Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
lượt xem 6
download
Luận án nêu lên những thay đổi trong xã hội Việt Nam từ gia đình tới lối sống, sinh hoạt văn hoá của tầng lớp tiểu tư sản thành thị nói chung và của phụ nữ đô thị nói riêng dưới tác động của chính sách cai trị của Pháp và ảnh hưởng của sự tiếp xúc văn hoá Đông- Tây. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THỊ VÂN CHI VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẶNG THỊ VÂN CHI VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại Mã số : 62 22 54 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Đỗ Quang Hưng HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ---------------------------------------------------------------------- 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề------------------------------------------------------------ 3 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu-----------------------------------------------------8 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu----------------------------------------- 10 5. Đóng góp của luận án----------------------------------------------------------------- 12 6. Bố cục luận án-------------------------------------------------------------------------13 Chƣơng 1: BỐI CẢNH XUẤT HIỆN “VẤN ĐỀ PHỤ NỮ” TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM 1.1. Vai trò và địa vị phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống --------------------- 14 1.1.1. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến vai trò và địa vị phụ nữ Việt Nam trong lịch sử --------------------------------------------------------- 14 1.1.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với địa vị phụ nữ Việt Nam --------------------- 16 1.2. Những điều kiện mới của “vấn đề phụ nữ” ------------------------------------------- 20 1.2.1. Tình hình xã hội ---------------------------------------------------------------------- 20 1.2.2. Ảnh hưởng của tình hình thế giới và sự xuất hiện của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây ở Việt Nam --------------------------------------------------- 25 1.2.3. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới ---- 27 1.3. Tình hình phụ nữ Việt Nam và sự xuất hiện "vấn đề phụ nữ" trong xã hội ---------- 34 1.3.1. Tình hình phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa ----------------------------- 34 1.3.2. Sự xuất hiện “vấn đề phụ nữ “ trong xã hội -------------------------------------- 37 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1------------------------------------------------------------------------------------------------ .--------40 CHÚ THÍCH CHƢƠNG 1 ----------------------------------------------------------------------------- 42 Chƣơng 2: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1929 2.1. Vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX và sự ra đời của tờ báo phụ nữ đầu tiên bằng tiếng Việt ở Việt Nam- báo Nữ giới chung năm 1918 ------------------------ 43 2.1.1.Tình hình báo chí và bối cảnh chung ---------------------------------------------- 43 2.1.2. Sự xuất hiện “ vấn đề phụ nữ” trên báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX ------- 45 2.1.3. Báo Nữ giới chung và sự tự nhận thức của phụ nữ về những vấn đề của mình ---------------------------------------------------------------------------------- 56 2.2. Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất đến năm 1929 ------------------------------------------------------------------------ 62 2.2.1. Bối cảnh bùng nổ các “diễn đàn phụ nữ “ trên báo chí sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất ---------------------------------------------------------------- 62 2.2.2. Vấn đề vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội-------------------------------- 67 2.2.3. Vấn đề nữ quyền và bình đẳng nam nữ-------------------------------------------72 2.2.4. Bình đẳng về giáo dục và hôn nhân tự do- giải pháp cho vấn đề phụ nữ----- 77
- 2.3. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề phụ nữ trên báo Thanh niên và báo Thân ái --------------------------------------------------------------------------------- 84 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 --------------------------------------------------------------------------------------89 CHÚ THÍCH CHƢƠNG 2 ----------------------------------------------------------------------------- 92 Chƣơng 3: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TỪ NĂM 1929 ĐẾN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 3.1. Ảnh hƣởng của phong trào phụ nữ trên thế thế giới và bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá trong nƣớc ------------------------------------------------- 93 3.1.1. Thuyết nữ quyền mác- xit và phong trào phụ nữ thế giới ---------------------- 93 3.1.2. Các chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá của Pháp và hệ quả của nó ------- 97 3.1.3. Đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam -------------------- 100 3.2. Sự ra đời của tờ Phụ nữ tân văn và sự phát triển của dòng báo phụ nữ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ----------------------------------------------------- 104 3.2.1. Báo Phụ nữ tân văn và quan điểm của giới trí thức đương thời về vấn đề phụ nữ----------------------------------------------------------------------------------104 3.2.2. Sự phát triển của dòng báo phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 --- 114 3.3.Vấn đề phụ nữ trên báo chí hợp pháp --------------------------------------------------- 127 3.3.1. Ảnh hưởng của khuynh hướng vận động nữ quyền tư sản --------------------- 127 3.3.2. Vấn đề giải phóng phụ nữ 133 3.3.3. Vấn đề phụ nữ với văn học và nghệ thuật---------------------------------------------143 3.3.4. Vấn đề mãi dâm --------------------------------------------------------------------- 146 3.3.5. Ảnh hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản trên báo chí hợp pháp ------------------------------------------------------------------------- 151 3.3.6. Những khuynh hướng mới của vấn đề phụ nữ trong thời kì Chiến tranh Thế giới thứ hai ---------------------------------------------------------------------- 156 3.4.Vấn đề phụ nữ trên báo chí cách mạng ------------------------------------------------- 163 3.4.1. Vấn đề tuyên truyền và vận động phụ nữ tham gia cách mạng --------------- 163 3.4.2. Vấn đề tổ chức và hướng dẫn phụ nữ đấu tranh trong thời kì vận động dân chủ 1936-1939 ------------------------------------------------------------------ 166 3.4.3. Vấn đề vận động phụ nữ tham gia phong trào giải phóng dân tộc trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám 1945 ------------------------------------- 174 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3---------------------------------------------------------------------------------------180 CHÚ THÍCH CHƢƠNG 3 ----------------------------------------------------------------------------- 183 KẾT LUẬN --------------------------------------------------------------------------------------- 188 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN --------------------------------------------------------------------------------- 199 TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ------------------------------------------------ 201
- MỤC LỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ 1. Bảng số 1 : Tỷ lệ công nhân nữ trang 35 2. Bảng số 2 : Tỷ lệ công nhân nữ ở nhà máy dệt Nam Định trang 35 3. Bảng số 3 : Tỷ lệ tiền công giữa nam và nữ trang 35 4. Bảng số 4 : Tỷ lệ tiền lương giáo viên nam so với lương giáo viên nữ trang 37 5. Bảng số 5 : Tóm tắt mục đích tôn chỉ của các tờ nữ báo trang 116
- 1. Tên báo viết tắt sử dụng trong luận án. - NCMĐ : Nông cổ mín đàm - ĐCTB: Đăng cổ tùng báo - ĐDTC: Đông Dương tạp chí - TBTV: Trung Bắc tân văn - NP: Nam phong - NGC: Nữ giới chung - CL: Công luận - TNDB: Thực nghiệp dân báo - KHNB: Khai hoá Nhật báo - HT: Hữu thanh - ĐPTB: Đông Pháp thời báo - THNB: Trung Hoà nhật báo - TDB Tân dân báo - TL: Trung lập - ĐP: Đông Pháp - ANTC: An Nam tạp chí - VM: Văn minh - TD: Tiếng dân - TC: Thần chung - HTNB Hà thành ngọ báo - PNTV: Phụ nữ tân văn - PNTĐ: Phụ nữ thời đàm - TB: Thời báo - PH: Phong hoá - ĐTTC: Đông Thanh tạp chí
- - PNTT: Phụ nữ tân tiến - ZB: Zân báo - HCTV: Hoàn cầu tân văn - ĐBM: Đàn bà mới - TT: Tân thời - TA: Tràng An - VB: Việt báo - DH: Dân hiệp - VN: Việt nữ (1937) - PN: Phụ nữ - ĐB: Đàn bà - TBCN: Trung Bắc chủ nhật - HP: Hạnh phúc - NKTB: Nam Kỳ tuần báo - VNĐL Việt Nam độc lập - GP Giải phóng - DC Dân chúng - CQ Cứu quốc 2.Tên tổ chức viết tắt: - HVNCMTN: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - TVCMĐ : Tân Việt cách mạng Đảng - ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương - TLVĐ : Tự lực văn đoàn
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Giá trị lý luận Với tư cách là một nửa xã hội, phụ nữ ở bất cứ đâu và trong bất cứ thời đại nào cũng có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của lịch sử nhân loại. Phụ nữ không chỉ là một lực lượng lao động xã hội quan trọng, mà còn giữ chức năng sản sinh ra con người, những người có vai trò to lớn trong việc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, tương lai của loài người. Chính vì thế, khi nói về phụ nữ, các nhà thơ, nhà văn trên khắp thế giới đều dùng những ngôn từ, những ý thơ hay nhất để viết về họ. Ngạn ngữ cổ Trung Hoa cho rằng “phụ nữ nâng nửa bầu trời”... Với Goethe- đại thi hào người Đức, thì “đàn bà bất tử”, còn với Mácxim Gocki - đại văn hào Nga- lại khẳng định: “Không có người mẹ, nhà thơ, anh hùng đều không có”. Phụ nữ Việt Nam trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt đã có những đóng góp vô cùng to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và phát triển văn hoá, nhưng trải qua thời kì phong kiến lâu dài, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, họ chưa được đánh giá đúng, cũng như chưa được hưởng quyền lợi tương xứng với những đóng góp của họ. Từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, dưới ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp, phụ nữ là những người chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhất. Do đó, giải phóng phụ nữ là một yêu cầu bức thiết có tính thời đại gắn liền với giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói phụ nữ là nói một nửa xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng loài người, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [72, tr15]. Nhưng vấn đề giải phóng phụ nữ và quyền bình đẳng nam nữ ở Việt Nam được đặt ra từ khi nào? Như một hệ quả của quá trình tiếp xúc văn hoá Đông-Tây, cùng với sự du nhập những tư tưởng dân chủ tư sản từ bên ngoài, sự xuất hiện và có vai trò ngày càng lớn của tầng lớp tiểu tư sản thành thị vào những năm đầu thế kỷ XX, trong xã hội Việt Nam đã dần dần xuất hiện “vấn đề phụ nữ” bên cạnh các vấn đề xã hội 1
- khác. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí xuất hiện và cùng với sự xuất hiện của báo chí, vấn đề phụ nữ được nêu lên với những tư tưởng mới như bình đẳng nam nữ, nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ, vấn đề vận động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Đảng quan tâm hàng đầu. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng Tám thành công đã chứng tỏ đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, trong đó việc giải quyết vấn đề phụ nữ là một nhân tố quan trọng. Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề phụ nữ không chỉ có ý nghĩa quan trọng góp phần nghiên cứu lịch sử phụ nữ - một bộ phận của lịch sử dân tộc, mà còn làm sáng tỏ sự phát triển quá trình nhận thức về vai trò và vị trí của phụ nữ trong xã hội nói chung, cũng như sự tự nhận thức của chính bản thân phụ nữ về các vấn đề của giới mình. Trong điều kiện xã hội Việt Nam, báo chí là lĩnh vực thể hiện rõ sự thay đổi trong quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ, phản ánh quan điểm của tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản, đồng thời cũng phản ánh cuộc sống sinh hoạt của phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu quá trình nhận thức vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa làm phong phú thêm mảng lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kì cận đại. 1.2. Giá trị thực tiễn Hiện nay, mặc dù hầu hết các quyền cơ bản của phụ nữ đã được quy định trong hiến pháp và pháp luật, nhưng các quy định pháp luật về cấm phân biệt đối xử với phụ nữ, hay tuyên bố về bình đẳng nam nữ tự chúng không đem lại sự biến đổi vai trò của phụ nữ trong xã hội. Bản dự thảo Luật bình đẳng giới dù đã được sửa chữa đến chín lần, vẫn còn nhiều điểm chưa đi đến sự nhất trí và tiếp tục được thảo luận, sửa chữa. Điều này cho thấy, nhận thức về quyền bình đẳng vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thị Vân Anh - Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, thì từ những cuộc thảo luận về thế nào là bình đẳng nam nữ thời kì đầu những năm 1930 của thế kỷ XX đến nay, mặc dù đã hơn 70 năm, nhưng “rõ ràng 2
- là chưa đủ để hình thành những giá trị và quy tắc văn hoá mới một cách bền vững, có tác động tích cực đến việc thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ” [7, tr59]. Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 27/4/2007 về Công tác phụ nữ trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đánh giá: “nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu đời” là nguyên nhân chủ yếu của những thách thức trong quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới của Đảng ta. Do đó, nghiên cứu vấn đề phụ nữ trên báo chí không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có giá trị thực tiễn góp phần vào việc đẩy mạnh tiến trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. Trên những ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài luận án Tiến sĩ sử học của mình . 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Những nghiên cứu chung về phụ nữ Cùng với sự phát triển của “nền văn hoá in ấn” và sự hình thành “vấn đề phụ nữ”, trong xã hội Việt Nam trước năm 1945 xuất hiện ngày càng nhiều những ấn phẩm viết về phụ nữ. Trong những công trình nghiên cứu về phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trước hết phải kể đến những bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên báo Người cùng khổ, trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Thanh niên từ những năm 1920. Những bài viết về Nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ, Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp... của Nguyễn Ái Quốc thời kì này đã cho thấy tình cảnh bị áp bức, bóc lột và chà đạp nhân phẩm của phụ nữ ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Trong các bài viết này, Người bước đầu gắn việc vận động giải phóng phụ nữ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Năm 1928, trước tình hình vấn đề phụ nữ đang ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội và hình thành nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề bình đẳng nam 3
- nữ, Đặng Văn Bẩy xuất bản cuốn Nam nữ bình quyền tại Sài Gòn khẳng định vấn đề nam nữ bình quyền là “hợp với đạo trời và đạo người”. Tác giả ủng hộ việc đề xuất nam nữ bình quyền bởi trong gia đình Việt Nam, phụ nữ vẫn phải chịu thân phận “chồng chúa, vợ tôi”. Theo tác giả: cần phải đẩy mạnh việc giáo dục phụ nữ, cần nhận thức lại quan niệm về chữ trinh và ủng hộ hôn nhân tự do, đạo vợ chồng cần phải như thế nào... Năm 1929, Duy Tân thư xã ở Huế xuất bản cuốn Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu. Trong cuốn sách này, Phan Bội Châu đã lý giải nguyên nhân lịch sử dẫn đến việc phụ nữ bị coi thường, bị coi là một loại hàng hoá. Ông cũng phê phán phụ nữ Việt Nam hiện nay còn nhiều người thờ ơ với vận mệnh đất nước, gắn khái niệm nữ quyền với tư tưởng dân quyền và đưa ra đề nghị thành lập các tổ chức phụ nữ, liên kết các hoạt động của phụ nữ nhằm đẩy mạnh phong trào vận động phụ nữ. Từ sau năm 1930, trên báo chí công khai đương thời, cũng như các báo phụ nữ chuyên biệt bắt đầu xuất hiện các bài nghiên cứu về địa vị của phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống. Các bài nghiên cứu này chủ yếu khảo sát qua tục ngữ, ca dao cổ và luật pháp thời phong kiến. Có thể kể tên một số tác giả như Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hải Trân, Đỗ Thiện, Hoàng Ngọc Phách... Nhìn chung, các tác giả đều thấy được vai trò và đóng góp của phụ nữ Việt Nam, cũng như những thiệt thòi của họ trong xã hội. Năm 1932, Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc xuất bản cuốn Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt. Sau khi khảo sát địa vị phụ nữ trong các xã hội cổ đại phương Tây (Hy Lạp, La Mã) và phương Đông (Trung Quốc và Ấn Độ), các tác giả giới thiệu tình hình phụ nữ ở châu Âu hiện nay và phân tích địa vị phụ nữ Việt Nam. Đối với phụ nữ Việt Nam, theo các tác giả, mặc dù do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa mà “con trai có vẻ được trọng vọng hơn”, nhưng nếu xét về phong tục và luật pháp thì địa vị của phụ nữ Việt Nam không đến nỗi thấp kém lắm. Hai ông khẳng định: “dân An Nam không phải là dân bạc đãi đàn bà”. Cuốn sách cũng đề cập đến tất cả những vấn đề đang được thảo luận sôi nổi trên báo chí như: vấn đề hôn nhân, giáo dục phụ nữ, phụ nữ chức nghiệp... 4
- Quan điểm của các tác giả về vấn đề hôn nhân là làm sao đáp ứng được quyền lợi của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Các tác giả ủng hộ việc giáo dục phụ nữ, phụ nữ thể thao, nhưng phản đối phụ nữ chức nghiệp vì cho rằng đàn bà ra ngoài làm việc “kiểu gì cũng có hại”. Kết luận của hai tác giả là người nô lệ có thể trở thành người tự do, còn phụ nữ dù có quyền lực đến đâu thì bao giờ cũng chỉ là phụ nữ. Năm 1938, trong điều kiện phong trào đòi dân chủ phát triển mạnh mẽ, thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về công tác vận động phụ nữ, Cựu Kim Sơn và Văn Huệ viết hai tập sách Đời chị em và Chị em phải làm gì đã phân tích kỹ tình cảnh của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, đặt vấn đề “tại sao phải giải phóng phụ nữ Đông Dương” và vạch ra con đường giải phóng phụ nữ Đông Dương: Đó là cuộc vận động phụ nữ ở Đông Dương phải trở thành một bộ phận của phong trào đấu tranh chung của dân tộc. Trong bối cảnh của cao trào vận động dân chủ những năm 1936 -1939, các tác giả đã đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh, hướng dẫn thành lập các tổ chức phụ nữ và phương pháp hành động, giới thiệu phụ nữ Xô Viết, phê phán quan điểm của Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc trong cuốn Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam chỉ nhìn thấy cuộc vận động nữ quyền tư sản, bảo vệ gia đình tư sản... Cũng trong năm 1938, Nguyễn Thị Kim Anh viết cuốn Vấn đề phụ nữ, giới thiệu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội loài người, đấu tranh với quan niệm hô hào nữ quyền một cách hời hợt, hướng dẫn phong trào phụ nữ, giới thiệu về Cách mạng tháng Mười Nga và phụ nữ Xô Viết... Có thể thấy rằng những công trình trên phản ánh sự hình thành những khuynh hướng khác nhau về nhận thức vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam . Như vậy, cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giới trí thức bắt đầu nghiên cứu lịch sử phụ nữ Việt Nam, khảo sát tình trạng phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, xã hội thuộc địa, giới thiệu các quan điểm và học thuyết về phụ nữ của các nhà tư tưởng nước ngoài... Đặc biệt, vấn đề vai trò và địa vị phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, phụ nữ có vai trò gì trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới đã được nêu ra và thảo luận sôi nổi trên báo chí. 5
- Từ sau năm 1954, đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ nữ trong lịch sử cũng như khả năng đóng góp của phụ nữ trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến nghiên cứu, giáo dục và vận động phụ nữ. Nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin và các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước ta viết về vấn đề phụ nữ và giải phóng phụ nữ được xuất bản làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ. Đến những năm 1970, một số công trình nghiên cứu công phu và toàn diện về những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã ra đời như: Truyền thống phụ nữ Việt Nam (1972) của Trần Quốc Vượng, Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (1973) của Lê Thị Nhâm Tuyết. Các công trình này đã đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, nêu bật những cống hiến to lớn của phụ nữ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau năm 1975, đặc biệt từ cuối những năm 1980 trở lại đây, Trung tâm nghiên cứu phụ nữ (sau thành Viện nghiên cứu Gia đình và giới) và tập san Khoa học về phụ nữ (từ tháng 9/2006 đổi tên thành tạp chí Nghiên cứu Gia đình và giới) đã tập hợp được nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhiều bộ lịch sử phong trào phụ nữ như Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam (1981) do Nguyễn Thị Thập chủ biên và các cuốn Lịch sử phong trào phụ nữ ở các địa phương được biên soạn đã cung cấp những hiểu biết và tư liệu về phong trào phụ nữ trong cả nước cũng như đóng góp của họ trong sự nghiệp cách mạng. Những công trình tìm hiểu và giới thiệu về những đóng góp của phụ nữ trong lĩnh vực văn học, báo chí và nghệ thuật cũng lần lượt được xuất bản… Nhìn chung lại, có thể thấy hầu hết các công trình nghiên cứu về phụ nữ là những công trình nghiên cứu về lịch sử phong trào phụ nữ, những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, những nghiên cứu điều tra xã hội học về thực trạng đời sống của phụ nữ hiện nay. 2.2. Những nghiên cứu về “Vấn đề phụ nữ” thời kì cận đại qua tư liệu báo chí 6
- Trước hết phải kể đến bài viết của David Marr The 1920s women’s rights debates in Vietnam (Cuộc thảo luận về nữ quyền ở Việt Nam trong những năm 1920) trên Journal of Asian Studies số 35 năm 1976. Bài viết này sau được bổ sung và đưa vào chương 5 “Women questions” (Những vấn đề phụ nữ) trong cuốn Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong thử thách 1920-1945). Đặt trong bối cảnh chung về những “thay đổi cơ bản về chính trị và ý thức xã hội trong bộ phận dân chúng” ở Việt Nam những năm 1920 -1945 mà ông cho là “dù không phải có tính quyết định tất yếu thì ít nhất cũng là tiền đề cho cuộc vận động quần chúng và chiến lược chiến tranh nhân dân từ 1945 trở đi” [238, tr2], tác giả đã nhận thấy nổi bật lên “vấn đề phụ nữ”. Theo ông, ngay từ những năm 1920, vấn đề phụ nữ đã nhanh chóng trở thành “trung tâm điểm mà các cuộc thảo luận khác thường xoay quanh nó”. Cũng trong chương này, tác giả đã chú ý đến các quan niệm truyền thống về vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Ông cho rằng “những học giả và quan lại Việt Nam tất cả đều là đàn ông được giáo dục và rèn luyện trong một chế độ áp bức rõ ràng đối với phụ nữ Việt Nam. Mặc dù sự áp bức này khác nhau tuỳ theo từng giai cấp, nhưng tất cả phụ nữ đều chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó” [238, tr199], và đó là lý do đầu thế kỷ XX phụ nữ bắt đầu lên tiếng phản kháng. Ông cũng quan tâm tới sự ra đời của các tờ báo Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Hội nữ công của bà Đạm Phương ở Huế, chủ nghĩa Mác và vấn đề phụ nữ, cũng như sự bùng nổ của các cuốn sách và cẩm nang cho phụ nữ... Năm 1995, chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell ở Mỹ xuất bản tập Essays into Vietnamese pasts (Những bài tiểu luận về Việt Nam xưa) trong đó có bài: Printing and power: Vietnamese Debates over Women’s Place in Society, 1918-1934 (Ấn phẩm và quyền lực: Các cuộc thảo luận ở Việt Nam xung quanh vấn đề vị trí của người phụ nữ trong xã hội 1918-1934) của Shawn Mc Hale. Bài báo đã phân tích ảnh hưởng của báo chí và sách trong thời gian đầu thế kỷ XX đối với nhận thức của phụ nữ về vấn đề nam nữ bình quyền, cũng như ý 7
- nghĩa của cuộc thảo luận trên hai tờ báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn về vị trí của phụ nữ trong xã hội. Có thể nói, đây là hai công trình nghiên cứu hiếm hoi của học giả nước ngoài có liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Các tác giả cũng đồng thời là những người đầu tiên đặt “vấn đề phụ nữ” trong bối cảnh những thay đổi về kinh tế, xã hội và văn hoá ở Việt Nam thời kì cận đại. Tuy nhiên, hai công trình này chủ yếu mới chỉ khảo sát hai tờ báo phụ nữ là báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn, trong khi hầu hết các báo xuất bản ở Việt Nam thời kì này đều có nhiều bài viết về phụ nữ. Đặc biệt là sự xuất hiện của dòng báo phụ nữ, cũng như ảnh hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam tới cuộc thảo luận trên báo chí thì chưa được khai thác bao nhiêu. Năm 1997, chúng tôi đã hoàn thành bản Luận văn thạc sỹ với đề tài “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước và sau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất” (Qua trường hợp các tờ Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam phong, Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn). Bản luận văn đưa ra những nhận định cơ bản về việc hình thành “vấn đề phụ nữ” và những nhận thức ban đầu về vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Kết quả của luận văn đã khuyến khích chúng tôi tiếp tục đi sâu vào đề tài này với phạm vi và đối tượng khảo sát rộng hơn, nhằm dựng lại quá trình nhận thức của phụ nữ và của xã hội về vấn đề phụ nữ trong thời kì cận đại. Cuộc Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội năm 1998 có nhiều bài nghiên cứu về phụ nữ, trong đó có một số bài đáng lưu ý liên quan đến vấn đề này như: Quan điểm của một số người có tên tuổi về vị trí của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm 1930 của Phan Thị Minh Lệ, Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thị Vân Chi... Bằng cách tiếp cận tư liệu báo chí và ấn phẩm, các tác giả đã bước đầu giới thiệu quan niệm của giới trí thức Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX về vai trò của phụ nữ, về nữ quyền và giải phóng phụ nữ . 8
- Như vậy, mặc dù cũng đã có một số tác giả ở cả trong và ngoài nước nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ trong một giai đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XX đến 1945, nhất là khảo sát qua tư liệu báo chí - một mảng tư liệu cực kỳ quan trọng phản ánh vấn đề này. Do đó, việc nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” là một việc làm cần thiết và đòi hỏi chúng tôi phải đi sâu một cách nghiêm túc và độc lập. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Do nhu cầu của cuộc sống, cũng như xu thế phát triển chung của loài người, đấu tranh cho quyền con người và quyền bình đẳng nam nữ là biểu hiện của một xã hội văn minh và tiến bộ. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về đóng góp của phụ nữ trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước có khá nhiều, nhưng những nghiên cứu về quá trình nhận thức của xã hội, cũng như của phụ nữ về các vấn đề phụ nữ trong thời kì đầu thế kỷ XX cho tới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thì hầu như chưa có ai nghiên cứu. Hơn thế, theo chúng tôi, đây lại chính là điểm quan trọng để tạo nên những thay đổi căn bản trong hành động của phụ nữ vì quyền lợi của bản thân họ. Như mọi người đều thống nhất rằng: phụ nữ muốn được giải phóng, trước hết họ phải tự giải phóng mình, cuộc đấu tranh đòi nữ quyền và giải phóng phụ nữ phải xuất phát từ nhận thức của bản thân phụ nữ. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của chúng tôi là tìm hiểu “vấn đề phụ nữ” ở Việt Nam đã hình thành như thế nào trong một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, quá trình nhận thức của phụ nữ về các vấn đề của mình qua báo chí tiếng Việt xuất bản ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cũng qua tư liệu báo chí, chúng tôi muốn góp phần tìm hiểu những thay đổi trong đời sống của phụ nữ, phong trào phụ nữ và những đóng góp của phụ nữ đối với cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc. Phụ nữ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Không những thế, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX cho đến Cách 9
- mạng tháng Tám năm 1945, phụ nữ ngày càng trở thành một lực lượng quan trọng trên tất cả mọi lĩnh vực: văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị. Vì vậy, những vấn đề liên quan đến phụ nữ được đăng tải trên cả báo chí tiếng Pháp lẫn tiếng Việt là hết sức phong phú. Do đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều khía cạnh của cuộc sống, được phản ánh trên một khối lượng khổng lồ các báo xuất bản bằng tiếng Việt trong khoảng thời gian gần một nửa thế kỷ, trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ, chúng tôi không có tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề đặt ra liên quan tới phụ nữ. Với mục tiêu làm sáng tỏ quá trình nhận thức của phụ nữ, cũng như của xã hội về những vấn đề như vai trò, địa vị của phụ nữ trong xã hội, vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ..., chúng tôi giới hạn nghiên cứu và khảo sát của mình qua các bài báo có tính chính luận đề cập tới quan niệm, nhận thức về vấn đề phụ nữ và một số tin tức có liên quan tới đời sống phụ nữ... Đối với các sáng tác văn học, chúng tôi chỉ khai thác một số tác phẩm được coi là những sáng tác tiêu biểu theo khuynh hướng vận động giải phóng phụ nữ của nhóm Tự lực văn đoàn, còn các tác phẩm khác, chúng tôi chưa có điều kiện quan tâm. Do báo chí tiếng Việt về cơ bản mới hình thành vào đầu thế kỷ XX, nên về mặt thời gian, chúng tôi chỉ giới hạn mốc cuối là năm 1945 với nhận thức từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử Việt Nam đã bước sang một trang mới. Đó là sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 công nhận quyền bình đẳng nam nữ là kết quả của một quá trình nhận thức và đấu tranh của phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cũng từ năm 1945, về mặt pháp lý, phụ nữ Việt Nam đã đặt được những viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng một xã hội mới thật sự dân chủ và bình đẳng, mặc dù để mục tiêu dân chủ này trở thành hiện thực còn là một quá trình đấu tranh lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của phụ nữ mà của toàn xã hội. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 10
- Trong quá trình thực hiện đề tài, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin, Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ nữ, cũng như những nghiên cứu về lịch sử phong trào nữ quyền thế giới là cơ sở lý luận, là phương pháp luận để chúng tôi xem xét vấn đề. Các sách nghiên cứu, các công trình chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước là những gợi ý giúp chúng tôi có thể tham khảo, tổng kết lại vấn đề phụ nữ trong lịch sử, để từ đó có thể nhận thức rõ hơn thực chất, cũng như quá trình chuyển biến nhận thức về vấn đề phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phụ nữ, còn có các công trình nghiên cứu về báo chí, văn học, văn hoá, tác giả, tác phẩm của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về phụ nữ, nhưng những công trình này cũng cung cấp tư liệu tham khảo quan trọng giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều mặt về tình hình sinh hoạt báo chí, đời sống của phụ nữ, tình hình văn hoá xã hội trong thời kì này. Ví dụ như các hồi ký của các nhà văn, nhà báo tiêu biểu như Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng, Chúng tôi làm báo của Nguyễn Văn Trấn, Hồi ký Tô Hoài, Hồi ký Trần Huy Liệu, Hồi ký Thanh Nghị, hồi ký của bà Trần Thị Như Mân..., hoặc hồi ký của các nữ văn sĩ Anh Thơ, Tùng Long..., hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Thị Lựu, Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, Tôn Thị Quế, Đường Thị Ân, Trương Thị Mỹ... Với đề tài “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, nguồn tư liệu chính của chúng tôi là toàn bộ báo chí tiếng Việt từ khi xuất hiện đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, do tình hình lưu trữ tư liệu có nhiều hạn chế, nhiều tờ báo không còn được lưu trữ tại các thư viện, nhiều tờ báo chỉ còn lưu trữ được một số năm, do đó chúng tôi chỉ có thể khai thác được những tờ báo hiện còn lưu trữ trong các thư viện của Việt Nam. Một điều rất may mắn là một số tờ báo phụ nữ quan trọng vẫn còn lưu trữ được khá đầy đủ như tờ Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà mới...; và ở bất cứ giai đoạn nào cũng có một số tờ báo quan trọng còn được lưu 11
- giữ. Mặc dù không khảo sát được toàn bộ các tờ báo với đầy đủ các số báo, nhưng với 102 tờ báo gồm hàng ngàn trang báo về phụ nữ trên đủ các loại tuần báo, nhật báo, báo tin tức thời sự thông thường, báo chuyên biệt... trong đó có hơn mười tờ báo phụ nữ, chúng tôi hy vọng có thể dựng lại một cách khách quan quá trình nhận thức của xã hội cũng như của phụ nữ về các vấn đề của phụ nữ. Với tư cách là một nguồn sử liệu, báo chí có mặt mạnh là phản ánh khá toàn diện các sự kiện lịch sử vào đúng thời điểm sự kiện xảy ra, đồng thời thể hiện được tính phong phú, đa dạng và phức tạp trong cách đánh giá các sự kiện của xã hội đương thời đối với các sự kiện. Không những thế báo chí còn cung cấp thông tin nhiều mặt của cuộc sống. Đặc biệt, để phản ánh nhận thức, quan điểm của cá nhân hay một tầng lớp xã hội về các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá tư tưởng thì báo chí là một nguồn tư liệu trực tiếp đáng tin cậy. Với đối tượng nghiên cứu là “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, chúng tôi phải vận dụng phương pháp liên ngành: Nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu giới và nghiên cứu báo chí. Đó là khi khai thác tư liệu báo chí, chúng tôi luôn đặt nó trong mối quan hệ lịch đại và đồng đại, kết hợp với phương pháp tiếp cận xã hội học để nghiên cứu giới phụ nữ trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ đó rút ra được những nhận xét khách quan sát với thực tế lịch sử. Để làm rõ nội dung của vấn đề phụ nữ được nêu trên báo chí, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp phân tích, mô tả và so sánh các quan điểm phản ánh nội dung của vấn đề phụ nữ dưới các dạng thông tin khác nhau trong cùng một tờ báo như xã luận, tin tức, các mục như tạp trở, văn uyển, chuyện cười... hàm chứa quan điểm của tác giả hay của chính bản thân tờ báo. Việc phân tích, so sánh nội dung được phản ánh trong cùng một chủ đề trên các tờ báo khác nhau hoặc ở các giai đoạn khác nhau cũng giúp chúng tôi thấy rõ khuynh hướng tư tưởng của một tờ báo, một dòng báo và sự phát triển trong quá trình nhận thức vấn đề phụ nữ gắn với các giai đoạn 12
- lịch sử quan trọng, cũng như tác động của các sự kiện chính trị đối với nhận thức về vấn đề phụ nữ. Trong trường hợp các báo còn được lưu giữ đầy đủ trong một khoảng thời gian nhất định, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để nhận diện khuynh hướng tư tưởng của tờ báo qua nội dung của các bài báo như trường hợp các tờ Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam phong... Vì báo chí phản ánh thông tin nhiều chiều và thể hiện nhận thức chủ quan của tác giả, nên bên cạnh việc khai thác nội dung thông tin phản ánh trên mặt báo, chúng tôi còn chú ý đến những thông tin đằng sau mặt báo là hoàn cảnh của tác giả, điều kiện chính trị, xã hội mà tờ báo chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, tài liệu báo chí được khai thác tồn tại trong thời gian gần nửa thế kỷ với những giai đoạn phát triển khác nhau trên tất cả các mặt văn hoá, chính trị và xã hội, vì vậy tùy từng giai đoạn và với những tờ báo cụ thể, chúng tôi sử dụng linh hoạt các phương pháp trên nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất nguồn tư liệu, từ đó có cái nhìn toàn diện, khách quan và cụ thể, phản ánh trung thực thực chất, cũng như ý nghĩa của vấn đề phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. 5. Đóng góp của luận án Là công trình đầu tiên nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận án có những đóng góp cụ thể sau: Làm rõ quá trình hình thành cũng như thực chất của vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của Pháp những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; Vạch ra được quá trình nhận thức của phụ nữ nói riêng và của xã hội nói chung về vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là quá trình nhận thức từ thấp tới cao những khái niệm dân chủ tư sản về vấn đề phụ nữ như nữ quyền và giải phóng phụ nữ. - Cũng lần đầu tiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng giữa khuynh hướng nữ quyền mác-xit với khuynh hướng nữ quyền tư sản được luận án khảo sát và trình bày cụ thể, từ đó làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc vận 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 199 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 197 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 17 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn