intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

48
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự "Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự; Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm hình sự; Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Bình Phước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN THANH MẾN KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN THANH MẾN KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS.VÕ THỊ KIM OANH Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Hà nội, ngày 08 tháng 3 năm 2021 Người cam đoan Nguyễn Thanh Mến
  4. LỜI CẢM ƠN Để thực hiện công trình nghiên cứu, hoàn thành Luận văn với đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, bên cạnh sự nổ lực cố gắng của bản thân, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Võ Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa luật, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã tận tình dạy bảo, truyền đạt kiến thức; cảm ơn tập thể các anh, chị, em trong lớp đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi có thể tiếp tục theo học, hoàn thành khóa học; cảm ơn Ban lãnh đạo, tập thể công chức, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi về thời gian, số liệu, kiến thức thực tiễn, trao đổi, đóng góp ý kiến để tôi hoàn thành Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! Hà nội, ngày 08 tháng 3 năm 2021 Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Mến
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ............................................................................................ 5 1.1. Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự ...... 5 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự . 14 1.3. Lược sử hình thành và phát triển quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự .. 18 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM ................................................ 23 2.1. Đối tượng của Kháng nghị phúc thẩm hình sự ........................................ 23 2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự ..................................................... 26 2.3. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự ............................................ 32 2.4. Thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự .................................................... 33 2.5 Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự ................................................... 34 2.6. Bổ sung, thay đổi và rút kháng nghị phúc thẩm hình sự.......................... 38 2.7. Hậu quả của kháng nghị phúc thẩm hình sự ............................................ 43 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC .......................................................................................................... 46 3.1. Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Phước ..... 46 3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Phước............................................................................................... 64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự GĐT Giám đốc thẩm HĐXX Hội đồng xét xử KNPT Kháng nghị phúc thẩm KSV Kiểm sát viên KSXX Kiểm sát xét xử TAND Tòa án nhân dân THQCT Thực hành quyền công tố TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VKSND có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Trong đó, quyền kháng nghị là quyền năng rất quan trọng. Trong những năm qua (2016-2020), công tác KNPT của Ngành kiểm sát nói chung và VKS hai cấp tỉnh Bình Phước nói riêng đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng kháng nghị từng bước được nâng lên, đã đảm bảo về hình thức, về nội dung có căn cứ pháp lý, tỷ lệ kháng nghị được VKS cấp phúc thẩm bảo vệ và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác KNPT hình sự của VKS hai cấp tỉnh Bình Phước còn nhiều bất cập, hạn chế. Vẫn còn tình trạng án số lượng sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy, sửa nhiều nhưng số lượng KNPT còn ít, vẫn còn một số đơn vị VKS nhiều năm liền không có KNPT hình sự (vùng trắng KNPT). Về chất lượng, nhiều KNPT của cả hai cấp bị VKS cấp trên phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận có năm chưa cao, vẫn có những bản án lập luận còn thiếu chặt chẽ, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Với mong muốn từ quá trình nghiên cứu lý luận về KNPT hình sự nói chung và đánh giá một cách toàn diện, khác quan công tác này ở VKS hai cấp tỉnh Bình Phước nói riêng nhằm tìm ra những bài học kinh nghiệm cũng như những nguyên nhân còn tồn tại, hạn chế, từ đó kiến nghị những giải pháp để công tác KNPT ở hai cấp kiểm sát tỉnh Bình Phước được tốt hơn trong thời gian tới. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: "Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chế định KNPT hình sự được nhiều nhà khoa học pháp lý, những người làm thực tiễn giàu kinh nghiệm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, để giải quyết một hoặc một vài nội dung cụ thể xuất phát từ thực tiễn áp dụng BLTTHS. Tiêu biểu như: Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú với đề tài “Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải 1
  8. quyết vụ án hình sự” năm 2007; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Quỳnh Anh với đề tài “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” năm 2019 ; một số các bài nghiên cứu khoa học về KNPT hình sự như “Một số điểm mới về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015” của đồng tác giả Võ Thi Kim Oanh và Lê Thị Thùy Dương (2016), “Cần pháp điển hóa các căn cứ kháng nghị phúc thẩm vào Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)” của đồng tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự” của tác giả Lê Thành Dương (2014)…Các công trình, bài nghiên cứu khoa học trên chỉ nghiên cứu một số vấn đề, ở một số khía cạnh liên quan đến KNPT như căn cứ, đối tượng, thời hạn kháng nghị nhưng chưa toàn diện, chưa có bài viết nào đi sâu nghiên cứu, phân tích về chế định KNPT ở cả phương diện lý luận và thực tiễn về KNPT hình sự theo BLTTHS năm 2015 của VKSND hai cấp tỉnh Bình Phước. Tuy nhiên, những công trình, bài nghiên cứu khoa học trên là tài liệu vô cùng quý báu giúp tác giả luận văn có thêm nguồn kiến thức tham khảo, đồng thời sẽ là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chế định KNPT hình sự trong TTHS năm 2015 cũng như phân tích, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế trong công tác KNPT; lý giải những yếu tố ảnh hưởng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Phước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát. Tổng hợp khó khăn, bất cập trong việc thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về KNPT. Phân tích làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn. Đánh giá thực trạng, tìm các giải pháp để nâng cao số lượng, chất lượng KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Phước. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải tập trung vào việc giải quyết các nhiệm vụ chính như sau: 2
  9. - Thứ nhất, luận văn phải làm rõ một số vấn đề lý luận về KNPT như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở lý luận và thực tiễn, ý nghĩa của KNPT hình sự. - Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định, thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đến quy định KNPT. - Thứ ba: phân tích, đánh giá toàn diện về thực trạng công tác KNPT, nêu lên được những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện công tác KNPT của VKKSD hai cấp tại tỉnh Bình Phước, chỉ ra nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KNPT hình sự của VKS hai cấp tỉnh Bình Phước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự, của ngành kiểm sát về quyền KNPT hình sự, công tác KNPT hình sự của VKS hai cấp tỉnh Bình Phước. 4.2 Khách thể nghiên cứu Các kháng nghị phúc thẩm, các báo cáo tổng kết công tác, các báo cáo chuyên đề của VKSND hai cấp tỉnh Bình Phước và các bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm có kháng cáo, kháng nghị của TAND tỉnh Bình Phước. 4.3 Đối tượng khảo sát: 40 bản kháng nghị phúc thẩm, 40 bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, 40 bản án phúc thẩm có kháng cáo, 40 bản án phúc thẩm có kháng nghị. 4.4 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: nghiên cứu, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình phước, Phạm vi thời gian: từ khi xét xét xử sơ thẩm cho đến khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm, giai đoạn từ 2016-2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Cơ sở lý luận: Luận văn sử dụng phương pháp chính, được áp dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề tài là vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về 3
  10. cải cách tư pháp trong tiến trình hội nhập quốc tế; những quy định của pháp luật Việt Nam về chức năng của ngành kiểm sát nhân dân. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp thu thập, thống kê, so sánh - đối chiếu, và nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan, các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, hồ sơ các vụ án bị kháng nghị; và hỏi ý kiến những người làm công tác thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề xoay quanh KNPT, dự kiến đạt được một số kết quả như sau: 6.1 Ý nghĩa lý luận: góp phần làm rõ bản chất pháp lý, những bất cập của pháp luật; cung cấp cở sở lý luận và thực tiễn về KNPT theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận về KNPT hình sự. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn: Làm rõ những mặt làm được, hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm, tìm giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện, nâng cao số lượng, chất lượng, hiệu quả công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Phước. Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Bình Phước 4
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ 1.1 . Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự Pháp luật TTHS của nước ta, từ trước đến nay, chưa quy định thế nào là KNPT hình sự. Khái niệm KNPT hình sự chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu khoa học nên chưa có một cách hiểu thống nhất, chính xác về khái niệm KNPT hình sự. Theo tác giả thạc sĩ Đinh Văn Quế: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật” [45, tr235]. Khái niệm này của tác giả đã chỉ ra được hình thức của KNPT là “văn bản”, chưa nêu được bản chất, nội dung của KNPT là gì; chỉ ra chủ thể của KNPT là “VKS” nhưng chưa hoàn toàn chuẩn xác, bởi theo quy định hiện hành thì VKS tối cao không được trao quyền KNPT; chưa chỉ ra đối tượng của KNPT là gì? chỉ nêu “vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử”. Bởi việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án thì chưa chắc đã có kết quả xét xử, có thể hoãn hoặc tạm ngưng phiên tòa, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Ngược lại, có những vụ án, Tòa án có thể tạm đình chỉ, đình chỉ mà không phải xét xử. Trong khi đó, BLTTHS quy định chỉ có bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mới có thể bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên khái niệm nêu “đã xét xử” là chưa hoàn toàn chính xác. Cũng như mục đích “yêu cầu xét xử lại vụ án” cũng chưa chuẩn xác đối với trường hợp kháng nghị quyết định sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên tòa xét xử mà chỉ mở phiên họp xem xét đối với quyết định KNPT. Khái niệm này cũng chưa chỉ ra được bản chất, nội hàm cơ bản của KNPT là quyền, thể hiện sự phản đối, không đồng ý của VKS với phán quyết thể hiện trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm. Ngoài ra, khái niệm này cũng chỉ mới nêu lý do, căn cứ kháng nghị một cách chung chung, mơ hồ, dễ bị hiểu là cảm tính “xét thấy không đúng pháp luật”. 5
  12. Theo Tiến sĩ Lê Thành Dương: “Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý được nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm đảo bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời [18]. Khái niệm này của tác giả đã chỉ ra được bản chất, nội hàm của KNPT là “quyền năng pháp lý” mà không phải là một thứ quyền năng khác, đối tượng của KNPT là “Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án”, căn cứ KNPT là bản án hoặc quyết định sơ thẩm “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”. Nhưng chưa rõ là lĩnh vực về tố tụng nào, chưa chính xác về chủ thể, cũng như tác giả Đinh Văn Quế chưa chỉ ra được nội hàm cơ bản của KNPT mà còn nêu một cách chung chung, mơ hồ; lặp lại chính thuật ngữ đang cần khái niệm hóa là “kháng nghị”, làm cho người đọc khó nhận biết bản chất, nội hàm của khái niệm. Việc khái niệm này dùng liên từ “và” là chưa hoàn toàn chuẩn xác, dẫn đến có thể người đọc nhầm tưởng VKS có thẩm quyền có quyền KNPT đồng thời đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cùng cấp và cấp dưới. Theo đồng tác giả Lê Văn Cảm và Nguyễn Thị Thu Hà: “Kháng nghị phúc thẩm là việc Viện kiểm sát cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) ban hành văn bản thể hiện sự không nhất trí với bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) đã xét xử vụ án theo trình tự sơ thẩm, đồng thời yêu cầu Tòa án cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm khi có một trong các căn cứ do BLTTHS quy định” [11, tr26] [20, tr19]. Khái niệm này của đồng giả đã chỉ ra được hình thức của KNPT là “Văn bản”, nội dung của KNPT là “thể hiện sự không nhất trí”; đối tượng của KNPT là “Bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp)”, nhưng cũng như tác giả Đinh Văn Quế là chưa thật sự chuẩn xác, khi cho rằng đó là “Bản án (quyết định) …đã xét xử vụ án”; chủ thể của KNPT là “VKS cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp)” một cách cụ thể, không bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, về bản chất của KNPT, đồng tác giả lại thiếu sự khẳng định là quyền năng pháp lý, thuộc lĩnh vực tố tụng nào? mà chỉ nêu chung chung trong cụm từ “việc… ban hành” là chưa thật sự chuẩn xác. 6
  13. Giáo trình công tác kiểm sát năm 2019 của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, được thực hiện đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có sự sai lầm trong đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật [87, tr76]. Khái niệm này chỉ mới nêu được một phần của bản chất quyền KNPT đó là hoạt động THQCT, chưa thể hiện bản chất từ KSXX án hình sự của VKSND nhưng đã chỉ ra được đối tượng của KNPT là bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật; nêu được căn cứ để KNPT là “có sự sai lầm trong đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật”, đây là sự vi phạm và cũng không phù hợp với thực tiễn. Bởi không phải bản án, quyết định sơ thẩm nào có sai lầm đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật cũng bị VKS kháng nghị phúc thẩm mà thực tiễn chỉ có những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật nội dung, sai lầm đến mức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác thì VKSND mới kháng nghị phúc thẩm, KNPT đó mới được HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận. Còn nếu bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật nhưng chưa nghiêm trọng thì cũng không được HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận. Dưới góc độ, quan điểm của mình, mỗi tác giả, nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra một khái niệm riêng về “kháng nghị phúc thẩm hình sự” như kháng nghị phúc thẩm hình sự, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự. Các khái niệm do các tác giả đưa ra đều có những điểm hợp lý, những điểm chưa hợp lý, thiếu chuẩn xác. Tác giả luận văn cho rằng trước khi đưa ra khái niệm KNPT hình sự thì phải tìm hiểu khái niệm “kháng nghị” là gì? “phúc thẩm” là gì, “vụ án hình sự” là gì? Theo Từ điển tiếng việt, thuật ngữ “kháng nghị” là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị [43, tr894]. Theo Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý (BTP), “kháng nghị” là quyền mà pháp luật quy định cho VKS và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm ngưng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp 7
  14. luật [91, tr378]. Theo pháp luật Việt Nam thì quyền kháng nghị được nhà nước trao cho người có thẩm quyền của cả Ngành Tòa án và kiểm sát. Tuy nhiên, người có thẩm quyền của Ngành Tòa án chỉ có quyền kháng nghị trong lĩnh vực tố tụng tư pháp gồm có tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hình chính. Đó là quyền kháng nghị GĐT, tái thẩm đối với các bản ản, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật. Đối với ngành kiểm sát, quyền kháng nghị được nhà nước trao cho rộng lớn hơn, không những trong lĩnh vực tố tụng tư pháp mà còn trong lĩnh vực khác của hoạt động tư pháp như tạm giữ, tạm giam, thi hành án dân sự - hình sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo … Trong tố tụng tư pháp, người có thẩm quyền của VKS không những được trao quyền kháng nghị GĐT, tái thẩm đối với các bản ản, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật mà còn được nhà nước trao cho quyền KNPT đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Như vậy, quyền KNPT chỉ do những người có thẩm quyền của VKS thực hiện để thể hiện quan điểm không đồng ý đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Theo Từ điển tiếng việt, “phúc thẩm” là xét xử lại những vụ án do Tòa án cấp dưới đưa lên [43, tr1087]. Theo Từ điển luật học “Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Tòa án sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án [91, tr404]. “Vụ án hình sự” là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật hình sự tố tụng[75]. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, quan điểm của các nhà khoa học, khi tiếp cận KNPT từ hình thức đến bản chất, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của việc KNPT, tác giả đưa ra quan điểm khoa học về KNPT, KNPT hình sự như sau: 8
  15. “Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý riêng có của Viện kiểm sát, do người có thẩm quyền thực hiện bằng văn bản, thể hiện quan điểm không đồng ý đối với những sai phạm pháp luật nghiêm trọng của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. “Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý riêng có của Viện kiểm sát, do người có thẩm quyền thực hiện bằng văn bản, thể hiện quan điểm không đồng ý đối với những sai phạm pháp luật nghiêm trọng của bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.” 1.1.2 Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự - Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý mà nhà nước chỉ duy nhất trao cho VKS. KNPT hình sự là quyền năng pháp lý duy nhất nhà nước chỉ trao cho VKS. Trong hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, TAND là cơ quan nhân danh nhà nước, thực hiện chức năng xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, việc xét xử của Tòa án là hoạt động nhận thức khách quan, không phải trong mọi trường hợp Tòa án đều đưa ra phán quyết đúng đắn, mà có thể có những sai lầm nghiêm trọng nếu không được phát hiện để khắc phục thì có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Do vậy, để “kiểm soát”, chế ước quyền lực của Tòa án trong việc ban hành bản án, quyết định thì nhà nước giao chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động này cho VKS, để đảm bảo quá trình xét xử đúng người, đúng pháp luật. Mặc khác, VKS là cơ quan có chức năng truy tố bị cáo ra trước Tòa án để buộc tội (dựa trên pháp luật) nên để thực hiện tốt chức năng của VKS thì VKS phải có quyền phản đối bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định đó, nhằm sửa chữa và khắc phục những sai lầm mà cấp sơ thẩm đã vi phạm. Do đó, bằng việc thực hiện quyền KNPT của mình, VKS mới có thể đảm bảo 9
  16. thực hiện tốt chức năng của mình được ghi nhận tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [54] . Tuy nhiên, không phải cấp kiểm sát nào cũng được trao quyền KNPT mà chỉ có VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp cùng lãnh thổ với Tòa án mới có quyền KNPT. Việc quy định VKS cùng cấp lãnh thổ và VKS cấp trên trực tiếp của VKS cùng lãnh thổ Tòa án có quyền kháng nghị là vì “để việc xét xử được thận trọng, chính xác và đúng pháp luật hơn và để hạn chế những sai lầm có thể xảy ra trong việc nhận định sự thực và thích dụng pháp luật” [10]. Ngoài VKS, bị cáo, những người tham gia tố tụng cũng được nhà nước trao quyền phản đối phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên, giữa KNPT của VKS và kháng cáo của bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng có sự khác nhau. KNPT của VKS mang tính quyền lực nhà nước nhưng kháng cáo thì không. Chủ thể thực hiện quyền kháng cáo có thể là bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng. Còn KNPT, chỉ có VKS là cơ quan nhà nước duy nhất thực hiện. Chủ thể thực hiện quyền KNPT cũng khác với chủ thể thực hiện quyền kháng nghị GĐT, tái thẩm. Chủ thể của KNPT thuộc về VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm (có thể là Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng), còn chủ thể có quyền kháng nghị GĐT thuộc về người đứng đầu Tòa án và VKS cấp cao hoặc tối cao (Chánh án hoặc Viện trưởng VKS cấp cao trở lên), chủ thể có quyền kháng nghị tái thẩm thuộc về người đứng đầu VKS cấp cao trở lên. Như vậy, chỉ có VKS mới có quyền KNPT, còn TAND thì không có quyền này. - Kháng nghị phúc thẩm là công cụ đặc biệt, quan trọng bậc nhất của Viện kiểm sát. Khi thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS có nhiều quyền hạn như yêu cầu, đề nghị, kiến nghị, kháng nghị. Trong các quyền trên thì quyền kháng nghị bản án, quyết định là quyền hạn quan trọng bậc nhất, có giá trị pháp lý cao nhất, làm tạm ngưng tính hiệu lực thi hành đối với phán quyết của cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước. 10
  17. Khi thực hiện chức năng của mình, nếu VKS nhận thấy bản án hoặc quyết định của Tòa án sơ thẩm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về tố tụng hoặc nội dung, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng thì VKS có trách nhiệm yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại bằng cách thực hiện quyền KNPT. Thông qua đó, VKS bảo vệ quan điểm truy tố của mình, đồng thời đảm bảo bản án hoặc quyết định của Tòa án được ban hành chính xác, nghiêm mình, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đây vừa là quyền nhưng cũng là trách nhiệm của VKS, thông qua đó VKSND thực hiện tốt chức năng của mình, Tòa án cấp trên kiểm tra lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới, kịp thời sửa chữa những sai phạm của Tòa án cấp dưới (nếu có), đảm bảo bản án hoặc quyết định được đưa ra thi hành là đúng quy định. - Kháng nghị phúc thẩm là căn cứ để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai nhưng không có nghĩa mọi vụ án đều phải trải qua hai cấp xét xử. Vụ án hình sự chỉ được tiến hành xét xử phúc thẩm khi có kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Khi có KNPT, Tòa án cấp trên trực tiếp phải mở phiên toà phúc thẩm [5, tr26]. Tuy nhiên, không phải vụ án hình sự nào bị KNPT cũng phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm, nó đòi hỏi KNPT đó phải hợp pháp thì mới phát sinh cấp xét xử thứ hai, xét xử phúc thẩm. KNPT hình sự giúp Tòa án cấp trên trực tiếp có cơ hội kiểm tra lại tính có căn cứ, hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm, đảm bảo phán quyết của cấp sơ thẩm đúng quy định. Qua đó, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân. Khi VKS KNPT thì buộc Tòa án cấp trên phải trực tiếp mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử lại vụ án. Hậu quả pháp lý của KNPT là những phần của bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa được đưa ra thi hành (trừ một số trường hợp luật định). 1.1.3 Ý nghĩa kháng nghị phúc thẩm Ý nghĩa về mặt chính trị: Khi thành lập Ngành kiểm sát, Đảng và Nhà nước đã giao VKS thực hiện hai chức năng rất quan trọng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng 11
  18. THQCT. Bản thân chức năng của Ngành kiểm sát đã nói lên tính chính trị trong hoạt động của ngành; … Qua công tác THQCT và KSXX đã kịp thời phát hiện những bất cập của pháp luật ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng của Ngành kiểm sát, kịp thời phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm vi phạm pháp luật để KNPT, “đây là trách nhiệm của nhiều cơ quan nhưng trách nhiệm chính là của Ngành Kiểm sát, không ai thay thế được”, điều này đã “góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp” [110, tr15]. KNPT hình sự là công cụ hữu hiệu bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động giải quyết án hình sự của Tòa án. Thực hiện quyền KNPT tốt góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế, vai trò của VKS trong hoạt động tố tụng nói chung và TTHS nói riêng Pháp chế XHCN là một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN. Trong hoạt động giải quyết, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án thì nguyên tắc pháp chế càng được đề cao, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật thì KNPT có vai trò quan trọng, đảm bảo tính pháp chế trong việc giải quyết vụ án của Tòa án. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Theo đồng chí Trường Chinh: “việc thành lập VKSND chính là để đảm bảo nhiệm vụ chuyên chính dân chủ nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi và phát triển nền dân chủ ấy… trước mắt hiện nay là mở rộng dân chủ với nhân dân, tăng cường chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Muốn thế phải bảo đảm sự tôn trọng pháp chế dân chủ, thực chất là pháp chế xã hội chủ nghĩa” [99, tr113] Ý nghĩa về mặt pháp lý KNPT hình sự quyền năng pháp lý quan trọng, góp phần đảm bảo thực hiện tốt chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự của Tòa án, đảm bảo uy tín của cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng. Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì chức năng chính của TAND là xét xử và việc xét xử thường được kết thúc bằng việc Toà án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam ra bản án xác định một người có tội hay không, tội gì và phải chịu hình phạt hay không, hình phạt gì? Nếu các văn bản do cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền khác ban hành 12
  19. mà phát hiện có vi phạm thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền đó có thể sửa chữa, khắc phục bằng cách tự ban hành quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Tuy nhiên, đối với bản án, quyết định của Tòa án thì dù Thẩm phán hay HĐXX đã ban hành bản án đó phát hiện có sai lầm về nội dung thì cũng không có thẩm quyền tự sửa chữa, khắc phục mà cần phải có cơ chế đặc biệt để sửa chữa, khắc phục những sai lầm đó. Thủ tục đó là thủ tục phúc thẩm, do VKS kháng nghị hoặc bị cáo, bị hại hoặc người tham gia tố tụng kháng cáo. Trong đó, KNPT của VKS là quyết định của cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước ban hành nên nó có tính pháp lý. Hơn nữa, người có thẩm quyền thực hiện quyền KNPT phải thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định và phải tuân thủ đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn … theo quy định của BLTTHS và chịu trách nhiệm về quyết định KNPT đó nên quyết định KNPT cũng mang tính pháp lý cao. Việc quy định và thực hiện quyền KNPT hình sự còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác là cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, nó là cơ sở để hình thành nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”, để vụ án hình sự có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm; nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Ý nghĩa về mặt xã hội KNPT hình sự là biện pháp góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, KNPT không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Sự vi phạm, sai lầm của Tòa án sơ thẩm trong bản án, quyết định có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng mà nếu không có KNPT thì chúng sẽ được đưa ra thi hành. Do đó, sự phát hiện các vi phạm của Tòa án sơ thẩm, từ đó ban hành KNPT của VKS đã kịp thời ngăn chặn những phán quyết vi phạm của Tòa án. Thực hiện tốt trách nhiệm này, tức kịp thời phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án để kịp thời yêu cầu Tòa án cấp trên khắc phục vi phạm của Tòa án cấp dưới; đảm bảo pháp luật được thực thi, giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện 13
  20. quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật thống nhất; đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo được các quyền cơ bản của công dân, không để xảy ra các trường hợp oan sai hay bỏ lọt tội phạm. 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.1 Cơ sở lý luận của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự Xuất phát từ nguyên tắc pháp chế XHCN: Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế Lê-Nin viết: “Ủy viên công tố có quyền và có bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi tức là: Làm thế nào cho trong toàn nước Cộng hòa có một sự nhận thức thật sự nhất trí về pháp chế” [66]. Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” [54]. Cụ thể hóa quy định này, BLTTHS quy định thành nguyên tắc pháp chế XHCN tại Điều 7 BLTTHS 2015 (Điều 3 BLTTHS 2003). Đây là một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN. Việc tuân thủ nguyên tắc này phải được diễn ra trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh, không để lọt tội phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội. Do đó, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong hoạt động giải quyết của Tòa án, đặc biệt là hoạt động xét xử luôn phải đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. “Quyền duy nhất và bổn phận của ủy viên công tố là đưa các vụ án ra trước Tòa. Nhưng đó là những Tòa án nào? Tòa án của chúng ta là Tòa án địa phương” [66]. Mà mỗi địa phương “có những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau dẫn đến việc Tòa án quyết định hình phạt khác nhau, thậm chí tha bổng, tuyên không tội, làm cho pháp luật không được thống nhất trên cả nước, mỗi nơi xử mỗi kiểu” [66]. Vì vậy, “Về phương diện nguyên tắc, người ta cũng sẽ sai lầm nếu nói rằng ủy viên công tố không được quyền kháng nghị” [66]. Do đó, VKS có chịu trách nhiệm: Bất cứ quyết định nào của Tòa án “cũng tuyệt nhiên không được đi ngược lại pháp luật, và chỉ có trên quan điểm đó, ủy viên công tố mới có trách nhiệm kháng nghị đối với mọi quyết định ngược với pháp luật; làm như thế, ủy viên công tố không có quyền 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1