Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
lượt xem 21
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về tội gây rối trật tự công cộng trong Luật hình sự Việt Nam; Thực tiễn áp dụng giải quyết, xét xử tội gây rối trật tự địa bàn tỉnh Hải Dương; Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội gây rối trật tự công cộng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN QUÂN NGUYỄN VĂN QUÂN TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHÓA X HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN QUÂN TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS LÊ HỮU DU HÀ NỘI, 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, luận văn thạc sỹ với đề tài “Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, bản án, ví dụ được trích dẫn, phân tích trong luận văn là trung thực, rõ ràng về nguồn gốc, kết quả nghiên cứu không trùng với bất kỳ đề tài khoa học nào và chưa được công bố. Các nghĩa vụ về tài chính đối với Học viện Khoa học xã hội cũng như toàn bộ các môn học tôi đều đã hoàn thành. Tác giả Nguyễn Văn Quân
- MỤC LỤC Nội dung Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 9 LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GẤY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. Những vấn đề lý luận 9 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng 18 Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ XÉT XỬ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 37 2.1. Khái quát về tỉnh Hải Dương 37 2.2. Kết quả công tác xét xử tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn 37 tỉnh Hải Dương 2.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân 44 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN 60 TỈNH HẢI DƯƠNG 3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng 60 pháp luật đối với tội tội gây rối trật tự công cộng 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội tội 63 gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hải Dương KẾT LUẬN 77 DANH MỤC THAM KHẢO 78
- DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS - BLHS Bộ luật tố tụng hình sự - BLTTHS Tòa án nhân dân - TAND Hội đồng xét xử - HĐXX Viện kiểm sát - VKS Nghị quyết - NQ Hội đồng thẩm phán - HĐTP Cộng hoà xã hội chủ nghĩa- CHXHCN
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Có thể khẳng định bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, trật tự, an toàn xã hội luôn là vấn đề rất quan trọng, đây là cơ sở, nền tảng để phát triển kinh tế xã hội, xây dựng một đất nước giàu mạnh. Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang ngày càng có nhiều diễn biến, phức tạp, bất ổn khó lường, thì nhiều năm qua, Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là quốc gia có tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tương đối ổn định. Chính điều đó, Việt Nam luôn được lựa chọn là điểm đến đáng tin cậy, nhiều nước và tổ chức quốc tế lựa chọn Việt Nam để tổ chức nhiều sự kiện chính trị quan trọng như Hội nghị cấp cao Apec, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ- Triều vv…. Sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đã tạo đà cho nền kinh tế nước ta vững bước phát triển, đời sống của người dân ngày được nâng cao, mọi người được sống trong môi trường hòa bình, văn minh, an toàn. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu tích cực không thể phủ nhận, đất nước ta còn đứng trước những thách thức về an ninh phi truyền thống, trong đó tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội còn nhiều diến biến phức tạp, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng nhất là những tội phạm xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng đang là vấn đề nhức nhối đặt ra cho toàn xã hội [1]. Loại tội phạm này không chỉ gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản và tính mạng, sức khỏe của công dân mà còn ảnh hưởng đến trật tự ở những nơi công cộng, đến hoạt động chung của toàn xã hội. Hành vi này xâm phạm nghiêm trọng đến quy tắc xử sự chung được đặt ra ở nơi công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Hành vi gây rối thường được thực hiện công khai và thường diễn ra ở những nơi đông người, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu hiện của hành vi gây rối thường là: Tụ tập đánh nhau, hò hét, hành hung, đập phá tài 1
- sản ở nơi công cộng, tụ tập nhiều người đi xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là gây ra các hậu quả như thương tích, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chết người v.v... với biểu hiện tội phạm này ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc dư luận xã hội, hoang mang lo lắng trong nhân dân. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, từ năm 2016 đến năm 2020, Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương đã thụ lý và đưa ra giải quyết, xét xử 57 vụ án với 336 bị cáo về tội gây rối trật tự công cộng, chiếm tỉ lệ 1% tổng số vụ án hình sự đã giải quyết, xét xử. Mặc dù loại án này chiếm tỷ lệ ít so với các vụ án hình sự mà Tòa án đã giải quyết, tuy nhiên trên thực tế, các hành vi vi phạm hành chính về an ninh trật tự nói chung và hành vi gây rối trật tự công cộng rói riêng trong phạm vi toàn tỉnh đã bị xử lý vi phạm hành chính lại rất nhiều và xẩy ra hàng ngày, hàng giờ. Đặc biệt một số vụ việc phức tạp, nổi cộm còn là cơ hội cho những đối tượng phản động sử dụng để bôi nhọ, xuyên tạc tình hình an ninh, chính trị ở nước ta. Hải Dương là tỉnh có dân cư đông đúc, đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển. Do đó, vấn đề giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương là nhiệm vụ quan trọng. Thời gian qua, Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh nói chung đã nỗ lực xử lý tội phạm gây rối trật tự công cộng và đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc xét xử các vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh còn có những vướng mắc, hạn chế, bất cập như nhận thức về tội gây rối trật tự công cộng còn chưa thống nhất; việc định tội danh chưa chính xác dẫn đến bỏ lọt hành vi gây rối trật tự công cộng, bỏ lọt người phạm tội, xác định tư cách tham gia tố tụng không đúng, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ cao, còn có vụ án bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Nguyên nhân 2
- của những vướng mắc, bất cập đó xuất phát từ việc quy định của pháp luật khi mà BLHS năm 2015 đã có hiệu lực được hơn 03 năm nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích; trình độ chuyên môn, ý thức chủ quan của người áp dụng pháp luật còn hạn chế, việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, ban hành án lệ của cấp trên chưa đầy đủ, kịp thời… Những điều đó đã làm giảm hiệu quả công tác xét xử của Tòa án, chưa đủ sức răn đe, phòng chống đối với loại tội phạm này. Do đó, tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hải Dương cần phải được nghiên cứu toàn diện, tổng kết một cách có hệ thống. Thông qua việc nghiên cứu sẽ xác định được những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế đó, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật và các giải pháp đồng bộ khác nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả xét xử tội danh này trên địa bàn. Từ thực tiễn nêu trên, người viết quyết định lựa chọn đề tài: “Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội gây rối trật tự công cộng đã được BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại Điều 318, đây cũng là sự tiếp nối quy định về tội gây rối trật tự công cộng trong những BLHS trước đây. Do đó, việc nghiên cứu về tội gây rối trật tự công cộng đã có nhiều công trình dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, có thể được chia thành các nhóm sau: * Nhóm thứ nhất: Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2001; Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam, năm 2013; Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2013; Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã 3
- Hội, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2014; Giáo trình luật hình sự Việt Nam. Phần các tội phạm, trường Đại học Kiểm sát, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016. Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 2019; Nguyễn Đức Mai (2001), Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng - Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS - Phần các tội phạm, Tập IX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, năm 2013; Định tội danh Trương Quang Vinh (2008), Bình luận các điều 241 đến 256- Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999 (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Minh Hưởng (2014), Bình luận khoa học BLHS (được sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức; Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học BLHS năm 2015- sửa đổi bổ sung năm 2017 phần các tội phạm, Nxb. Tư pháp; Trần Văn Biên- Đinh Thế Hưng (Đồng chủ biên), bình luận khoa học BLHS năm 2015 sửa đổi 2017, Nxb. Thế giới; Đinh Văn Quế (2018), Chuyện pháp đình (bình luận án), Nxb. Thông tin và truyền thông. * Nhóm thứ hai: Các bài viết đăng trên các tạp chí: Đỗ Đức Hồng Hà, Xử lý đối với hành vi dùng vũ lực chống người thi hành công vụ ở nơi công cộng, Tạp chí Toà án nhân dân số 7/2005; Vũ Thành Long, Tội gây rối trật tự công cộng không có người bị hại, Tạp chí Tòa án nhân dân số 15/2005; Nguyễn Hữu Minh, Đồng phạm về tội giết người hay là gây rối trật tự công cộng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2011, tr. 34, 38; Cao Thị Thu Thắng, Kinh nghiệm rút ra qua việc giải quyết vụ án “gây rối trật tự công cộng”, bị cấp phúc thẩm hủy để điều tra lại, Tạp chí Kiểm sát số 02/2016, tr 51-53, 64; Bùi An Giôn, Về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 318 BLHS 4
- năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân số 15, tr 25-28, 48; Nguyễn Thanh Hải, Xử lý tội gây rối trật tự công cộng, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 7/2018, tr. 37-42. * Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sĩ luật học có liên quan: Đoàn Tố Như (2016), Tội gây rối trật tự công cộng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học Học viện khoa học xã hội; Triệu Văn Nam (2016), Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội; Tạ Thị Bích Ngọc (2020), Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Học viện khoa học xã hội. Kết quả nghiên cứu những công trình đã nêu trên thấy rằng: Đa số các công trình trên đều đi sâu phân tích ở các khía cạnh, góc độ quan tâm khác nhau và thời gian nghiên cứu cũng đã lâu. Có một số công trình nghiên cứu khi ở thời điểm chuyển giao giữa BLHS cũ và BLHS mới, khi mà cấu thành tội phạm theo quy định giữa hai bộ luật có sự thay cơ bản, một số luận văn mới cũng đề cập nhưng chưa hết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương cho đến thời điểm này cũng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu. Vì vậy, luận văn về tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương vẫn đảm bảo không trùng lặp và có tính mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tại tỉnh Hải Dương để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội danh này. 5
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội gây rối trật tự công cộng trong pháp luật hình sự Việt Nam, mà trọng tâm là quy định về tội danh và định tội danh theo BLHS mới. Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội gây rối trật tự công cộng trong hoạt động giải quyết, xét xử của Toà án nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020, từ đó xác định những vướng mắc, hạn chế, bất cập và nguyên nhân. Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về tội danh này và nâng cao hiệu quả giải quyết, xét xử đối với tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội gây rối trật tự công cộng theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về chuyên ngành: Tác giả nghiên cứu pháp luật hình sự và luật tố tụng hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn trong 5 năm, từ năm 2016 đến năm 2020. Phạm vi về không gian: Thực tiễn xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương. Trong đó tập trung nghiên cứu hai hoạt động chính là định tội danh và quyết định hình phạt. 6
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được tác giả nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh trật tự, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về an ninh trật tự, về công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật hình sự: 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn tham khảo các bài viết của các nhà khoa học, ý kiến chuyên gia và nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản án, các báo cáo tổng kết của hệ thống Tòa án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa quan trọng mà luận văn mang lại trên hai phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả đã làm rõ các vấn đề chung tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, phân tích các dấu hiệu cấu thành tội phạm, khái quát lịch sử của các quy định trong luật hình sự nước ta về tội phạm này từ năm 1945 đến nay, làm sáng tỏ các quy định của BLHS năm 2015 về tội gây rối trật tự công cộng, so sánh tội phạm này với một số tội phạm khác để thấy sự khác biệt trong cấu thành cơ bản, nhằm hạn chế sự nhầm lẫn khi định tội danh. Nghiên cứu thực tiễn giải quyết, xét xử tội gây rối trật tự công cộng giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương, những kết quả đạt được và chỉ ra những bất cập, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất 7
- giải pháp giúp các cơ quan lập pháp tham khảo, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tội danh gây rối trật tự công cộng. Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương nói riêng và hệ thống Tòa án trong cả nước nói chung, giúp cho các Thẩm phán có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về tội danh đó và những hạn chế, vướng mắc, bất cập và hướng khắc phục trong quá trình giải quyết, xét xử loại tội phạm này trong thời gian tới được thống nhất, đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu cho các sinh viên, học viên cao học và các chuyên viên pháp lý để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm liên quan đến an ninh trật tự. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội gây rối trật tự công cộng trong Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn áp dụng giải quyết, xét xử tội gây rối trật tự địa bàn tỉnh Hải Dương Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội gây rối trật tự công cộng 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GẤY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. Những vấn đề lý luận 1.1.1. Cơ sở lý luận Để duy trì xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định, loài người đã sử dụng nhiều công cụ điều chỉnh khác nhau, trong đó có pháp luật. Pháp luật chính là sản phẩm của sự phát triển xã hội, vừa mang tính khách quan (do đòi hỏi khách quan của xã hội đã phát triển ở một trình độ nhất định) vừa mang tính chủ quan, ý chí của giai cấp thống trị. Trong một xã hội có giai cấp, pháp luật luôn là một công cụ quản lý hiệu quả, quan trọng và không thể thiếu của Nhà nước. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội có mức độ quan trọng nhất định. Trong bối cảnh Nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm và duy trì trật tự, an toàn xã hội nói chung và an toàn tại nơi công cộng nói riêng thì cần có một văn bản pháp lý đủ mạnh, đủ sức răn đe để thực hiện việc đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng. Trong thời gian gần đây các hành vi gây rối trật tự công cộng có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, nhiều người tụ tập, la hét, đập phá, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức rõ điều này, Nhà nước Việt Nam luôn luôn sẵn sàng dùng những biện pháp khác nhau nhằm đảm bảo sự ổn định về chính trị. Chính sách của Nhà nước được thể hiện một cách toàn diện thông qua nhiều công cụ khác nhau, trong đó có pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm thì các quy định của pháp luật hình sự là một trong những biện pháp phòng ngừa quan trọng, khi 9
- các hành vi vi phạm pháp luật nào được coi là tội phạm thì giúp các quan hệ xã hội ổn định, bền vững. Biện pháp xử lý hành chính cũng có tác dụng nhưng nó không đủ mạnh như pháp luật hình sự. Khi chủ thể có ý định thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng, những chủ thể này sẽ có thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi (phải chịu hình phạt) nếu thực hiện. Chính vì vậy, quy định tội gây rối trật tự công cộng là việc sử dụng biện pháp xử lý hình sự với mục đích làm công cụ chính, hiệu quả để răn đe, ngăn ngừa và trừng trị người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng cũng như răn đe người có ý định thực hiện hành vi gây mất an ninh trật tự. Bên cạnh những cơ sở lý luận, thực tiễn trong những năm vừa qua tình hình tội gây rối trật tự công cộng có xu hướng gia tăng về số vụ và phức tạp về tính chất vụ việc. Trong khi tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại BLHS năm 1999 đã được BLHS năm 2015 sửa đổi cơ bản nhưng đến nay nhiều nội dung về cấu thành tội phạm và cấu thành định khung tăng nặng vẫn chưa được hướng dẫn, điều đó dẫn đến việc áp dụng áp luật chưa được thống nhất. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện, kiện toàn quy định của BLHS về tội gây rồi trật tự công cộng là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đây chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để quy định về vấn đề này trong luật hình sự Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm, các dấu hiệu đặc trưng của tội gây rối trật tự công cộng 1.1.2.1. Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng * Khái niệm trật tự công cộng. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường bắt gặp những thuật ngữ rất quen thuộc như giữ gìn trật tự công cộng, an toàn công cộng. Tuy nhiên, chính trong luật pháp luật hình sự cũng chưa đưa ra khái niệm, định nghĩa chính thức như thế nào là trật tự công cộng với tư cách là một khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. 10
- “Trật tự” theo Từ điển tiếng Việt là của tác giả Thái Xuân Đệ là “thứ tự trên dưới, trước sau theo một quy tắc nhất định, tình trạng có tổ chức, có kỷ luật” còn “công cộng” là thuộc về mọi người hoặc phục vụ chung cho mọi người [2, tr. 886, 147]. Thuật ngữ “Trật tự công cộng” được Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp giải thích trong Từ điển Luật học: Là trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng. Những nơi phục vụ lợi ích công cộng được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung được mọi người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… [3, tr. 809]. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì “Trật tự công cộng là sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi. Hay nói cách khác là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo” [4, tr 755]. Mặc dù chưa có định nghĩa chính thức, tuy nhiên từ các công trình đã và đang nghiên cứu, chúng ta có thể định nghĩa: “Trật tự công cộng là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật và các nội quy, quy tắc về trật tự chung, an toàn chung, mà đòi hỏi mọi thành viên của xã hội phải tuân theo những quy định chung đó nhằm đảm bảo cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã hội”. * Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội gây rối trật tự công cộng. 11
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Gây rối trật tự công cộng là nhóm các hành vi xâm phạm trật tự công cộng được Nhà nước bảo vệ bằng quy định điều luật trong pháp luật hình sự và đáng bị trừng phạt theo những quy định của điều luật này [5, tr 25]. Quan điểm thứ hai cho rằng: xâm phạm trật tự công cộng là những hành vi làm phá vỡ sự ổn định của trật tự công cộng, vi phạm pháp luật, văn hóa, chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán đảm bảo trật tự công cộng làm cản trở hoạt động bình thường, tuần tự của mọi người tại không gian công cộng [5, tr 25] . Ưu điểm của tác giả này đã nêu rõ được khách thể của tội gây rối trật tự công cộng mà tội phạm xâm phạm đến nhưng chưa nêu được dậu hiệu chủ thể và hành vi phạm tội của tội phạm này. Quan điểm khác cho rằng: "Gây rối trật tự công cộng là hành vi làm náo loạn trật tự nơi công cộng" [6, tr 13]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi gây rối trật tự công cộng chứ chưa làm rõ khái niệm tội gây rối trật tự công cộng, hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội phạm, vì khái niệm tội phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8 BLHS. Ngoài ra, có quan điểm dựa trên căn cứ là các quy định của BLHS năm 1999 (Điều 245) để định nghĩa: "Tội gây rối trật tự công cộng là hành vi gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" [7, tr 7]. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam năm 1999, thì quan điểm này chưa đựng những yếu tố hợp lý, nhưng dấu hiệu pháp lý đặc trưng về chủ thể của tội phạm trong khái niệm. Những quan điểm trên dù cũng chứa đựng yếu tố hợp lý nhưng vẫn chưa đầy đủ các dấu hiệu về mặt pháp lý, khái niệm tội phạm đã được quy định trong BLHS tại khoản 1 Điều 8, bao gồm các dấu hiệu: Thứ nhất phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS; Thứ hai: Phải do 12
- chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý (chủ thể có thể là cá nhân, pháp nhân); Thứ ba: Xâm hại đến những khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ; thứ tư tính phải bị xử lý hình sự theo quy định của BLHS [8]. Như vậy, từ những quan điểm nghiên cứu, có thể đưa ra khái niệm như sau: Tội gây rối trật tự công cộng là hành vi làm rối loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, xâm hại trật tự an toàn công cộng, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 1.1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây rối trật tự công cộng Hành vi xảy ra được xem là hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự thì hành vi đó phải thỏa mãn các dấu hiệu cần và đủ đặc trưng cho từng tội phạm cụ thể do pháp luật hình sự quy định. Qua nghiên cứu tội gây rối trật tự công cộng, cho thấy việc định tội danh đối với tội phạm này phải dựa trên các yếu tố cấu thành như sau: * Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định tại Điều 12 BLHS. Theo quy định này chủ thể của tội phạm nói chung và chủ thể của tội gây rối trật tự công cộng nói riêng là con người cụ thể, đang sống - thể nhân. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm 13
- hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại những những điều luật cụ thể, nhưng không có tội gây rối trật tự công cộng. Như vậy, chúng ta có thể xác định chủ thể của tội gây rối trật tự công cộng là chủ thể thường, đó là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự [7]. * Khách thể của tội phạm Theo quy định của BLHS 2015, khách thể của tội phạm được quy định tại Điều 8, đó là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong trừng mực nhất định. Đây là những khách thể chung của tội phạm, trên cơ sở đó, các nhà làm luật phân chia các loại tội phạm có cùng tính chất trong cùng một chương tương ứng tại Phần các tội phạm của Bộ luật này, hay còn gọi là khách thể loại của tội phạm (trong đó có xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng). Tội gây rối trật tự công cộng là tội phạm xâm phạm đến an toàn công cộng, những quy tắc, sinh hoạt, đi lại, làm việc, vui chơi... ở nơi công cộng, vi phạm quy tắc, nếp sống văn minh, văn hóa, gây ảnh hưởng đời sống, sinh hoạt của mọi người ở nơi công cộng. Đây còn gọi là khách thể trực tiếp của tội phạm (tức là bị tội phạm xâm hại trực tiếp). Ngoài ra, tội gây rối trật tự công cộng còn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của những người trong cơ quan Nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự công cộng [9, tr 25- 28, 48]. * Mặt khách quan của tội phạm Theo quy định của BLHS, những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm chính là mặt khách quan của tội phạm, gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, không gian, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội… Mặt khách quan của tội gây rối trật tự công cộng có các dấu hiệu sau: 14
- - Về hành vi khách quan: Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau, thể hiện qua cử chỉ, hành động và thái độ coi thường trật tự ở những nơi đông người như chợ, siêu thị, trường học, nhà thờ, rạp hát, công viên, nhà ga, bến xe, bến tàu, quảng trường, nhà văn hóa, câu lạc bộ, sân vận động, trụ sở cơ quan, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, khu dân cư, trường học, bệnh viện, trên các phương tiện giao thông, trên đường phố .v.v... , cụ thể như: Có lời nói thô tục hoặc hành vi thô bạo xúc phạm những người xung quanh tại nơi công cộng (đặc biệt là phụ nữ). Có hành vi gây mất trật tự, gây lộn xộn, náo loạn hoặc là những hành vi càn quấy, dùng vũ lực để quậy phá, làm hư hỏng tài sản của nhà nước, của tổ chức, cá nhân ở nơi công cộng (như đập phá tượng đài, làm hư các biểu tượng, tranh cổ động, xe ô tô …). * Hậu quả: Người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng sẽ cấu thành tội phạm thuộc một trong hai trường hợp sau: Thứ nhất: Người thực hiện hành vi gây rối phải gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hiện đều đang vận dụng Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS" về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng để xử lý đối với loại tội phạm này. Thứ hai: Hoặc tuy chưa gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự nhưng đã bị xử hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. + Việc xác định dấu hiệu đã bị xử hành chính về hành vi này mà còn vi phạm có nghĩa là trước đó, người này đã có hành vi vi phạm về trật tự, an toàn công cộng theo quy định tại chương 2 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ và bị xử phạt hành chính về hành vi đó mà chưa 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn