ Quang Thiện được biết đến là một học giả với rất nhiều công trình khám phá chuyên sâu về Myanmar như: Ở xứ chùa vàng (Tìm hiểu văn hóa Miến Điện), Nxb Văn hóa Hà Nội, 1988; Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 1997; Lịch sử Myanmar, Nxb KHXH Hà Nội, 2005. Về mảng đề tài liên quan đến Phật Giáo, có nhiều tác phẩm nghiên cứu được xuất bản rộng rãi ở Myanmar, như: Roger Bischoff, Buddhism in Myanmar – A short history, Buddha Dharma Education Associaion Inc, 1998. Đây là một tóm tắt ngắn gọn nhưng hết sức đầy đủ về sự du nhập, quá trình phát triển và tồn tại của Phật giáo ở Myanmar từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên với những bằng chứng về khảo cổ học và truyền thuyết, cho đến thế kỷ thứ XIX – khi mà Anh đã xác lập hoàn toàn sự thống trị ở Myanmar. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các vị hoàng đế Miến đối với sự nghiệp duy trì và bảo vệ Phật giáo, đây là một đặc điểm nổi bật về Phật giáo ở Myanmar so với các quốc gia Phật giáo trong khu vực và trên thế giới.
  10. 5 Jerrold Schecter, The new face of Buddha – Buddhism and political power in southeast Asia, John Wealtherhill, Tokyo, 1965. Đây là một quyển sách đã được chôn vùi bởi cát bụi và thời gian. Là trưởng phòng cho tờ Time – life nhưng Jerrold Schecrer lại có những nghiên cứu và báo cáo có giá trị về Đông – Đông Nam Á kể cả hai tạp chí Time và Wall Street Journal nổi tiếng. Trong quyển sách với 300 trang viết, Jerrold Schecrer đã khắc họa vai trò sôi động và sức mạnh trong chính trị đương đại của Phật giáo ở các quốc gia Miến Điện – Campuchia – Sri Lanka – Trung Hoa – Nhật Bản – Thái Lan – Nam Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng, chính sách cai trị của phương Tây hoàn toàn thất bại trước sức mạnh chính trị của Phật giáo. Trần Quang Thuận, Phật giáo Miến Điện, Nxb Tôn giáo, 2008. Quyển sách dày 483 trang là một quá trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả về Phật giáo Myanmar. Nội dung sách cung cấp đầy đủ tất cả các vấn đề liên quan đến Phật giáo ở Myanmar, điều đáng quan tâm hơn là tác giả đã dành gần một nửa số trang của tác phẩm để nói đến vai trò của Phật giáo cũng như tổ chức Tăng già – Sangha trong xã hội Myanmar hiện đại. Đây được xem là một nghiên cứu rất đáng trân trọng và cần có về Phật giáo Myanmar. Chiêm Tế, Phương Đông từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917 – 1959) miền Đông Á và Đông Nam Á, Nxb Văn sử địa, 1959. Đây là một quyển sách có giá trị và quý báu cho những ai nghiên cứu về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Đông Á và Đông Nam Á. Từ trang 344 đến trang 362, với cách hành văn đơn giản quyển sách của Chiêm Tế đã cung cấp một cách đầy đủ và rõ ràng về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar nhằm chống lại ách đô hộ của thực dân Anh và phát xít Nhật, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo. Một vị sư có pháp danh là Thích Thái Hòa đã mang đến một nghiên cứu với tên gọi “Miến Điện mặt trời lên” đã nhắc đến vai trò của Phật giáo trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar. Bên cạnh đó, cuốn sách còn liệt kê và miêu tả những địa danh Phật giáo nổi tiếng ở Myanmar như: Yangon, Pegu, Pagan và Inlay. Một số những tác giả chuyên nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á như: Mai Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Quốc gia Hà Nội, 1998; GS.TS Phạm Đức Dương (chủ biên), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á, Nxb Văn hóa thông tin, 2013;
  11. 6 PGS.TS Ngô Văn Lệ, Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam Á, Nxb ĐHQG TPHCM, 2003; đã phác họa về sự ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Myanmar. Như vậy, với phần thống kê trên đây, trong giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có chi tiết, có hệ thống và chuyên biệt về vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Myanmar. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề với hy vọng nghiên cứu một cách có hệ thống trên cơ sở tiếp thu các công trình của những người đi trước để lại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội ở Myanmar, từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. 3.2 Phạm vi nghiên cứu - Thời gian: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. - Không gian: đất nước Myanmar 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá để khái quát lại một cách tốt nhất vấn đề đang nghiên cứu. 5. Đóng góp của đề tài - Góp phần làm rõ hơn sự đóng góp của Phật giáo trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanamr, cũng như sự ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Myanmar trong suốt thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Một mảng đề tài chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống tại Việt Nam. - Hệ thống hóa tư liệu về Phật giáo Myanmar. 6. Mục tiêu của đề tài Qua việc nghiên cứu vai trò của Phật giáo trong xã hội Myanmar và trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Myanmar cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, luận văn hướng đến chứng minh sự khác biệt của Phật giáo Myanmar so với các quốc gia
  12. 7 phương Đông ở chính khía cạnh “nhập thế” tích cực của tôn giáo này trên một quốc gia mà nó du nhập vào. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của khóa luận gồm có ……trang, chia thành 3 chương: Chương 1: PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR. Chương 2: PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI MYANMAR GIAI ĐOẠN 1824 – 1948 Chương 3: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX.
  13. 8 Chương 1. PHẬT GIÁO – TINH THẦN DÂN TỘC CỦA MYANMAR Một sự bình yên bao trùm cả không gian và thời gian, mọi chuyển động dường như trở nên chậm hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới, không vội vã không ồn ào. Đó là cảm nhận của những ai một lần đến với Myanamar – một vùng đất mà giáo lý nhà Phật tưới tẳm từ lâu khiến cho con người trở nên nhân hậu hiền lương. 1.1. Myanmar – vùng đất của Phật 1.1.1. Vị trí địa lý Về mặt địa lý, Myanmar nằm kề sát với Ấn Độ ở phía Tây, nên cư dân nơi đây là những người đầu tiên tiếp nhận các thành tố văn hóa của Ấn Độ. Phía Bắc giáp Trung Quốc, Đông giáp Lào, Đông Nam giáp Thái Lan, Tây Nam giáp biển Andaman và vịnh Bengal ở phía Tây. Myanmar là một đất nước có trường địa lý không thuần nhất, xét trên các phương diện địa hình địa mạo, khí hậu cũng như tính đa dạng sinh học [17, tr.17]. Núi đồi thống trị toàn bộ cảnh quan các vùng biên cương và đặc điểm này tạo thế khép kín của Myanmar trước các nước láng giềng. Các dòng sông chính ở Myanmar là Irrawaddy, Chindwin, Salween và Sittang, trong đó Irrawaddy được xem là huyết mạch của đất nước. 1.1.2. Bức tranh các tộc người Hàng năm vào ngày 12/02, trên các đường phố Yangon diễn ra những cuộc tuần hành rực rỡ. Tất cả các dân tộc và bộ lạc cử đến thủ đô những đại biểu của mình. Trong hàng ngũ của đoàn người tuần hành, người ta dễ dàng nhận ra người Karen qua quần áo dệt màu đỏ, người Môn qua bím tóc đuôi sam của đàn ông, người Palaung với áo khoác sặc sỡ, người Shan quần đen rộng, người Kachin thì lưỡng quyền cao như người Mông Cổ... mỗi tộc người trên đất Miến kết hợp lại thành một bức tranh tộc người đầy màu sắc, rất đa dạng nhưng vẫn thống nhất trong một chỉnh thể chung: dân tộc Myanmar. Người Myanmar là dân tộc yêu tự do và can đảm, có lòng tự hào dân tộc cao. Họ rất hiếu khách, rất tồn cổ và hãnh diện về tinh thần tồn cổ của mình [8, tr.115]. Tuy nhiên họ cũng rất thực tế, vui vẻ và thích trào phúng. Điều đáng chú ý là mỗi tộc người ở Myanmar có sự tương đương về mặt số lượng, trình độ và lịch sử, tạo
  14. 9 nên tính tự trị cao của mỗi tộc người; điều này làm cho vấn đề tộc người ở Myanmar trở nên nổi bật và phức tạp. Dân cư Myanmar bao gồm nhiều sắc tộc khác nhau, họ là những người đầu tiên qua ba cuộc di cư từ Trung Á và Tây Tạng đến định cư tại vùng đất Myanmar. Cuộc di cư đầu tiên đưa đến đây người Môn – Khmer, nhóm di cư thứ hai là người Tạng – Miến, và nhóm thứ ba vào khoảng thế kỷ XIII – XIV là nhóm người Hán – Tháí. Với hơn 135 sắc tộc khác nhau cùng tồn tại, Myanmar được mệnh danh là thiên đường cho các nhà nghiên cứu về dân tộc và ngôn ngữ, trong đó có 8 tộc người chủ yếu. Người Môn là những tàn dư bị cô lập của những cư dân cổ nhất của Miến Điện còn sót lại ở ba khu miền Nam là Thaton – Pegu – Tanitayi [15, tr.11]. Đó là một nhóm dân tộc thiểu số thuộc chủng Mongoloid, xuất phát từ thung lũng sông Dương Tử, họ đã di chuyển vào châu thổ các con sông lớn ở Đông Nam Á như Menam, Irrawaddy. Họ có quan hệ họ hàng với những người Khmer dựa trên điểm tương đồng trong ngôn ngữ và hình dáng bên ngoài, sống ở Hạ Myanmar ngày nay. Trước khi tiến sâu hơn nữa về phía Nam, người Môn sống ở đồng bằng Kyaukse tại Trung Myanmar. Trước thời kỳ Thiên Chúa giáo không xa, họ di chuyển tới hai nơi khác nhau là vùng Hạ Myanmar và vùng đông Salween ở Thái Lan. Người Môn chính là người thầy dạy cho người Miến, cả người dân bình thường lẫn giới cầm quyền, về nghệ thuật - tôn giáo và hành chính. Vô số các từ tiếng Miến sử dụng ngày nay có nguồn gốc là tiếng Môn. Thương gia Ấn Độ cùng các nhà thám hiểm đầu tiên đã đi dọc theo đường biển Bengal tiến vào Suvarnabhumi hay còn gọi là “Vùng đất của những vị thần” [24, tr. 39] đã mang tri thức từ Ấn Độ truyền sang cho người Môn. Vào thế kỷ III BC, hoàng đế Ashoka đã cử hai đại sư sang Myanmar truyền đạo. Người Môn sử dụng tiếng Phạn và tiếng Pali vào thời kỳ muộn hơn so với văn tự tiếng Granthi ở miền Nam Ấn Độ. Sau khi đao Phật suy tàn ở Ấn Độ, người Môn tiếp tục duy trì quan hệ với Sri Lanka nơi mà Phật giáo Tiểu thừa vẫn giữ nguyên địa vị như trong thời đại Ashoka. Một trong mối liên kết Phật giáo Tiểu thừa còn tồn tại đến ít nhất là thế kỷ XI. Vào thiên niên kỷ I, người Môn làm chủ những khu vực rộng lớn ở Đông Nam Á lục địa, một “Thế giới Môn” hình thành bao gồm ba khu vực trên đó thống trị ba
  15. 10 quốc gia hùng mạnh là Haripungaya, Dvaravati ở Thái Lan và Thaton ở Myanmar [17, tr. 67]. Nhưng qua quá trình lịch sử, người Môn bị người Miến đồng hóa nhiều, đã mất dần tiếng nói riêng kể cả trang phục riêng. Tộc người đầu tiên để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Myanmar là tộc người Pyu đến từ Tây Nam Trung Hoa vào khoảng thế kỷ III AD. Những tàn tích của kinh thành Sri Kshetra cách Prome 6 dặm về hướng Đông là dấu vết còn sót lại của nền văn hóa rực rỡ của họ trong khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII. Người Pyu không chỉ theo Hindu giáo mà còn theo Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa. Vào khoảng thế kỷ VII, Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo chủ yếu trong bộ máy chính quyền cũng như trong xã hội của người Pyu. Theo các nguồn tài liệu tiếng Trung, người Pyu sống chủ yếu trong các thành phố lớn được bao xung quanh là những bức tường gạch, họ là những con người thân thiện và hòa bình nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên đôi khi bản chất yêu hòa bình lại trở thành nhược điểm. Chẳng hạn như khi họ từ chối dùng lụa bởi muốn sản xuất ra lụa thì phải hy sinh những con tằm. Tội ác rất ít khi xảy ra và các hình phạt cũng rất nhẹ nhàng chỉ trừ tội giết người. Vua Pyu đặc biệt coi trọng việc truyền bá và nghiên cứu Phật học. Cư dân Pyu đã để lại rất nhiều những công trình kiến trúc tuyệt đẹp nằm ở Prome. Đó là những ngôi chùa cổ có chứa hài cốt của các vị cao tăng xây dựng theo kiểu hình trụ mái vòm, ảnh hưởng của kiến trúc Oriyan từ duyên hải phía Đông Bắc Ấn Độ. Điểm đặc biệt của kiến trúc Pyu là yếu tố vay mượn các sikhara (tháp), từ đó đem lại cho các đền chùa vẻ vững chãi như thể các đền thờ Bhubaneshwa ở Orissa [24, tr. 40]. Người Pyu sau đó bị người Miến hay còn gọi là người Tây Tạng – Burma đánh bại. Đó là tổ tiên của người Miến hiện nay, là một dân tộc đông nhất ở Myanmar, sống tập trung chủ yếu ở những vùng rộng lớn và phì nhiêu của các lưu vực sông Irrawaddy và Sittaung. Họ có đặc điểm nước da hơi đen và cao lớn. Có giả thuyết cho rằng vào thiên niên kỷ III BC, người Miến đã bị những người thuộc bộ tộc Trung Hoa đánh đuổi ra khỏi quê hương của mình ở phía Tây Bắc Trung Hoa thuộc tỉnh Kansu (Cam Túc), qua miền Đông Tây Tạng, từ nơi đó họ đi qua Vân Nam để rồi tới Myanmar ròng rã suốt mấy thế kỉ. Người Miến kể lại rằng họ đã đến đồng bằng Kyaukse nơi gặp gỡ của hai con sông Irrawaddy và Chindwin này vào thế
  16. 11 kỷ II AD. Đồng bằng Kyause, sau đổi thành Ledwin (vùng đất lúa gạo) chính là nền tảng sức mạnh cho đế chế Miến suốt vài thế kỷ. Trước khi đánh chiếm lãnh thổ của người Pyu, người Miến đã tiếp nhận Phật giáo Đại thừa, sau này Phật giáo Đại thừa vẫn chiếm ưu thế trên Thượng Myanmar cho tới giữa thế kỷ XI. Người Miến dựng nên vương quốc của mình bao xung quanh thành phố chính Pagan khoảng năm 849. Theo như các bộ biên niên sử của người Miến kể lại, vương quốc Miến ban đầu gồm 19 ngôi làng, mỗi ngôi làng có môt nat (linh hồn) của riêng mình. Cũng vào năm 849, một vị thủ lĩnh đã họp nhất 19 ngôi làng ấy lại thành một quốc gia mang linh hồn dân tộc chung nhất. Dù cho làn sóng Ấn Độ hóa cùng Phật giáo Tiểu thừa được chọn làm quốc giáo vào thế kỷ XI, tín ngưỡng thờ nat vẫn tiếp tục tồn tại trong tâm trí của những người con của mảnh đất Miến Điện. Người Miến được ngợi ca là những con người mạnh mẽ anh hùng với vị vua vĩ đại nhất của mỗi thời đại – Anawrahta. Ông chính là người đã lập ra đất nướcMiến Điện cổ có lãnh thổ gần giống với đất nước Myanmar ngày nay với đường biên giới trải dài từ Bhamo ở phía Bắc cho tới vịnh Martan ở phía Nam. Đường biên này được thiết lập sau rất nhiều lần chinh phục và hợp nhất với các tộc người bên ngoài bao gồm cả tộc người Môn phồn thịnh ở phương Nam. Tuy nhiên, kẻ đi chinh phục lại chịu khuất phục trước sức mạnh văn hóa vượt lên trên cả bạo quyền của kẻ đi chinh phục [24, tr. 42]. Sau cái chết của vua Anawrahta năm 1077, văn hóa Môn ảnh hưởng lớn tới Pagan trong cả cuộc sống chốn cung đình lẫn nơi thôn dã. Các ngôi chùa ở Pagan đều do các kiến trúc sư và thợ thủ công người Môn xây dựng nên. Chữ viết của người Môn là cơ sở của chữ viết người Miến ra đời sau này, nó cũng trở thành phương tiện truyền bá cho trào lưu Ấn Độ hóa trong văn hóa, luật pháp và văn học. Trong khi người Miến thích thú với vai trò điều hành chính trị thì người Môn lại đảm trách lĩnh vực thông thương buôn bán với thế giới bên ngoài Myanmar [24, tr. 41]. Người Môn và người Miến có mối quan hệ thân thiết và giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng bờ cõi cũng như góp nhặt nhiều yếu tố để tạo nên bản sắc riêng của văn hóa Myanmar, tuy vậy giữa họ vẫn có những bất đồng sâu sắc. Người Shan sống chủ yếu ở phía Đông của Myanmar, có đặc điểm cao lớn với nước da sáng là họ hàng gần với người Thái – Lào – Campuchia và Việt Nam. Có thể
  17. 12 chia người Shan thành 3 nhóm chính: người Shan chính gốc (Moshan), người Hán – Shan, người Miến - Shan. Những người Shan ở miền Bắc sống tiếp cận với người Miến, Kachin… đã hỗn hợp với các dân tộc đó ở một mức độ rõ rệt và hiện nay họ đã rất khác với những đồng tộc của họ trong bang Shan. Đa phần người Shan làm nông nghiệp, nghề thủ công khá phát triển, họ sống tập trung trong các thung lũng ven sông và những vùng chảo biệt lập trên cao nguyên Shan. Người Karen là sắc tộc lớn thứ hai, sống trong các vùng rừng núi bao la dọc biên giới Thái Lan – Myanmar, rải rác từ miền Bắc cho đến tận miền Nam của đất nước. Vùng cư trú của người Karen ở miền Bắc chạy dọc xuống cho tới hồ Inlay, còn ở miền Nam thì chạy dọc xuống đến eo đất Kera. Một điểm tập trung nữa của người Karen là đồng bằng châu thổ Irrawaddy. Ở mỗi miền họ nói một phương ngữ khác nhau, khác nhau về phong tục, tập quán. Nghề chính của người Karen là nông nghiệp và làm rừng. Thủ công nghiệp gia đình phát triển (gốm và dệt). Họ theo Phật giáo, một số ít theo Thiên chúa giáo. Người Chin sống chủ yếu ở vùng núi Arakan, có quan hệ thân thuộc với người Miến hơn cả. Do bị tách ra và chia thành những bộ phận nhỏ từ lâu, nên người Chin đã khác người Miến về phong tục, tập quán, tôn giáo và nhiều đặc điểm khác trong sinh hoạt. Họ gồm nhiều bộ phận với những phương ngữ khác nhau. Nguồn sống chính là nông nghiệp, canh tác theo lối làm rẫy và du canh, nghề đan lát và dệt thủ công cũng phát triển. Người Chin theo vật linh giáo. Người Kachin chủ yếu sống ở vùng núi thượng lưu sông Chindwin và Irrawddy. Từ khoảng giữa thế kỷ trước, họ bắt đầu di cư nhiều về phía Bắc bang Shan và các miền Bamo và Cato của người Miến. Một bộ phận người Kachin sống lan sang tỉnh Vân Nam của Trung Quốc và Atsam của Ấn Độ. Người Kachin sống chủ yếu bằng làm rẫy, du canh, trồng lúa và ngô. Họ sử dụng ngôn ngữ Tạng – Miến. Những người sống ở phía Đông theo đạo Phật, còn những người sống ở phía Tây theo vật linh giáo. Người Kayah (Karen đỏ, Kareni) sống tại bang Kayah, phía Nam bang Shan [4, tr. 61 - 62]. Họ thường được biết đến với cái tên “người cổ dài”.
  18. 13 Với hơn 100 sắc tộc cùng tồn tại, có nguồn gốc xuất xứ nguyên thủy đa dạng, khác biệt về lối sống, thiết chế chính trị, các mối quan hệ hình thái kinh tế, sắc thái văn hóa; nhưng trong quá trình chung sống gần gũi, thông qua các mối quan hệ trao đổi kinh tế – văn hóa – hôn nhân đã đưa đến một hệ quả là nhiều tộc người không còn bảo lưu toàn bộ các đặc tính nguyên thủy, một số bộ tộc bị “vỡ” thành nhiều “mảnh” nhỏ tách biệt nhau, nhiều nhánh đã trở nên xa lạ với nhau, thậm chí không hiểu được tiếng nói của nhau. Chính vì lẽ đó, bức tranh tộc người ở Myanmar ngày càng trở nên phức tạp và nhiều màu sắc. 1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Myanmar 1.2.1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo Phật giáo đã truyền đến Hạ Miến vào thời vua Ashoka, ba thế kỷ trước công nguyên [18, tr. 98], nhưng các bằng chứng khảo cổ học ở Hạ Miến lại không chứng minh điều này. Bia đá V và XIII của vua Ashoka có ghi danh sách các nước vua Ashoka gởi chư tăng đến hoằng truyền chánh pháp mà không đề cập đến Hạ Miến, nhưng sử liệu Tích Lan lại ghi đầy đủ chi tiết tên các nước phái đoàn đến hoằng hóa chánh pháp. Hai bộ sử Dipavamsa (Tiểu sử) và Mahavamsa (Đại sử) của Tích Lan đã đề cập đến sự kiện này và được các nhà học giả phương Tây chấp nhận. Theo Sasam – vamsa, là một biên niên sử tiếng Phạn được viết bởi Tỳ kheo Panasami cho rằng: Đức Phật đã đến Thaton và Shwesettan và để lại hình ảnh của mình để thờ phượng – bàn chân Đức Phật ở sông Nammada gần với núi Saccabandha. Bàn chân khác còn lại trong đá của núi Saccabandha. Những dấu chân Đức Phật vẫn còn nhìn thấy cho đến ngày hôm nay đã được người Môn – Pyu và những vị vua Myanmar thờ cúng và bảo tồn trong những nơi linh thiêng nhất của quốc gia. Một sự kiện quan trọng khác là sự xuất hiện các di vật tóc trong Yangon ngay sau khi Đức Phật giác ngộ: tám sợi tóc của Phật đã cho hai thương nhân Tapussa và Bhallika, trong đó ba sợi được cất giữ trong bảo tháp nay là chùa Shwedagon – chùa vàng Shwedagon. Cuốn sách “The Myanmar oral traditional” cho rằng Đức Phật đã có bốn chuyến du hành đến Myanmar. Mỗi chuyến có một ý nghĩa khác nhau và mỗi nơi Phật đến là những địa điểm hành hương nổi tiếng ngày nay ở Myanmar.
  19. 14 Thế kỷ III, theo Nagarjunakonda các Tỳ kheo ở Nam Ấn Độ đã đến vùng đất Likatas – vương quốc của người Môn ở vùng Hạ Myanmar. Dựa trên phát hiện khảo cổ học với một đèn dầu La Mã và một bức tượng Phật có niên đại I hoặc II AD [26, tr. 16 – 21]. Theo sử liệu Trung Hoa, Linyang – vương quốc Prome là nơi tất cả người dân đều tôn kính Đức Phật và là nơi hàng ngàn Tỳ kheo và tu sĩ sinh sống. Như vậy, trong buổi bình minh của Phật giáo Myanmar, việc xác định thời gian chính xác về sự du nhập của Phật giáo vào quốc gia này vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy, sau quá trình thâm nhập, Phật giáo đã thích nghi, tồn tại và phát triển một cách vững vàng ở vùng Hạ Myanmar vào các thế kỷ V – XI trong các vương quốc Môn và Pyu. 1.2.2. Phật giáo ở Hạ Miến (từ thế kỉ V – XI) Nhiều bia ký viết bằng tiếng Pali tìm thấy tại Hmawza, trong đó có hai bia vàng đều khắc dòng chữ Pali, bắt đầu với câu Ye dhamma-hetuppabhava - Vạn pháp tùy duyên, đã cho thấy Phật giáo Nam Tông bắt đầu bành trướng ở Hạ Miến vào thế kỷ thứ VI [18, tr. 101]. Một tập sách dày 20 trang chữ Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba ở Nam Ấn, trên vàng lá, tìm thấy gần Hmawza cho chúng ta hai dự kiện: thứ nhất, Phật giáo Nam Tông đã phát triển ở Hạ Miến vì chữ Pali khá phổ biến; thứ hai, chữ Pali viết bằng mẫu tự Andhra Kadamba của Nam Ấn chứng tỏ mối liên hệ văn hóa và tôn giáo khá chặt chẽ giữa Nam Ấn Độ và Miến Điện. Vào các thế kỷ V - VI, Kancipuram – Negapatam và Kaveripattam ở Nam Ấn Độ là những trung tâm Phật giáo Nam Tông quan trọng, bằng chứng là Buddhagosa, một nhà sư thông thái, đạo hạnh đã xuất hiện tại vùng đất này. Nhà sư này đã có hoạt động hoằng hóa khá sôi nổi tại Sri Lanka và Miến Điện. Sau một thời gian lưu trú tại Sri Lanka, ngài hoàn tất công tác phiên dịch luận, sớ tiếng Sri Lanka ra tiếng Pali, ngài trở về Miến Điện, mang theo cuốn văn phạm Pali của Kaccayana và bộ luật Manu. Ngài dịch cuốn văn phạm Pali tiếng Sri Lanka ra tiếng Miến Điện, giới thiệu bộ luật Manu cho độc giả Miến Điện, biên soạn bộ sách nói về ngạn ngữ Miến Điện. Có thể nói, Buddhagosa là người có công truyền bá và phát triển Phật giáo Nam Tông tại Miến Điện và giáo phái này đã thịnh hành ở đây vào thế kỷ VI.
  20. 15 Theo hồi ký của Đại sư Nghĩa Tịnh (I-sting), dân xứ Shil-li Chatalo tức là Prome hay Hạ Miến, rất sùng kính Tam bảo và tại đây có 4 giáo phái Phật giáo, phái Àyamahàsanghika, Àryasthavira-vàda, Àryamùla-sarvàstivàda và Àryasammitiya. Khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, Tăng già phân hóa bị phân chia làm hai phe, một phe cho Phật luật quá nghiêm khắc muốn thay đổi, phe khác không đồng ý muốn giữ nguyên. Phái bảo thủ có danh hiệu Sthavira-vàda (Trưởng Lão Bộ) hay Theravàda (Thượng Tọa Bộ), còn phái chủ trương cải cách tên là Mahàsanghika (Đại Chúng Bộ) [18, tr. 103]. Phái Sarvastivàda là một nhánh của Theravàda, về sau phân chia thành các chi phái nhỏ hơn và danh xưng Sarvastivàda được đổi thành Mùlasarvastivàda. Phật giáo thịnh hành ở Prome vào thế kỷ VII - VIII. Vương quốc Pyu có 18 chư hầu ở Nam Miến và thủ phủ là Shil-li Chatalo, dân chúng trong thành đều theo đạo Phật với hơn 100 ngôi chùa được xây dựng. Nhiều tác phẩm điêu khắc được khai quật tại Prome diễn tả Đức Phật ngồi trên tòa sen, trong tư thế Bhùmisparasamudra, tay trái cầm bình bát, chung quanh có 4 hình tượng dâng cúng phẩm vật cho Phật đã chứng minh Phật giáo thịnh hành ở vương quốc này [18, tr. 105]. Như vậy, từ thế kỷ V đến thế ky X, Phật giáo Nam Tông tồn tại và phát triển rực rỡ ở Prome; nhưng đến thế kỷ XI, sắc dân Thái ở Namchao (Nam Chiếu), lúc bấy giờ đã chiếm cứ vùng Tây và Tây Bắc Vân Nam, bị áp lực người Hán dồn ép, tràn xuống miền Nam, tiến chiếm Pyu vào năm 832. Lịch sử Phật giáo Miến Điện bước sang một giai đoạn mới: đó là sự xâm chiếm của Phật giáo Nam Tông từ Thaton vào Thượng Miến – Pagan. Cả hai nền văn hóa Phật giáo ở Myanmar, Môn và Pyu bị xóa bỏ vào thế kỷ XI bởi đội quân xâm lược của người Miến, họ đã thành lập một lực lượng lãnh đạo thống nhất, là người sáng lập Pagan và Anawrahta là một vị vua vĩ đại trong Phật giáo. 1.2.3. Phật giáo Tiểu thừa đến Pagan (thế kỉ XI - XIII) Pagan được cho là do những nông dân Myanmar xây dựng vào những năm 849- 850 tại vùng Kyauksai gần Mandalay. Vua Anawrahta bắt đầu hợp nhất khu vực bằng cách chinh phục những thủ lĩnh khác và đã thành công trong việc đưa Myanmar trở thành một quốc gia, cộng đồng rộng lớn. Sự kiện quan trọng trong lịch sử Myanmar
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2