Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
lượt xem 24
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản; Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương; Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM NGUYỄN VĂN SƠN HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN SƠN TỘI CƯỚP TÀI SẢN LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHÓA X HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN SƠN TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội - 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là đúng sự thật. Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hải Dương, ngày 09 tháng 03 năm 2021 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Sơn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..............................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ...................................................8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản …………….…….......…8 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản ......17 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG …………………………...………………………………………..30 2.1. Tổng quan tình hình xét xử tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương ..30 2.2. Thực tiễn định tội danh tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương …....33 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương …………………………………...…………………….…………….50 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ………………………………………………………...…62 3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản ………………………………………..…………………………….....…62 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản …………………………………….....…………………….……….....…64 KẾT LUẬN .........................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................76
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BC Bị cáo BLHS Bộ luật Hình sự HSST Hình sự sơ thẩm TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; nhằm bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời, góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục ý thức chấp hành của mọi người phải tuân theo pháp luật. Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu to lớn mà nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN mang lại. Nước ta cũng phải đối mặt với nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực vốn xuất phát từ mặt trái của nền kinh tế đó; trong đó có tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu, đặc biệt về tình hình tội cướp tài sản nói riêng. Trong số các tội phạm xâm phạm sở hữu, tội cướp tài sản là tội nguy hiểm nhất, không chỉ xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, mà loại tội này thường được thực hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại; thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cương xã hội của người phạm tội. Vì vậy, loại tội này vừa gây tâm lý hoang mang trong nhân dân lại vừa gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn, biến động dân cư và xã hội khá phức tạp. Cũng như các địa bàn khác trong cả nước, mặt trái của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện những yếu tố tiêu cực đó là nạn thất nghiệp, sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, sự phân hóa giàu nghèo … Đặc biệt, phần lớn dân cư của tỉnh Hải Dương sống ở nông thôn, đời sống còn nhiều khó khăn đã tạo nên một tầng lớp sống phiêu bạt, khó kiểm soát, là 1
- môi trường tạo ra các tội phạm, trong đó có tội cướp tài sản. Bên cạnh đó, công tác quản lý của Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội còn lỏng lẻo, kém hiệu quả trong tổ chức, điều hành, cũng làm cho tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa có chiều hướng giảm bớt. Ngược lại, còn diễn biến phức tạp và nghiêm trọng hơn. Theo Báo cáo tổng kết công tác từ năm 2016 đến năm 2020 của TAND tỉnh Hải Dương. Trong 05 năm, Toà án hai cấp tỉnh Hải Dương đã giải quyết 5.780 vụ án hình sự, 10.674 bị cáo. Trong đó, 219 vụ cướp tài sản với 402 bị cáo. Trung bình một năm có 43,8 vụ cướp tài sản xảy ra. Số vụ cướp tài sản chiếm tỷ lệ 3,79% trong tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra và chiếm tỷ lệ 8,56% trong nhóm tội xâm phạm sở hữu. Trước tình hình nói trên, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của tỉnh Hải Dương đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả để xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, góp phần trong công tác đấu tranh, phòng và chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. TAND hai cấp tỉnh Hải Dương đã xử phạt nghiêm khắc đối với người phạm tội cướp tài sản; đã có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương cho thấy, bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn những hạn chế, vi phạm, sai lầm trong định tội danh và trong quyết định hình phạt đối với tội này. Thậm chí còn bỏ lọt tội phạm, quyết định hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Thực trạng trên đây, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có hạn chế của pháp luật, hạn chế của nhận thức lý luận, pháp luật và thực tiễn của người áp dụng pháp luật trong định tội danh và quyết định hình phạt; cần phải được nghiên cứu khắc phục. Đó là lý do thúc đẩy học viên chọn vấn đề “Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn 2
- Trong thời gian qua, dưới góc độ Luật hình sự và tố tụng hình sự, tội cướp tài sản đã được đề cập nghiên cứu tương đối nhiều. Các công trình nghiên cứu đã được công bố ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong số các công trình ở cấp độ giáo trình đại học và sau đại học mà học viên tham khảo, có thể kể đến như Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Chương XX: Các tội xâm phạm sở hữu, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân (2010) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội (2014); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001) do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên (tái bản năm 2003 và 2007); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Cao Thị Oanh, Nxb Giáo dục (2010).....Trong số các công trình nghiên cứu ở cấp độ sách bình luận khoa học BLHS, có bình luận khoa học BLHS năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội do PGS.TS Phùng Thế Vắc chủ biên (2001); Bình luận khoa học BLHS Phần các tội phạm- Phần thứ II: Các tội phạm cụ thể, tập II, của Đinh Văn Quế, Nxb Tổng hợp; Bình luận BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009, ThS. Đinh Thế Hưng - ThS. Trần Văn Biên, Viện Nhà nước và pháp luật - Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động (2010); Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), Quyển 1, GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Nxb. Tư pháp, năm 2018....Ở cấp độ sách chuyên khảo có thể kể đến Luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân (1997); Luật hình sự so sánh của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội (2018).....Trong số các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn, luận án 3
- tiến sĩ luật học có Luận văn thạc sĩ luật học “Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của Phạm Thị Hà Châu, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2019; Luận văn thạc sĩ luật học “Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của Tạ Hữu Hiển, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2020...); Luận văn thạc sĩ luật học “Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010”, của Trần Thị Phương, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011... Tội cướp tài sản cũng được đề cập nghiên cứu khá nhiều dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Kết quả là cũng có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, chẳng hạn như Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001; Võ Minh Tiến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007; Nguyễn Văn Trí “Tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2020..... Như vậy, có thể thấy hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến nghiên cứu tội cướp tài sản trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương, cũng như hầu hết các công trình nghiên cứu trước đó đều được công bố trước thời điểm BLHS năm 2015 được thông qua. Do đó, việc học viên nghiên cứu đề tài trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
- 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật của tội cướp tài sản, làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội cướp tài sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản; - Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội danh khác; - Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài sản; - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương; - Lập luận các yêu cầu và đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương từ năm 2016 đến năm 2020 để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung thuộc nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Khía cạnh thực tiễn của đề tài khá rộng, gồm nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học, đề tài chỉ giới hạn 5
- thực tiễn ở các nội dung định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản được tiến hành bởi hai cấp Tòa án tại tỉnh Hải Dương, trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm và đường lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về phòng và chống tội phạm. Luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các cách tiếp cận nghiên cứu của các khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự... 5.2. Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài còn vận dụng một số phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu, thống kê, so sánh, nghiên cứu vụ án điển hình... để giải quyết nhiệm vụ mà luận văn đã đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức đầy đủ hơn, toàn diện hơn và thống nhất hơn những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội này. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo vào quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản. Đồng thời kết quả nghiên cứu của Luận văn có 6
- thể được tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Luật hình sự nói chung, về tội cướp tài sản nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Những vẫn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản 1.1.1.1. Khái niệm tội cướp tài sản Tội cướp tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu được quy định trong chương XVI của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015). Ngoài những dấu hiệu của tội phạm nói chung đã được ghi nhận tại Điều 8 BLHS, như tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính phải chịu hình phạt; những dấu hiệu chung của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, như xâm phạm sở hữu, có đối tượng tác động là tài sản, có chủ thể là cá nhân, có lỗi cố ý và có mục đích là chiếm đoạt tài sản của người khác. Tội cướp tài sản còn có những dấu hiệu đặc thù riêng của mình, chủ yếu thể hiện ở đặc điểm của các dạng hành vi phạm tội. Về mặt pháp luật, tội cướp tài sản là một trong những tội mà khái niệm về chúng được nhà làm luật ghi nhận trong các điều luật tương ứng thuộc Phần các tội phạm của BLHS. Đối với tội cướp tài sản, khái niệm về nó được nhà làm luật ghi nhận tại Khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015; theo đó “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Trong khoa học luật hình sự, khi đề cập đến khái niệm về tội cướp tài sản, các nhà luật học thường viện dẫn đến khái niệm đã được BLHS ghi nhận, rồi từ đó nêu và phân tích các dấu hiệu pháp lý của nó. Cách tiếp cận đó là không sai, Tuy nhiên, khái niệm này cần được dung nạp vào nó nội hàm nhiều 8
- hơn các dấu hiệu, làm sao vừa phản ánh được các dấu hiệu cơ bản của một tội phạm nói chung, các dấu hiệu chung của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và các dấu hiệu đặc thù (về hành vi) của tội cướp tài sản. Vì vậy, từ góc độ khoa học, trên cơ sở kết hợp nội hàm của khái niệm tội phạm đã được ghi nhận tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015, các dấu hiệu của nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và các dấu hiệu đặc thù phản ánh rõ nét bản chất pháp lý của cướp tài sản; có thể hiểu “Tội cướp tài sản là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định cố ý thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người đó lâm vào tình trạng không thể chống cự được”. 1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản + Khách thể của tội cướp tài sản Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội bị các hành vi phạm tội xâm hại đến và được luật hình sự bảo vệ. Tội cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội, là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu - những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Mặc dù xâm hại cùng một lúc hai quan hệ xã hội nói trên nhưng hành vi cướp tài sản chỉ cấu thành một tội được quy định tại Điều 168 BLHS năm 2015. Chính vì vậy, tội cướp tài sản được đánh giá có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác. Việc xếp tội cướp tài sản vào chương “Các tội xâm phạm sở hữu” xuất phát từ “quan điểm cho rằng mục đích chính của người phạm tội là nhằm vào sở hữu và việc xâm hại quan hệ nhân thân xét về mặt nào đó chỉ là phương tiện để đạt được mục đích chính đó” (3; tr.260). 9
- Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản và con người. Nếu tài sản (vật) đã được quy định là đối tượng tác động của các tội phạm cụ thể khác, mang tính đặc định như những vật có tính chất quan trọng về an ninh quốc gia; vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất độc, chất cháy, chất ma túy… thì hành vi chiếm đoạt bằng cách dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản mà sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo những điều luật tương ứng, chẳng hạn như theo Điều 252 BLHS năm 2015 về tội chiếm đoạt chất ma túy. + Mặt khách quan của tội cướp tài sản Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các yếu tố: Hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; công cụ, phương tiện, phương pháp, cách thức, thủ đoạn, hoàn cảnh, không gian và thời gian phạm tội. Không phải tất cả những dấu hiệu này là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm của tất cả các tội phạm cụ thể mà tùy thuộc vào những tội phạm cụ thể mà nhà làm luật quy định, chúng mới là dấu hiệu bắt buộc hoặc không bắt buộc. Tuy nhiên, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của mọi tội phạm, vì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có tội phạm. Không phải ngẫu nhiên mà tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, nhà làm luật quy định “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…”. Hành vi khách quan của tội cướp tài sản thể hiện ở một trong ba dạng hành vi sau: * Hành vi dùng vũ lực. Đây là hành vi “dùng sức mạnh (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào thân thể người khác để họ 10
- không thể hoặc không dám chống cự lại việc chiếm đoạt tài sản”. Những hành vi không nhằm vào thân thể con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực theo quy định của điều luật. Người bị hành vi dùng vũ lực tác động có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà chủ thể thực hiện hành vi dùng vũ lực cho rằng người này đang ngăn cản hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình. Hành vi dùng vũ lực có thể là đánh, chém, trói, v.v..(3; tr.260). Như vậy, đặc trưng của dạng hành vi này là dùng vũ lực để tấn công thân thể người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Người dùng vũ lực có thể sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc chỉ bằng sức mạnh thể chất của cơ thể như: đấm, đá, đạp, xô… để tác độngvào thân thể chủ sở hữu, người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc người khác (nạn nhân) mà người phạm tội cho rằng họ có thể ngăn cản quá trình chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực tấn công người khác để người đó không thể hoặc không dám chống cự lại, nhằm chiếm đoạt tài sản của họ thì dù gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho nạn nhân đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015, cũng chỉ cấu thành tội cướp tài sản. Tất nhiên, nếu hành vi dùng vũ lực để tước đoạt tính mạng người khác để chiếm đoạt tài sản của nạn nhân sẽ cấu thành hai tội là tội giết người (Điều 123 BLHS năm 2015) và tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015). * Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Dạng hành vi này thể hiện dưới hình thức bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ hoặc cả hai để chuyển tải thông điệp dùng ngay tức khắc vũ lực nếu có việc cản trở hoặc chống lại việc chiếm đoạt tài sản. “Thông điệp đe dọa này có thể được chuyển tải qua lời nói nhưng cũng có thể qua hành động cụ thể như kề dao vào cổ, dí súng vào đầu người bị hại…đồng thời yêu cầu giao nộp tài sản” (30; tr.165). Liên quan đến đe dọa 11
- dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản, có hai tội. Đó là tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản. Điểm khác nhau và cũng là dấu hiệu để đánh giá giữa hai tội là tính chất, mức độ đe dọa vốn thể hiện ở sức mãnh liệt và thời gian thực hiện sự đe dọa. Về vấn đề này, học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng “Dấu hiệu ngay tức khắc vũ lực ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp với hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt nhằm làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa này có khả năng làm tê liệt ý chí của người bị đe dọa” (3; tr.261). Tất nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự khi xác định ranh giới hành vi đe dọa dùng vũ lực của tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, phải dựa vào những căn cứ khách quan và chủ quan của sự việc trên cơ sở đánh giá tổng hợp các tình tiết diễn biến vụ án và xem xét một cách biện chứng các căn cứ đó. * Hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản. Đặc trưng của hành vi này thể hiện ở chỗ, người phạm tội khôngdùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực, mà dùng các cách thức, thủ đoạn khác như dùng thuốc mê, thuốc ngủ…để tước bỏ khả năng kháng cự của người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Tội cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức. Vì vậy, bị coi là phạm tội cướp tài sản và tội hoàn thành ngay khi người phạm tội thực hiện một trong ba dạng hành vi nói trên. Nói cách khác, hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tức không phải là dấu hiệu định tội trong mặt khách quan của tội này, mà hậu quả của tội cướp tài sản chỉ có ý nghĩa xác định các cấu thành tăng nặng của tội phạm. Liên quan đến những trường hợp chuyển hóa từ hành vi khác xâm phạm sở hữu, như công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, cướp giật 12
- tài sản…thành hành vi cướp tài sản. Học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng “Đây là những trường hợp lúc đầu người phạm tội thực hiện tội phạm khác xâm phạm sở hữu nhưng vì gặp các yếu tố cản trở trong việc chiếm đoạt tài sản (cản trở đối với hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc cản trở đối với việc giữ tài sản đã chiếm đoạt được) nên đã thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của tội cướp tài sản để loại trừ trở ngại, thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản” (30; tr.166). + Chủ thể của tội cướp tài sản Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường, tức là bất kỳ ai đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội. Cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội cướp tài sản được quy định tại Điều 12 và Điều 168 BLHS năm 2015. + Mặt chủ quan của tội cướp tài sản Mặt chủ quan của tội phạm là những yếu tố tâm lý được phản ánh trong suy nghĩ của người đã thực hiện hành vi khách quan tội phạm. Đây là những biểu hiện tâm lý của người thực hiện hành vi phạm tội. Bao gồm lỗi, động cơ và mục đính phạm tội. Về mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn thể hiện ở tất cả các cấu thành tội phạm. Mục đích và động cơ phạm tội được phản ánh là dấu hiệu cấu thành của một số tội, nhưng phần lớn được phản ánh là tình tiết định khung hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi cướp tài sản, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thấy hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là chiếm đoạt tài sản của người khác và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là dấu hiệu bắt buộc, tức là dấu hiệu định tội của cấu thành tội cướp tài sản. Trường hợp một trong ba 13
- dạng hành vi khách quan của tội cướp tài sản được thực hiện, nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không cấu thành tội cướp tài sản. 1.1.2. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội danh khác Nghiên cứu sâu hơn về tội cướp tài sản, ngoài việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp tài sản, cần phải nghiên cứu các dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. 1.1.2.1. Phân biệt giữa tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản Dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản. Bằng hình thức đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để hù dọa người có trách nhiệm về tài sản, để họ phải giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực của người phạm tội là hành vi (thể hiện bằng lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe dọa lo sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập, bị tra tấn..... Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội sử dụng có thể là doạ sẽ tố cáo với chồng (vợ) về việc vợ (chồng) ngoại tình, doạ sẽ tố cáo việc vi phạm pháp luật hoặc việc làm sai trái của người có tài sản hoặc người có tránh nhiệm về tài sản... Từ khái niệm và những dấu hiệu của tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, có thể thấy chúng có những điểm giống nhau và những điểm khác nhau, cụ thể là: Những điểm giống nhau của hai tội danh này Trước hết là giống nhau về khách thể của tội phạm. Hai tội này đều xâm hại đến quyền sở hữu của người khác; đồng thời cũng xâm hại đến quyền nhân thân, do có thực hiện hành vi tác động đến người chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản; hai tội đều tác động đến đối tượng tác động của tội phạm là con người và tài sản. 14
- Trong yếu tố mặt khách quan của tội phạm, cả hai tội đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực; đều có cấu thành hình thức, có nghĩa là bị coi là có tội và tội phạm hoàn thành ngay khi thực hiện hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm, không cần phải xét đến dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong yếu tố chủ thể của tội phạm, hai tội giống nhau thể hiện ở chỗ đều là chủ thể thường, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong yếu tố mặt chủ quan của tội phạm, cả hai tội đều có lỗi cố ý trực tiếp; đều có mục đích là chiếm đoạt tài sản. Những điểm khác nhau giữa hai tội danh Hai tội nói trên khác nhau chủ yếu ở các dạng hành vi khách quan, thậm chí có dạng hành vi giống nhau như đe dọa dùng vũ lực, nhưng lại khác nhau về tính chất, mức độ đe dọa và thời gian trở thành hiện thực của sự đe dọa dùng vũ lực. Về mặt thực tế, đối với tội cướp tài sản, có thể có hành vi chuyển hóa từ tội phạm khác xâm phạm sở hữu thành tội cướp tài sản, còn đối với tội cưỡng đoạt tài sản, điều đó không xảy ra. Cũng có điểm khác nhau giữa hai tội phạm đó thể hiện trong yếu tố chủ thể của tội phạm. Đối với tội cướp tài sản, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi cấu thành tội phạm (cơ bản, tăng nặng), còn đối với tội cưỡng đoạt tài sản, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các cấu thành tội phạm tăng nặng của tội này. Về hình phạt, cả mức thấp nhất lẫn mức cao nhất của khung hình phạt của tội cướp tài sản đều cao hơn so với tội cưỡng đoạt tài sản. 1.1.2.2. Phân biệt giữa tội cướp tài sản với tội cướp giật tài sản Mặc dù pháp luật hình sự không ghi nhận định nghĩa, nhưng cả lý luận lẫn thực tiễn đều thừa nhận cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn