intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

32
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về bị hại trong Tố tụng hình sự; Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bị hại và thực tiễn bảo vệ quyền lợi của bị hại tại tỉnh Đồng Nai; Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bị hại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ HỒNG NGỌC BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ HỒNG NGỌC BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS VÕ KHÁNH VINH Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ Luật học “Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh. Các số liệu, thông tin đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực, tài liệu trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Đồng Nai, ngày tháng năm 2021. Người cam đoan Lê Hồng Ngọc
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................................................................ 5 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của bị hại trong tố tụng hình sự......... 5 1.2. Phân biệt bị hại với người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự ..... 11 1.3. Phân loại bị hại trong tố tụng hình sự ......................................................... 15 1.4. Lịch sử phát triển quy định pháp luật về bị hại ........................................... 18 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BỊ HẠI VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA BỊ HẠI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ............................................................................................................. 22 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị hại ....................... 22 2.2. Thực trạng bị hại ở Đồng Nai qua công tác xét xử của Tòa án................... 38 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI ................................................................................................... 51 3.1. Nguyên tắc định hướng áp dụng đúng quy định về bị hại .......................... 51 3.2. Các kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về bị hại .................................... 54 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ bị hại trong tố tụng hình sự .... 55 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 69
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự : BLHS Bộ luật Tố tụng hình sự : BLTTHS Bộ luật Tố tụng dân sự : BLTTDS Tòa án nhân dân TAND Viện kiểm sát : VKS Cơ quan điều tra : CQĐT Xã hội chủ nghĩa : XHCN Tiến hành tố tụng : THTT Kiểm sát viên : KSV Người bị hại : NBH Bị hại : BH
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao quyền con người, quyền công dân nên việc bảo đảm công bằng của tất cả mọi chủ thể trước pháp luật là một yêu cầu khách quan. Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp, thực hiện chức năng xét xử, bảo đảm công bằng trong xã hội. Trong tố tụng hình sự, bị cáo là chủ thể được quan tâm nghiên cứu rất nhiều và pháp luật đưa ra nhiều quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trước pháp luật. Trong khi đó, bị hại là chủ thể bị tội phạm gây thiệt hại, cần sự quan tâm của Nhà nước để đòi lại sự công bằng cũng như bảo đảm quyền lợi của họ trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm. Mặc dù thực tế bị hại là chủ thể chịu nhiều thiệt thòi nhất và quyền lợi bị xâm phạm nặng nề nhất nhưng trong tố tụng hình sự thì vai trò và địa vị pháp lý của bị hại chưa được quan tâm đúng mức. Trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền của bị hại trong tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt chính trị - xã hội và cả về mặt pháp lý. Về mặt lập pháp, quyền của người bị hại chưa được Hiến pháp thừa nhận mà chỉ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có một số thay đổi, bổ sung như mở rộng khái niệm bị hại về đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân; đưa ra định nghĩa về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại; bổ sung người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có thể là trợ giúp viên pháp lý. Mặc dù vậy, cho đến nay nhận thức lý luận về bị hại trong tố tụng hình sự vẫn còn những quan điểm khác nhau, các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý và quyền của bị hại vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Về mặt thực tiễn, xác định tư cách bị hại trong tố tụng hình sự và bảo vệ quyền của bị hại còn nhiều hạn chế, sai sót không chỉ ở tỉnh Đồng Nai mà còn ở một số địa phương khác. Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã có những đóng góp tích cực trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, việc xác 1
  7. định tư cách bị hại ở một số trường hợp vẫn còn các quan điểm khác nhau và việc bảo vệ quyền lợi của bị hại chưa thật sự được bảo đảm. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, sự hạn chế của quy định pháp luật và về mặt lý luận trong khoa học đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu để hoàn thiện về mặt pháp luật, góp phần chung vào công tác bảo vệ quyền lợi của bị hại ở tỉnh Đồng Nai mà học viên chọn đề tài “Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy bị hại không phải là một đề tài quá mới mà đã có một số công trình nghiên cứu như: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự của tác giả Đinh Thị Mai do nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2014. Công trình tiếp cận dưới góc độ quyền của bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2003. Tranh tụng của bị hại: Nghiên cứu so sánh Luật Tố tụng hình sự của Liên Bang Nga và Việt Nam - Luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Tuấn Vũ. Luận văn tiếp cận dưới góc độ so sánh trên phương diện tranh tụng của bị hại mà không toàn diện về bị hại. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam - Luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Phạm Ngọc Duyên. Luận văn chỉ khai thác khía cạnh quyền khởi tố vụ án của bị hại. Quyền của bị hại: Nghiên cứu so sánh Luật Tố tụng hình sự của Liên Bang Nga và Việt Nam - Luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Đỗ Cao Ngọc Hân. Những công trình kể trên chỉ đề cập đến một khía cạnh liên quan đến chế định bị hại và còn khá nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm, các quyền và nghĩa vụ về người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại. Từ trước đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào toàn diện về bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 2
  8. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về bị hại và thực tiễn áp dụng quy định này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, học viên đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp và bảo đảm quyền lợi của bị hại trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn dự kiến thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phân tích những vấn đề chung về bị hại trong tố tụng hình sự như các khái niệm về bị hại, phân loại bị hại; phân biệt bị hại với những người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự và ý nghĩa của việc xác định bị hại đúng trong tố tụng hình sự. - Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về bị hại; đánh giá thực tiễn áp dụng quy định này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để phát huy những mặt tích cực, chỉ ra những vướng mắc trong quá trình áp dụng và nguyên nhân của những vướng mắc. - Đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật tố tụng hình sự về bị hại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về bị hại, thực tiễn áp dụng quy định này của Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận và những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại trên cơ sở thực tiễn xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến hết tháng 9 năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bị hại. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 3
  9. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp phân tích diễn dịch, quy nạp, thống kê, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu. - Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập các số liệu từ thực tiễn tại Đồng Nai, so sánh với các giai đoạn pháp luật trước đó và nghiên cứu, phân tích bản án điển hình. Từ đó, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị giải pháp hoàn thiện. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và khoa học pháp lý, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bị hại. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu trong Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về bị hại và bảo đảm quyền lợi của bị hại trong tố tụng hình sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận về bị hại trong Tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bị hại và thực tiễn bảo vệ quyền lợi của bị hại tại tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bị hại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. 4
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của bị hại trong Tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm bị hại trong Tố tụng hình sự Bị hại là một trong hai chủ thể chính, quan trọng nhất trong pháp luật hình sự. Bị hại là người bị xâm phạm bởi tội phạm, được pháp luật hình sự quan tâm để bù đắp những tổn thất, thiệt hại, khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi bị tội phạm xâm phạm. Bị hại là một trong những người tham gia tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham gia tố tụng nhưng trong các văn bản pháp luật, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có nhiều cách hiểu khác, xác định khác nhau và không đầy đủ về bị hại. Do đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng mà một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại đó là pháp luật. Pháp luật TTHS và pháp luật hình sự của nước ta không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ, trong BLTTHS thì gọi là bị hại, còn trong BLHS lại quy định là người bị hại. Pháp luật của các nước cũng không thống nhất trong thuật ngữ này, có nước thì gọi là “người bị hại”, “người tố cáo”, “người bị thiệt hại”, “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”. Bị hại là một khái niệm quen thuộc trong khoa học pháp lý và pháp luật thực định. Dưới những góc độ khác nhau thì bị hại được hiểu theo những cách khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt thì bị hại được được gọi bằng thuật ngữ “người bị hại”. Theo đó, người bị hại là người, tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài đưa đến [48]. Theo cách hiểu ngày, người bị hại có thể là cá nhân hoặc tổ chức mà bị thiệt hại. Tuy nhiên, giải thích trên không phân biệt được “hậu quả từ bên ngoài đưa đến” là do người hay do con vật gây ra, hậu quả đó là thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản và giới hạn của thiệt hại. Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “người bị hại” được quy định trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao thì người bị hại là cá nhân bị xâm phạm về thể chất, tài sản hoặc 5
  11. tinh thần [44]. Tiếp đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra [6]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng đưa ra khái niệm“Người bị hại” theo đó người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra [5]. Như vậy, theo các văn bản trên thì người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản. Với quy định trên làm cho khoa học pháp lý đưa ra rất nhiều ý kiến về việc có nên thừa nhận tổ chức, pháp nhân là người bị hại trong trường hợp họ bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại hay không. Qua thực tiễn áp dụng BLTTHS và xã hội đã có những thay đổi lớn theo hướng tích cực, xu hướng hội nhập khu vực và thế giới đã trở thành xu thế tất yếu, việc thừa nhận tổ chức và pháp nhân là người bị hại nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Do đó, thuật ngữ “Người bị hại” trong BLTTHS 2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong BLTTHS năm 2015 [4]. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Xuất phát từ khái niệm trên ta thấy, bị hại không chỉ là con người cụ thể, mà bị hại có thể cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức trực tiếp bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Cá nhân bị thiệt hại có thể là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, người bị thiệt hại có thể còn sống hoặc đã chết. Trường hợp bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Thiệt hại gây ra đó là thể chất, tinh thần, tài sản (đối với cá nhân) hoặc thiệt hại là tài sản, uy tín (đối với cơ quan, tổ chức). Thiệt hại có thể là đã xảy ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại, nghĩa là không chỉ khi tội phạm đã hoàn thành, mà cả trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khi chưa gây ra thiệt hại gì do 6
  12. những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có nguy cơ bị xâm hại cũng được gọi là người bị hại. Như vậy, khái niệm bị hại theo BLTTHS năm 2015 như sau: Bị hại là chủ thể bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Nếu bị hại là cá nhân thì đó là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Từ khái niệm bị hại ta có thể thấy, quyền được công nhận là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng để chủ thể bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ và quyền này phát sinh từ khi người này được thừa nhận và đưa vào tham gia tố tụng hình sự với tư cách là bị hại. Tuy nhiên, khái niệm trên chỉ quy định về nội dung xác định chủ thể là bị hại mà chưa quy định cụ thể về thời điểm, thẩm quyền, trình tự. thủ tục và hình thức xác định tư cách tố tụng bị hại. 1.1.2. Đặc điểm bị hại trong tố tụng hình sự Từ quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 2015 và khái niệm bị hại đưa ra ở mục 1.1.1. nêu trên, có thể thấy bị hại có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cá nhân bị tội phạm xâm phạm có thể là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người có năng lực hành vi dân sự một phần, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Khi tham gia tố tụng hình sự, bị hại là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà còn sống thì tự mình tham gia tố tụng, bị hại là cá nhân chưa thành niên, hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Bị hại cũng có thể là cơ quan, tổ chức, đây là một quy định mới về bị hại so với BLTTHS năm 2003 và các văn bản tố tụng trước đây. Cơ quan, tổ chức không thể tự mình tham gia tố tụng nên đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ 7
  13. quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quy định này đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và bảo vệ được quyền lợi của chủ thể bị xâm phạm bởi tội phạm. Thứ hai, loại thiệt hại do tội phạm gây Thiệt hại được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Thiệt hại về thể chất là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; thiệt hại về tinh thần là thiệt hại về danh dự, nhân phẩm; thiệt hại về tài sản là tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc thiệt hại. Hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc để xác định bị hại, nghĩa là không nhất thiết phải có thiệt hại thực tế mà trong những trường hợp phạm tội chưa đạt do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của tội phạm cũng làm xuất hiện bị hại. Khoản 1 Điều 60 BLTTHS quy định, thiệt hại không chỉ là do tội phạm gây ra mà còn “đe dọa gây ra”. Tuy nhiên, trong cấu thành tội phạm thì có cấu thành hình thức và cấu thành vật chất. Đối với những cấu thành tội phạm hình thức thì khi chưa có thiệt hại thực tế mà chỉ cần “đe dọa gây ra” thiệt hại đã cấu thành tội phạm thì lúc này làm phát sinh bị hại; trường hợp tội phạm là cấu thành vật chất, phải gây ra thiệt hại mới đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải có thiệt hại thực tế mới làm phát sinh bị hại. Thứ ba, tính chất của thiệt hại Thiệt hại của bị hại phải là thiệt hại trực tiếp, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Quy định này là sự kế thừa từ Thông tư 16 của Tòa án nhân dân tối cao và là cơ sở để phân biệt giữa bị hại với nguyên đơn dân sự. Trong trường hợp này, đối tượng của thiệt hại đồng thời là đối tượng tác động của tội phạm. Thứ tư, quyền tham gia tố tụng Cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Bị hại là một chủ thể tham gia tố tụng của pháp luật tố tụng hình sự, mà việc xác định chủ thể tham gia tố 8
  14. tụng của pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thực hiện. Các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra (và các cơ quan khác có thẩm quyền điều tra như Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm, Viện kiểm sát…), Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân. Khi có thiệt hại xảy ra, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xác định những chủ thể liên quan cần đưa vào tham gia tố tụng để bảo đảm vụ án được giải quyết đúng đắn; khi các chủ thể được đưa vào từng vụ án cụ thể mới trở thành người tham gia tố tụng, trong đó có bị hại. 1.1.3. Vị trí và vai trò của bị hại Bị hại và người bị buộc tội là hai chủ thể chính và quan trọng nhất của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Bị hại là chủ thể bị tội phạm gây thiệt hại, cần sự quan tâm đặc biệt từ phía Nhà nước giúp họ đòi lại công lý, sự công bằng. Trong tố tụng hình sự thì có hai nhóm chủ thể có địa vị tố tụng khác nhau đó là người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Bị hại theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là một trong các chủ thể tham gia tố tụng, có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị hại là chủ thể mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, họ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất trong những người tham gia tố tụng. Bị hại là một mắt xích quan trọng của tiến trình chứng minh và giải quyết đúng đắn VAHS [29, 3]. Bị hại không chỉ là chủ thể bị tội phạm gây thiệt hại mà còn là một chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, có vị trí và vai trò quan trọng quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong pháp luật Tố tụng hình sự thì sự tham gia của bị hại vào việc giải quyết VAHS như khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ hay quá trình xét xử tại tòa hầu hết là bị động, các ý kiến của BH không ảnh hưởng đến kết quả của TTHS (trừ trường hợp rút yêu cầu khởi tố đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại). Bản thân bị hại cũng chưa ý thức được đầy đủ vị trí, vai trò và quyền năng tố tụng của mình trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. 9
  15. Trong tố tụng hình sự, bị hại có vai trò trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội và xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Bị hại có vai trò trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Để đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô tội thì việc xác định sự thật của vụ án là một trong những điều kiện tiên quyết. Việc xác định sự thật của vụ án là nhằm sáng tỏ các tình tiết khác nhau của vụ án, tức là phải xác định nội dung vụ án đúng với các tình tiết của vụ án như thực tế đã diễn ra trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được. Bị hại là chủ thể bị tác động bởi tội phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản. Do đó, bị hại chứa đựng các thông tin về vụ án mà cơ quan tiến hành tố tụng cần thu thập như dấu vết tội phạm, lời khai, thiệt hại. Như vậy, bị hại và xác định đúng bị hại có vai trò quan trọng trong việc làm rõ sự thật của vụ án. Bị hại có vai trò trong việc xác định tội danh của người bị buộc tội. Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự quy định tùy thuộc vào bị hại mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Cùng một hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng khi gây ra thiệt hại cho bị hại ở những độ tuổi khác nhau thì phạm vào những tội danh khác nhau. Chẳng hạn, hành vi xâm phạm tình dục đối với người dưới 13 tuổi thì phạm tội hiếp dâm, từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi thì có thể là tội cưỡng dâm, hiếp dâm hoặc giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi. Bị hại có vai trò trong việc xác định hình phạt. Khi cùng một hành vi xâm phạm một khách thể nhưng tùy theo độ tuổi của bị hại hoặc đối tượng bị hại mà cấu thành các tội phạm khác nhau. Khi đó, các loại tội theo các điều luật khác nhau thì người phạm tội cũng chịu hình phạt tương xứng với tội phạm đó. Hoặc, khi bị hại là trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người già còn là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, bị hại còn có vai trò trong việc xác định hình phạt của bị cáo. 10
  16. 1.2. Phân biệt bị hại với người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự Xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của pháp luật; việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể, làm cho việc giải quyết vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để. Theo quy định tại Điều 55 BLTTHS năm 2015 thì có 20 người tham gia tố tụng trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, bao gồm người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án; người làm chứng; người chứng kiến; người giám định; người định giá tài sản; người phiên dịch, người dịch thuật; người bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội [4]. Tuy nhiên, trong số những người tham gia tố tụng quy định như trên thì bị hại có mối liên quan và cần phân biệt với bị cáo, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Phân biệt bị hại với người bị buộc tội Trong quá trình tố tụng, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là chủ thể xuyên suốt vụ án và thay đổi tên gọi qua các giai đoạn, nhưng được gọi chung là người bị buộc tội. Tùy vào từng giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án mà người bị buộc tội có thể được gọi theo những cách khác nhau. Khi mới bị bắt giữ, người bị buộc tội được gọi là người bị bắt, kể từ thời điểm bị khởi tố bị can, bị buộc tội sẽ được gọi là bị can; còn kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị buộc tội sẽ được gọi là bị cáo. Trong khi đó, bị hại là chủ thể chịu thiệt hại do hành vi của người bị buộc tội gây ra và chỉ có một tư cách tố tụng là bị hại. Người bị buộc tội là người trực tiếp gây ra thiệt hại, còn bị hại là người gánh chịu thiệt hại. Theo BLTTSHS năm 2015 thì người bị buộc tội không chỉ là cá nhân mà có thể pháp nhân thương mại [4]. Cá nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để trở 11
  17. thành người bị buộc tội phải chịu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào độ tuổi. Người chưa đủ 14 tuổi chưa phát triển đầy đủ về mặt nhận thức nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không không phải chịu trách nhiệm hình sự tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải là người bị buộc tội. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ nên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội thì họ phải chịu trách nhiệm đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và Điều 304 của Bộ luật Hình sự. Trong khi đó, bị hại là cá nhân thì không phân biệt độ tuổi, cá nhân ở độ tuổi nào mà bị thiệt hại về thể chất, tinh thần và tài sản đều là bị hại. Đối với người bị buộc tội là pháp nhân. Khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên, không phải mọi pháp nhân vi phạm pháp luật hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ có pháp nhân thương mại mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên, bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Như vậy người bị buộc tội là pháp nhân thương mại là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng có thể bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS năm 2015 trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt 12
  18. Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên [3]. Cùng với việc ghi nhận pháp nhân thương mại phạm tội thì BLTTHS năm 2015 cũng ghi nhận bị hại là cơ quan, tổ chức. Bị hại là cơ quan, tổ chức có thể là pháp nhân thương mại hoặc không phải pháp nhân thương mại hoặc không có tư cách pháp nhân. Như vậy, trong mối tương quan giữa bị hại và người bị buộc tội thì đây là hai chủ thể đối lập nhau và khác nhau về bản chất. Người bị buộc tội là người gây ra tội phạm, còn bị hại là người gánh chịu thiệt hại do tội phạm gây ra. Phân biệt bị hại với nguyên đơn dân sự Bị hại và nguyên đơn dân sự đều là người tham gia tố tụng và cùng bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Khoản 1 Điều 63 BLTTHS quy định “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Từ hai quy định trên, có thể thấy bị hại bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp có nghĩa là thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả của tội phạm; nguyên đơn bị tội phạm gây thiệt hại gián tiếp. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bị hại không bị tội phạm gây thiệt hại gián tiếp. Cùng với thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, bị hại còn có thể bị gây thiệt hại gián tiếp nữa. Mặc dù Điều 63 BLTTHS không quy định thiệt hại của nguyên đơn là gián tiếp, nhưng điều này xuất phát từ quy định về bị hại tại Điều 62 BLTTHS. Do đó, để xác định tư cách tố tụng đúng, cần làm rõ trong vụ án cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp để từ đó thực hiện các thủ tục tiếp theo. Do bị thiệt hại gián tiếp, nên để được tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn và được bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc tham gia tố tụng và yêu cầu bồi thường thiệt hại là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự. Nếu không muốn tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức không làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, việc tham gia tố tụng của bị hại là do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định, 13
  19. không cần dựa trên yêu cầu của bị hại (trừ trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại). Do khác nhau về tư cách tố tụng nên quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị hại và nguyên đơn dân sự cũng khác nhau. Bị hại có các quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án cả về hình sự và dân sự; thì nguyên đơn dân sự chỉ có các quyền, nghĩa vụ tố tụng liên quan đến việc bồi thường. Bị hại có quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt và bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự chỉ được quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại. Phân biệt bị hại với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Điều 65 BLTTHS quy định “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.” BLTTHS quy định rõ ràng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại hai quy định khác nhau nhưng trong thực tiễn việc xác định tư cách bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn có quan điểm và ý kiến trái ngược nhau, dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Khó khăn trong việc xác định bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là trường hợp tài sản bị thiệt hại thuộc sở hữu của một chủ thể nhưng do chủ thể khác đang quản lý, sử dụng hợp pháp. Người đang chiếm hữu, quản lý hợp pháp tài sản phải chịu trách nhiệm với chủ sở hữu tài sản về tài sản bị thiệt hại do đó họ là bị hại trong vụ án hình sự vì thiệt hại của họ là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm. Còn chủ sở hữu tài sản là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Như vậy, mỗi một người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự đều có địa vị pháp lý khác nhau dẫn đến quyền và nghĩa vụ trong vụ án cũng khác nhau. Việc xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đồng thời góp phần giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng, khách quan. Phân biệt bị hại với người giám hộ của bị hại dưới 18 tuổi 14
  20. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam không có chế định người giám hộ mà có quy định người giám hộ có thể là người đại diện của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi, trong đó có bị hại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 thì ngoài cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người do tòa án chỉ định thì người giám hộ có thể là người đại diện của bị hại dưới 18 tuổi. Người giám hộ của bị hại dưới 18 tuổi bao gồm người giám hộ đương nhiên hoặc người được ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử hoặc tòa án chỉ định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48, 52 và 54 Bộ luật Dân sự. Bị hại dưới 18 tuổi có người giám hộ đương nhiên khi không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con. Người giám hộ đương nhiên của bị hại dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự là anh, chị cả, anh hoặc chị ruột tiếp theo; hoặc ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; hoặc bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột. Khi bị hại dưới 18 tuổi không có người giám hộ đương nhiên thì ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ. Khi có sự tranh chấp về người giám hộ giữa những người giám hộ đương nhiên của bị hại dưới 18 tuổi. Việc xác định người giám hộ của bị hại dưới 18 tuổi trong vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng, để xác định đúng người đại diện hợp pháp cho người tham gia tố tụng là người dưới 18, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên. 1.3. Phân loại bị hại trong tố tụng hình sự Bị hại là người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Tại Điều 62 BLTTHS nêu ra khái niệm bị hại cũng đã nêu rõ bị hại gồm hai nhóm là cá nhân và cơ quan, tổ chức. Để hiểu rõ hơn về bị hại và tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà có thể phân loại bị hại thành những nhóm khác nhau. Có nhiều tiêu chí để phân loại bị hại, trong đó có thể phân loại bị hại dựa trên hai tiêu chí sau: 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2