Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
lượt xem 5
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu việc áp dụng HP đối với các vụ án hình sự từ thực tiễn tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Phân tích những kết quả đạt được cũng như những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng HP, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ TIẾN SỸ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ TIẾN SỸ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi với. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Người cam đoan Võ Tiến Sỹ
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ............ 7 1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt .......................................................... 7 1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt ..................................................................... 12 1.3. Các căn cứ áp dụng hình phạt ............................................................................ 17 1.4. Áp dụng hình phạt trong một số trường hợp cụ thể ........................................... 22 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI .............................................................. 30 2.1. Tổng quan kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai ....................................................................................................................... 30 2.2. Những vi phạm sai lầm trong áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 36 CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐÚNG KHI XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................... 53 3.1. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ...... 53 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ........ 57 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ 1 BLHS Bộ luật Hình sự 2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự 3 HĐXX Hội đồng xét xử 4 HTND Hội thẩm nhân dân 5 HP Hình phạt 6 TA Tòa án 7 TAND Tòa án nhân dân 8 TGPL Trợ giúp pháp lý 9 KSV Kiểm sát viên 10 VKS Viện kiểm sát 11 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang bảng Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn 2.1 31 huyện Chư Sê Thống kê số liệu xét xử tại Tòa án nhân dân 2.2 33 huyện Chư Sê Thống kê số liệu hình phạt chính được áp dụng tại 2.3 34 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê Thống kê số liệu hình phạt bổ sung được áp dụng tại 2.4 35 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là con đường phát triển tất yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong đó, quyền tư pháp là một nguyên tắc hiến định và có vai trò rất quan trọng. Tại Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) đã đề ra mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 là: "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [49]. Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, cần phải xây dựng Tòa án nhân dân (TAND) thực sự là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân trước nguy cơ bị xâm hại bởi hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cũng như từ chính các cơ quan tiến hành tố tụng [22]. Tòa án (TA) với tính chất là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, giải quyết các tranh chấp, xung đột xã hội thông qua hoạt động xét xử theo những trình tự, thủ tục luật định. Thông qua bản án được tuyên bởi TA, một người mới bị coi là có tội và phải chịu trách nhiệm bằng hình phạt (HP). Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu và đánh giá về HP cũng như thực tiễn áp dụng HP để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn và ý nghĩa khoa học, thực tiễn rất quan trọng về các mặt lập pháp, lý luận và thực tiễn: Về mặt lập pháp, trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền nào, nếu như các quy định của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của con người nhằm tránh xa khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm thì các quy định về HP nói riêng phải nhằm phục hồi lại sự công bằng xã hội, mang tính chính phòng ngừa riêng -phòng ngừa chung, đồng thời phải thể hiện được nguyên tắc nhân đạo trong 1
- quy định của pháp luật hình sự. Về mặt lý luận, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam xung quanh những vấn đề cần phải đánh giá thực trạng các quy định của BLHS hiện hành về hệ thống HP cũng như việc áp dụng HP ra sao và theo những chuẩn mực nào, cũng vẫn đang còn tồn tại nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau, mà vẫn chưa có một quan điểm chính thống. Về mặt thực tiễn, hoạt động áp dụng HP của TA ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi các nhà khoa học - luật gia cũng như các cán bộ thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp hình sự cần phải tiếp tục cùng nhau nghiên cứu để lý giải và phân tích, từ đó đề xuất các ý kiến, giải pháp cụ thể với nhà làm luật nhằm sớm khắc phục và loại trừ những vi phạm, bất cập, hạn chế còn tồn tại [43]. Những năm trở lại đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai nói riêng cũng như trên cả nước nói chung diễn biến rất phức tạp. Quá trình điều tra, truy tố, đưa người phạm tội ra xét xử, áp dụng HP đối với họ không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, ngoài kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê vẫn có những vi phạm, hạn chế và vướng mắc. Từ những vướng mắc, hạn chế đó, tác giả muốn đưa ra phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn để qua đó đưa ra một số giải pháp, đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng HP cũng như hoàn thiện hơn nữa các chế định của pháp luật hình sự về vấn đề này. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai" để nghiên cứu và thực hiện luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề áp dụng HP đối với các vụ án hình sự đã đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Dương Văn Thăng (2017), “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án 2
- hình sự của Tòa án Quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đàm Cảnh Long (2012), “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Khánh Hưng (2010), “Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Quang Chiều (2012), “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thành Chung (2018), “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội. Một số bài đăng trên các báo, tạp chí và sách chuyên khảo: Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2014), “Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm”, Khoa học Kiểm sát, Số 3/2014, tr. 9 - 13. GS.TS. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24/2008, tr. 206 - 217. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018), “Luật hình sự so sánh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội. Tôn Thiện Phương (2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ, số 3/2015, tr. 6 – 10. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp kiến thức lý luận, thực tiễn về việc áp dụng HP. Tuy nhiên, hầu như các công trình nghiên cứu nêu trên đều tiếp cận vấn đề từ những góc độ chung, một số công trình tập trung nghiên cứu về một 3
- loại HP cụ thể chứ chưa tiếp cận từ thực tiễn áp dụng HP cũng như chưa cập nhật những văn bản mới về pháp luật hình sự. Chính vì những lý do trên, trên cơ sở kế thừa những kết quả đạt được từ các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề chưa được đề cập chuyên sâu, đưa ra những kết quả, những vi phạm, sai lầm cũng như các yếu tố đảm bảo áp dụng HP và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật hình sự về áp dụng HP trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu việc áp dụng HP đối với các vụ án hình sự từ thực tiễn tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Phân tích những kết quả đạt được cũng như những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng HP, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề chung về áp dụng HP, bao gồm: khái niệm HP, khái niệm áp dụng HP, các nguyên tắc, căn cứ áp dụng HP cũng như áp dụng HP trong các trường hợp cụ thể. - Nghiên cứu phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, chỉ ra được nhưng kết quả, vi phạm và nguyên nhân. - Phân tích các yếu tố tác động và đề xuất các giải pháp đảm bảo việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4
- Về không gian, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu pháp luật về áp dụng HP ở TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, không mở rộng ra các địa phương khác ở trong hay ngoài Việt Nam. Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong khoảng 05 năm gần đây. Về nội dung, so với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, thì BLHS năm 2015 đã bổ sung đối tượng pháp nhân thương mại vào khái niệm HP. Tuy nhiên, do chưa có thực tiễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội nên đề tài chỉ nghiên cứu pháp luật và thực tiễn về áp dụng HP đối với người phạm tội, không mở rộng sang các vấn đề liên quan đến áp dụng HP đối với pháp nhân thương mại phạm tội cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự. Để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đã sử dụng những phương pháp sau: - Các phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật cũng như các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề chung về áp dụng HP (ở Chương 1). - Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo chuyên môn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương và phương pháp quan sát thực tế để đánh giá tiễn áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong 05 năm gần đây (ở Chương 2). - Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để nêu ra các yếu tố tác động và đề xuất các giải pháp bảo đảm việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự (ở Chương 3). 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là một trong số các công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về vấn đề thực tiễn áp dụng HP từ trước đến nay, đặc biệt ở địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, nhất là từ khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành. Luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương và địa phương trong việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng cũng như tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát về việc áp dụng HP khi xét xử vụ án hình sự. Đồng thời, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo đối với công tác học tập cũng như nghiên cứu về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về áp dụng hình phạt. Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Chương 3: Các yếu tố tác động và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT 1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt 1.1.1. Khái niệm hình phạt BLHS (BLHS) là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm và HP nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, trước hết phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Khi trách nhiệm hình sự được đặt ra đối với một người, thì nguy cơ người đó có thể phải chịu HP là khó tránh khỏi. Dưới chế độ phong kiến ở nước ta, tính chất trừng trị của HP rất hà khắc, HP phổ biến mang tính nhục hình, đày đoạ thể xác và chà đạp phẩm giá con người bằng nhiều hình thức dã man (như đánh bằng roi, lăng trì, v.v..). Ngày nay, HP trong BLHS được áp dụng như một công cụ cưỡng chế Nhà nước để bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân lao động và do vậy, tính chất giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm của HP ngày càng trở nên chủ yếu, bên cạnh thuộc tính không thể thiếu được của nó là tính trừng trị cần thiết [63]. BLHS năm 1985 đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS thời kỳ này là văn bản pháp lý duy nhất trong đó quy định về vấn đề tội phạm và HP. Tuy nhiên, BLHS năm 1985 chưa quy định cụ thể khái niệm HP là gì? [5]. Với những thay đổi to lớn về kinh tế kéo theo sự thay đổi về xã hội, pháp luật 7
- hình sự cần có sự điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi đó. BLHS năm 1999 đã có những khái niệm đầu tiên về HP được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là BLHS năm 1999): “HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. HP được quy định trong BLHS và do TA quyết định”. Việc quy định tại Chương V với 15 điều luật (các Điều 26 - 40) bằng các quy phạm riêng biệt mà giúp cho xã hội hiểu rõ được bản chất của HP trong pháp luật hình sự quốc gia vì lần đầu tiên (kể từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay) đã chính thức ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm HP (đoạn 1 Điều 26) và đồng thời chỉ rõ mục đích của HP là gì (Điều 27). BLHS năm 1999 cũng quy định cụ thể các HP chính, HP bổ sung. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một HP chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số HP bổ sung (Điều 28 BLHS năm 1999) [8]. Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS (sửa đổi) (BLHS năm 2015), sau đó, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015). So với BLHS trước đây, BLHS hiện tại có những điểm mới quan trọng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới. Tại Điều 30 BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm HP như sau: "HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do TA quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [9]. Có thể thấy HP có những đặc trưng cơ bản như sau: - So với các biện pháp cưỡng chế được quy định trong các văn bản hành chính, dân sự, .v.v.. như xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại, v.v.. thì chỉ có HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: HP đánh vào lợi ích kinh tế, HP hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do thân thể, HP được ghi vào lý lịch tư pháp, cá biệt HP còn loại bỏ quyền được sống của người phạm tội, v.v.. - HP chỉ được áp dụng với người phạm tội. "Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 BLHS năm 2015). 8
- - HP chỉ được quy định trong BLHS và do TA quyết định áp dụng bằng bản án hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội. - HP bao gồm HP chính và HP bổ sung. Người phạm tội đối với mỗi tội phạm mà họ thực hiện thì chỉ bị áp dụng một HP chính, tuy nhiên, đối với HP bổ sung thì họ có thể bị áp dụng một HP bổ sung hoặc nhiều hơn [59]. Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm HP theo quy định của BLHS hiện hành như sau: “HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do TA quyết định áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội. HP không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc đạo đức của xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời, giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước ta”. 1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt Theo Từ điển Tiếng Việt, áp dụng là “đưa vào vận dụng trong thực tế điều nhận thức, lĩnh hội được” [68]. Tại Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, BLHS, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đều khẳng định TA là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có TA mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng HP. Vì vậy, với việc áp dụng HP, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cụ thể là TA sẽ áp dụng pháp luật để quyết định HP đối với người phạm tội. Quy định này thể hiện tính kiên quyết, thận trọng của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng của công dân, và thể hiện sự thống nhất giữa tội phạm và HP. Tội phạm là cơ sở phải chịu HP, ngược lại HP là hậu quả pháp lý của tội phạm nhằm trừng trị người phạm tôi, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật. Để đảm bảo việc áp dụng HP được thực hiện một cách khách quan, đảm bảo HP đúng người, đúng tội thì việc quan trọng là phải đảm bảo quá trình tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, cụ thể là BLTTHS. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, Cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS) và TA. BLTTHS cũng quy định cụ thể người tiến hành tố tụng gồm: Thủ 9
- trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên (KSV), Kiểm tra viên; Chánh án, Phó Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA, Thẩm tra viên (Điều 34 BLTTHS). Đối với một vụ án hình sự, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự (TTHS). Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội của tội phạm thì Cơ quan điều tra đề nghị truy tố thong qua bản kết luận điều tra. Sau khi nhận hồ sơ của Cơ quan điều tra, VKS xác định có đủ căn cứ để truy tố thì ra quyết định truy tố bị can ra trước TA có thẩm quyền bằng bản cáo trạng. Vụ án được TA đưa ra xét xử trong thời hạn quy định, khi không có căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Đối với hoạt động xét xử của TA phải tuân thủ nghiêm theo quy định của BLTTHS từ khi thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết định. Khi xét xử phải tuân thủ các nguyên tắc: nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND) độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số, v.v.. Kết quả sau quá trình xét hỏi các bị cáo trong vụ án, TA phải ra quyết định đối với hành vi phạm tội đã được tranh luận tại phiên tòa. Ở bước này, TA sẽ tiến hành xem xét, giải quyết một vụ án hình sự cụ thể đó là: quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, định tội danh cụ thể, HP và các biện pháp tư pháp cần áp dụng và các vấn đề liên quan khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nếu như có kháng cáo của bị cáo hoặc kháng nghị của VKS thì TA cấp trên trực tiếp sẽ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 330 BLTTHS). Việc giám đốc thẩm vụ án hình sự được thực hiện khi VKS kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì TA có thẩm quyền xem xét lại bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật (Điều 370 BLTTHS). Thủ tục Tái thẩm vụ án hình sự là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA nhưng bị VKS kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà TA không biết được khi ra bản án, quyết định đó (Điều 397 BLTTHS). 10
- Như vậy, áp dụng HP là kết quả của hoạt động xét xử vụ án hình sự của TA. Để áp dụng HP một cách chính xác và khách quan, Thẩm phán TA và Hội thẩm thuộc thành phần của HĐXX phải căn cứ vào những tài liệu có trong hồ sơ vụ án cùng kết quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ vào các quy định về HP được quy định trong BLHS để áp dụng. HP được áp dụng đối với người phạm tội phải trải qua quá trình tố tụng để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm, nhân thân người phạm tội cùng các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, đồng thời, phải đảm bảo quá trình tố tụng được đảm bảo thực hiện theo các quy định của pháp luật, đảm bảo các cấp xét xử của TA để áp dụng HP đúng người, đúng tội. Từ những nhận thức đã có, có thể thấy được những đặc điểm cơ bản của áp dụng HP: - Áp dụng HP chỉ được tiến hành khi có tội phạm được thực hiện. Không có hành vi phạm tội xảy ra thì không có áp dụng pháp luật, áp dụng HP. - Hoạt động áp dụng HP mang tính quyền lực Nhà nước, chủ thể trực tiếp thực hiện quyền áp dụng HP của TA là HĐXX. Nhà nước thông qua hoạt động xét xử của TA cùng bản án do HĐXX tuyên để quyết định một cá nhân hay tổ chức có tội hay không. Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định: “HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; 2. HĐXX phúc thẩm gồm ba Thẩm phán”. Các phán quyết của TA được thể hiện trong bản án về việc áp dụng HP luôn làm phát sinh hậu quả pháp lý để trừng trị, giáo dục người phạm tội, các phán quyết này được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước nếu không được tự nguyện thi hành [25]. - Áp dụng HP là việc cá biệt hoá các quy định của BLHS về HP vào từng trường hợp cụ thể, mang tính tùy nghi, tính lựa chọn để đảm bảo việc áp dụng HP tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể, đảm bảo sự mềm dẻo, hiệu quả trong việc áp dụng HP. 11
- - Hoạt động áp dụng HP được thực hiện tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định nhằm hạn chế TA lạm dụng quyền hạn của mình, đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết áp dụng HP. Áp dụng HP đúng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng vì việc áp dụng HP sẽ phản ánh kết quả của quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng HP đúng là yếu tố tiên quyết để quyết định đến mục đích của HP có được thực hiện hay không. Nếu HP được áp dụng quá nhẹ đối với người phạm tội sẽ tạo tâm lý coi thường pháp luật, tạo nên thói quen phạm tội do HP không mang tính chất trừng trị thích hợp. Tuy nhiên, nếu HP quá nặng đối với người phạm tội sẽ làm cho họ có tâm lý thù hằn, buông xuôi, không còn niềm tin vào sự khoan hồng của pháp luật. Áp dụng HP đối với người phạm tội sẽ luôn có những ảnh hưởng đến những người khác về ý thức chấp hành và sống tôn trọng pháp luật. Như vậy, với khái niệm HP đã nêu ở mục trên, có thể hiểu áp dụng HP là “hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi định tội danh, thể hiện ở việc trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xác định các tình tiết của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của BLHS, HĐXX xử lựa chọn loại HP cũng như mức HP để áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án, tuân theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định”. 1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt 1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Lênin đã đưa ra định nghĩa: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để chính xác. Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Trong xã hội phong kiến, quản lý Nhà nước như thế nào phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà vua vì vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện. Trong xã hội dân chủ, quản lý 12
- Nhà nước phải tuân theo pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật là cơ sở minh bạch, công khai chống lại sự tùy tiện. Đồng thời một trong những đặc trưng của cơ quan Nhà nước là tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật vì vậy nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩ phải được quán triệt trong tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ chức và công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiển pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ". Tại Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, trong BLHS nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rất rõ: chỉ khi nào hành vi của con người cụ thể đã được thực hiện, hành vi ấy được BLHS quy định thì họ mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc TA áp dụng HP phải căn cứ vào các quy định của BLHS nhằm buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra [65]. Việc áp dụng HP phải đảm bảo nguyên tắc tiên quyết là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm việc điều tra, truy tố là cơ sở cho việc xét xử, áp dụng HP được nghiêm chỉnh tuân theo Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm mức HP được áp dụng tương xứng với hành vi vi phạm, bảo đảm tính nghiêm minh triệt để của pháp luật hình sự, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của công dân khi có hành vi vi phạm của người xâm phạm đến những quyền, lợi ích hợp pháp đó [49]. Như vậy, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng HP là việc bảo đảm việc TA áp dụng các quy định của BLHS về HP vào từng trường hợp phạm tội cụ thể để áp dụng HP đối với người phạm tội. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa không những là một trong các nguyên tắc trong áp dụng HP của TA nói riêng mà còn là nguyên tắc cơ bản, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tố tụng hình sự nói chung. Nguyên tắc này quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2015 như 13
- sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong pháp luật hình sự là tất cả quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự nói chung và việc áp dụng HP của TA nói riêng đều dựa trên quy định của BLHS theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. 1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa Đảm bảo nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc khi áp dụng HP, được quy định rõ trong BLHS. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong hàng loạt quy định của BLHS như ở việc áp dụng HP đối với người phạm tội với mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội và giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung. Mặt khác, khi áp dụng HP, TA sẽ căn cứ vào các đặc điểm nhân thân người phạm tội như phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người già yếu, bệnh tật, người đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, v.v.. để áp dụng mức HP phù hợp. Trong lịch sử lập pháp sau gần 70 năm, BLHS năm 2015 chỉ còn giữ HP tử hình trong 18 điều luật trong tổng số 314 điều quy định về các tội phạm (chiếm 5,73%). Cùng với việc bỏ HP tử hình ở nhiều tội danh, BLHS năm 2015 cũng mở rộng phạm vi đối tượng không áp dụng HP tử hình thêm 02 trường hợp so với BLHS năm 1999: người bị kết án là người tử đủ 75 tuổi trở lên và người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Những trường hợp này, HP tử hình chuyển thành HP tù chung thân (Điều 40). Những sửa đổi này cho thấy một nỗ lực rất lớn trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam theo xu hướng nhân đạo, nhân văn và hướng thiện, giảm tối đa các tội phạm có mức phạt tử hình, bảo đảm tính mạng, quyền được sống của mỗi cá nhân trong xã hội. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 103 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
70 p | 76 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam
91 p | 54 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng án treo từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
76 p | 70 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn