intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

383
lượt xem
60
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam nêu khái quát quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam, yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH THÀNH PHÚ CHUNG YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH THÀNH PHÚ CHUNG YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 602254 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 201
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Thành Phú Chung
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng gởi lời biết ơn đến: - TS. Trần Thị Thanh Thanh – người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. - Ban giám hiệu, Phòng quản lý sau đại học, Khoa Lịch sử và các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. - Sở GD & ĐT tỉnh Ninh Thuận, Ban giám hiệu cùng các thầy cô giáo trường THPT Phạm Văn Đồng, tỉnh Ninh Thuận. - Bạn bè và gia đình đã quan tâm giúp đỡ, đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011 Tác giả Thành Phú Chung
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... 1 1T 1T LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................... 2 1T T 1 MỤC LỤC ................................................................................................................................ 1 1T T 1 MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 3 1T T 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................................................. 3 1T 1T 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ..................................................................... 4 1T T 1 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU ..................................................................... 5 1T T 1 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................................................................. 8 1T 1T 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ......................................................................................................................... 9 1T 1T CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO ..................10 1T T 1 CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM ........................................................................10 1T T 1 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂMPA ..................................................................................... 10 1T T 1 1.2. QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA DÂN TỘC VIỆT NAM 1T THỐNG NHẤT .......................................................................................................................................... 16 1T 1.3. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ THỐNG NHẤT CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC 1T TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM ................................................................................................................. 22 1T CHƯƠNG 2: YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM .....31 1T T 1 2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM. ................................. 31 1T T 1 2.1.1 Khái niệm vùng văn hóa ................................................................................................................ 31 T 1 1T 2.1.2. Đặc điểm về tự nhiên và quá trình hình thành vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam ........................... 33 T 1 T 1 2.1.3. Đặc điểm văn hóa vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam .................................................................... 35 T 1 T 1 2.2. YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM ............................................. 37 1T T 1 2.2.1. Yếu tố kiến trúc, điêu khắc Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam.................................... 37 T 1 T 1
  6. 2.2.2. Yếu tố Chăm biểu hiện qua phong tục tập quán, tín ngưỡng trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt T 1 Nam. ...................................................................................................................................................... 50 T 1 2.2.3. Yếu tố Chăm biểu hiện qua nghệ thuật biểu diễn dân gian trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. T 1 T 1 ............................................................................................................................................................... 63 2.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ CHĂM ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ 1T VIỆT NAM ................................................................................................................................................. 71 T 1 CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA VĂN HÓA CHĂM ...................76 1T T 1 TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM ..................................................................................76 1T T 1 3.1. GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC CỦA VĂN HÓA CHĂM TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM ........................ 76 1T T 1 3.1.1. Giá trị văn hóa đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm trong nền văn hóa Việt Nam..... 76 T 1 T 1 3.1.2. Giá trị văn hóa đặc sắc về phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống kinh tế của người T 1 Chăm trong nền văn hóa Việt Nam ......................................................................................................... 78 1T 3.1.3. Giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội Chăm trong nền văn hóa Việt Nam............................................ 82 T 1 T 1 3.2. ĐÓNG GÓP CỦA VĂN HÓA CHĂM TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM.................................... 87 1T T 1 3.2.1. Đóng góp của các di tích văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam ........................................... 87 T 1 T 1 3.2.2. Đóng góp các làng nghề thủ công truyền thống của người Chăm trong nền văn hóa Việt Nam ...... 90 T 1 T 1 3.3. VĂN HÓA CHĂM – MỘT TÀI SẢN VĂN HÓA QUÝ GIÁ CỦA NƯỚC VIỆT NAM ...................... 97 1T T 1 KẾT LUẬN ...........................................................................................................................101 1T T 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................105 1T 1T PHỤ LỤC ..............................................................................................................................109 1T T 1
  7. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trải qua tiến trình lịch sử đã hình thành nên quốc gia – dân tộc Việt Nam thống nhất, một nền văn hóa Việt Nam thống nhất được hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã có những tiếp biến các thành tựu văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và sau này là văn hóa Phương Tây. Văn hóa Việt Nam định hình trong quá trình lịch sử lâu dài tạo nên các vùng văn hóa có những đặc trưng khác nhau, như vùng văn hóa Bắc bộ, vùng văn hóa Trung bộ, vùng văn hóa Tây Nguyên và vùng văn hóa Nam bộ… Những đặc trưng văn hóa khác nhau giữa các vùng được hình thành do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành và quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt Nam. Trải qua nhiều biến động lịch sử, do những nguyên nhân và mối quan hệ đối nội – đối ngoại, vương quốc Chămpa xưa đã trở thành một phần lãnh thổ của nước Việt Nam ngày nay. Người Chăm đã từng xây dựng một quốc gia phát triển, một nền văn hóa độc đáo mà dấu tích còn lại đến nay như những kiến trúc đền tháp, những tòa thành cổ, những cảng thị...với những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới là thánh địa Mỹ Sơn của vùng Amaravati, tháp Pô Nagar của vùng Kauthara, tháp Pô Klongrai, tháp Pô Rôme của vùng Panduranga… Đó là những dấu tích văn hóa đặc sắc, thể hiện tài hoa và trí tuệ của người Chăm. Cùng với di sản văn hóa vật thể, người Chăm còn có nhiều di sản văn hóa phi vật thể, được bảo tồn, gìn giữ lâu đời và góp phần hòa nhập vào di sản văn hóa phi vật thể của người Việt vùng ven biển miền Trung, từ đó hình thành những sắc thái riêng, làm nên những giá trị độc đáo cho nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam như: tín ngưỡng thờ mẹ Xứ Sở (Pô Nagar), tục thờ cúng Cá Ông, kỹ thuật chế biến đường, kỹ thuật làm bờ xe nước, kỹ thuật đi biển buôn bán và đánh bắt cá biển, cách chế biến món ăn đặc sắc như cơm hến, mắm nhum, cháo chua…, và cùng với các lễ hội, âm nhạc, ca múa…Những nét đặc sắc này làm nên yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Người Chăm một dân tộc thành phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có bề dày văn hóa đồ sộ và lâu đời, ngày nay sống rải rác ở các tỉnh miền Trung cho đến miền Tây Nam bộ nước ta, trong đó tập trung đông nhất là ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong quá trình định cư và phát triển của mình, người Chăm vẫn luôn gìn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống
  8. tốt đẹp như các nghề thủ công truyền thống, chữ viết, sử thi, các lễ hội cổ truyền, các làn điệu dân ca, điệu múa… và các mối quan hệ giao lưu thân thiết với người Việt trong quan hệ của đời sống xã hội. Các công trình kiến trúc tháp Chăm ngày nay vẫn được tiếp tục trùng tu tôn tạo, các tác phẩm điêu khắc, bia ký, cổ vật và các sản phẩm thủ công truyền thống…là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được các nghệ nhân Chăm thổi hồn làm nên phong cách Chăm và đó cũng là những giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm. Hiện nay trong nghiên cứu và nhận thức lịch sử văn hóa dân tộc, việc nghiên cứu yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam có thể góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam, từ đó phát hiện bổ sung những giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm làm cơ sở đề ra những biện pháp để giữ gìn và bảo tồn. Ngoài ra, việc nghiên cứu yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam cũng phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam hội nhập với thế giới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Qua đó, văn hóa các của dân tộc Việt Nam có thêm điều kiện giao lưu, tiếp xúc với văn hóa bên ngoài và góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú, phù hợp với quy luật phát triển của văn hóa Việt Nam thống nhất. Với nhận thức như trên, người viết luận văn chọn vấn đề “YẾU TỐ CHĂM TRONG VÙNG VĂN HÓA TRUNG BỘ VIỆT NAM” làm đề tài luận văn thạc sĩ, nhằm thực hiện ước muốn đóng góp một phần công sức của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn văn hóa Chăm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng văn hóa Việt Nam đa dạng thống nhất, bền vững và phát triển. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Như tên đề tài chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Vấn đề này được tiếp cận qua các thông tin sách báo, tạp chí, tư liệu thực tế, những di tích lịch sử - văn hóa, các làng nghề thủ công truyền thống, các phong tục tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ, âm nhạc….của dân tộc Chăm. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định không gian nghiên cứu là vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, bao gồm các cộng đồng ven biển miền Trung.
  9. Lịch sử Việt Nam là một tiến trình liên tục trải qua nhiều thời kỳ lịch sử nên giới hạn về thời gian nghiên cứu của luận văn thuộc toàn bộ tiến trình lịch sử, trong đó tập trung vào thời kỳ từ khi nước Việt Nam thống nhất. Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu vào nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam, bao gồm tiến trình giao lưu, hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong các lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, các phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn… và những giá trị đặc sắc, cùng với những đóng góp của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU Từ xưa đến nay, văn hóa Chăm đã được biết qua ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa, trong những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học phương Tây và trong những chuyên khảo của các nhà nghiên cứu Việt Nam. Mặc dù vậy, văn hóa Chăm vẫn còn là đề tài hấp dẫn, còn nhiều bí ẩn, nhiều lĩnh vực của văn hóa Chăm chưa được khám phá đang cần được tiếp tục nghiên cứu, nhất là yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Văn hóa Chăm trong thư tịch cổ Trung Hoa đã có những ghi chép ban đầu về dân cư và vương quốc Chămpa. Những tư liệu về Chămpa của Trung Quốc ghi lại chủ yếu trong Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử v.v ... Các nhà nghiên cứu đều dựa vào những sử liệu này để dựng lại lịch sử Chămpa. Nhưng những sử liệu nói trên chủ yếu nói về việc triều cống, giao tranh, hòa hiếu giữa Chămpa và một số quốc gia trong khu vực thời bấy giờ. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, một số công trình nghiên cứu về lịch sử Chămpa qua các văn bản cổ được các nhà khoa học phương Tây quan tâm nhiều hơn, nhất là vấn đề ngôn ngữ và văn tự Chăm. Nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX, việc nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và các di tích Chăm mới được quan tâm. Đáng chú ý là tác giả L. Finot với công trình thống kê các danh mục kiến trúc Chăm (1901); L. Cadiere và H. Parmentier cũng có nhiều bài viết quan trọng đề cập di tích và các vấn đề khảo cổ Chăm khu vực Miền Trung.
  10. Từ sau năm 1975, văn hóa Chăm ngày càng thu hút nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu và kết quả đạt được cũng đáng trân trọng. Các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu Việt Nam được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí như: Dân tộc học, Xã hội học, Khảo cổ học, Văn hóa dân gian… đó là nguồn tư liệu phong phú để người viết luận văn tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. Văn hóa Chăm thường được đề cập trong một số công trình chuyên khảo như: Trong cuốn Tháp Bà thiên Yana hành trình của một nữ thần của Ngô Văn Doanh do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2009, có đề cập đến những nét độc đáo của kiến trúc Tháp Bà Nha Trang. Những vẻ đẹp lung linh tỏa sáng trong tất cả những lễ thức cầu cúng, những biểu tượng thờ phụng, những lễ hội dân gian và những tập tục tín ngưỡng của người dân xứ biển Khánh Hòa nói riêng và Nam Trung Bộ nói chung. Trên cơ sở tư liệu gia tộc do cụ Bố Thuận để lại, tác giả Bố Xuân Hổ (con trai cụ trí thức người Chăm Bố Thuận) cho ra đời cuốn sách Truyền thuyết về các tháp Chăm trên miền đất cực Nam Trung Bộ do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận xuất bản năm 1995. Tác giả cuốn sách đề cập một cách ngắn gọn về các tháp cổ của người Chăm ở Ninh Thuận và các tháp khác ở Nha Trang (Khánh Hòa), Phan Thiết (Bình Thuận). Tác giả Trần Ngọc Thêm với cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục (1999), đã dành một phần trình bày những nét cơ bản về văn hoá Chăm. Trần Quốc Vượng (chủ biên), trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, do NXB Giáo dục xuất bản năm 2009. Ở đây tác giả trình bày những nét cơ bản nhất về các vùng văn hóa ở Việt Nam, ngoài ra tác giả cũng dành một phần trình bày về văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa. Trương Văn Món - Sakaya với “Lễ hội của người Chăm”, cũng là những công trình nghiên cứu có chiều sâu về văn hoá xã hội, nghệ thuật của người Chăm vùng Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài ra, vấn đề liên quan đến yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, còn có nhiều tài liệu khác đề cập: Phan Xuân Biên (Văn hóa Chăm, 1991); Lê Ngọc Canh (Nghệ thuật múa Chăm, 1978); Ngô Văn Doanh ( Văn hóa Chămpa, 1994); Inrasara ( Các vấn đề văn hóa xã hội Chăm, 1999);
  11. Văn Món ( Lễ hội Katê người Chăm, 2000; Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bầu Trúc, 2001); Trần Kỳ Phương ( Điêu khắc Chăm ở bảo tàng Đà Nẵng, 1987); Nguyễn Quân – Phan Cẩm Thượng (Mỹ thuật ở làng, 1991); Trương Hữu Quýnh (Đại cương Lịch sử Việt Nam, 2001); Trần Văn Khê (Văn hóa với âm nhạc dân tộc, 2000); Nguyễn Minh San ( Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, 1998); Trần Ngọc Thêm ( Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, 1997); Nguyễn Hữu Thông (Tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Trung Việt Nam, 2001); Đặng Nghiêm Vạn ( Dân tộc học đại cương, 2000); Nguyễn Phúc Luân ( Ngoại giao Việt Nam, 2004); Tạ Chí Đại Trường ( Thần Người và Đất Việt, 2006)… Những bài viết được đăng trên các tạp chí như Nguyễn Chí Bền, Nhìn lại tình hình sưu tầm nghiên cứu lễ hội ở Việt Nam, tạp chí VHNT, Số 2 / 1999; Nguyễn Tứ Hải, Lễ cầu ngư ở Khánh Hòa, Tạp chí VHNT, Số/ 1997; Vũ Ngọc Khánh, Vài suy nghĩ về tôn giáo và diễn xướng dân gian ở nước ta, Tạp chí VHNT, Số 3 / 1982; Văn Món (Sakaya), Văn hóa dân gian Chăm với vấn đề phát triển du lịch, Tạp chí VHNT, Số 9/2001; Chu Quang Trứ, Lễ hội và tâm linh của người Việt, Tạp chí VHDG, Số 1/1997; Trần Quốc Vượng, Từ một cái nhìn thánh địa Mỹ Sơn, Tạp chí VHNT, Số 7/1998; Tạp chí Đông Nam Á, Số 2 (11)/1993 (chuyên đề về văn hóa Chăm)…..cũng là nguồn tư liệu bổ sung và làm phong phú thêm cho việc nghiên cứu đề tài. Song song với nghiên cứu các tư liệu sách, báo, tạp chí tác giả luận văn còn kết hợp tham khảo nguồn thông tin từ Internet, công tác điền dã (đi tham quan thực tế) trong quá trình thực hiện luận văn. Sinh ra và lớn lên tại quê hương Ninh Thuận, người viết luận văn thường được biết và tham gia nhiều lễ hội của người Chăm, đã đi nhiều làng quê của người Chăm, đặc biệt là các làng nghề thủ công truyền thống Bầu Trúc, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, các tháp Chăm như tháp Pô Klongrai, tháp Pô Rôme, Tháp Bà Nha Trang trong các dịp lễ. Trong các chuyến đi miền Trung, còn ghế thăm các tháp Chăm nằm rải rác ở các tỉnh miền Trung, tham quan thánh địa Mỹ Sơn, các bảo tàng Chăm, các cuộc triển lãm… từ những điều thực tế đó đã giúp tác giả luận văn hiểu biết thêm để kết hợp với các nguồn tư liệu thu thập được vận dụng vào quá trình nghiên cứu. Có thể nói rằng, những công trình nghiên cứu trên đa số là những ghi chép có tính tổng quát, nội dung chuyên sâu về một hay nhiều lĩnh vực của văn hóa Chăm. Mặc dù vậy, những công trình khoa học này là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, là chìa khóa đầu tiên gợi mở cho tác
  12. giả luận văn một cách nhìn khái quát về yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, người viết luận văn không đi sâu vào vấn đề lý luận của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam mà chỉ kế thừa những thành tựu khoa học của những người đi trước trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc. Hiện nay việc nghiên cứu, tìm hiểu và nhận thức về yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam vẫn cần những nghiên cứu chuyên khảo, vì vậy tác giả luận văn mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm đáp ứng nhu cầu đó. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp lịch sử Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử trong quá trình nghiên cứu, đây là phương pháp đặc trưng của khoa học lịch sử, với phương pháp sử học sẽ tìm ra những quy luật phát triển của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam và sự tiếp biến, giao lưu văn hóa của hai dân tộc Việt – Chăm. Bằng những tài liệu lịch sử cụ thể, hình ảnh trực quan, từ nhận thức lịch sử văn hóa, đề tài trình bày nội dung, hiện tượng trong một hình thức tổng quát. 4.2. Phương pháp logic Phương pháp logic, được vận dụng để trình bày về nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam trong một mối liên hệ biện chứng phù hợp với logic khách quan của tiến trình lịch sử. Trong việc nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm và biểu hiện, quy luật không phải chỉ đóng khung trong phạm vi lý luận trừu tượng mà phải dùng tài liệu lịch sử để minh họa. 4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp Đây là phương pháp quan trọng để tìm ra tính chất đặc thù, đặc trưng của yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Do đó, các sự kiện và quá trình lịch sử cần được phân tích và tổng hợp một cách toàn diện, phù hợp với yêu cầu đặt ra. 4.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Trong quá trình thực hiện, luận văn còn sử dụng phương pháp liên ngành nhằm làm cho việc nghiên cứu có tính toàn diện trên cơ sở khai thác triệt để nội dung các ngành khoa học liên quan như văn học, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, âm nhạc…
  13. 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương như sau: Chương 1. Khái quát quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam Chương 2. Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam Chương 3. Giá trị đặc sắc của văn hóa Chăm trong nền văn hóa Việt Nam
  14. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂMPA Tư liệu khảo cổ học và các chứng tích lịch sử cho thấy vùng Trung Bộ Việt Nam là địa bàn cư trú lâu đời của người Chăm. Trên nền tảng của văn hóa Sa Huỳnh (Đức Phổ - Quảng Ngãi) người Chăm đã thành lập vương quốc Chămpa. Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Sa Huỳnh là đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí ở miền Trung Việt Nam (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Nền văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ về nguồn gốc với các nền văn hóa hậu kỳ đồ đá mới, sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hóa Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất là văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình), có không gian phân bố cận kề với văn hóa Sa Huỳnh. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về các giai đoạn sớm, muộn của nền văn hóa Sa Huỳnh, song hầu như các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ, trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kỳ thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung. Theo sự thống nhất này thì văn hóa Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích của thời đại đồng thau và chắc chắn có sự tham gia và ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa khác. Về thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, “dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn (Phú Hòa – Đồng Nai), Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hóa Hán như tiền Ngũ Thù, tiền Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An – Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di tích là thế kỉ I, II sau công nguyên” [69, tr. 125]. Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kì đồng thau ven biển, với cốt lõi là văn hóa Bàu Tró. Chủ nhân của văn hóa trên được các nhà nghiên cứu cho là những người tiền Malai – Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hóa Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hóa hậu kì đá mới – sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn
  15. hóa trên được coi là tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á. Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu – Quảng Ngãi). Trên địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông, đã phát hiện nhiều khu mộ - những bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lòng bàn, phân bố lẻ tẻ hay thành cụm. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá, đá quý, thủy tinh, đồng, sắt và gốm, ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xá – Hội An – Quảng Nam, Mỹ Tường – Ninh Thuận), hầu như các chum chỉ có đồ tùy táng, cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hỏa táng, có thể do hình thức mộ tượng trưng. Ở những giai đoạn sớm và giữa, đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí, sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kỹ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn), nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, qua… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hóa Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn. Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại và những dấu vải còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với nhiều hình loại chum, vò, bát bồng, đèn, bình hình lãng hoa, bình con tiện, cốc cao chân… và vô số những đồ gia dụng. Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu, khắc vạch, nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành). Cư dân văn hóa Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ, rất khéo tay và có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai…) bằng thủy tinh, mã não,
  16. đá, gốm. Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mấu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở di tích Đại Lộc – Quảng Nam một khuyên tai hai mấu còn ở tình trạng chế tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của văn hóa Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philippin, Thái Lan… cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự lan tỏa ảnh hưởng của văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh “còn biết nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú…). Từ đây đồ trang sức thủy tinh lan ra cả phía Bắc và vào phương Nam” [69, tr. 126 - 128]. Tiến sĩ Mỹ Dung nhà khảo cổ cùng làm việc trong nhóm khảo cổ Việt - Đức nhận xét như sau về những đồ trang sức độc đáo này: “Theo như biểu tượng của thế giới, con chim nước tượng trưng cho mặt trời. Chẳng hạn hiện vật hình con chim ở khu vực mộ chum hậu kỳ thời đại đồ đồng vùng sông Danube ở châu Âu. Hạt chuỗi mã não duy nhất ở Đông Nam Á tìm thấy ở Thái Lan có hình con sư tử. Từ trước đến nay, trong các mộ táng khai quật được, chúng tôi chỉ phát hiện những hạt mã não hình chuỗi bình thường. Mã não mang hình dạng con vật thì chưa bao giờ tìm thấy. Từ xưa đến nay người ta vẫn cho rằng nghề thuỷ tinh rất phát triển trong thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh nhưng phát triển ở mức độ cao như vậy thì thật đáng kinh ngạc”. Văn hóa Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam, kết hợp với khai thác nguồn lợi của biển, của rừng, các nghề thủ công, từng bước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và xa hơn là với Ấn Độ, Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển, ở ven biển miền Trung vào những thế kỉ trước, sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai. Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh là chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại, số lượng của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư dân văn hóa này, điều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai. Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, niên đại kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh.
  17. Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những di tích khảo cổ trên và trong lòng đất trùng hợp với địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh. Lịch sử hình thành vương quốc Chămpa được biết qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt, Khơme, Java… phản ánh những nét khái quát như sau: thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực Nam vùng đất mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua) giành thắng lợi lập ra nước Lâm Ấp. Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới thành lập này “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc, như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử (khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Chùy, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ” [11, tr. 37]. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước cho thấy vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương quốc bao gồm một liên minh của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người, mà đó chính là người Chăm. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác mà trên lý thuyết là những chư hầu của họ. Lãnh thổ của vương quốc Chămpa là ở miền Trung Việt Nam, một khu vực có địa hình hẹp chiều ngang Tây – Đông mà kéo dài theo chiều Bắc – Nam, lại bị chia cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng Tây – Đông. Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực, vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa, mô hình một tiểu quốc
  18. Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu vùng địa hình, theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm, tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo, hay là thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị, hay là thành cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương nghiệp, thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình là tiểu quốc Amavarati vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm, trở thành Quốc vương đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt kinh đô đầu tiên ở thành phố Simhapura và Mỹ Sơn Srisambhubhadresvara là thánh địa, đây là một trong những trung tâm quy mô và quan trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng khác là Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận – Bình Thuận (Panduranga) [53]. Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng, họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo, Quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Nhận xét về quan hệ giữa văn hóa Chămpa và văn hóa Ấn Độ, Ngô Văn Doanh khẳng định: “một điều không thể phủ nhận được là những ảnh hưởng Ấn Độ đã góp một phần cực kỳ quan trọng vào quá trình hình thành ra vương quốc Chămpa cũng như một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đầy bản sắc – văn hóa Chămpa” [12, tr. 97 – 98]. Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Shiva, tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Shiva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Shiva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc
  19. tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước Ấn Độ mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Shiva. Người Chăm có một nền kinh tế dựa trên nền tảng nông nghiệp là chủ yếu, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc…Đặc biệt, người Chăm rất giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông với các nước trong khu vực và các vùng lân cận. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… để phục tưới tiêu cho đồng ruộng ở vùng đồng bằng. Sự phong phú và đa dạng của những di tích, di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy, Chămpa là một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh lớn của thế giới, vương quốc Chămpa nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn bán, trao đổi giao lưu với những cư dân quần đảo ở biển Đông, xa hơn đến Trung Quốc và Ấn Độ. Truyền thống văn hóa của Chămpa cũng như văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước), còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những tộc người cư trú ven biển và các quần đảo trong biển Đông. Từ thế kỷ thứ VII, vương quốc Chămpa được biết trong lịch sử là một quốc gia hùng mạnh, nắm quyền cai trị trên một lãnh thổ rộng lớn, cương vực của Chămpa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay. Trong lịch sử ngoại giao, Chămpa thường xuyên quan hệ với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Chân Lạp, Đại Việt và các nước Đông Nam Á hải đảo, nhất là quan hệ với Đại Việt. Trong các thế kỷ X – XV, quan hệ ngoại giao giữa Chămpa và Đại Việt là quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng có chung đường biên giới, mối quan hệ có nhiều diện mạo. Nhất là từ khi người Việt thoát khỏi ách thống trị của phong kiến Trung Hoa bước vào thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ, cũng là lúc bắt đầu có những cuộc xung đột với Chămpa bằng
  20. vũ lực. Như trong cuốn Ngoại giao Đại Việt tác giả Lưu Văn Lợi cho rằng: “việc Chămpa đánh Đại Việt, Đại Việt đánh Chămpa, thôn tính nhau, cũng như Chămpa và Chân Lạp đánh nhau, nhưng vấn đề thắng hay bại, còn hay mất tùy thuộc vào ý thức, tiềm lực và bản lĩnh của mỗi quốc gia, dân tộc” [31, tr. 252]. Vấn đề tồn vong của vương quốc Chămpa đã trở thành vấn đề lịch sử như lịch sử của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới hình thành rồi bị diệt vong, đó là quy luật tất yếu của lịch sử mà sự tồn vong của Chămpa không nằm ngoài quy luật chung này. Trong khoảng 15 thế kỷ tồn tại, trải qua nhiều biến động phức tạp do những mối quan hệ phức tạp trong nội bộ hoàng tộc của chính quyền Chămpa cũng như quan hệ với các nước láng giềng đã dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chămpa. Lịch sử đi qua, văn hóa Chăm ở lại với những giá trị văn hóa đặc sắc, phong phú và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, văn hóa của vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Trải qua tiến trình lịch sử, vương quốc Chămpa từng bước sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam thống nhất và ngày nay người Chăm đã trở thành một bộ phận trong cộng đồng 54 dân tộc của quốc gia Việt Nam. 1.2. QUÁ TRÌNH NGƯỜI CHĂM HÒA NHẬP VÀO CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA DÂN TỘC VIỆT NAM THỐNG NHẤT Dựa trên tư liệu khảo cổ học về văn hóa Sa Huỳnh, có thể nói rằng ở vùng Trung Bộ Việt Nam đã có mặt tổ tiên của người Chăm. Theo nhiều nguồn sử liệu, “người Chăm là một dân tộc có một quá trình hình thành và phát triển lâu đời. Người Chăm thuộc chủng tộc Nam Á, tiếng nói của họ rất gần gũi với các dân tộc Raglai, Churu, Jarai, Êđê, thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinesien” [36, tr. 23]. Trong lịch sử hình thành và phát triển, người Chăm đã sáng tạo một nền văn hóa đa dạng, phong phú mang giá trị đặc sắc. Quá trình người Chăm hòa nhập vào cộng đồng quốc gia, dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình sáp nhập vương quốc Chămpa vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam và sự hình thành dân tộc Việt Nam thống nhất. Quá trình này biểu hiện qua các cuộc chiến tranh và các mối quan hệ ngoại giao giữa hai chính quyền Chămpa và Đại Việt, sau mỗi cuộc chiến tranh lãnh thổ Chămpa từng bước sáp nhập vào Đại Việt và người Chăm ở lại trở thành một bộ phận dân cư của Đại Việt. Bên cạnh đó, quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa Việt - Chăm trong lịch sử
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0