VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------
NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------
NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ TƯỜNG VY
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hồng Phước
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................... 12
1.1. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự ................................................ 12
1.2.Nguyên tắc, ý nghĩa, tác dụng của phân loại miễn trách nhiệm hình sự. ........... 20
1.3. Phân biệt miễn TNHS và miễn hình phạt .......................................................... 21
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam. .................................................... 24
1.5. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về miễn trách
nhiệm hình sự ............................................................................................................ 33
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ..................................................................... 38
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về miễn trách nhiệm hình sự ..................... 38
2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ......... 49
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ................................................................................. 64
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về chế định miễn trách nhiệm hình sự ...................................................................... 64
3.2. Một số kiến nghị đối với quy định về miễn trách nhiệm hình sự cần được
hướng dẫn để tạo điều kiện thuận lợi trong thực tiễn áp dụng .................................. 66
3.3. Những giải pháp khác nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ......................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BTP
: Bộ Tư pháp
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
:
TA
Tòa án
:
TAND
Tòa án nhân dân
:
TTHS
Tố tụng hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
VKS : Viện kiểm sát
CQĐT : Cơ quan điều tra
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Miễn trách nhiệm hình sự giai đoạn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
từ 2015-2020 ................................................................................................... 51
Bảng 2: Bảng so sánh tỷ lệ miễn tnhs/ hình phạt ............................................ 52
của TAND Đồng Nai và TAND cả nước ........................................................ 52
Bảng 3: Miễn trách nhiệm hình sự giai đoạn điều tra, truy tố trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai từ 2015-2020…………………………………………………….52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mahatma Gandhi – vĩ nhân lớn của đất nước Ấn Độ đã từng nói “Công
lý mà tình yêu mang lại là sự đầu hàng, công lý mà luật pháp mang lại là sự
trừng phạt. Justice that love gives is a surrender, justice that law gives is a
punishment”.
Đúng vậy, khi pháp luật ẩn chứa đằng sau sự trừng trị là tính nhân đạo
nhân văn, việc áp dụng pháp luật nhằm giúp cho người phạm tội sửa chữa
những lỗi lầm, phát huy phần NGƯỜI trong bản chất con người của mình.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó, xác định nhiệm vụ “coi
trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội”[16, Tr4].
Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những chế định quan
trọng của Luật Hình sự Việt Nam thể hiện rõ nét nhiệm vụ nêu trên. Đây là
biện pháp mang tính chất khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta, thông qua
việc các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định xoá bỏ hậu quả pháp lý cho
người thực hiện hành vi phạm tội mà hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội
phạm. Quy định này tạo điều kiện cho người phạm tội có môi trường để tự cải
tạo, giáo dục, nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội mà
không phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi của TNHS.
Chế định miễn TNHS trong BLHS năm 2015 được xây dựng dựa trên
tinh thần kế thừa những quy định của BLHS 1985 và BLHS năm 1999 với
nhiều nội dung mới quán triệt tinh thần của Hiến pháp 2013, đề cao tính tích
cực, hướng thiện của con người. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
do một số nội dung miễn TNHS vẫn còn bất cập nên dẫn đến việc các cơ quan
1
tiến hành tố tụng nhận thức không đúng, áp dụng pháp luật không thống nhất,
chẳng hạn: tình tiết do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa không rõ ràng, tiêu chí xác định bệnh hiểm
nghèo chưa cụ thể, cho phép miễn TNHS mang tính tùy nghi dẫn đến việc áp
dụng tùy tiện... Vì vậy, cần có sự quan tâm nghiên cứu quy định về miễn
TNHS tại Điều 29 BLHS năm 2015 một cách thấu đáo trên cơ sở phát hiện
các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật để đề xuất những giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định này.
Đồng Nai là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông Thành phố Hồ Chí
Minh và là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam.
Với nền kinh tế phát triển năng động, Đồng Nai cũng đang đứng trước những
thách thức về tình hình phát triển tội phạm gia tăng, việc đấu tranh phòng,
chống các loại tội phạm đang đè nặng lên vai trò của các cơ quan tư pháp
trong việc áp dụng pháp luật hình sự.
Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Miễn trách nhiệm
hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Miễn TNHS là chế định thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hoá TNHS
và chính sách nhân đạo của luật hình sự. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu
luật học trong và ngoài nước rất quan tâm đến đề tài này.
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
gồm một số công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh và tiếng Nga, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh:
- Michael Bogdan (chủ biên), Mục 4 - Miễn trách nhiệm hình sự, trong
sách: Luật hình sự Thụy Điển trong kỷ nguyên mới, Nxb. Elanders Gotab,
Stockholm, 2000;
2
- TS. AgnêBaransKaitê và TS. Jonas Prapistis, Miễn trách nhiệm hình
sự và mối quan hệ với Hiến pháp và tư pháp, Tạp chí Tư pháp, Cộng hòa
Látvia, số 7 (85)/2006;
- GabrielHallevy, The Matrix of Derivative Criminal Liability, Nxb.
Spinger, London, 2012;
- Iveta VitkutėZvezdinienė, Exemption from Criminal Liability: the
Problems of the Implementation of the Presumption of Innocence Principle,
Social Studies Journal, Lithuania,số 04/2009;
Thứ hai, về công trình nghiên cứu bằng tiếng Nga:
- Iakovlev A. M, “Cuộc đấu tranh chống tình trạng tái phạm”, Maxcova, 1964;
- Bagri-Sakhamatov L.V, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXb. Đại học,
Minsk, 1976;
- TkatrevxkiIu. M, “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự”.
Chương 2 – Trong sách: Luật hình sự Xô Viết (Phần chung), Nxb.
ĐHTH Maxcova, 1981;
- Naumov A. V. “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình
sự”. Chương 10 – Trong sách: Giáo trình Luật hình sự (Phần chung), Nxb.
XPARK, Maxcova, 1996,…
Những công trình nghiên cứu này đã tổng hợp những vấn đề lý luận về
TNHS nói chung, đây là những vấn đề được các nhà luật học trên thế giới
thừa nhận về khái niệm, bản chất của TNHS nói chung. Những vấn đề lý luận
của TNHS được đề cập đến trong các công trình trên là cơ sở quan trọng để
tác giả tiếp cận dưới góc độ miễn TNHS của pháp luật Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Với tư cách là một chế định cơ bản của Luật Hình sự, miễn TNHS thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo các học giả trong nước, được thể
hiện qua các công trình nghiên cứu như sau:
3
2.2.1. Nhóm các luận án, luận văn, Khóa luận
- Trịnh Tiến Việt, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm
hình sự theo luật hình sự Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2008. Trong công trình nghiên cứu tầm tiến sĩ này
tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản miễn TNHS và thực tiễn áp dụng
chế định này theo quy định của BLHS năm 1999.
- Mai Khắc Phúc, Biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật Hình sự 1999, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TPHCM,
năm 2006; trong luận văn tác giả đề cập vấn đề lý luận, thực tiễn của các biện
pháp miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 1999.
- Mai Thị Thuỷ, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
ĐH Luật TPHCM, năm 2013.
- Đặng Ngọc Huy, Miễn trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2015;
- Võ Chí Vương, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong chấp hành án
theo pháp luật Hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp,
Trường đại học Luật TPHCM, năm 2002,
- Đỗ Thị Thư Nhàn, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận
tốt nghiệp, Trường đại học Luật TPHCM, năm 2012;
- Trần Thị Thơ, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình
sự 1999. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại
học Luật TPHCM, năm 2015.
- Nguyễn Ngọc Thương, Miễn trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự
Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TPHCM, 1999.
4
Qua tiếp cận các công trình trong nước cho thấy rằng đề tài miễn TNHS
được rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây cũng là nguồn tư liệu phong phú
làm nền tảng cho tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu trên, một mặt chỉ nghiên cứu những vấn đề chung của miễn
TNHS hoặc là đi vào các biện pháp miễn TNHS cụ thể.
Về thực tiễn, do hầu hết các công trình trên nghiên cứu trước năm 2015
nên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu áp dụng các quy định của BLHS năm
1999. Điều đó cho thấy việc miễn TNHS theo Điều 29 BLHS 2015 vẫn đang
còn bỏ ngỏ, đặc biệt là một số trường hợp miễn TNHS mới mà BLHS 2015
mới bổ sung. Đây là nhiệm vụ mà trong đề tài nghiên cứu này tác giả sẽ làm
sáng tỏ.
2.2.2. Nhóm các sách chuyên khảo, giáo trình
Chế định miễn TNHS được đề cập đến trong các sách chuyên khảo như:
- Chương XVIII Miễn trách nhiệm hình sự, trong sách: Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;
- TSKH. Lê Cảm, “Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam” (Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, năm 2002) ;
- TS. Trịnh Tiến Việt, “Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình
sự“(Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2010), Chương 3, Trong sách: Tội phạm và
trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013 và Pháp luật hình
sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự và thực tiên áp dụng, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013;
- TS.Uông Chu Lưu, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam
1999” – Tập 1. Phần chung (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2001) đã
đề cập đến vấn đề miễn TNHS và phân tích các trường hợp miễn TNHS.
5
Vấn đề miễn TNHS là một nội dung lớn trong Luật Hình sự. Vì vậy, từ
xưa đến nay, từ Đông sang Tây, các công trình nghiên cứu lý luận về vấn đề
này rất phong phú- đây là nguồn tư liệu quý giá làm cơ sở nền tảng vững chắc
cho tác giả tiếp cận đề tài của mình. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy các công
trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích về lý luận và quy định của pháp luật
về miễn TNHS trên cơ sở BLHS 1999 và BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009). Ngoài ra, một số công trình đưa ra những đánh giá chi tiết thực trạng
dựa trên số liệu của tình hình áp dụng các biện pháp miễn TNHS trên thực tế.
Từ đó, nêu lên những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật còn tồn tại và
đưa ra phương hướng giải quyết phù hợp.
2.2.3. Nhóm các bài viết, bài báo
Nghiên cứu về đề tài này, hiện nay có nhiều bài viết, bài báo có nội dung
liên quan. Tuy nhiên, tác giả chỉ chọn lọc một số bài viết, bài báo viết về chế
định này theo quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017), cụ thể như sau:
- Tác giả Trịnh Việt Tiến trong bài viết “Miễn trách nhiệm hình sự theo
Bộ luật Hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng”
trên tạp chí Luật học, số 07 năm 2016. Trên cơ sở phân tích các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 2015 về miễn TNHS, bài viết nêu lên những vấn đề đặt
ra trong quá trình áp dụng và đề xuất hướng sửa đổi phù hợp.
- Tác giả Phạm Mạnh Hùng trong bài viết “Một số ý kiến về các quy
định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về chế định miễn trách nhiệm hình sự và
miễn hình phạt” trên tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02 năm 2016. Nội dung
chủ yếu của bài viết là phân tích quy định mới về miễn TNHS và miễn hình
phạt của BLHS 2015 so với BLHS 1999. Từ đó, nêu lên những bất cập cần
được hoàn thiện của hai chế định này trên thực tế.
6
- Tác giả Đinh Văn Quế trong bài viết Chế định miễn trách nhiệm hình
sự trong Bộ luật Hình sự 2015 trên tạp chí Luật sư Việt Nam, số 10 năm
2017. Bài viết phân tích từng trường hợp cụ thể của việc áp dụng biện pháp
miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 trên cơ sở quy định pháp luật và thực tế
áp dụng. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật này.
- Tác giả Lê Nam trong bài viết Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
09 năm 2016. Nội dung bài viết xoay quanh giải quyết các vấn đề về lý luận
chung về miễn trách nhiệm hình sự, giới thiệu về các trường hợp miễn TNHS
trong BLHS 2015. Bên cạnh đó, bài viết đặt ra vấn đề khi áp dụng và đề xuất
hướng giải quyết cụ thể cho trường hợp miễn TNHS tại khoản 3 Điều 29
BLHS 2015.
Mặt khác, một số tác giả cũng có công trình nghiên cứu về chế định
miễn trách nhiệm hình sự theo các mức độ khác như: 1) Chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học (KHXH), số
4/1997) của TS. Nguyễn Ngọc Chí; 2) Về chế định miễn trách nhiệm hình sự
theo luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1988) và về
chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, số 12/2001) của PGS.TS Phạm Hồng Hải; 3) Trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Luật học, số 5/1997) của
TS. Lê Thị Sơn; 4) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 2/1993) và Hoàn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự
về đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2002) của tác
giả Phạm Mạnh Hùng; 5) Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự
theo Điều 48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số chuyên đề về Bộ luật hình
sự, số 4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 6) Miễn trách nhiệm hình sự trong
trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn
7
nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự (Tạp
chí Kiểm sát, số 1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển Khanh; 7) Phân biệt miễn
trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số
2/2004) của TSKH Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 8) Hoàn thiện các quy định về
miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2004); Về chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Khoa
học, chuyên san Kinh tế.
Nghiên cứu các bài viết trên các tạp chí khoa học cho thấy do chỉ dừng
lại ở góc độ là bài viết học thuật được giới thiệu trên tạp chí nên phạm vi
nghiên cứu chưa bao quát hết các vấn đề về biện pháp miễn TNHS theo quy
định của BLHS 2015.
Việc tìm hiểu các bài viết giúp tác giả hiểu sâu về vấn đề cần nghiên
cứu, để từ đó định hướng nghiên cứu cho công trình của mình một cách phù
hợp. Vấn đề về miễn TNHS là một vấn đề không mới nhưng trong những nội
dung về miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 đã có sự thay đổi đáng kể. Mặt
khác vấn đề áp dụng miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được áp dụng
phù hợp với thực tiễn của địa phương là một vấn đề cần nghiên cứu.
Dựa trên những tài liệu đã nghiên cứu, với khoá luận này, tác giả không
chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về miễn TNHS mà còn đi sâu vào
phân tích từng trường hợp cụ thể của nội dung miễn TNHS tại Điều 29 BLHS
2015 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tác giả tập trung phân tích và làm rõ những
điểm mới, khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan nhằm đề
xuất những kiến nghị phù hợp trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Vì
vậy, nghiên cứu về miễn TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai đạt được mục tiêu
tính mới của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
8
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luật, pháp luật và nghiên cứu
thực trạng áp dụng pháp luật về các trường hợp miễn TNHS tại Điều 29
BLHS 2015 từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, tác giả đánh giá thực trạng cũng như
những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành và đề xuất, kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định miễn TNHS theo quy định
của BLHS 2015 nhằm mục đích xây dựng được khung pháp lý an toàn cho
việc áp dụng, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ việc xác định mục đích từ cơ sở nêu trên, luận văn được tiến
hành nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, về mặt lý luận cần phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, nội
dung, đặc điểm phân loại của miễn trách nhiệm hình sự.
- Thứ hai, khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về
miễn TNHS để có cái nhìn xuyên suốt về tư duy pháp lý của một quá trình
lịch sử đối với vấn đề miễn TNHS từ sau năm 1945 đến nay.
- Thứ ba, nghiên cứu vấn đề miễn TNHS của một số nước trên thế giới;
đặc biệt, là các nước có tầm ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam như: pháp
luật của Cộng Hoà Liên bang Nga; của Cộng hoà Dân chủ nhân dân
Lào…trên cơ sở có cái nhìn so sánh một cách toàn diện.
- Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn áp dụng vấn đề miễn TNHS từ địa bàn
tỉnh Đồng Nai, tìm ra những hạn chế, vướng mắc để đưa ra các giải pháp hoàn
thiện việc áp dụng pháp luật về chế định miễn TNHS.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề áp dụng miễn TNHS trong
phạm vi tỉnh Đồng Nai.
- Về thời gian: Các bản án, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình
chỉ vụ án mà luận văn nghiên cứu áp dụng miễn TNHS từ năm 2015-2020.
- Nội dung nghiên cứu: Với một dung lượng của đề tài luận văn nghiên
cứu trong phạm vi địa phương là địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn không
nghiên cứu tất cả các trường hợp miễn TNHS theo Điều 29 BLHS năm 2015
trên phạm vi cả nước mà luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn
TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu luận văn được vận dụng từ cơ sở hệ thống quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; những thành tựu của các
ngành khoa học: Triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học.
Các công trình nghiên cứu, sách nghiên cứu, sách chuyên khảo của các nhà
khoa học trong nước.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng liên quan đến áp dụng các tình tiết miễn TNHS theo
quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017).
10
5.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương
pháp: Lịch sử, lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp
luật...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn
TNHS theo quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng chế
định miễn TNHS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Luận văn nêu trên có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự
cũng như việc áp dụng chế định miễn TNHS của các cơ quan tiến hành tố
tụng...
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung của luận văn được chia thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về miễn trách nhiệm hình
sự theo luật hình sự Việt Nam
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về miễn trách
nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, được áp dụng đối
với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, được thể hiện bằng việc người
phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác
nhau của Nhà nước do Luật Hình sự quy định.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện khác
nhau, song tựu trung lại các nhà khoa học luật hình sự nước ta về cơ bản đều
thống nhất về nội hàm của khái niệm TNHS- là hậu quả pháp lý bất lợi được
áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định [7, tr. 122], [13, tr. 14], [27, tr. 281-282], [32, tr. 14], [50, tr. 65].
Trong Luận án tiến sỹ luật học của Trịnh Tiến Việt cho rằng “trách
nhiệm hình sự được hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy
định đối với người phạm tội.” [ 50.tr 26]
Trên thực tế, các tội phạm và trường hợp phạm tội đều không giống
nhau. Do đó, để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cũng
như phân hóa các trường hợp phạm tội để có đường lối xử lý phù hợp, công
bằng, chính xác và đúng pháp luật. Đặc biệt sự phân hóa các trường hợp tội
phạm và người phạm tội còn thể hiện ở chỗ không phải tất cả trường hợp đều
12
bị truy cứu TNHS khi có đầy đủ những điều kiện nhất định thì một người đã
phạm tội họ có thể được miễn TNHS.
Về mặt lý luận pháp luật hình sự cho thấy khi việc truy cứu TNHS đối
với một người là không cần thiết do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi thì sẽ có trường hợp trên thực tế Nhà nước không buộc người đó phải chịu
TNHS mà cho họ được miễn TNHS. Vì vậy, việc đặt ra chế định miễn TNHS
đối với người thực hiện hành vi phạm tội ở chừng mực nhất định thể hiện
chính sách phân hoá tội phạm; đồng thời, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo
của Nhà nước đối với người phạm tội. Qua đó, nhằm động viên, khuyến khích
họ lập công chuộc tội, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và xã hội.
Trên cơ sở khái niệm TNHS được đề cập như trên, khái niệm miễn
TNHS được hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng giai đoạn tố
tụng hình sự tương ứng cụ thể hủy bỏ việc áp dụng các hậu quả pháp lý được
áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có các căn cứ do pháp
luật hình sự quy định.
Miễn TNHS là một chế định quan trọng thể hiện chính sách nhân đạo
của pháp luật hình sự. Tuy nhiên, về mặt khoa học pháp lý thì mãi đến BLHS
năm 1985, chế định miễn TNHS mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận
chính thức. Xét về phương diện pháp lý thì bản chất pháp lý của chế định
miễn TNHS là tư tưởng nhân đạo được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình áp dụng mà căn cứ vào các điều kiện cụ thể theo chế định
miễn TNHS đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS để xem xét miễn TNHS cho
họ. Các điều kiện được miễn TNHS được quy định cụ thể trong Phần Chung
và Phần Các Tội phạm của BLHS năm 2015. Mặc dù người được miễn TNHS
không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội nhưng
có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy
13
định trong các ngành luật khác như: Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật
Công chức, Luật Viên chức; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước...
Cùng với khái niệm TNHS, miễn TNHS cũng được các nhà lý luận
định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:
Theo quan điểm của tác giả người Nga B.X. Xavelôva: “Miễn trách
nhiệm hình sự được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp - không kèm theo việc
quyết định hình phạt, tức là miễn trách nhiệm hình sự do Cơ quan điều tra
hoặc Viện kiểm sát thực hiện, cũng như do Tòa án thực hiện (khi không đưa
ra bản án kết tội đối với người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự) và
theo nghĩa rộng - suy cho cùng đó cũng đồng thời chính là miễn hình phạt
[55, tr. 428]. Hay tác giả Kêlina X.G (Liên bang Nga) cho rằng: "Miễn trách
nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối với người đó dưới hình
thức bản án" [56, tr. 31].
Quan điểm này cũng có những hạt nhân hợp lý của nó như việc thừa
nhận một người phải có TNHS thì mới có thể được miễn TNHS mà việc xác
định một người có hay không là thuộc thẩm quyền của Tòa án. Điều này cũng
được Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31) [19/tr5]. Cụ thể hóa trong
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam 2015 được xây dựng và thực
hiện theo 27 nguyên tắc cơ bản (từ Điều 7 đến Điều 33).
Các nhà lý luận hình sự Việt Nam đề cập đến khái niệm miễn TNHS ở
những khía cạnh sau:
- Quan điểm thừa nhận nội dung và chỉ rõ bản chất pháp lý của Miễn
TNHS “là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện
bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
14
xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi đó" [8, tr. 7];
- Quan điểm ghi nhận nội dung và hậu quả pháp lý của miễn TNHS
nhưng không đề cập thẩm quyền áp dụng và giai đoạn áp dụng: Miễn trách
nhiệm hình sự là "miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do pháp
luật quy định" [45, tr. 269] hay là "không buộc tội một người chịu trách
nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện" [43, tr. 321];
- Nhóm quan điểm ghi nhận tương đối đầy đủ về nội dung, phân định
các giai đoạn áp dụng, thẩm quyền áp dụng và hậu quả pháp lý: Miễn trách
nhiệm hình sự là "miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo
phải miễn chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ
phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng
chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên thực tiễn ở giai
đoạn xét xử có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn trách
nhiệm hình sự. Và theo đó, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu
biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và mang án tích" [41, tr. 19];
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các nhà lý luận hình sự
đều thống nhất một số nội dung quan trọng của chế định miễn TNHS: Nội
dung, điều kiện, thủ tục các hình thức miễn TNHS.
Trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc
phân tích các quy định của pháp luật hình sự có liên quan, dưới góc độ khoa
học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm miễn TNHS có thể được định nghĩa
như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật
hình sự Việt Nam, là sự hủy bỏ việc áp dụng các hậu quả pháp lý đối với
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi họ thực hiện những
hành vi phạm tội được quy định trong BLHS nếu đáp ứng các điều kiện được
miễn TNHS mà pháp luật quy định.
15
1.1.2. Đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
Căn cứ các khái niệm đã đề cập như trên và trên cơ sở nghiên cứu các
quy định của pháp luật hình sự hiện hành về chế định miễn TNHS, có thể chỉ
ra một số đặc điểm cơ bản của chế định này như sau:
Thứ nhất, miễn TNHS là người thực hiện tội phạm được miễn những hậu
quả pháp lý về các tội phạm khi họ đáp ứng những điều kiện theo quy định
pháp luật. Theo đó, người được miễn TNHS, họ thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xem xét,
xác định tính cần thiết của việc truy cứu TNHS đối với người đó hay không mà
vẫn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như đảm
bảo tính giáo dục, cải tạo cao.
Thứ hai, miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người
phạm tội, cũng như thể hiện nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng",
"trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo" trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Thứ ba, miễn TNHS do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định phải được
thể hiện dưới hình thức văn bản. Cụ thể: “theo quy định của BLTTHS Việt
Nam năm 2003, cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi có căn
cứ miễn TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều
164); VKS ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ miễn
TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều 169)
hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 181), Tòa
án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm trong trường hợp miễn TNHS
hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a khoản 1 Điều 249)”.
16
Thứ tư, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi của họ đã
thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự nhưng họ lại có những điều kiện nhất định để được
miễn TNHS. Cụ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do sự chuyển biến
của tình hình mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét thấy hành vi phạm tội
hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì được miễn
trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 29) hay khi có quyết định đại xá (khoản 3
Điều 25 Bộ luật hình sự). Điều này có nghĩa, nếu TNHS chỉ áp dụng đối với
người mà trong hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành
tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, thì miễn TNHS
cũng áp dụng với đối tượng như vậy, nhưng trường hợp của họ lại có những
điều kiện nhất định để được miễn TNHS.
Thứ năm, chế định miễn TNHS còn áp dụng có lợi cho người phạm tội là
họ không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do
mình thực hiện một cách hiển nhiên (như: không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về
hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội).
1.2. Nguyên tắc, ý nghĩa, tác dụng phân loại miễn TNHS
1.2.1. Nguyên tắc của chế định miễn TNHS trong Luật Hình sự Việt
Nam
Thứ nhất, nguyên tắc nhân đạo trong miễn TNHS
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc quan trọng
trong pháp luật hình sự. Nhân đạo nói chung và trong pháp luật nói riêng được
cụ thể hóa thông qua các quy định của pháp luật với ý nghĩa bảo vệ lợi ích của
công dân khi bị tội phạm xâm phạm, có thể là lợi ích hợp pháp của cá nhân
người phạm tội nếu xứng đáng được hưởng khoan hồng của Nhà nước và đáp
17
ứng các điều kiện nhất định. Vì vậy, nghiên cứu miễn TNHS vừa thể hiện
nguyên tắc nhân đạo vừa tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng
chế hình sự với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo
người phạm tội, lấy gia đình, nhà trường, xã hội làm nơi giúp họ tự cải tạo,
giáo dục để khuyến khích họ lập công chuộc tội mà không buộc họ cách ly ra
khỏi cộng đồng.
Về nguyên tắc nhân đạo, PGS.TS Hồ Sĩ Sơn viết: “Nguyên tắc nhân đạo
trong Luật Hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong Luật Hình sự chỉ
đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật Hình sự mà nội dung cơ bản của nó
là sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội. Mức độ phạm vi
của sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội được quyết định
bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các yêu cầu khác của Luật Hình sự
mà trước hết là công bằng, công lý xã hội”[18, tr. 9]
Thứ hai, nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết
hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo".
Là nguyên tắc được xem là xuyên suốt của BLHS đối với chế định miễn
TNHS, là chính sách hình sự của pháp luật hình sự áp dụng với người phạm
tội. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người phạm tội; đồng thời, tạo cơ sở
pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các
biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng là
một trong những hình thức đảm bảo không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người
phạm tội trong pháp luật hình sự. Phân hóa trong luật hình sự nước ta được thể
hiện trên nhiều phương diện như: phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, phân hóa trách
18
nhiệm hình sự, đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự hay có thể được
miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, nguyên tắc công bằng, công minh trong miễn TNHS
Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc cơ bản, là tư tưởng chủ đạo, định
hướng xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng Bộ luật hình sự. Nguyên tắc
này đặt trong mối tương quan giữa Nhà nước với người phạm tội, thể hiện
thông qua “đối xử” của Nhà nước đối với người phạm tội như thế nào: đối xử
công bằng giữa những người phạm tội; đối xử với người phạm tội tương xứng
với hành vi phạm tội của họ.
Người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất
lợi của việc phạm tội nhưng có thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế
không phải hình sự được quy định trong các ngành luật trong hệ thống pháp
luật. Như vậy, việc công bằng trong đánh giá hành vi phạm tội có ý nghĩa
trong việc áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Nhìn chung, chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam không chỉ
phản ánh nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự mà còn thể hiện
nguyên tắc xử lý kết hợp hài hòa giữa trừng trị với giáo dục, thuyết phục; đồng
thời, phản ánh sự cần thiết, việc xem xét của cơ quan tiến hành tố tụng có truy
cứu trách nhiệm hình sự một người hay không nhưng cốt lõi vẫn đảm bảo yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội đó và
răn đe người khác trong xã hội.
1.2.2. Ý nghĩa và tác dụng của miễn TNHS và phân loại TNHS
Việc nghiên cứu chế định miễn TNHS là một vấn đề quan trọng và cấp
thiết, một mặt góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, một mặt thể hiện
chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành
vi do họ thực hiện. Qua đó, nhằm động viên khuyến khích người phạm tội lập
19
công chuộc tội, được sự giám sát, giáo dục, cải tạo từ phía nhà trường, gia
đình, xã hội giúp họ hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã
hội. Do đó, nó có ý nghĩa quan trọng, được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về phương diện chính trị-xã hội, việc quy định những trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho cơ quan tiến
hành tố tụng nhận thức đúng đắn và áp dụng trường hợp nào người phạm tội
và hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần
thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống
tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm dụng và tùy tiện áp dụng hoặc e
ngại khi áp dụng chế định này. Mặt khác, việc áp dụng chế định miễn TNHS
trong thực tiễn cũng là một trong những hình thức xã hội hóa giáo dục để
Nhân dân, cơ quan, đoàn thể, nhà trường và gia đình tham gia vào việc giáo
dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ hoàn lương, hướng thiện, lao động chân
chính và có ích cho xã hội.
Thứ hai, về phương diện pháp lý, biện pháp miễn TNHS chỉ có thể đặt ra
đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà LHS quy định
hành vi đó là tội phạm nhưng đối với người đó lại có căn cứ pháp lý và những
điều kiện nhất định để được miễn TNHS trong từng trường hợp tương ứng mà
pháp luật hình sự hiện hành quy định cũng như tùy thuộc vào từng trường hợp
miễn TNHS đó có tính chất tùy nghi hay tính chất bắt buộc.
Ngoài ra, cũng với phương diện này, người được miễn TNHS đương
nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội
do mình thực hiện như: không bị truy cứu TNHS, không bị kết tội, không phải
chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có
án tích và không bị coi là có tội. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải chịu trách
nhiệm pháp lý như: dân sự, hành chính, trách nhiệm pháp lý kỷ luật nếu thuộc
trường hợp là cán bộ, công chức tùy theo từng trường hợp tương ứng cụ thể.
20
Thứ ba, về phương diện nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong pháp
luật hình sự, miễn TNHS là một trong những chế định mang tính nhân đạo
sâu sắc với nội dung thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan
hồng”, “trừng trị kết hợp với thuyết phục, giáo dục, cải tạo” trong đường lối
xử lý của Nhà nước ta. Miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp hữu hiệu
của Nhà nước thể hiện chính sách phân hóa tội phạm cũng như yêu cầu không
cần thiết phải truy cứu TNHS người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà Luật Hình sự quy định là tội phạm mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh
và phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, về phương diện kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn
TNHS được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự một cách
chặt chẽ, đầy đủ, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn thì đó cũng là một
trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và hoàn thiện một số chế
định khác có liên quan đến nó như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, hình phạt,
miễn hình phạt…Hơn nữa, nó còn thể hiện sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự
trong việc xây dựng từng chế định của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; góp phần
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.3. Phân biệt miễn TNHS với miễn hình phạt
Miễn TNHS và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng, thể hiện chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Luật Hình sự Việt Nam, mang giá trị nhân
văn sâu sắc mà ở đó nguyên tắc chủ đạo, xuyên suốt trong chính sách hình sự
của Nhà nước luôn là sự kết hợp giữa việc trừng trị với khoan hồng, khuyến
khích người phạm tội tự giáo dục mình để nhận lấy sự tha miễn đó. Theo đó,
việc nghiên cứu hai chế định này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện tư tưởng, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ nhất
21
định. Chính sách hình sự về tư tưởng nhân đạo được Đảng và Nhà nước ta thể
hiện ở đường lối, hình thức xử lý đối với người phạm tội trên cơ sở kết hợp
hài hòa giữa mục đích trừng trị và mục đích giáo dục, phòng ngừa tội phạm;
trong đó, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng mục đích giáo dục người phạm
tội, đề cao tính “hướng thiện”.
Về cơ bản, hai chế định này có điểm giống nhau ở một số điểm sau: cả hai
chế định đều xuất phát từ cơ sở của TNHS và phản ánh rõ nét nguyên tắc
nhân đạo của Nhà nước ta; không cách ly người phạm tội và người bị kết án
ra khỏi cuộc sống xã hội mà tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tái hòa nhập
cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội; chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các
điều kiện luật định, không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm
tội, của quyết định hình phạt và án tích.
Tuy nhiên giữa miễn TNHS và miễn hình phạt có nhiều điểm khác nhau,
thể hiện rõ nét ở các điểm sau:
Một là, miễn TNHS là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu
TNHS về tội mà họ đã thực hiện, còn miễn hình phạt thì không buộc người bị
kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã thực hiện. Riêng về đối tượng của miễn
TNHS có thể là người đã bị kết án hoặc chưa kết án; đối tượng của miễn hình
phạt là người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Hai là, người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ,
điều kiện như: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi của
chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã
hội nữa; khi có quyết định đại xá” theo Điều 29 BLHS. Ngoài ra, người phạm
tội có thể được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ được quy định tại
BLHS: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình
mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn
22
khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự
việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công chuộc tội và có
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và
được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và
đề nghị miễn TNHS thì có thể được miễn TNHS”.
Đối với người phạm tội được miễn hình phạt khi có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 54 BLHS đáng được khoan hồng đặc biệt
nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Cụ thể: Khi quyết định mức hình
phạt trong khung hình phạt, Tòa án có thể căn cứ và quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS; Tòa án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò
không đáng kể.
Ba là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng của chế định miễn TNHS rộng hơn
so với chế định miễn hình phạt. Miễn TNHS được thực hiện bởi cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, tòa án tương ứng với từng giai đoạn tiến hành tố tụng; còn
miễn hình phạt chỉ do tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng.
Bốn là, về hậu quả pháp lý: sau khi được miễn TNHS, người phạm tội
được xem là không có án tích. Đối với miễn hình phạt, người bị kết án vẫn
được xem là có án tích nhưng thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án
tích.
23
Tóm lại, với các quy phạm của chế định miễn TNHS và miễn hình phạt có
tính chất nhân đạo nêu trên, nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm
thích nghi với các yêu cầu của pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường,
phấn đấu thành người lương thiện để có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xét về góc
độ chính trị-xã hội, chế định miễn TNHS giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng
xác định chính xác và đúng đắn trường hợp nào người phạm tội và hành vi
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần thiết phải áp
dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm,
góp phần giảm bớt các chi phí của Nhà nước trong từng giai đoạn tương ứng
với quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nhất là chi phí, nguồn lực sẽ được
cắt giảm nhiều nếu việc miễn TNHS được áp dụng ở giai đoạn đầu. Mặt khác,
việc áp dụng chế định miễn THNS sẽ không gây mặc cảm, tự ti đối với người
phạm tội vì họ được “tha miễn”, không được xem là có án tích như chế định
hình phạt. Vì vậy, sẽ giúp họ mau chóng hòa nhập với cộng đồng và tích cực
hướng thiện, làm những việc có ích cho xã hội.
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
1.4.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam bước vào thời
kỳ khôi phục lại nền kinh tế, thiết lập các quan hệ pháp luật của Nhà nước
non trẻ trong điều kiện hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Song song với
nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện các
quy định của pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội, phòng, chống tội
phạm, giữ vững an ninh chính trị. Trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn của
đất nước, Pháp luật hình sự thời kỳ này chưa mang tính thống nhất, còn tản
mạn ở nhiều văn bản khác nhau.
24
Đối với khái niệm miễn TNHS vẫn còn là một vấn đề mới mẽ nên trong
các văn bản pháp lý chính thống chưa đề cập đến khái niệm miễn TNHS. Tuy
nhiên, xuất phát từ ưu điểm của Nhà nước ta là nhà nước “của dân do dân vì
dân” nên các giá trị nhân đạo luôn là những giá trị cốt lõi xuyên suốt trong hệ
thống pháp luật. Trong thực tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã manh
nha hình thành một số nội dung của miễn TNHS như các Sắc lệnh, Thông tư,
Pháp lệnh từ năm 1945 đến năm 1982…. đã thừa nhận và áp dụng với nhiều
tên gọi khác nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố",
"tha bổng bị cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội"...
Như vậy, cho đến thời điểm trước khi ban hành BLHS năm 1985, mặc dù
chưa có khái niệm chính thống về miễn TNHS là gì nhưng trong một số văn
bản hiện hành của thời kỳ đó đã manh nha hình thành các nội dung của miễn
TNHS.
Bộ luật Hình sự năm 1985, với tư cách là văn bản lập pháp hình sự lớn và
quan trọng đầu tiên mà trong đó chứa đựng hệ thống pháp luật hình sự thực
định đã được pháp điển hóa của Nhà nước Việt Nam thống nhất sau 40 năm
kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) và sau 10
năm kể từ khi đất nước đã được thống nhất và thu về một mối (năm 1975) thì
trong suốt 14 năm áp dụng Bộ luật Hình sự của năm 1985 (nếu tính đến năm
1999 khi có Bộ luật Hình sự thứ hai) như là nguồn trực tiếp duy nhất của pháp
luật hình sự thực định nước nhà sau pháp điển hóa mà trong đó lần đầu tiên đã
có sự phân chia rõ ràng giữa các quy phạm của Phần chung và Phần riêng với
cơ cấu gồm 12 chương và được phân chia thành 280 điều để kịp thời điều
chỉnh về mặt pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong suốt 14 năm
từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX (1985-1999).
25
Bộ luật Hình sự nói riêng chính là đạo luật quan trọng nhất của nước ta
quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi
mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội,
bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi
phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm.
Bên cạnh đó, đối với chế định miễn TNHS với các tên gọi khác nhau được
áp dụng trong thời kỳ này chủ yếu để thực hiện phương châm trong đường lối
xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo
dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã thực thi chính sách nhân đạo về xử lý
hình sự và thi hành án hình sự đối với người phạm tội, được quy định trong các
văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, thông qua đó tạo
điều kiện cho người phạm tội hưởng nhiều chính sách khoan hồng, tự nguyện cải
tạo và tái hòa nhập cộng đồng. Có thể nói, không có một biện pháp cưỡng chế,
răn đe hay giáo dục, cải tạo nào có tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến tâm lý của
người phạm tội như đại xá, bằng việc những phạm nhân được trực tiếp chứng
kiến việc trả lại tự do cho những phạm nhân được hưởng đại xá. Đại xá đã mang
lại cho phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù khát vọng được trở về xã hội, tái
hòa nhập cộng đồng và làm lại cuộc đời.
dục cải tạo". Đối với trường hợp đại xá, cùng với truyền thống nhân đạo của
Như vậy, miễn TNHS được áp dụng trong trường hợp xá miễn. Và
cũng theo Điều 4 Sắc lệnh số 52/SL này thì "Những tội được xá miễn đều coi
như không phạm bao giờ; quyền công tố sẽ tiêu hủy, những chính hình và phụ
hình mà Tòa án đã tuyên đều bỏ hết”. Hay tại Điều 2 Sắc lệnh số 223/SL ngày
17/11/1946 quy định tội phạm về chức vụ ghi nhận "Trong trường hợp này,
tang vật hối lộ được hoàn trả" [38, tr. 476]. Như vậy, trong văn bản này, thuật
26
ngữ “miễn hết cả tội” được sử dụng như miễn TNHS như quy định pháp luật
hiện hành.
Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967
quy định về những trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt như
sau: "Kẻ nào phạm tội phản cách mạng nêu ở mục 2 mà tội phạm thuộc vào
một hoặc nhiều trường hợp sau đây thì được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt”.
1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm.
2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ những âm
mưu và hành động của mình và của đồng bọn….
Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất. Pháp luật hình sự thời kỳ này
bắt đầu đi vào củng cố và phát triển để điều chỉnh các quan hệ xã hội của thời
kỳ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và
chống các tội phạm, các việc làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật theo tinh
thần nghiêm khắc và kiên quyết, song khi xử lý từng vụ án cụ thể cần phải kết
hợp "Nghiêm trị với khoan hồng, trừng trị với cải tạo, giáo dục". Do đó, tháng
04/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT hướng dẫn thi
hành Sắc luật quy định về tội phạm và hình phạt vẫn nêu rõ nguyên tắc xét xử
bọn phản cách mạng là: "Nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn có nhiều
tội ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép
buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải; giảm nhẹ hình
phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội".[33]
Đối với tội nhận hối lộ, vào ngày 20/05/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Khi Pháp lệnh này được ban
hành, đánh dấu một bước ngoặt trong công tác lập pháp, nhằm góp phần củng
27
cố, giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, động viên và khuyến
khích tất cả công dân tích cực tham gia đấu tranh chống tệ nạn hối lộ. Trong
Pháp lệnh đã ghi nhận chính thức vấn đề miễn TNHS và Điều 8 Pháp lệnh đã
quy định cụ thể ba trường hợp miễn TNHS, giảm nhẹ hình phạt và miễn hình
phạt, đó là:
"1. Người phạm tội hối lộ, trước khi bị phát giác, chủ động khai rõ sự
việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn TNHS; nếu là phạm tội
nghiêm trọng thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.
2. Người phạm tội hối lộ, sau khi bị phát giác, tỏ ra thành thực hối cải,
khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ thì có thể được giảm nhẹ hình
phạt.
3. Người phạm tội lần đầu và không nghiêm trọng, sau khi bị phát giác tỏ
ra thành thực hối cải khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể
được miễn hình phạt".[55; tr15]
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự đã ban hành trong
thời kỳ này cho thấy, những trường hợp được xem xét để áp dụng miễn
TNHS có thể bao gồm:
1. Có quyết định đại xá;
2- Có âm mưu phạm tội nhưng tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội;
3- Trước khi sự việc bị phát giác đã thành thật tự thú khai rõ âm
mưu, hành động của mình và của đồng bọn;
4- Người phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm
giảm bớt tác hại của tội phạm;
5- Bị bắt trước khi bị xét xử, người phạm tội đã tỏ ra thành thật hối cải
lập công chuộc tội hoặc tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa thiệt hại gây ra;
28
6- Phạm tội vì bị ép buộc, lừa phỉnh và việc làm chưa gây thiệt hại
lớn hoặc phạm tội có tính chất cơ hội.
1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 1999.
1.4.2.1. Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua BLHS đầu tiên của nước CHXH Việt Nam. Sự ra
đời của BLHS năm 1985 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công tác
lập pháp, cụ thể là BLHS nói chung, các quy định về miễn TNHS nói riêng.
Theo đó, chế định miễn TNHS được chính thức quy định tại một số điều của
Phần chung và Phần các tội phạm BLHS. Trong BLHS năm 1985, tại Điều
48. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
“1- Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến
hành điều tra hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm
tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
2- Nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự
thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội
phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có
thể được miễn trách nhiệm hình sự.”.
Mặc dù BLHS năm 1985 không định nghĩa khái niệm miễn TNHS là gì
nhưng tại Điều 48 đã ghi nhận những trường hợp người phạm tội được miễn
TNHS nếu trong quá trình điều tra hoặc xét xử do chuyển biến của tình hình
mà người phạm tội hoặc hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa thì người đó được miễn TNHS. Trong Khoản 2 Điều 48 BLHS năm 1985
ghi nhận thêm trường hợp được miễn TNHS nếu trước khi hành vi phạm tội
29
bị phát giác người phạm tội tự thú mà họ đã có thành tích trong việc khai rõ
tội phạm đã thực hiện, giúp cơ quan có thẩm quyền điều tra tội phạm.
Ngoài ra BLHS năm 1985 còn quy định những trường hợp miễn TNHS
bao gồm: Tại Điều 16 quy định “Miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội”; tại đoạn 1 khoản 1 Điều 48 “do sự chuyển biến của tình hình
mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa”; tại đoạn 2 khoản 1 Điều 48 “do người phạm tội tự thú, thật thà khai báo,
ăn năn hối cải”; tại khoản 3 Điều 59 “người chưa thành niên phạm tội”; tại
khoản 3 Điều 74 “cho người phạm tội gián điệp”; tại khoản 5 Điều 227 “cho
người phạm tội đưa hối lộ”; tại khoản 2 Điều 247 “cho người phạm tội không
tố giác tội phạm”.
Sau một thời gian áp dụng BLHS năm 1985, Hội đồng Thẩm phán
TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 05/01/1986, trong đó,
có hướng dẫn cụ thể về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của
người thực hành tội phạm, cụ thể đề cập đến các điều kiện của tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội, việc miễn TNHS trong trường hợp người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội là người tổ chức tội phạm.
Ngày 05/01/1986, Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số
02/HĐTP; văn bản này chỉ mới hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội của người thực hành tội phạm, chưa có hướng dẫn về việc “tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp với ba loại người
đồng phạm còn lại: người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức”. Theo
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 19/04/1989 về việc
Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985, trong
đó có hướng dẫn cụ thể đối với ba loại người đồng phạm trên. Cụ thể:
- “Đối với người xúi giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo, đe
dọa để người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan
30
Nhà nước có thẩm quyền, báo cho người sẽ là nạn nhân biết về tội phạm đang
được chuẩn bị thực hiện để cơ quan Nhà nước hoặc người sẽ là nạn nhân có
biện pháp ngăn chặn tội phạm.
- Đối với người giúp sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện tinh
thần, vật chất cho việc thực hiện tội phạm (như: không cung cấp phương tiện,
công cụ phạm tội; không chỉ điểm, dẫn đường cho kẻ thực hành...). Nếu sự
giúp sức của người giúp sức đang được những người đồng phạm khác sử
dụng để thực hiện tội phạm, thì người giúp sức cũng phải có những hành
động tích cực như đã nêu ở trên đối với người xúi giục, người tổ chức để
ngăn chặn việc thực hiện tội phạm”.[48, Tr. 7].
Ngoài ra, để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật một cách
linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo phải phù hợp với thực tiễn xét xử về chế định
miễn TNHS cho một số đối tượng cụ thể và phạm một tội cụ thể, theo đó,
ngày 02/06/1990, Bộ Nội vụ, Viện KSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư liên ngành số 05/TTLN hướng dẫn thi hành chính sách khoan
hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội ra tự thú đã nêu rõ căn
cứ để miễn truy cứu TNHS đối với người phạm tội trốn khỏi nơi giam. Theo
đó, miễn TNHS đối với tội trốn khỏi nơi giam được dùng với tên gọi miễn
truy cứu TNHS đối với một tội phạm nhất định, cụ thể là:
- “Người phạm tội đang bị dẫn giải, tạm giữ, tạm giam để điều tra hoặc
chờ xét xử mà bỏ trốn, nhưng đã ra tự thú thì tùy từng trường hợp cụ thể có
thể áp dụng biện pháp cho cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh hoặc cấm đi
khỏi nơi cư trú; nếu trong thời gian trốn tránh mà không phạm tội mới thì có
thể được miễn truy cứu TNHS về tội trốn khỏi nơi giam quy định tại Điều 245
Bộ luật hình sự...[57, Tr.8]
- Người đang chấp hành hình phạt tù đã trốn khỏi trại cải tạo mà ra tự thú
và trong thời gian trốn tránh không phạm tội mới, có thể được miễn truy cứu
31
TNHS về tội trốn khỏi nơi giam được quy định tại Điều 245 Bộ luật hình
sự…”[57, Tr. 8].
1.4.2.2. Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời trong thời kỳ đất nước có những chuyển
biến mạnh mẽ về kinh tế xã hội sau Đại hội VI/1986. Vì vậy, BLHS năm
1999 đã khẳng định chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta qua việc mở rộng hơn các quy định về miễn TNHS. Đặc biệt, Bộ luật
này còn quy định một điều luật riêng về miễn TNHS có tính chất chung áp dụng
cho mọi tội phạm tại Điều 25. Ngoài ra, tại Điều luật này ngoài hai trường hợp
miễn TNHS cũ quy định ở khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1985 trước đây còn quy
định thêm trường hợp miễn TNHS khi có quyết định đại xá.
Theo BLHS năm 1999, tại Điều 25. Miễn Trách nhiệm hình sự quy định:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành
điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm
tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
2. Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người
phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện
và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội
phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
3. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.
Theo quy định này, điều luật đã tách vấn đề miễn TNHS và miễn hình
phạt thành hai điều luật mà không gộp chung như BLHS năm 1985. Theo đó,
những trường hợp miễn TNHS bao gồm: Tại Điều 19 “Miễn TNHS do tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội”; tại khoản 1 Điều 25 “do sự thay đổi của tình
hình”; tại khoản 2 Điều 25 “do sự ăn năn hối cải của người phạm tội”; tại khoản
3 Điều 25 “khi có quyết định đại xá”; tại khoản 2 Điều 69 “cho người chưa
thành niên phạm tội”; tại Điều 80 “cho người phạm tội gián điệp”; tại đoạn 2
32
khoản 6 Điều 269 “cho người phạm tội đưa hối lộ”; tại khoản 6 Điều 290 “cho
người phạm tội làm môi giới hối lộ”; tại khoản 3 Điều 314 “cho người phạm tội
không tố giác tội phạm”.
Theo quy định của BLHS năm 1999, miễn TNHS được nhà làm luật phân
chia thành những trường hợp miễn TNHS có tính chất bắt buộc hoặc tùy nghi
(lựa chọn). Theo đó, tùy vào từng trường hợp cụ thể, cơ quan tiến hành tố
tụng xét thấy nếu người phạm tội đáp ứng đủ những điều kiện cụ thể quy định
về miễn TNHS thì ra quyết định để miễn TNHS cho họ (đối với những trường
hợp bắt buộc). Đối với những trường hợp có tính chất lựa chọn (tùy nghi), căn
cứ vào tình hình thực tế, vào yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm,
cũng như nhân thân người phạm tội, cơ quan có thẩm quyền có quyền áp
dụng hay không áp dụng.
1.5. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về miễn
trách nhiệm hình sự
Miễn TNHS là một chế định cơ bản quan trọng của luật hình sự liên
quan đến nhiều chế định như hình phạt, miễn hình phạt…..vì vậy, pháp luật
các nước trên thế giới đều quy định vấn đề này. Trong giới hạn công trình
nghiên cứu thạc sỹ, tác giả chỉ nghiên cứu pháp luật một số nước điểm hình
trên thế giới.
1.5.1. Pháp luật hình sự Cộng hoà Liên bang Nga
Chế định miễn TNHS trong BLHS Liên bang Nga năm 1996 được ghi
nhận với tính chất là một chế định độc lập, được bố cục tại một chương riêng
biệt (Chương 11) bao gồm bốn điều luật tương ứng là bốn trường hợp miễn
TNHS là [63]: 1) Miễn TNHS do người phạm tội ăn năn hối cải (Điều 75); 2)
Miễn TNHS do người phạm tội đã hòa giải với người bị hại (Điều 76); 3)
Miễn TNHS do sự thay đổi của tình hình (Điều 77) và; 4) Miễn TNHS do đã
hết thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 78);
33
Ngoài những trường hợp miễn TNHS chung quy định trong Chương 11
của Phần chung Bộ luật hình sự, còn có hai trường hợp miễn TNHS là: 1)
Miễn TNHS do đại xá (Điều 85); 2) Miễn TNHS cho người chưa thành niên
(Điều 91).
Như vậy, nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam ( BLHS năm
2015) và CHLB Nga cho thấy, thì về cơ bản những trường hợp miễn TNHS
của hai nước là giống nhau. Tuy nhiên, so với BLHS năm 2015 của Việt
Nam, tại BLHS Liên bang Nga quy định thêm hai trường hợp miễn TNHS tại
phần chung, đó là: Miễn THNS do người phạm tội đã hòa giải với người bị
hại (Điều 76) và miễn TNHS do đã hết thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 78).
Đồng thời, BLHS của Liên bang Nga còn quy định hàng loạt những trường
hợp miễn TNHS khác nữa trong Phần các tội phạm, như [63]: tại Điều 127
“Miễn TNHS cho người bắt cóc người”; tại Điều 202 “cho người phạm tội
khủng bố”; tại Điều 203 “cho người chiếm con tin”; tại Điều 205 “cho người
tổ chức đơn vị vũ trang bất hợp pháp”; tại Điều 219 “cho người sở hữu, tiêu
thụ, bảo quản, chuyển giao hay mang trái phép vũ khí, đạn dược, nổ và thiết
bị gây cháy nổ”; tại Điều 220 “cho người chế tạo vũ khí trái phép”; tại Điều
286 “cho người đưa hối lộ”; tại Điều 301 “cho người đưa ra lời khai, kết luận
giám định hay dịch gian dối”; tại Điều 307 “cho người trốn khỏi nhà tù hoặc
nơi tạm giam”…..
1.5.2. Bộ luật hình sự Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Hoặc BLHS của CHDCND Lào có quy định tại Chương IV - Miễn trừ
TNHS có nêu những ra trường hợp miễn TNHS như sau [63, tr. 17]:
1) Người chưa đủ 15 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 17) nhưng Tòa án phải áp dụng
biện pháp giáo dục, cải tạo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự;
34
2) Người bị mất trí, không nhận thức được hậu quả của hành vi do
mình gây ra thì không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng Tòa án phải buộc
họ chữa bệnh theo quy định của Bộ luật hình sự (Điều 18);
3) Người thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái bị phụ thuộc, bị đe
dọa, uy hiếp thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp tội
phạm nghiêm trọng thì sự đe dọa, uy hiếp chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự (Điều 19);
4) Người thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp phòng vệ chính
đáng, thì không bị coi là phạm tội và không phải chịu trách nhiệm hình sự
(Điều 20);
5) Người thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp tình thế cấp thiết
thì không bị coi là phạm tội và không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều
21).
Nhìn tổng thể, không chỉ pháp luật hình sự Việt Nam mà ở hai nước
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa liên bang Nga, tính nhân đạo,
khoan hồng vẫn là đặc điểm nổi bật trong chính sách hình sự đối với người
phạm tội. Theo đó, nhà làm luật Việt Nam đã đổi mới trong công tác lập pháp,
BLHS năm 2015 dần được hoàn thiện hơn: thể hiện tính nhân đạo, đảm bảo
tính răn đe vừa đáp ứng nhu cầu chuẩn mực với quốc tế về quyền con người.
Như vậy, so với các trường hợp miễn TNHS quy định trong phần
Chung của Bộ luật Hình sự Việt Nam thì về cơ bản các trường hợp miễn
TNHS giữa Việt Nam và 2 nước trên tương đối giống nhau. Việc nghiên cứu,
so sánh về miễn TNHS trong Bộ luật Hình sự của 2 nước trên để có thêm
thông tin tham khảo hoàn thiện chế định miễn TNHS trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam.
35
Tiểu kết Chương 1
Như vậy, qua nghiên cứu chương 1 của luận văn với tiêu đề “Những
vấn đề lý luận và pháp luật về miễn TNHS theo Luật Hình sự Việt Nam”
chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
Một là, chế định miễn TNHS là một trong những chế định nhân đạo của
pháp luật hình sự Việt Nam. Hiện nay, với xu hướng nhân đạo hóa trong việc
xử lý người phạm tội cộng với việc áp dụng chế định này trên thực tế còn
nhiều vướng mắc dẫn đến nhận thức không đúng đắn để áp dụng quy định
miễn TNHS cho phù hợp, đúng pháp luật. Vì vậy, việc xây dựng và làm rõ
chế định này trong BLHS không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà có ý nghĩa
trong công tác thực tiễn đối với cơ quan áp dụng pháp luật.
Hai là, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về
miễn TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ thấy chuyển biến
trong nhận thức của nhà làm luật mà còn thấy được quá trình phát sinh của
các quy định pháp luật hình sự về chế định này. Theo đó, thấy được ý nghĩa,
mục đích của chế định này nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội, tạo điều
kiện cho họ sớm hòa nhập cộng đồng cũng như có ý nghĩa trong việc kế thừa,
phát triển thành tựu lập pháp, tiến bộ qua các thời kỳ.
Ba là, việc so sánh giữa hai chế định miễn TNHS và chế định miễn hình phạt nhằm khẳng định tinh thần đổi mới trong nhận thức về chính sách hình sự theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình…”; đổi mới về chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm và loại chủ thể phạm tội, đảm bảo các quy định của BLHS không chỉ là công cụ
36
pháp lý để các cơ quan chức năng đấu tranh, phòng, chống tội phạm mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Bốn là, nghiên cứu chế định miễn TNHS của các nước giúp ta hiểu
thêm về mặt lý luận của chế định này; qua đó, học tập kinh nghiệm quý báu
của các nước trong việc lập pháp và áp dụng pháp luật về chế định này.
37
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm
2017 về miễn trách nhiệm hình sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018)
Bàn về phân loại miễn TNHS hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau.
Tuy nhiên, chúng tôi căn cứ vào cách quy định (cách thiết kế) của BLHS năm
2015, miễn TNHS được phân loại như sau:
Một là, căn cứ vào vị trí sắp xếp trong BLHS, miễn TNHS được quy
định trong phần Chung và Phần Các Tội phạm với các trường hợp như sau:
1) Năm trường hợp miễn TNHS được quy định trong phần Chung của
BLHS quy định từ Điều 16, Điều 27, 29 Điều 91 BLHS 2015. Các trường
hợp này mang tính chất chung- áp dụng đối với tất cả những người phạm tội,
nếu đáp ứng những điều kiện tương ứng cụ thể. Hay nói cách khác những
trường hợp này rộng và bao trùm toàn bộ BLHS.
2) Bốn trường hợp miễn TNHS trong Phần các tội phạm quy định tại
khoản 4 Điều 110; khoản 7 Điều 364; khoản 6 Điều 365; khoản 2 Điều 290.
Đối với những trường hợp này việc miễn TNHS mang tính chất đặc thù chỉ áp
dụng đối với loại tội phạm cụ thể được quy định.
Hai là, căn cứ vào tính chất (nhà làm luật sử dụng cụm từ “ ĐƯỢC
MIỄN” hay “CÓ THỂ ĐƯỢC MIỄN” , những trường hợp này được chia làm
hai loại: (1) Quy định có tính chất bắt buộc, tức là dứt khoát “được miễn
TNHS” ; (2) Quy định có tính chất tuỳ nghi, tức là “có thể được miễn TNHS”.
Với quy định có tính chất bắt buộc thì khi gặp những trường hợp phù hợp với
38
nội dung của điều luật, cơ quan có thẩm quyền phải miễn TNHS cho người
phạm tội. Với quy định có tính chất tuỳ nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn
cứ vào từng trường hợp cụ thể mà đánh giá tính chất, mức độ của sự việc và
đi đến quyết định miễn TNHS hoặc không miễn TNHS cho người phạm tội.
2.1.1 . Các trường hợp được miễn TNHS
Đây là những trường hợp người phạm tội đương nhiên được miễn TNHS
mà không phụ thuộc vào sự đánh giá của cơ quan có thẩm quyền cũng như sự
hòa giải của người bị hại, bao gồm:
2.1.1.1. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về
tội định phạm Điều 16 BLHS.
Theo quy định tại Điều 16 BLHS năm 2015 “Tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì
ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự về tội định phạm. Nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố
của một tội khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
Như vậy, một hành vi được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội phải thỏa mãn những điều kiện nhất định. Điều kiện thứ nhất là hành vi
chấm dứt việc phạm tội phải là tự nguyện và dứt khoát, nghĩa là phải do chính
người thực hiện hành vi tự quyết định chấm dứt việc phạm tội mặc dù không
có gì ngăn cản việc người đó tiếp tục phạm tội và sự chấm dứt đó phải là việc
từ bỏ hẳn ý định thực hiện tội phạm. Điều kiện thứ hai là sự chấm dứt việc
phạm tội phải xảy ra trong quá trình một người đã có hành vi bắt tay vào việc
thực hiện ý định phạm tội nhưng chưa thực hiện được tội phạm đến cùng,
nghĩa là hành vi mà người đó thực hiện chưa thỏa mãn được hết các dấu hiệu
của một tội phạm cụ thể mà người đó định phạm.
39
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thể hiện tính nhân đạo
của luật hình sự, do một người đã có ý định phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị
hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng đã tự nguyện nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội, được hưởng khoan hồng, không phải chịu trách nhiệm
hình sự.
2.1.1.2. Miễn TNHS do khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, có sự
thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa
Căn cứ miễn TNHS này được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29
BLHS năm 2015, theo đó tại thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi theo
quy định của BLHS thì hành vi đó là tội phạm nhưng khi tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử do có sự thay đổi của chính sách, pháp luật (pháp luật hình sự,
pháp luật chuyên ngành khác có liên quan...) làm cho hành vi đó không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa. Tình tiết “Không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa” cần được hiểu là không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy
cứu TNHS nhưng vẫn có thể bị xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật
khác như trách nhiệm hành chính, dân sự….
Quy định này bổ sung cho Điều 25 BLHS năm 1999 trước đây chưa có
quy định này. Tuy nhiên, sẽ dẫn đến cách hiểu không thống nhất đối với quy
định này:
- Cách hiểu thứ nhất: nếu việc thay đổi chính sách, pháp luật phải làm
cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì mới được miễn
TNHS.
- Cách hiểu thứ hai: tuy có thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi
phạm tội vẫn còn nguy hiểm thì không được miễn TNHS.
40
Tuy nhiên, trên thực tế, thì cứ có sự thay đổi chính sách pháp luật mà
hành vi phạm tội còn nguy hiểm cho xã hội nữa hay không, không cần biết thì
người phạm tội đương nhiên được miễn TNHS.
Ví dụ: BLHS năm 2015 đã bỏ 11 tội so với BLHS năm 1999, trong đó
có các tội như: tại Điều 167 “Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế”; tại Điều
148 “Tội tảo hôn”; tại Điều 83 “Tội hoạt động phỉ”… thì kể từ ngày BLHS
năm 2015 có hiệu lực pháp luật những người trước đây đã thực hiện một
(hoặc nhiều) trong các hành vi mà BLHS năm 1999 quy định là tội phạm mà
sau ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật mới bị phát hiện thì được coi
là hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và mặc nhiên người có hành
vi này được miễn TNHS.
2.1.1.3. Miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá (điểm b
khoản 1 Điều 29 BLHS)
Đại xá là việc miễn TNHS đối với một loại tội phạm nhất định. Miễn
TNHS trong trường hợp này cũng thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước
ta. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền
quyết định đại xá. Thông thường quyết định đại xá được ban hành nhân dịp
những sự kiện trọng đại nhất của đất nước. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt đại
xá với đặc xá. Đặc xá là miễn toàn bộ hay một phần hình phạt đối với một
hoặc một số người bị kết án. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì chỉ
có Chủ tịch nước mới có quyền ra Quyết định đặc xá. Ở nước ta, đặc xá được
Chủ tịch nước quyết định vào các dịp Lễ lớn của đất nước và dân tộc như:
Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4; Ngày lễ Quốc khánh
2/9; Ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
Từ khi Hiến pháp năm 1992 được thông qua cho đến nay, Quốc hội nước
ta chưa có lần nào ban hành quyết định đại xá. Mặc dù không ban hành quyết
định cụ thể cho từng trường hợp nhưng việc đại xá được thể hiện trong các
41
văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội như: Nghị quyết số 32/1999/QH10
ngày 21/12/1999, Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015, Nghị
quyết số 144/2016/QH13 ngày 30/6/2016, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày
20/6/2017 về việc thi hành BLHS thì nội dung của các Nghị quyết này có
chứa đựng nội dung của đại xá. Ví dụ: BLHS năm 2015 có hiệu lực từ 0 giờ
00 ngày 01/01/2018 nhưng Nghị quyết số 41 quy định: “Kể từ ngày BLHS
được công bố, không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử những người phạm
những tội mà BLHS đã bỏ hình phạt tử hình; đối với người đủ 75 tuổi trở lên,
đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội
hoặc khi xét xử; hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người thuộc trường
hợp nêu trên mà chưa thi hành, thì không thi hành nữa…”.
Như vậy, căn cứ vào nội dung trên thì Nghị quyết 41 đã thể hiện nội dung
đại xá.
2.1.1.4. Miễn trách nhiệm hình sự đối với người đã nhận làm gián điệp,
nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 4 Điều 110 BLHS)
Đây là dạng miễn TNHS có tính chất bắt buộc đối với tất cả các cơ quan tư
pháp hình sự khi có cơ sở cho thấy người tuy đã nhận làm gián điệp có đầy đủ
các căn cứ pháp lý như “không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành
khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền” thì được miễn trách
nhiệm hình sự.
2.1.2. Các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự
Theo quy định của pháp luật hình sự, đối với những trường hợp này cơ
quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà đánh giá tính chất,
mức độ của sự việc và đi đến quyết định miễn TNHS hoặc không miễn TNHS
cho người phạm tội, cụ thể gồm những trường hợp sau:
42
2.1.2.1. Miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử
do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã
hội nữa (điểm a khoản 2 Điều 29 BLHS)
Khác với trường hợp miễn TNHS quy định tại Khoản 1 Điều 29 BLHS là
người phạm tội được miễn TNHS do có sự thay đổi chính sách pháp luật của
Nhà nước. Còn đối với trường hợp này là do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Bên cạnh đó, cũng có luồng quan điểm cho rằng “chuyển biến của tình
hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” phải được hiểu
rằng bản thân người phạm tội không có sự biến đổi nào, khi phạm tội họ là
người như thế nào thì vẫn như vậy nhưng do tình hình xã hội thay đổi nên họ
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Nguyên nhân làm cho họ không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa chính là do tình hình thay đổi chứ không phải do nỗ
lực của bản thân họ. Cũng được coi là do chuyển biến tình hình mà người
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong trường hợp người phạm
tội phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt mà thiếu họ thì nhiệm vụ đó khó
hoàn thành, nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã miễn TNHS cho họ để họ
nhận nhiệm vụ đặc biệt đó.
2.1.2.2. Miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử,
người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy
hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29 BLHS)
Đây là quy định mới mà BLHS năm 1999 chưa quy định. Người phạm tội
mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội
nữa là người mắc một trong các bệnh mà y học coi đó là bệnh hiểm nghèo
như bị Ung thư, teo não, HIV ở giai đoạn AIDS, nhiễm vi rút kháng thuốc
như NDM-1, Lao phổi ở giai đoạn cuối….
43
Tuy nhiên, không phải các trường hợp người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo đều có thể được miễn TNHS mà việc mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến
người phạm tội không có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội thì mới được
miễn TNHS.
2.1.2.3. Miễn trách nhiệm hình sự khi người phạm tội tự thú, khai rõ sự
việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận (điểm c khoản 2 Điều
29 BLHS);
Tự thú là tự khai ra hành vi phạm tội của mình với các nhà chức trách.
Việc người phạm tội tự khai ra hành vi phạm tội của mình với các nhà chức
trách là biểu hiện của sự ăn năn hối cải về việc làm sai trái của mình nên đáng
được khoan hồng, nhưng mức độ khoan hồng tới đâu thì lại phải căn cứ vào
chính sách hình sự của Nhà nước; căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra; thái độ khai báo; sự góp phần vào
việc phát hiện và điều tra tội phạm.
Như vậy, người tự thú có thể được miễn TNHS khi có đủ những điều
kiện sau:
+ Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát hiện, tức là chưa
ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm.
+ Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát
hiện và điều tra tội phạm, tức là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình
cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác.
+ Cùng với việc tự thú, người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả của tội phạm như: trả lại tài sản đã chiếm đoạt; thông báo
kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân
44
phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; đòi lại hoặc thu lại những nguồn
nguy hiểm mà họ đã tạo ra cho người khác hoặc những lợi ích khác...
2.1.2.4. Miễn trách nhiệm hình sự khi Người thực hiện tội phạm nghiêm
trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa
bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người
đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình
sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự” (khoản 3 Điều 29 BLHS)
Đây là trường hợp miễn TNHS được bổ sung trong BLHS năm 2015.
Việc quy định mở rộng phạm vi miễn TNHS thể hiện chính sách của Nhà
nước trong việc hạn chế xử lý bằng biện pháp hình sự đối với người thực hiện
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do lỗi vô ý.
Theo kết cấu của quy định khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì người
phạm tội có thể được miễn TNHS khi “đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu
quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS thì có thể được miễn TNHS” trong
hai trường hợp như sau:
▪ Một là, người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác (trường hợp
này có thể là do vô ý hoặc cố ý);
▪ Hai là, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác.
2.1.2.5. Miễn trách nhiệm hình sự khi Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc
phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của
45
Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp
quy định tại Mục 2 Chương này: (khỏan 2 điều 91 BLHS);
BLHS năm 2015 có những bước phát triển tiến bộ trong việc áp dụng
chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, thể hiện đường lối
xử lý nhân đạo sâu sắc. Thời gian vừa qua, cùng với việc thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật về người chưa thành niên vi phạm pháp luật
nói riêng.
Thực tế, theo quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta, người chưa
thành niên vi phạm pháp luật mà chưa đến mức xử lý hình sự hoặc vi phạm
hành chính thì có thể hoà gỉải ở cơ sở theo quy định của Luật Hoà giải cơ sở
năm 2013. Đây là quy định mà có sự tham gia của cộng đồng, xã hội tại xã,
bản, tổ dân phố, phường; áp dụng hiệu quả quy định này sẽ tận dụng được sự
giám sát, giáo dục của gia đình, nhà trường đối với người chưa thành niên
nhằm giúp đỡ, giáo dục họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Để kết hợp chính sách xử lý hình sự đối với người chưa thành niên cần
kết hợp với mục đích giáo dục để họ trở thành người có ích cho xã hội, và chế
định miễn TNHS không nằm ngoài mục đích đó.
2.1.2.6. Miễn trách nhiệm hình sự khi Người đưa hối lộ tuy không bị ép
buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn
TNHS và được trả lại một phần hoặc tòan bộ của đã dùng để đưa hối lộ
(Khỏan 7, Điều 364 BLHS)
Tội đưa hối lộ là tội phạm nguy hiểm xâm phạm hoạt động đúng và uy
tín của Bộ máy Nhà nước ta. Nó gây tác hại đến rất nhiều mặt của đời sống xã
46
hội. Một mặt, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đấu tranh kiên quyết và triệt
để với tệ hối lộ, nhưng để đảm bảo mang tính răn đe cho toàn xã hội, cần có
các biện pháp để xử lý nghiêm khắc hành vi nhận hối lộ của những người có
chức vụ, quyền hạn, đồng thời xử phạt thích đáng những hành động đưa hối
lộ và môi giới hối lộ.
Thực tế đấu tranh tội phạm “đưa – nhận” hối lộ thời gian qua cho thấy
hết sức khó khăn trong việc truy tìm chứng cứ. Đây là một thách thức đối với cơ
quan bảo vệ pháp luật. Tuy khó khăn như vậy, nhưng thời gian gần đây các cơ
quan bảo vệ pháp luật đã quyết tâm đưa ra ánh sáng, xử lý triệt để nhiều vụ đưa
- nhận hối lộ. Những vụ việc “đưa-nhận” hối lộ cho thấy tính phức tạp, khó
khăn của công tác đấu tranh đối với tội phạm tham nhũng trong đó có tội đưa và
nhận hối lộ trong bối cảnh hiện nay. Bởi lẽ, về đặc điểm tội phạm học cho thấy,
ở phía người nhận hối lộ đều có trình độ học vấn cao, có hiểu biết pháp luật, là
cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức xã
hội. Họ trưởng thành đầy đủ về mặt nhận thức, có kinh nghiệm sống, có nhiều
mối quan hệ xã hội và họ có đủ thủ đoạn để đối phó với cơ quan chức năng…..
Về phía người đưa hối hối lộ thường mong muốn lợi ích nhất định khi
đưa hối lộ và nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ nên họ
thường không tố giác, khai báo thiếu thành khẩn, phản xạ tự nhiên là chối tội
nên việc phát hiện đưa và nhận hối lộ gặp nhiều khó khăn, nói cách khác các tội
này có độ “ẩn” khá cao. Nếu người đưa không tố giác thì tất yếu việc xác định
người nhận sẽ rất khó khăn.
Thực tế cho thấy, việc điều tra, chứng minh, xử lý tội phạm đưa hối lộ và
nhận hối lộ là một việc hết sức khó khăn. Đây là một thách thức đối với các cơ
quan tiến hành tố tụng. Bởi, trong điều tra, xử lý tội phạm có một nguyên tắc là
phải xử lý đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Phải có căn cứ chứng minh,
47
bằng chứng cứ tài liệu chứng minh một cách chắc chắn, chứ không phải bằng sự
suy diễn hay nhận định.
Do đó, điều kiện để các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền xem
xét quyết định khi người đưa hối lộ đã chủ động khai báo trước khi bị phát
giác nhằm góp phần lớn vào việc giúp cơ quan điều tra đấu tranh với loại tội
phạm này.
2.1.2.7. Miễn trách nhiệm hình sự khi người không tố giác nếu đã có
hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có
thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt (khoản 2 Điều 390 BLHS).
Không tố giác tội phạm là tội phạm được quy định ở Điều 390 BLHS
năm 2015. Hành vi phạm tội không tố giác tội phạm luôn được thực hiện dưới
hình thức không hành động. Nó có thể xảy ra trong giai đoạn tội phạm đang
chuẩn bị hoặc đang được thực hiện cũng như sau khi tội phạm đã kết thúc.
Hành vi không tố giác tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội bởi nó cản
trở quá trình điều tra, phòng chống tội phạm của cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 390 BLHS quy định "Người không tố giác
tội phạm nếu đã có hành vi can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại
của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt".
Theo quy định này, nếu trường hợp người phạm tội mặc dù đã thực hiện một
trong các hành vi cấu thành tội phạm và phải chịu TNHS về tội này; tuy nhiên
do họ đáp ứng được một trong các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều luật
này nên họ được miễn TNHS, cụ thể người phạm tội thực hiện một trong
những hành vi sau:
Thứ nhất, người không tố giác tội phạm phải có hành động can ngăn
người phạm tội để họ không thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Nếu như hành vi không tố giác tội phạm thể hiện dưới dạng không hành động
thì hành vi căn ngăn là hành vi thể hiện dưới dạng hành động, điều đó có
48
nghĩa người không tố giác khi biết một hành vi phạm tội được thực hiện trên
thực tế họ phải có hành động ngăn cản để không cho người phạm tội thực
hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bằng mọi cách.
Thứ hai, người phạm tội hạn chế tác hại của tội phạm. Điều đó có nghĩa
là tội phạm đã thực hiện, hậu quả đã xảy ra nhưng người biết được tội phạm
đã kịp thời thực hiện những hành vi cần thiết để hạn chế tác hại của tội phạm
ở mức thấp nhất.
Như vậy, một người khi biết rõ một tội phạm đã thực hiện mặc dù họ
không khai báo với cơ quan có thẩm quyền nhưng khi họ thực hiện một trong
hai hành vi trên, điều đó có nghĩa họ đã có ý thức trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm và họ có thể xem xét được miễn TNHS.
2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai
Pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, sự phát triển tiến bộ đi
trước so với cơ sở hạ tầng là đời sống xã hội. Hay nói cách khác hiệu quả của
pháp luật được phản ánh qua thước đo thực tế là đời sống xã hội. Vì vậy, giá
trị của công trình khoa học này là sự nghiên cứu vấn đề miễn TNHS từ thực
tiễn của đời sống xã hội mà cụ thể là từ địa bàn tỉnh Đồng Nai. Các điều kiện
kinh tế xã hội ảnh hưởng đến tình hình tội phạm cũng như ảnh hưởng đến sự
áp dụng pháp luật hình sự đối với đời sống xã hội.
2.2.1. Khái quát chung về kinh tế, chính trị, văn hoá , xã hội của tỉnh
Đồng Nai
Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông Thành phố
Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung
Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ bởi các tuyến giao
thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ 51 và tuyến đường sắt Thống
Nhất… Vì thế, Đồng Nai được coi như là “bản lề chiến lược” giữa bốn vùng
49
của các tỉnh phía Nam. Nó không chỉ có vai trò trọng yếu trong phát triển
kinh tế, mà còn có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế kết hợp an ninh quốc phòng và
môi trường của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với vị trí địa lý như trên,
Đồng Nai là nơi giao thoa của các loại tội phạm từ các tỉnh, vùng lân cận.
Với diện tích khoảng 5.862,37km2, bằng 1,76% diện tích tự nhiên của
cả nước và 25,5% diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ, dân số khoảng 2,56
triệu người, trong đó: Dân số khu vực thành thị 33,23%, khu vực nông thôn
66,73%.
Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và bình nguyên với những núi
sót rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng Bắc Nam, chủ yếu là địa hình
đồng bằng, địa hình đồi lượn sóng, địa hình núi thấp, tương đối bằng phẳng,
có 82,09% đất có độ dốc < 8o, kết cấu đất có độ cứng chịu nén tốt (trên
2kg/cm2), thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công nghiệp và xây dựng công
trình với chi phí thấp.
Với điều kiện tự nhiên ưu đãi Đồng Nai cũng là nơi có nhiều khu công
nghiệp được đầu tư và phát triển, kéo theo là số lượng rất lớn của dân nhập
cư. Chính vì vậy song song với sự phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu giữ
vững trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống với các loại tội phạm trên
địa bàn. Trong hoạt động phòng, chống tội phạm, sự áp dụng các quy định
pháp luật hình sự đảm bảo đúng, phát huy hiệu quả của pháp luật hình sự là
một vấn đề được quan tâm hàng đầu, trong đó có việc áp dụng chế định miễn
TNHS.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng miễn Trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai
Các biện pháp miễn TNHS được quy định trong BLHS thể hiện sâu sắc
bản chất nhân đạo, nhân văn của luật hình sự nước ta, tư tưởng nhân đạo ấy
thể hiện trong từng quy định về các biện pháp miễn, giảm TNHS. Tuy nhiên,
50
giá trị của tư tưởng nhân đạo cao cả ấy đó được hiện thực hoá vào đời sống xã
hội hay không phụ thuộc rất nhiều vào thực tiễn áp dụng. Như nhà lý luận
học, Tkeseliadze G.T viết “ Thực tiễn xét xử là phòng thí nghiệm đặc sắc
kiểm tra sự đúng đắn và hiệu quả của đạo luật hình sự”.
Như vậy, những gì được ghi nhận trong luật phải được áp dụng thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, bởi thực tiễn áp dụng vừa là động lực vừa là
mục đích của sự nhận thức cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng đắn của lý
luận. Chính vì vậy, nếu chỉ nghiên cứu đơn thuần vấn đề lý luận về miễn
TNHS thôi, không gắn với thực tiễn thì công trình nghiên cứu sẽ mất đi giá trị
đích thực của nó bởi thực tiễn khách quan mới phản ánh chính xác được
những gì chúng ta thiếu trong nhận thức.
Từ những vấn đề trên trong công trình nghiên cứu này tác giả muốn
tiếp cận và giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở đánh giá và so sánh giữa nội dung
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ
năm 2015-2020.
BẢNG 1: MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI TỪ 2015-2020
NĂM
MIỄN TNHS
TỶ LỆ PHẦN TRĂM
TỔNG SỐ BỊ ÁN
0,02%
1
4144
2015
1,01%
35
3471
2016
0,54%
16
2953
2017
0,1%
3
3022
2018
0,03%
1
3300
2019
0,00%
0
4563
2020
Nguồn: Báo cáo tổng hợp - Văn phòng TAND tỉnh Đồng Nai
51
BẢNG 2: BẢNG SO SÁNH TỶ LỆ MIỄN TNHS/ HÌNH PHẠT
CỦA TAND ĐỒNG NAI VÀ TAND CẢ NƯỚC
Năm
Cả nước
Đồng Nai
Tỷ lệ (%)
cáo/ miễn
Số bị TNHS 115.641
Số bị cáo/ miễn TNHS 4144
01
Đồng Nai/cả nước 0,9%
117
2015
131.995
2498
3471
35
1,4%
2016
119.207
435
2953
16
3,7%
2017
110.547
56
3022
03
5,3%
2018
135.338
49
3300
01
2%
2019
162.295
41
4563
0
0%
2020
Nguồn: Báo cáo tổng hợp - Vụ Tổng hợp TAND tối cao
BẢNG 3: MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
(Giai đoạn 2015-2020)
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát
Năm
Vụ án
Bị can
Vụ án
Bị can
7
16
1
6
2015
11
57
26
64
2016
10
10
5
12
2017
10
11
9
12
2018
4
4
4
4
2019
2
2
0
0
2020
Nguồn: Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai
Thông qua các số liệu được thể hiện ở các bảng thống kê trên có thể rút
ra được một số nhận xét sau đây:
52
Thứ nhất, chế định miễn TNHS được thực hiện chủ yếu ở giai đoạn
điều tra, truy tố. Tòa án các cấp trên phạm vi toàn tỉnh cũng áp dụng chế định
này nhưng chiếm số lượng ít.
Cụ thể: cơ quan điều tra áp dụng miễn TNHS giai đoạn (2015-2020) là
100 bị can (chiếm tỷ lệ 39,3%); Viện kiểm sát là 98 bị can (chiếm tỷ lệ
38,6%); Tòa án là 56 bị cáo (22,04%).
Thứ hai, việc áp dụng chế định miễn TNHS của các cơ quan tiến hành
tố tụng chủ yếu tập trung vào một số loại tội phạm nhất định với điều kiện
được miễn chủ yếu tập trung vào khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999 và khoản
3 Điều 29 BLHS năm 2015. Việc miễn TNHS được cơ quan tiến hành tố tụng
áp dụng đối với một số tội: tội đánh bạc, tội trộm cắp, tội tổ chức đua xe trái
phép, tội cố ý gây thương tích, tội phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ…Trong đó, đối với loại tội phạm đánh bạc và trộm cắp tài sản được
cơ quan Tòa án áp dụng là chủ yếu. Riêng tội đua xe trái phép được viện kiểm
sát áp dụng nhiều nhất, cụ thể năm 2016 với 39 bị can được áp dụng chế định
miễn TNHS theo khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999.
Thứ ba, qua bảng số 1 và số 3 cho thấy, việc áp dụng chế định miễn
TNHS của cơ quan điều tra, viện kiểm sát thì tương đối đồng đều qua từng
năm; riêng tòa án thì có sự chênh lệch so với 2 cơ quan này. Điều này cho
thấy, cơ quan tòa án siết chặt việc áp dụng chế định này hoặc cũng có thể
nhận định rằng, có sự nhận thức khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong từng giai đoạn nên dẫn đến còn ngại áp dụng chế định này đối với người
phạm tội.
Thứ tư, điểm giống nhau trong việc áp dụng này đối với cả 3 cơ quan là
số lượng lớn được thực hiện vào năm 2016 khi BLHS năm 2015 có hiệu lực
thi hành; tuy nhiên, giảm dần qua các năm về sau; đặc biệt đến năm 2020 thì
53
viện kiểm sát và tòa án không giải quyết trường hợp nào; riêng cơ quan điều
tra thì 2 trường hợp.
Riêng đối với cơ quan tòa án việc áp dụng chế định miễn TNHS được
thể hiện rõ nét như sau:
Thứ nhất, biện pháp miễn TNHS rất ít được áp dụng, cụ thể năm 2015,
2019 một năm chỉ áp dụng 1 trường hợp miễn TNHS chiếm tỷ lệ 0,02% trên
tổng số người bị kết án; thậm chí đến năm 2020 thì không có trường hợp nào.
Năm 2016 là năm số lượng người được miễn TNHS cao nhất có 35 trường
hợp chiếm 1,01% - điều này cũng được hiểu là khi BLHS năm 2015 có hiệu
lực, rất nhiều bị cáo được miễn TNHS khi áp dụng những tình tiết mới của Bộ
luật có lợi cho người phạm tội. Quy định miễn TNHS theo BLHS 2015 lý do
“có sự thay đổi chính sách, pháp luật” được áp dụng có lợi cho người phạm
tội. Tại thời điểm giao thời giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 nhiều
loại tội phạm được nhà làm luật thay đổi cấu thành để phù hợp với tình hình
kinh tế, chính trị xã hội. Do đó, thực tiễn áp dụng cho thấy số lượng bị cáo
được miễn TNHS vì lý do này khá phổ biến. Việc BLHS quy định căn cứ này
để miễn TNHS tại Điều 29 BLHS năm 2015 giúp tạo điều kiện thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng được rõ ràng. Trước đây
chưa có quy định này nên có trường hợp do có sự thay đổi của chính sách
pháp luật mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa nhưng cơ
quan tiến hành tố tụng khi áp dụng miễn TNHS với lý do “chuyển biến tình
hình” là không hợp lý bởi lẽ những trường hợp này tình hình không có sự
chuyển biến.
Việc áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 được áp
dụng trong thực tiễn. Phải thừa nhận rằng quy định này chính là một hình
thức giải quyết tranh chấp hình sự thông qua con đường tự nguyện hoà giải
giữa người thực hiện tội phạm và người bị hại lần đầu tiên được ghi nhận
54
trong pháp luật hình sự Việt Nam. Cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương đã
mạnh dạn áp dụng quy định này, đặc biệt là trong các vụ án vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260
BLHS 2015.
Như đã đề cập ở chương 1, miễn TNHS là không buộc người phạm tội
phải chịu TNHS về tội phạm mà họ đã thực hiện. Như vậy, đối tượng được
miễn TNHS không bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuộc nội dung của
TNHS bao gồm bị kết án, hình phạt và các biện pháp tư pháp thay thế cho
hình phạt và án tích. Mặc dù BLHS 2015 quy định 10 trường hợp miễn TNHS
(bao gồm Phần Chung và Phần Các Tội phạm), song thống kê cho thấy thực
tiễn xét xử các toà án ít áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, tần suất và xu hướng vận dụng áp dụng biện pháp miễn TNHS
trong giai đoạn giải quyết TNHS là không giống nhau. Nếu như một số loại
án như án treo có động thái tăng đều theo hằng năm thì miễn TNHS có mức
độ tăng giảm qua các năm không ổn định, như năm 2016 tăng vọt lên 35
trường hợp; năm 2017 giảm ½ còn 16 trường hợp và đến năm 2018 thì lại
giảm còn 3 trường hợp và năm 2019 thì chỉ có một trường hợp trong khi tổng
số bị án tăng giảm đều, đến năm 2020 thì không có trường hợp nào. Điều này
có lẽ xuất phát từ lý do của việc áp dụng các biện pháp này, nếu như án treo
được áp dụng về cơ bản dựa vào quan điểm, chính sách xử lý thì miễn TNHS
phụ thuộc vào số trường hợp cụ thể xảy ra.
Thứ ba, theo Bảng thống kê số 02 cho thấy tỷ lệ phần trăm số người
được miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cả nước mỗi năm không
giống nhau, không tỷ lệ thuận với số người miễn TNHS của TAND tỉnh Đồng
Nai, cụ thể:
Mặc dù năm 2016, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực đối với những
quy định có lợi cho người phạm tội thì số lượng bị cáo được miễn TNHS cả
55
nước tăng vọt từ 117 người lên 2489 bị cáo. Vì vậy, tỷ lệ thuận với số liệu này
thì Đồng Nai cũng tăng vọt lên 35 người năm 2016 trong khi năm 2015 có
1 trường hợp; trong khi năm 2018 mặc dù Đồng Nai chỉ có 03 trường hợp
được miễn TNHS thôi nhưng lại chiếm tỷ lệ cao nhất trong vòng 5 năm so với
tỷ lệ của cả nước 56 trường hợp chiếm 5,3%, nhưng đến năm 2020 thì không
có trường hợp nào. Như vậy, số liệu này cũng phản ánh việc miễn TNHS ở
toà địa phương phụ thuộc vào vụ án và người thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong
việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Miễn TNHS được quy định trong luật hình sự nước ta thể hiện chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước trong việc xử lý tội phạm. Trong
thời gian qua, việc cụ thể hoá chính sách này trong quy định của pháp luật
hình sự đã được tăng cường và cụ thể hoá sâu sắc trong BLHS. Đa số người
phạm tội khi được áp dụng biện pháp này đã thể hiện sự hối cải, làm ăn lương
thiện, tỷ lệ tái phạm thấp. Điều đó đã chứng minh sự đúng đắn của Nhà nước
ta trong việc áp dụng các chính sách khoan hồng đối với người phạm tội trong
đó có vấn đề miễn TNHS. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng từ thực tiễn cả
nước nói chung và địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng cho thấy rằng còn những
vướng mắc, hạn chế nhất định. Qua nghiên cứu, chúng tôi có thể đưa ra
những đánh giá mang tính tổng thể như sau:
Thứ nhất, nhận xét một cách tổng quát cho thấy các biện pháp miễn
TNHS theo quy định của BLHS năm 2015 mặc dù đã có những thay đổi, bổ
sung hơn so với BLHS năm 1999. Tuy nhiên, miễn TNHS vẫn chưa được xây
dựng dựa trên một nền tảng lý luận vững chắc. Điều đó dẫn đến thiếu tính
đồng bộ, thống nhất trong các quy định của BLHS cũng như mối quan hệ của
luật hình sự với các pháp luật tố tụng hình sự, hành chính, dân sự. Cụ thể là
những quy định khi miễn TNHS cho người phạm tội thì không áp dụng hậu
56
quả pháp lý đối với họ nhưng có áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý
khác không ? Bởi hiệu quả của việc áp dụng pháp luật là một tổng thể thống
nhất trong đó pháp luật hình sự là một phần của thể thống nhất đó.
Thứ hai, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc thực thi pháp luật dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan chỉ quan tâm đến
những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Vấn đề thống kê thiếu
thống nhất dẫn đến ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề tổng kết rút kinh nghiệm.
Thứ ba, miễn TNHS là một chế định nhân đạo nó có ý nghĩa rất lớn đối
với người phạm tội nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa về mặt xã hội như giảm
thiểu sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với người phạm tội,
giảm thiểu các chi phí cho nhà nước… Tuy nhiên thực tế cho thấy việc áp
dụng biện pháp này rất hạn chế. Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng có nguyên nhân đó là pháp luật quy định chưa rõ ràng dẫn đến sự
không mạnh dạn của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng chế định
này. Kéo theo lý do này dẫn đến, việc công bố các án lệ liên quan đến vấn đề
này hầu như không có. Đây cũng là một hạn chế tồn tại trong việc áp dụng
pháp luật đối với chế định này cũng như ảnh hưởng đến việc tổng kết kinh
nghiệm.
Thứ tư, việc nhận thức các quy định của pháp luật về miễn TNHS ở cơ
quan tiến hành tố tụng các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh còn hạn chế,
thậm chí còn áp dụng sai tinh thần của luật, cụ thể:
- Như đã đề cập trước khi có quy định của BLHS năm 2015 quy định
căn cứ miễn TNHS “do có sự thay đổi chính sách pháp luật”, việc cơ quan
tiến hành tố tụng ở địa phương áp dụng việc miễn TNHS theo căn cứ “do
chuyển biến tình hình” không phù hợp vẫn diễn ra nên gây bức xúc cho dư
luận.
57
Theo Quyết định số 18/QĐ-VKS ngày 23/8/2018 của Viện Kiểm sát
huyện Trảng Bom đình chỉ vụ án đối với trường hợp của ông Nguyễn Văn
Ngàn gây tai nạn giao thông sau khi uống rượu, làm chết một người và 3
người bị thương. Tuy nhiên, VKS huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai vẫn ra
quyết định đình chỉ vụ án và miễn TNHS đối với ông Ngàn theo khoản 3 Điều
29 BLHS năm 2015 với lý do người phạm tội đã bồi thường thiệt hại cho các
bị hại và gia đình bị hại đã làm đơn bãi nại cho bị can Ngàn. Như vậy, việc áp
dụng biện pháp miễn TNHS theo Điều 29 BLHS năm 2015 là không đúng
bởi việc bồi thường cho bị hại trong trường hợp này chỉ được xem là một tình
tiết giảm nhẹ TNHS là “người phạm tội tự nguyện sữa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả” (điểm c khoản 1 Điều 51). Thêm vào đó ông Ngàn
phạm tội rất nghiêm trọng nên không thể cho miễn TNHS vì không đảm bảo
yêu cầu phòng chống tội phạm.
- Có nhiều trường hợp, người phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, như: Tội
Trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 173); tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1
Điều 174); tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 175) v.v.
đã bồi thường, bồi hoàn đầy đủ các thiệt hại và được người bị hại đề nghị
miễn TNHS nhưng không được các cơ quan pháp luật xem xét miễn TNHS
(thực tiễn chưa miễn TNHS cho trường hợp nào thuộc loại này). Đây còn
đang là khoảng trống mà gần như chưa được các cơ quan tố tụng xem xét đến
để thực hiện việc miễn hay không miễn TNHS cho người phạm tội có đủ điều
kiện quy định thuộc loại này.
Thứ năm, vấn đề né bồi thường oan của cơ quan tiến hành tố tụng
thường bám vào quy định miễn TNHS của BLHS, cụ thể là mỗi khi có bị can,
bị cáo, bị oan, họ đều sẽ nhận được quyết định miễn TNHS với căn cứ “do
chuyển biến của tình hình”, dẫn đến việc lạm dụng miễn TNHS để né bồi
thường oan sai. Cụ thể, TAND huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai đã ra Quyết
58
định số 23/2016/HSST-QĐ đình chỉ và áp dụng miễn TNHS đối với vụ án của
ông Trần Văn Lượng là thủ quỹ của Công ty TNHH Sông Mây, ông bị truy tố
về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm a,b Khoản 3 Điều 140
BLHS năm 1999). Tại cấp xét xử phúc thẩm nhận định quá trình điều tra ở cấp
sơ thẩm chưa đầy đủ, chưa chứng minh được ý thức chiếm đoạt cũng như thủ
đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Lượng. Vì vậy, toà phúc thẩm
tuyên chưa đủ căn cứ để xác định hành vi của ông Lượng có chiếm đoạt tài sản
hay không và tuyên huỷ toàn bộ án sơ thẩm. Cơ quan THTT huyện Xuân Lộc
điều tra lại và kết luận ông Lượng đã khắc phục một phần tài sản trong quan hệ
dân sự và Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự, với lý do “do chuyển
biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”
theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015. Thực trạng né tránh bồi
thường oan sai do việc thu thập chứng cứ buộc tội yếu của cơ quan Điều tra
bằng cách áp dụng miễn TNHS cũng là thực trạng chung của cả nước hiện nay.
Đây là việc áp dụng không đúng chế định miễn TNHS bởi miễn TNHS là việc
người đó đã phạm tội đã thực hiện hành vi được quy định trong BLHS, tuy
nhiên vì những lý do nhân đạo pháp luật hình sự quy định miễn áp dụng các
hậu quả pháp lý đối với họ. Còn trong trường hợp trên, bản thân ông Lượng
không phạm tội theo nguyên tắc suy đoán vô tội bởi cơ quan có thẩm quyền
không chứng minh được.
Thứ sáu, mặc dù Điểm c Khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 đã quy
định các điều kiện chặt chẽ để miễn TNHS, trong đó có điều kiện người phạm
tội “ tự thú” và đây là điều kiện miễn TNHS mang tính chất “tuỳ nghi”, cơ
quan tiến hành tố tụng căn cứ cụ thể vào từng trường hợp để có thể quyết định
miễn TNHS hay không cho người thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, căn
cứ này cũng được hiểu là áp dụng cho mọi loại tội phạm bởi pháp luật không
quy định giới hạn áp dụng. Điều này theo tác giả có thể dẫn đến tiềm ẩn nhiều
59
nguy cơ lạm dụng cũng như không rõ nét mức độ phân hoá phân loại tội phạm
trong BLHS 2015. Ở đây muốn đề cập đến đối với loại tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội thì
việc áp dụng điều kiện này để miễn TNHS là không thoả đáng, không đảm
bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đơn cử như vụ án của ông
Đinh Văn Tam, ngụ tại xã Nhân Nghĩa, huyện Cẩm Mỹ tỉnh Đồng Nai, đưa
hối lộ tài sản có giá trị đặc biệt lớn lên đến hàng tỷ đồng cho ông Bùi Văn
Nghĩa, là Trưởng phòng Kế hoạch và Tài chính huyện Cẩm Mỹ- thuộc trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều 364 BLHS năm 2015 là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, nhưng ông Tam lại được miễn TNHS do tự thú với các điều
kiện khác tại Quyết định số 14/QĐ-VKS ngày 17/9/2017 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Cẩm Mỹ. Điều này dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, gây ảnh
hưởng xấu trong dư luận cũng như niềm tin của người dân vào sự nghiêm
minh của pháp luật, trái ngược với mục đích nhân đạo trong chế định miễn
TNHS.
Điểm cuối cùng trong những hạn chế thực tiễn áp dụng chế định miễn
TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đó là theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều
29 BLHS năm 2015 “góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội
phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công
lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận”. Về tình
tiết này hiện nay cách hiểu chưa thống nhất, cụ thể có hai cách hiểu khác nhau
như sau: (1) tội phạm ở đây là đồng phạm có liên quan đến vụ án mà người
được miễn TNHS liên quan đến vụ án đó góp phần đáng kể làm sáng tỏ sự
thật của vụ án mà chính họ tham gia; (2) tội phạm nghĩa là tội phạm bất kỳ
nói chung, người được miễn TNHS chỉ cần khai bất kỳ tội phạm độc lập nào,
không liên quan đến vụ án chính mình góp phần hiệu quả vào công tác điều
tra tội phạm. Mặt khác, trong quy định này, tình tiết “ được Nhà nước và xã
60
hội thừa nhận” vẫn còn rất mơ hồ. Bởi thừa nhận bằng hình thức nào? Văn
bản nào? Và cơ quan nào có thẩm quyền thừa nhận việc đó ? Từ sự vướng
mắc trên cho nên trong thời gian qua việc áp dụng miễn TNHS trên địa bàn
tỉnh còn hạn chế, số lượng bị can được miễn TNHS rất ít, điều đó cũng phần
nào hạn chế tính nhân đạo nhân văn trong việc áp dụng pháp luật hình sự. Vì
vậy, trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, chưa có cơ quan tiến hành tố
tụng nào áp dụng chế định miễn TNHS đối với trường hợp này.
Như vậy, từ thực tiễn áp dụng chế định miễn TNHS trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai nêu trên, tác giả xin rút ra một số nguyên nhân sau:
Từ thực tiễn áp dụng và một số tồn tại, hạn chế khi áp dụng quy định
của Bộ luật Hình sự Việt Nam về miễn TNHS theo tác giả do một số nguyên
nhân cơ bản sau:
Một là, quy định về miễn TNHS chưa chặt chẽ, chưa có văn bản
hướng dẫn kịp thời đối với một số nội dung về quy định miễn TNHS dẫn đến
sự không mạnh dạn cũng như sự không thống nhất của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc áp dụng chế định này.
Hai là, nhận thức về quy định miễn TNHS của các cơ quan tiến hành tố
tụng còn hạn chế, chưa thống nhất dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thực tiễn áp dụng chế định miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
trong vòng 06 năm từ năm 2015-2020 là không giống nhau, tỷ lệ tăng giảm
không đều, số lượng người được áp dụng rất ít ở giai đoạn xét xử. Thực tế này
xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau và trong nội hàm của Chương 2 tác
giả đã liệt kê được bảy nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản vẫn là sự
nhận thức chưa đúng về chế định miễn TNHS theo quy định của BLHS năm
2015. Có thể những quy định mới về chế định này của BLHS vẫn còn chưa
thống nhất điều đó dẫn đến hạn chế khi cơ quan có thẩm quyền ngại áp dụng.
61
Tiểu kết Chương 2
Miễn TNHS là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam
thể hiện Nhà nước không áp dụng các hậu quả pháp lý đối với người thực
hiện hành vi được xem là tội phạm theo quy định của BLHS khi họ hội đủ các
điều kiện nhất định. Vì vậy, từ sự phân tích các quy định tại Chương 2, có thể
rút ra một số kết luận sau:
Một là, chế định miễn TNHS được quy định trong BLHS năm 2015 với
2 trường hợp bắt buộc áp dụng và tuỳ nghi với những quy định rất tiến bộ so
với BLHS năm 1999.
Hai là, BLHS năm 2015 quy định cụ thể những trường hợp miễn
TNHS nhưng đối với mỗi trường hợp miễn TNHS thì việc nhận thức chính
xác nội hàm, bản chất của nó để áp dụng trong thực tiễn còn nhiều vấn đề
chưa rõ ràng và chưa thống nhất. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều khi còn áp dụng chưa đúng hoặc chưa
mạnh dạn vận dụng quy định của chế định này. Do đó, từ thực tiễn cho thấy,
bên cạnh những trường hợp miễn TNHS có căn cứ và đúng pháp luật thì vẫn
còn có một số trường hợp miễn TNHS không có căn cứ và đúng pháp luật, bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội ít nhiều gây ảnh hưởng đến công tác đấu tranh
và phòng, chống tội phạm.
Ba là, chế định miễn TNHS rất ít được áp dụng, trong đó, tòa án chiếm
số ít các trường hợp được thể hiện giảm dần qua các năm, thậm chí đến 2020
không phát sinh trường hợp nào.
Nhìn nhận một cách tổng thể, BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) tiếp tục đề cao tính hướng thiện và mục đích nhân đạo trong chế
định miễn TNHS, tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công
dân mà Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Từ những phân tích các quy định về
62
miễn TNHS tại Chương 2 là những quy định có lợi, tạo điều kiện cho người
phạm tội tái hòa nhập cộng đồng; đồng thời, tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của
mình trong môi trường xã hội bình thường, có sự giám sát của chính quyền
địa phương, gia đình, xã hội. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương
của Đảng về giáo dục, cải tạo người phạm tội, xóa bỏ dần những định kiến xã
hội đối với người phạm tội nhưng có sự cải tạo tốt, quyết tâm hướng thiện
theo phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”.
63
Chương 3
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về chế định miễn trách nhiệm hình sự
Pháp luật là kiến trúc thượng tầng được quyết định bởi cơ sở hạ tầng
là đời sống xã hội. Pháp luật có bản chất là được sinh ra từ cuộc sống thực tế,
một mặt pháp luật là chuẩn mực cho hành vi xử sự của con người, định hướng
hành vi xử sự cho công dân trong đời sống xã hội nhưng mặt khác nó có tác
động tiêu cực nếu việc áp dụng pháp luật không công bằng và không mang
tính nhân đạo.
Xuất phát từ lý lẽ trên nên việc hoàn thiện pháp luật nói chung, chế
định miễn TNHS nói riêng có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh sự phát
triển của các quan hệ xã hội.
Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật hình sự về chế định miễn TNHS dựa
trên những nhu cầu như sau:
3.1.1. Về phương diện lý luận và pháp luật
Như đã trình bày ở Chương 1, vấn đề lý luận về miễn TNHS hiện nay
vẫn đang tồn tại những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ là một
vấn đề mang tính chính sách hình sự lớn nên để hoàn thiện chế định miễn
TNHS cần phải có thời gian và sự mài dũa của thực tiễn.
Hoàn thiện chế định miễn TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam có
ý nghĩa về mặt lý luận rất lớn bởi nó góp phần giúp cho cán bộ nghiên cứu
64
khoa học-giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học…. Cũng như những
người làm công tác thực tiễn (Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán….) có
nhận thức đúng đắn chính xác và đầy đủ, thống nhất về căn cứ miễn TNHS và
những điều kiện áp dụng trong từng trường hợp cụ thể, nhằm góp phần áp
dụng đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan
người vô tội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống
tội phạm, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Về phương diện lập pháp việc hoàn thiện chế định miễn TNHS góp
phần hoàn thiện những “lổ hổng”, những quy định đã lỗi thời, thiếu chính xác
về mặt khoa học để hoàn thiện chế định này cho phù hợp với sự phát triển của
thực tế đời sống xã hội. Những thay đổi cơ bản trong BLHS sẽ góp phần làm
căn cứ quan trọng để cơ quan có thẩm quyền dễ dàng áp dụng, rõ ràng, chính
xác và thống nhất, tránh trường hợp mỗi toà án từng địa phương áp dụng khác
nhau do hiểu chưa thống nhất. Mặt khác, việc hoàn thiện chế định miễn
TNHS sẽ là cơ sở quan trọng nền tảng cho các cơ quan có thẩm quyền ban
hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật chính xác.
3.1.2. Về phương diện thực tiễn
Như đã trình bày ở phần Chương 2 cho thấy thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự vẫn còn có một số trường hợp miễn TNHS không đúng pháp
luật, không có căn cứ pháp lý dẫn đến để lọt tội phạm và người phạm tội. Cụ
thể, việc đánh giá các căn cứ miễn TNHS không đầy đủ và chính xác, cụ thể
sai lầm thường gặp là người phạm tội có các tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt hoặc phạm tội nghiêm trọng, có mức hình phạt cao hoặc người
phạm tội đã có tiền án, tiền sự, phạm tội nhiều lần, có đồng phạm, tái phạm,
đã bị xử lý hành chính... đáng lẽ phải bị truy cứu TNHS nhưng lại được đình
chỉ miễn TNHS dẫn đến tình trạng lọt tội phạm và người phạm tội. Việc áp
dụng Khoản 3 Điều 29 BLHS 2015 còn thiếu chính xác miễn TNHS cho
65
người phạm tội gây ra hậu quả nghiêm trọng, hoặc nhầm lẫn giữa trường hợp
có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với miễn TNHS.
3.2. Một số kiến nghị đối với những quy định về miễn TNHS cần
được hướng dẫn để tạo điều kiện thuận lợi trong thực tiễn áp dụng
Việc hoàn thiện quy định của BLHS về chế định miễn TNHS theo
hướng sửa đổi bổ sung về mặt lập pháp là một biện pháp lâu dài cần thời gian.
Vì vậy, trong thời gian ngắn việc đề xuất hướng dẫn áp dụng pháp luật là biện
pháp tạm thời nhưng cần thiết và hiệu quả. Trong phạm vi nghiên cứu của
một luận văn thạc sỹ, tác giả nhận thấy qua thực tiễn áp dụng các quy định về
miễn TNHS còn một số bất cập và chưa cụ thể; vì vậy, cũng mạnh dạn đề
xuất những kiến nghị để cơ quan cấp trên có hướng dẫn kịp thời trong việc áp
dụng chế định miễn TNHS, cụ thể:
Thứ nhất, cần hướng dẫn rõ quy định về miễn TNHS do “sự thay đổi
chính sách pháp luật” được quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS năm
2015.
Như đã trình bày ở phần Chương 2, hiện nay chưa có một văn bản nào
hướng dẫn cụ thể cách hiểu cụm từ “sự thay đổi chính sách pháp luật” dẫn
đến nhiều quan điểm khác nhau. Theo cách hiểu hiện nay thì sự thay đổi này
chỉ đơn thuần là thay đổi của “chính sách pháp luật”. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tác giả sự thay đổi các chính sách kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà
nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến tính nguy hiểm cho xã hội của người phạm
tội đặc biệt là đối với các tội phạm về kinh tế về xâm phạm trật tự công
cộng….Chính vì vậy, để tạo thuận lợi cho việc vận dụng căn cứ miễn TNHS
cũng như đảm bảo tính linh hoạt và nhạy bén phù hợp với nhu cầu của thực
tiễn xã hội luôn luôn vận động và phát triển, kiến nghị hướng dẫn rõ thuật ngữ
“sự thay đổi của chính sách pháp luật” bao gồm ở các lĩnh vực nào?
66
Cũng nằm trong quy định tại điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015
như tác giả đã phân tích ở mục 2.3.3 Chương 2 đó là tình tiết “góp phần hiệu
quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả của tội phạm” là chưa rõ ràng và có nhiều hướng xử lý khác
nhau. Vì vậy, tác giả cũng đề xuất kiến nghị hướng dẫn điều luật “tội phạm” ở
đây có bao gồm đồng phạm không?
Thứ hai, về miễn TNHS do chuyển biến của tình hình quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015.
Toà án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể tình
tiết này theo hướng : “Sự chuyển biến của tình hình làm cho người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa là sự chuyển biến của tình hình chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… hoặc là sự chuyển biến của bản thân người
phạm tội, đã nổ lực khắc phục những sai lầm, tích cực xây dựng lối sống tốt
đẹp, nghĩa cử cao đẹp… dẫn đến xét thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người đó là không cần thiết nữa.”
Thứ ba, về miễn TNHS do người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo được
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015.
Các cơ quan có thẩm quyền như TANDTC có thể phối hợp với Bộ Y tế
ban hành danh mục bệnh hiểm nghèo để làm cơ sở cho các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng tình tiết này một cách thống nhất.
Thứ tư, liên quan điến tình tiết người phạm tội tự thú quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015. Hiện nay cũng chưa có văn bản hướng
dẫn “ lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt”. Nghiên cứu cho thấy tại tiểu
mục 2.1 mục 2 Nghị quyết 01/2007 NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội
Đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
67
cũng như sự phân tích ở Chương 2, tác giả đề xuất TANDTC cần hướng dẫn
cụ thể tình tiết này theo hướng như sau:
“ Lập công lớn là khi người phạm tội có hành động giúp đỡ cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được
người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của nhà
nước, của tập thể, cá nhân trong thiên tai, hoả hoạn hoặc có hành động khác
thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, tập. thể, cá nhân được các cơ
quan có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản”.
Thứ năm, cũng liên quan đến khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 như đã
trình bày ở Chương 2, việc BLHS 2015 bổ sung miễn TNHS theo khoản 3
Điều 29 BLHS năm 2015 là một bước tiến bộ trong việc đưa hoà giải hình sự
vào Luật. Tuy nhiên, khi áp dụng trường hợp này trong thực tiễn tuỳ tiện đặc
biệt là đối với các vụ án xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Chính
vì vậy tác giả đề xuất TANDTC cần hướng dẫn rõ tiêu chí chung về tính chất
mức độ lỗi, hậu quả của tội phạm, nhân thân của người phạm tội và các yếu tố
khác có liên quan.v.v. để làm cơ sở cho việc miễn TNHS quy định tại khoản 3
Điều 29 BLHS năm 2015, hạn chế việc “có thể” để tránh tùy tiện trong việc
áp dụng và đảm bảo tính công bằng trong việc xử lý tội phạm.
3.3. Những giải pháp khác nhằm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật hình về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Như đã phân tích những tồn tại, hạn chế trong Chương 2, việc áp dụng
miễn TNHS từ thực tiễn Đồng Nai cho thấy việc áp dụng chế định miễn
TNHS trên địa bàn tỉnh còn hạn chế cũng như cách hiểu chưa thống nhất. Vì
vậy, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp chung mang tầm vĩ mô của cả
nước như đã trình bày ở trên, thì ở tầm vi mô trên địa bàn tỉnh, theo tác giả
còn có một số giải pháp như sau:
68
Thứ nhất, hằng năm các cơ quan liên ngành như VKS, Công An, Toà
án cần có hội nghị tổng kết công tác phối hợp trong việc áp dụng pháp luật
hình sự, trong tổng kết ngành cần nêu rõ những vấn đề tồn tại có liên quan
đến việc áp dụng PLHS trong đó có miễn TNHS,
Thứ hai, riêng đối với ngành toà án hằng năm có thể họp tổng kết rút
kinh nghiệm hoặc trao đổi chuyên môn giữa các toà án các huyện đặc biệt chú
trọng sự phát triển về chuyên môn của các huyện vùng sâu xa.
Thứ ba, việc áp dụng pháp luật đúng cần có yếu tố con người đó là
nâng cao trình độ chuyên môn của các thẩm phán bằng các khoá đào tạo, bồi
dưỡng ngắn hạn, dài hạn cập nhật thường xuyên kiến thức pháp luật.
69
Tiểu kết Chương 3
Trong phạm vi Chương 3, trên cơ sở những tồn tại vướng mắc khó
khăn đã được phân tích tại Chương 2, tác giả tập trung việc đề xuất các giải
pháp nhằm khắc phục những khó khăn vướng mắc còn tồn tại trên thực tiễn,
chúng ta có thể rút ra được kết luận sau đây:
Một là, vấn đề miễn TNHS hiện nay vẫn tồn tại những quan điểm khác
nhau. Vì vậy, việc hoàn thiện chế định miễn TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng; đồng
thời sẽ là cơ sở quan trọng nền tảng cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành
các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật chính xác. Áp dụng pháp luật là
một trong những hình thức thực hiện pháp luật; do đó, để đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội, đòi hỏi của người dân đối với cơ quan tư pháp là
công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật để không để lọt tội phạm và người
phạm tội, tránh làm oan người vô tội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Hai là, đề tài đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng hoạt động áp dụng chế định miễn TNHS, các giải pháp này thể hiện ở
việc hoàn thiện pháp luật về hình sự liên quan đến miễn TNHS, nâng cao chất
lượng hoạt động của đội ngũ Thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên cũng
như tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc áp dụng chế định miễn TNHS.
70
KẾT LUẬN
Miễn TNHS là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự
Việt Nam thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta
đối với người phạm tội. Việc áp dụng đúng chính sách nhân đạo này nhằm
động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả
năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở
thành người có ích cho xã hội.
Miễn TNHS cũng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ với chế định trách
nhiệm hình sự. Có thể khẳng định rằng, khái niệm và cơ sở của miễn TNHS
cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự. Cho nên, việc
nhận thức đúng bản chất của vấn đề trách nhiệm hình sự và việc áp dụng đúng
đắn chế định miễn TNHS trong thực tiễn sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho
các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ có
hiệu quả các lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân.
Vì vậy, để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
miễn TNHS, ngoài yêu cầu xuất phát từ đường lối chính sách của Đảng, thống
nhất với Hiến pháp thì đòi hỏi phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện này
phải thể hiện tư tưởng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối xử
lý tội phạm và người phạm tội.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân hiện nay, để nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự nói
chung và luật hình sự nói riêng cũng như để phù hợp với thực tiễn xét xử và
pháp luật hình sự các nước trên thế giới, dưới góc độ nhận thức - khoa học,
nhà làm luật cần xây dựng hẳn một chương riêng để quy định về chế định
miễn TNHS. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường các giải pháp hữu hiệu nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định miễn TNHS trong thực tiễn.
71
Trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân hiện nay thì việc nghiên cứu để làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về miễn TNHS và thực tiễn áp dụng của các cơ quan
tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai không những góp phần nâng cao
nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật
được chính xác mà còn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về miễn TNHS.
Theo đó, đề tài luận văn “Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng
Nai” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng; qua đó, góp phần phục vụ
trực tiếp việc sửa đổi, bổ sung các quy định về miễn TNHS của Bộ luật hình
sự cũng như bảo vệ có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân.
72
1. Nguyễn Ngọc Anh (2007), Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
2. Bộ luật hình sự nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985
(1998), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
3. Bộ luật hình sự nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999
(2002) NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
4. Bộ luật hình sự nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015
(2016) NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
5. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 (2014), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
6. Lê Cảm (1999), Những cơ sở khoa học- thực tiễn của việc hoàn thiện
pháp luật hình sự nước ta trong giai đoạn hiện nay, Khoa học Xã hội;
7. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần Chung luât hình
sự, tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
8. Lê Cảm (2001) Các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999, Toà án nhân dân
9. Lê Cảm (2001), Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều
25) trong Bộ luật hình sự, Dân chủ và pháp luật;
10. Lê Cảm (2002) Chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam trong
sách Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, tập thể tác giả do
TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;
11. Lê Cảm (2002) về bản chất pháp lý của các khái niệm: Miễn trách
nhiệm hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu trách nhiệm hình sự
và loại trừ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát;
12. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự (Phần Chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội;
12. Nguyễn Ngọc Chí (1997), Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam, KHXH;
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
73
13. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001) Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội;
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01
của Bộ Chính Trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06
của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
16. Trần Văn Độ (2003) , Chương V- “trách nhiệm hình sự” Trong sách:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam( Phần Chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội;
17. Phạm Hồng Hải (2001), Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong
“Bộ luật hình sự năm 1999” Dân chủ và pháp luật;
18. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb
Chính trị Quốc Gia;
19. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần chung, Khoa Luật trường
Đại học tổng hợp Hà nội, 1993, tr. 91-92, 146,253-255.
20. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần các tội phạm, Khoa Luật
trường Đại học Tổng hợp Hà nội, 1993, tr. 154
21. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần các tội phạm, trường Đại
học Luật Hà Nội, 1994, tr. 91-92, 186
22 .Giáo trình Luật Nhà nước Việt Nam, Khoa Luật trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, 1994
23. Giáo trình Tội phạm học, trường Đại học Luật Hà Nội, 1994, tr 35-
36,75,221
24. Nguyễn Ngọc Hoà (2000) “ Nguyên tắc phân hoá trong Bộ luật hình sự
năm 1999”, luật học;
25. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên) (2001), Trách nhiệm hình sự và Hình phạt,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
74
26. Nguyễn Ngọc Hoà, Lê Thị Sơn (1999), Thuật ngữ Luật hình sự” trong
sách: Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân;
27. Phạm Mạnh Hùng (1993) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự,
Toà án nhân dân;
28. Lê Văn Luật (2006) Bàn về chế định miễn trách nhiệm hình sự quy định
tại Điều 25 Bộ luật hình sự, Dân chủ và Pháp luật;
29. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
năm 1999 (Phần Chung) tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
30. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ Điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học,
Nxb Đà Nẵng
31. Đỗ Ngọc Quang (1997) Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội;
32. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hoà (1997), Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (Phần Chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội;
33. Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
34. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999
(Phần Chung) tập I, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;
35. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999
(Phần Các tội phạm) , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;
36. Quốc hội (2007), Luật đặc xá, ngày 21/11, Hà Nội, Nxb Công Aa nhân
dân, Hà Nội;
37. Hồ Sĩ Sơn (2007) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam,
tóm tắt Luận án tiến sỹ luật học, Viện nhà nước và Pháp luật, Hà Nội;
38. Lê Thị Sơn (2001), Chương I- “Trách nhiệm hình sự” trong sách:
Trách nhiệm hình sự và hình phạt;
39. Đào Trí Úc (Chủ biên), (1993) Mô hình lý luận về Bộ Luật hình sự
Việt Nam, NXB KHXH;
75
40. Toà án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành Toà án năm 2016,
2017, 2018, 2019; 2020;
41. Toà án nhân dân tối cao, (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986;
42. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, Báo cáo tổng kết ngành Toà án các
năm 2015; 2016;2017;2018;2019; 2020;
43. Trịnh Tiến Việt, (2020), Trách nhiệm hình sự và Miễn trách nhiệm
hình sự, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội;
44. Võ Khánh Vinh (1994) Nguyên tắc Công bằng trong Luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
45. Võ Khánh Vinh (1996) Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
46. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001) Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần Chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội;
47. XX.A-Lếch- xây-ep (1986), Pháp luật trong cuộc sống chúng ta,
(Đồng Ánh Quang dịch); Nhà xuất bản Pháp lý Hà Nội;
48. Michael Bogdan (chủ biên), Mục 4 - Miễn trách nhiệm hình sự,
trong sách: Luật hình sự Thụy Điển
trong kỷ nguyên mới,Nxb.
ElandersGotab, Stockholm, 2000;
49. TS. AgnêBaransKaitêvà TS. Jonas Prapistis, Miễn trách nhiệm hình
sự và mối quan hệ với Hiến pháp và tư pháp,Tạp chí Tư pháp, Cộng hòa
Látvia, số 7 (85)/2006;
50. Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội
phạm trước ngày 19/08/1945;
51. Thông tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính
phủ về đại xá; Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định tội phạm
về chức vụ; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày
76
30/10/1967;
52. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
ngày 21/10/1970;
53. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân ngày 21/10/1970;
54. Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành Sắc luật quy định về các tội phạm và hình phạt;
55. Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
56. GabrielHallevy, The Matrix of Derivative Criminal Liability, Nxb.
Spinger, London, 2012;
57. Iveta VitkutėZvezdinienė, Exemption from Criminal Liability: the
Problems of the Implementation of the Presumption of Innocence Principle,
Social Studies Journal, Lithuania,số 04/2009;
58. Bagri-Sakhamatov L.V, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXb.
Đại học, Minsk, 1976;
59. TkatrevxkiIu. M, “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình
sự”. Chương 2 – Trong sách: Luật hình sự Xô viết (Phần chung), Nxb.
ĐHTH Maxcova, 1981;
60. Naumov A. V. “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình
sự”. Chương 10 – Trong sách: Giáo trình Luật hình sự (Phần chung), Nxb.
XPARK, Maxcova, 1996,…
doanh trái phép ngày 10/7/1982;
77