Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
lượt xem 14
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ; Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ HỒNG PHONG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ HỒNG PHONG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN NAM HÀ NỘI - 2021 SV: Lương Đức Huyên Lớp: ……………
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu tôi trích dẫn trong luận văn là số liệu thực tế, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định từ những tài liệu tôi thu thập được. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của Luận văn này. Tác giả luận văn Vũ Hồng Phong SV: Lương Đức Huyên Lớp: ……………
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 6 Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ không giam giữ 1.1 . Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ . 1.2. Đặc điểm hình phạt không giam giữ 1.3 Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù cho hưởng án treo , tha tù trước thời hạn có điều kiện , cải tạo . 1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của phát luật về hình phạt cải tạo không giam giữ Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh 2.2 .Quy định của phát luật về hình phạt cải tạo không giam giữ . 2.3. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh . Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ . 3.2. giải pháp về phát luật 3.3. giải pháp khác . KẾT LUẬN ................................................................................................................. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. SV: Lương Đức Huyên Lớp: ……………
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự LTHAHS Luật thi hành án hình sự TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự UBND Ủy ban nhân dân VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa SV: Lương Đức Huyên Lớp: ……………
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Số liệu Bị cáo bị tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ so với các hình phạt khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Phụ lục) Bảng 2.2: Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên tổng số các vụ án xét xử từ năm 2015 đến 09/2019 trong phạm vi cả nước (Phụ Lục) SV: Lương Đức Huyên Lớp: ……………
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW), trong đó Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình…”. Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực toàn phần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã kịp thời thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, trong đó nhấn mạnh phải “tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và tăng cường hội nhập quốc tế”. Đây là những định hướng quan trọng, là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng các chế định khác nhau của Bộ luật hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định phải xuất phát từ tính đặc thù của từng loại tội phạm cũng như các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội chi phối. Có như vậy, tính chất giáo dục cũng như phòng ngừa của hình phạt mới đạt được hiệu quả và đảm bảo được sự đồng thuận trong dư luận xã hội. Xuyên suốt chế định tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 với 314 tội danh quy định từ chương XIII đến chương XXVI là sự ghi nhận và phản ánh đúng những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã và đang tác động tiêu cực đến các phương diện của đời sống chính trị-xã hội. Việc phi tội hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội ra khỏi Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục khẳng định đường lối xử lý đối với những hành vi chưa thực sự cần thiết áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc, có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, kinh tế... vừa góp phần giảm tải chi phí của nhà nước trong việc thi hành các biện pháp cưỡng chế hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo sự hợp lý, nhân văn, công bằng, phù hợp trong sự tương quan với những tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam không 6
- chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo, giáo dục. Đồng thời, áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội sẽ tạo điều kiện cho người đó được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó làm việc, công tác, học tập, cư trú và của chính gia đình của người đó, nhanh chóng giúp cho họ tái hòa nhập cộng đồng, không bị cách ly khỏi xã hội. Tuy nhiên, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính và hình phạt bổ sung, còn đối với riêng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhìn một cách tổng thể chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là một hình phạt chính quan trọng trong hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Việc nghiên cứu áp dụng hình phat cải tạo không giam giữ gắn với một địa phương có truyền thống, đặc trưng ở vùng đồng bằng bắc bộ như tỉnh Bắc Ninh là có tính thực tiễn rất cao, để có thể áp dụng một cách cụ thể nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những chế định pháp lý hình sự quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Bản thân hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến như: - Sách chuyên khảo: + "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần chung" của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa [22]. + "Một số vấn đề về thi hành án hình sự " của TS. Trần Quang Tiệp [50]. 7
- + "Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn " của GS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng [66]. + “Hoàn thiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam”của TS. Vũ Trọng Hách [20]. - Các tạp chí khoa học chuyên ngành luật như: - Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; - PGS.TS.Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2004; - Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2004; Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số7/2003. Ngoài ra, còn có các luận văn, luận án ở các ở cơ sở đào tạo luật cũng có nghiên cứu về hình phạt này, tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu ở góc độ nói chung, chưa gắn với một địa phương cụ thể. Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ Thạc sĩ. Những bài viết, sách chuyên khảo và các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu tham khảo rất hữu ích và có giá trị trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn: 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này nói chung và thực tiễn tỉnh Bắc Ninh nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ - Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự về cải tạo không giam giữ 8
- - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh - Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ; cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: 5.1. Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân đạo của chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp lịch sử, thống kê, so sánh, tham khảo chuyên gia và khảo sát thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu hình phạt cải tạo không giam giữ một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hình phạt cải tạo không giam giữ và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn: 9
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: + Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ. + Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh + Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 10
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.1. Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ Cải tạo không giam giữ là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định, xét thấy không cần thiết phải tước tự do của người bị kết án, không cần phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội mà giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương UBND Xã nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục với khoảng thời gian từ 6 tháng đến 3 năm [46]. Cải tạo không giam giữ là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt chính không phải tù, đứng sau hình phạt tù có thời hạn. Khác với hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án thường trú và gia đình họ nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, thượng tôn quy tắc của cuộc sống xã hội [6, tr.337]. Trong phần các tội phạm BLHS, cải tạo không giam giữ là hình phạt không tước tự do của người bị kết án được quy định phổ biến nhất. BLHS đã bỏ hình phạt cải tạo tại đơn vị kỷ luật của quân đội. Hình phạt này thực chất là hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng được áp dụng đối với quân nhân phạ tội. Tuy nhiên, trong trường hợp bị phạt này người bị kết án phải chấp hành án tại một cơ sở đặc biệt là đơn vị kỷ luật của quân đội, điều này trái với bản chất của hình phạt cải tạo không giam giữ - một loại hình phạt không tước tự do của người bị kết án… Cho nên, nhà làm luật cho rằng không cần thiết quy định hình phạt cải tạo ở đơn vị của quân đội đối với quân nhân phạm tội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ để họ cải tạo ở ngay tại đơn vị của mình [6, tr. 338]. Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có tính chất nghiêm khắc hơn so với hình phạt tiền và cảnh cáo nhưng nhẹ hơn hình phạt tù. Do vậy, theo quy định 11
- của pháp luật Tòa án chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội khi thỏa mãn những điều kiện sau đây: - Áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm. - Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng. Thời hạn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội thì thời hạn cải tạo không giam giữ áp dụng với họ là không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định (Điều 73 BLHS năm 2015). Trong trường hợp người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó. Luật thi hành án hình sự năm 2019 và các văn bản pháp luật của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ quy định: cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có thể được Tòa án giao trách nhiệm trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án. Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc, học tập; khấu trừ một phần thu nhập sung quỹ nhà nước, giám sát việc thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Luật thi hành án hình sự quy định nhiệm vụ của Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án như: Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án; Tạo điều kiện để người bị kết án lao động, học tập và hòa nhập vào cuộc 12
- sống chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người bị kết án trong việc giáo dục, cảm hóa, giúp họ sửa chữa lỗi lầm…Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tọa không giam giữ cho người bị kết án; Nhận xét bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi về quá trình chấp hành hình phạt của người bị kết án khi người đó chuyển đi nơi khác; Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người bị kết án theo quy định của Tòa án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLHS năm 2015 thì người bị kết án bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Đây là quy định mang tính bắt buộc đối với người bị tuyên án. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Pháp luật hình sự quy định: Nếu người bị kết án cải tạo không giam giữ là người dưới 18 tuổi phạm tội và chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự thì không khấu trừ thu nhập của người đó (khoản 2 Điều 100 BLHS năm 2015); Nghĩa vụ của người chấp hành án cải tạo không giam giữ, họ phải: Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ nộp phần thu nhập bị khấu trừ theo bản án của Tòa án…; Như vậy, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống các hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam, trong đó người bị kết án cải tạo không giam giữ bị cải tạo, giáo dục không cần cách ly khỏi xã hội mà họ được giao cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và gia đình giáo dục, giám sát tại nơi họ sinh sống hoặc làm việc ổn định. 1.2. Đặc điểm hình phạt cải tạo không giam giữ Trong pháp luật Việt Nam, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự là biện pháp cưỡng chế “nặng” nhất được Nhà nước áp dụng khi muốn tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người bị kết án. Nhà nước đặt ra hình phạt nhưng hình phạt đó phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội thực hiện. Những yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm cho xã hội như: Nhân thân người phạm tội, các quan hệ xã hội đã bị xâm phạm, hậu quả đã xảy 13
- ra hoặc sẽ xảy ra cho xã hội, tâm lý chủ quan của người phạm tội. Theo quy định pháp luật hình sự, các hình phạt được quy định là hình phạt chính được sắp xếp theo mức độ tang dần như sau: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Cải tạo không giam giữ là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn [23, tr. 189]. Căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự về hình phat cải tao không giam giữ chúng ta thấy có các đặc điểm sau: Một là, hình phạt cải tạo không giam giữ không cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm trong trường hợp người kết án thuộc loại tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, có nơi làm việc rõ ràng hoặc có nơi thường trú ổn định. Vì vậy, đặc điểm chính của hình phạt cải tạo không giam giữ là vừa có thể trừng trị và giáo dục người bị kết án mà không phải cách ly họ ra khỏi cuộc sống bình thường. Như vậy, người phạm tội vừa được tham gia lao động trong môi trường phù hợp vừa được trả công lao động và được hưởng các chế độ xã hội như trước khi bị kết án. Hai là, việc thi hành án cải tạo không giam giữ không phải được giao cho một cơ quan thi hành án duy nhất chuyên trách thực hiện. Đây là một đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ, vì thông thường tương ứng với từng hình phạt thì có một cơ quan chuyên trách thi hành. Nhiệm vụ giám sát, trông coi người bị kết án cải tạo không giam giữ là của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội nơi người người phạm tội sinh sống và làm việc. Đây là hình phạt thể hiện rõ quan điểm xã hội hoá công tác thi hành án của Đảng và nhà nước ta. Sự hiệu quả của chính sách này phụ thuộc vào sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức và gia đình người bị kết án. Những cơ quan, tổ chức nêu trên được tự mình quản lý hết các biện pháp để giám sát người bị kết án, cụ thể: - Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án, nếu người đó là cán bộ, công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo; - Doanh nghiệp, hợp tác xã nếu người bị kết án là người làm công ăn lương; - Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu người đó không thuộc đối tượng của ba cơ quan tổ chức nêu trên; 14
- - Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người bị kết án là quân nhân, công nhân quốc phòng. Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án có quyền và trách nhiệm như sau: - Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án; - Tạo điều kiện để người phạm tội sinh sống, làm việc và học tập bình thường trong môi trường của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; - Kết hợp cùng với các cơ quan, tổ chức khác và gia đình người phạm tội tạo điều kiện trong việc giáo dục, cảm hoá, giúp họ sửa sai những sai lầm đã phạm phải. - Yêu cầu người phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã nêu trong bản án; có biện pháp ngăn ngừa, cải tạo khẩn trương khi người phạm tội có biểu hiện tiêu cực và thông báo ngay với cơ quan quản lý để xử lý khi cần thiết; - Tuyên dương người phạm tội khi họ có nhiều tiến bộ, tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, lập thành tích khi sinh hoạt trong đơn vị. - Xem xét các yêu cầu hợp lý để cho phép người phạm tội được vắng mặt ở nơi sinh sống; - Xem xét đề nghị của người phạm tội để đề nghị Toà án cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực nơi người đó đang chấp hành hình phạt về việc giảm tải thời hạn; miễn chấp hành thời hạn áp dụng hình phạt còn lại theo quy định của pháp luật; - Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành đủ thời hạn cải tạo không giam giữ cho người phạm tội; - Nhận xét phải được soạn bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi tất cả quá trình chấp hành hình phạt của người phạm tội trong trường hợp người đó được chuyển đi nơi khác; - Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người phạm tội theo quyết định của Toà án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự. - Đối với người phạm tội là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, người đang học tập tại các cơ sở giáo 15
- dục, đào tạo chấp hành hình phạt tại cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo, thì ngoài những trách nhiệm và quyền trên, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo đó còn có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người phạm tội học tập, làm việc và sinh sống Ba là, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất trong số các hình phạt không cách ly khỏi xã hội, và có nơi cải tạo đa dạng như địa phương nơi cư trú, hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án hoặc đơn vị quân đội nếu người bị kết án là quân nhân. Khác với hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án cách ly khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp [23, tr. 189]. Các trường hợp phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội họ gây ra không lớn hoặc chưa đến mức phải chịu hình phạt tù và nếu cảnh cáo và phạt tiền thì quá nhẹ đối với hành vi phạm tội mà cá nhân đó gây ra. Người bị kết án phải tự mình cố gắng cải tạo, tự sửa chữa lỗi lầm bản thân mình và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia lao động công ích, phấn đấu học tập, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân, quy tắc tại nơi mình cư trú, sinh sống, làm việc. 1.3. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù cho hưởng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện, cảnh cáo 1.3.1. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù (Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo). Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục. Người được hưởng án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định. Nếu người được hưởng án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến 16
- bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi giáo dục, tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới do vô ý, hoặc phạm tội mới do cố ý thì toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Án treo và cải tạo không giam giữ có hình thức giống nhau là người bị kết án được tự do trong sự giám sát, quản lý và giáo dục của địa phương cư trú, cơ quan nơi công tác. Đây là hai chế tài Hình sự với nhiều nét tương đồng, ví dụ như cả hai hình phạt đều không cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội. Tuy nhiên, giữa hai chế tài này có những điểm riêng biệt nhất định. Án treo: Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. - Điều kiện áp dụng án treo: + Hình phạt đối với người vi phạm pháp luật ở mức độ ít nghiêm trọng, bị xử phạt tù không quá 03 năm. + Có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được. + Không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; nếu có 01 tình tiết tăng nặng TNHS thì phải có từ 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS. - Án treo có kèm theo thời gian thử thách và trong thời gian này, nếu người bị án treo phạm tội mới, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước. Thời gian thử thách của án treo từ 01 đến 05 năm. - Không quy định về việc phải thực hiện 01 số công việc lao động phục vụ công ích, cũng như người bị kết án ko bị trừ một phần thu nhập. Cải tạo không giam giữ: Là hình phạt được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm. - Điều kiện áp dụng: 17
- + Đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định. + Có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. - Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. - Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này, thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. 1.3.2. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với tha tù trước thời hạn có điều kiện Biện pháp tha tù trước thời hạn có điều kiện của hình phạt tù chính là một giải pháp cho phép sớm đưa người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng đồng để phục thiện, sửa sữa lỗi lầm với sự giúp đỡ và giám sát của gia đình, các cơ quan, đoàn thể xã hội [31, tr.177]. Điều 66 BLHS năm 2015 quy định: “Tha tù trước thời hạn có điều kiện 1. Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Phạm tội lần đầu; b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; c) Có nơi cư trú rõ ràng; d) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí; 18
- đ) Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn. Trường hợp người phạm tội là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn; e) Không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299 của Bộ luật này; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ luật này do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251 và 252 của Bộ luật này; b) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này. 3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù. 4. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 75 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 103 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
70 p | 74 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam
91 p | 54 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng án treo từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
76 p | 70 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn