intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bình Dương; Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN HỒNG DIỄM PHÚC ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN HỒNG DIỄM PHÚC ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Phan Hồng Diễm Phúc
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ........... 6 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản................................................................................................................. 6 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản............................................................................................................... 22 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG ............... 38 2.1. Khái quát tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bình Dương ......................................................................................... 38 2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bình Dương .............................................................................................. 40 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ................................................................................................................. 58 3.1. Yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản............................................................................................................... 58 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ............................................................................................ 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL : Áp dụng pháp luật BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CTTP : Cấu thành tội phạm HĐXX : Hội đồng xét xử LDTNCĐTS : Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản PLHS : Pháp luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 -2020. Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014-2020. Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 -2020. Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 - 2020.
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công lý là một trong những giá trị xã hội trường tồn của nhân loại. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, công lý vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Định tội danh đúng là tiền đề, điều kiện, là yêu cầu để đạt được công lý trong lĩnh vực này. Sau nhiều năm đổi mới, công tác tư pháp hình sự ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Trong dòng chảy đó, chất lượng hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ngày càng được nâng lên một cách rõ rệt. Tuy nhiên, trong hoạt động định tội danh, trong đó có định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn còn những hạn chế, vi phạm, sai lầm dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm, làm giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tỉnh Bình Dương sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, kinh tế xã hội của Bình Dương đã đạt được những bước phát triển vượt bậc, trở thành điểm sáng của cả nước về nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu thu hút vốn đầu tư và phát triển công nghiệp, đô thị cùng với sự phát triển của hệ thống hạ tầng và sức bật nền kinh tế, Bình Dương dần giải quyết tốt bài toán về tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm sở hữu và tình hình tội LDTNCĐTS nói riêng. Thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cơ bản đã định tội danh chính xác, khắc phục được tình trạng “hình sự hóa các quan hệ dân sự”, mang lại niềm tin của nhân dân vào công lý. Tuy nhiên, thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương cũng cho thấy vẫn còn tình trạng vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết do nhiều nguyên nhân, một trong những 1
  8. nguyên nhân quan trọng là giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình giải quyết vụ án xuất hiện quan điểm khác nhau do chưa có nhận thức đúng các cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn của định tội danh tội LDTNCĐTS. Trong khi đó, công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương chưa được quan tâm đúng mức. Việc chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu về định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Dương ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của những người tiến hành tố tụng hình sự tại tỉnh Bình Dương. Thực trạng trên đây đặt ra nhu cầu phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, những người tiến hành tố tụng hình sự tại tỉnh Bình Dương nói riêng, qua đó bảo vệ tốt hơn công lý, quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và của xã hội, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đó cũng là lý do học viên lựa chọn đề tài “Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình làm luận văn này, học viên tham khảo một số công trình khoa học liên quan đến đề tài đã được công bố, trong số đó có thể kể đến: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2019), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, phần thứ 2, NXB. Thông tin và truyền thông; Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội; Phùng Thị Thủy Duyên (2017) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh; 2
  9. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội; Lê Quang Ninh (2019) Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Phước …. Với sự tham khảo các công trình nghiên cứu vấn đề định tội danh tội LDTNCĐTS của nhiều tác giả từ thực tiễn của nhiều địa phương trong cả nước, luận văn làm rõ một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến cải cách tư pháp, định tội danh và bảo vệ công lý ở Việt Nam. Nhìn chung, yêu cầu định tội danh chính xác đã từng bước thu hút được sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu tại Việt Nam, đặc biệt là sau khi Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta được triển khai và đi vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, những nghiên cứu như đã giới thiệu và phân tích ở trên còn hạn chế về số lượng, chỉ hướng đến việc phân tích về lý luận của hoạt động định tội danh, đặc biệt là trong hoạt động tư pháp chưa có tính sâu sắc và toàn diện. Đó là một trong những lý do khiến tác giả chọn chủ đề này làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu những công trình nghiên cứu đã công bố làm một trong những nguồn tài liệu quan trọng, thông qua đó tác giả vận dụng, kế thừa và bổ sung nhằm hoàn thiện cho luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; thực tiễn định tội danh tội này tại tỉnh Bình Dương, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm hướng đến việc đạt những mục đích như đã phân tích, luận văn tiến hành thực hiện các nhiệm vụ quan trọng sau: 3
  10. - Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; - Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương; - Những giải pháp đề xuất nhằm bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Từ những quan điểm khoa học và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội LDTNCĐTS cùng với thực tiễn của hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS tại tỉnh Bình Dương, luận văn đã thực hiện nghiên cứu nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu dưới óc độ chuyên ngành Luật hình sự Việt nam và Bộ luật tố tụng hình sự Việt nam. Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu số liệu xét xử các vụ án LDTNCĐTS của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Dương trong thời gian 07 năm từ năm 2014 đến 2020. Như vậy về chủ thể định tội danh: Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Bình Dương. Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Bình Dương. Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2014 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tội phạm, phòng, chống tội 4
  11. phạm, công lý, bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ quyền con người, cải tách tư pháp hình sự…làm phương pháp luận để nghiên cứu đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, bảng biểu hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu án điển hình để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức thống nhất về các cơ sở của định tội danh tội phạm nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng, qua đó góp phần hoàn thiện lý luận định tội danh. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Luật tại các cơ sở giáo dục trên cả nước. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử dụng phục vụ hoạt động thực tiễn, đặc biệt là họt động của cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử hình sự. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bình Dương; Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 5
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1.1. Khái niệm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Để có thể xây dựng khái niệm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trước hết phải nhận thức thế nào là định tội danh. Trước hết cần nhấn mạnh rằng, trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu lý luận về định tội danh là một trong những vấn đề trung tâm và là nhiệm vụ cơ bản của khoa học luật hình sự nước ta vì nó có ý nghĩa khoa học- thực tiễn quan trọng. Khái niệm định tội danh đã đóng vai trò tố tụng như là căn cứ đầy đủ cho việc xét xử vụ án hình sự tại Tòa án, vì vậy dần dần được nghiên cứu rộng rãi và phát triển trong khoa học luật hình sự nước ta. Quá trình áp giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng là quá trình áp dụng pháp luật với các nội dung gồm như: Định tội danh, miễn trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, miễn hình phạt…, trong đó định tội danh là nội dung quan trọng nhất và được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Vậy thì, định tội danh là gì? Hiện trong khoa học pháp lý nước ta, còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm nhận định rằng định tôi danh được hiểu là hoạt động xác định và ghi nhận trên phương diện pháp lý có sự phù hợp chính xác hay không giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy phạm pháp luật hình sự Việt nam với các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện trên 6
  13. thực tế. Quan điểm này thể hiện được bản chất của hoạt động định tội danh nhưng chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động định tội danh lại không được xác định, chưa phản ánh được định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic, phải dựa trên những cơ sở nào và nhằm mục đích gì. Cũng có nhận định của một quan điểm khác cho rằng hoạt động xác định sự phù hợp hay không giữa những dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do Bộ luật hình sự nước ta quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan trên cơ sở các tài liệu chứng cứ thu thập được cùng với những tình tiết thực tế của vụ án của thể có thẩm quyền định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic; là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nước ta, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716]. Như vậy, quan điểm này khẳng định tầm quan trọng của các quy luật nhận thức mà chủ thể khi định tội danh phải tuân theo vì định tội danh là quá trình nhận thức, là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật tố tụng hình sự được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được thu thập theo đúng quy định của PLTTHS, để các chủ thể có thẩm quyền xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do Luật hình sự quy định để xác định sự thật khách quan. Ở một quan điểm khác nhận định rằng chủ thể có thẩm quyền định tội danh thực hiện hoạt động định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật thông qua các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Dựa vào những tình tiết đã xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể, chủ thể có thẩm quyền định tội danh sẽ quyết định hành vi đó 7
  14. có đủ yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nước ta hay không. Những người theo quan điểm này mặc dù đã chỉ ra chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động định tội danh và bản chất của hoạt động định tội danh, song vẫn không nêu được quy trình cụ thể của hoạt động định tội danh cho các chủ thể có thẩm quyền dựa trên cơ sở đó để định tội danh. Phân tích nội dung của một số quan điểm trên đây về khái niệm định tội danh có thể thấy còn có sự nhận thức khá khác nhau về định tội danh; Mỗi quan điểm có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Chúng ta không thể đưa ra kết luận về khái niệm định tội danh mà chỉ dựa trên một số mô tả rời rạc về hoạt động định tội danh theo từng quan điểm. Theo như đã phân tích, khi tiến hành hoạt động định tội danh ở hầu hết các quan điểm nêu trên đều thống nhất về mặt lý luận rằng hoạt động định tội danh được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền và mục đích cuối cùng là xác định có hay không có sự phù hợp giữa một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện trên thực tế và quy định của Bộ luật hình sự nước ta. Văn bản pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt là BLHS đã quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và phải chịu hình phạt. Người tiến hành tố tụng thực hiện so sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế với những dấu hiệu đã được BLHS mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể, từ đó xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS trên cơ sở các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm PLHS như một khuôn mẫu pháp lý. Quan điểm của luận văn cho rằng “Định tội danh là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự để xác định một cách đầy đủ toàn diện có hay không có sự phù hợp giữa những dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện trên thực tế và những dấu hiệu tương ứng được quy định tại Bộ luật 8
  15. hình sự để quyết định ban hành văn bản áp dụng pháp luật thích hợp theo đúng thẩm quyền. Hay nói cách khác, đó là hoạt động thực tiễm áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, là hoạt động nhận thức mang tính logic của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng” Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài là tội cụ thể được quy định trong BLHS. Bởi vậy, trong nội hàm của khái niệm định tội danh tội này có những nội dung của khái niệm định tội danh nói chung đã nêu trên đây. Tuy nhiên, bởi là tội cụ thể lại được quy định tại điều luật cụ thể của Phần các tội phạm BLHS và gắn với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm tài sản và các dấu hiệu đặc trưng khác của tội này, nên trong nội hàm của khái niệm định tội danh tội này phải thể hiện được những dấu hiệu đó. Có thể hiểu khái niệm định tội danh đối với tội LDTNCĐTS theo quy định tại Điều 8, Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau: Định tôi danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự để xác định một cách đầy đủ toàn diện có hay không có sự phù hợp giữa những dấu hiệu của một hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể đã thực hiện trên thực tế và những dấu hiệu tương ứng quy định tại Điều 175 của BLHS năm 2015 trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để tiến hành ban hành văn bản áp dụng pháp luật phù hợp theo đúng thẩm quyền nhằm đạt mục đích giải quyết được tất cả các vấn đề vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật hình sự quy định. 1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS có những đặc điểm sau: Thứ nhất, định tôi danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng quy định Bộ luật hình sự và Bộ luật tố 9
  16. tụng hình sự để xác định một cách đầy đủ toàn diện có hay không có sự phù hợp giữa những dấu hiệu của một hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể đã thực hiện trên thực tế và những dấu hiệu cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại Điều 175 của BLHS năm 2015. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan được giao nhiệm vụ được trang bị vốn kiến thức nhất định về pháp luật và được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến hành tố tụng thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2015. Hiểu như thế nào về tính logic của quá trình định tội danh tội LDTNCĐTS là một vấn đề thiết yếu cho hoạt động này. Tất cả hoạt động cần thiết để dẫn đến việc quyết định đưa ra kết luận định tội danh của hành vi LDTNCĐTS đều diễn ra một cách logic nhất thông qua quá trình so sánh, đối chiếu có hay không có sự phù hợp giữa hành vi đã thực hiện và những yếu tố cấu thành tội LDTNCĐTS quy định tại Điều 175 BLHS theo đúng thẩm quyền của các cơ quan có thẩm quyền định tội danh. Từ đó kết luận hành vi đó có phải tội phạm LDTNCĐTS hay không, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý. Thứ hai, định tội danh Tội LĐCĐTS là quá trình phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLHS cũng như các quy định của BLTTHS, là hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn đòi hỏi khi thực hiện phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết nhằm cụ thể hoá các QPPLHS vào đời sống thực tế. Điều tất yếu của chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động định tội danh là phải tránh sự nhầm lẫn về sự phù hợp với quy định của pháp luật đối với các các chứng cứ, các tài liệu thu thập trong vụ sơ vụ án và tất cả tình tiết của hành vi đã được thực hiện với những yếu tố cấu thành tội 10
  17. phạm được quy định tại Điều 175 của BLHS nước ta. Vậy nên, cần thiết phải có bản lĩnh tư duy về chuyên môn nghiệp vụ cùng với kinh nghiệm thực tiễn công tác nghề nghiệp của chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động định tội danh để đưa ra những quyết định kết luận chuẩn xác những hành vi nào là hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 175 BLHS, hành vi nào chỉ là hành vi trái pháp luật, hành vi nào chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự giữa các đương sự. Thứ ba, phải có sự chính xác tuyệt đối nhất, khách quan nhất cho hoạt động định tội danh. Bởi pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất. Thông qua hoạt động định tội danh của chủ thể có thẩm quyền định tội danh áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự theo đúng trình tự pháp luật hình sự quy định. Để tránh những trường hợp sai sót dẫn tới hậu quả lớn cho cá nhân, gia đình và xã hội, hoạt động này cần được tiến hành tuần tự theo: Bước 1, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có xảy ra trên thực tế; Bước 2, áp dụng đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trên cơ sở so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm này; Bước 3, đưa ra kết luận có căn cứ về sự phù hợp sức thuyết phục của hành vi lạm dụng tín nhiệm đối với chủ sở hữu tài sản và hành vi chiếm đoạt của người phạm tội đã được thực hiện trong thực tế khách quan với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tại Điều 175 của BLHS thông qua việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật. Thứ tư, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ có tính áp đặt mệnh lệnh phục tùng một chiều đối với đối tượng bị áp dụng. 11
  18. Liên quan đến đặc điểm thứ tư nêu trên, học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng “Vì hoạt động định tội danh theo quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự thì chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không phải được tiến hành bởi bất kỳ chủ thể nào khác. Đối tượng bị áp dụng cũng không thể lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ có thể nhận tội danh khi các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh được hành vi phạm tội của người thực hiện hành vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế khách quan phù hợp với các yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng theo phần các tội phạm quy định trong BLHL [8, tr 14 – 15]. 1.1.1.3. Ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Định tội danh tội LDTNCĐTS nếu được thực hiện đúng (chính xác) có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện và ngược lại. Tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng quy phạm pháp luật hình sự; chất lượng của giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; khả năng, năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức của người định tội danh; sự tác động từ các tiểu môi trường xã hội đến người định tội danh…mà việc định tội danh chính xác hoặc không chính xác. Định tội danh tội LDTNCĐTS, vì vậy thực sự có ý nghĩa khi được thực hiện đúng, cụ thể là: Thứ nhất, định tội danh tội LDTNCĐTS có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện như sau: Một là, mục đích của việc quy định tội LDTNCĐTS trong BLHS là bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế, cụ thể là quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam là thành viên đã tham gia ký kết. 12
  19. Hai là, một ý nghĩa quan trọng của định tội danh đúng nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống toàn dân không thể phủ nhận là hiệu quả của đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đã được thể chế hóa cụ thể. Toàn dân an tâm sống và làm việc theo pháp luật với niềm tin tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước, có niềm tin tuyệt đối vào cơ quan bảo vệ pháp luật phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Định tội danh đúng thể hiện tư duy lý luận của các chủ thể có thẩm quyền định tội danh với hệ thống pháp luật Việt Nam có sự đồng nhất, từ đó các nhà đầu tư nước ngoài có nhận định về hệ thống pháp luật Việt Nam có sự hòa nhập phù hợp với pháp luật quốc tế, mang lại hiệu quả về thu hút đầu tư nước ngoài cho nước nhà. Thứ hai, hiệu quả to lớn mang ý nghĩa pháp lý do hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS mang lại như sau: Một là, việc xác định đúng hành vi của một chủ thể có phải là hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay không và hành vi của chủ thể đó có thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định tại Điều 175 BLHS hay không là tiền đề để áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự phù hợp tương ứng vào thực tiễn cuộc sống. Điều này thể hiện sự đánh giá khách quan đúng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của chủ thể tiến hành tố tụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế khách quan. Hai là, định tội danh tội LDTNCĐTS một cách chính xác là cơ sở để áp dụng đúng trình tự các thủ tục tố tụng mà các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện như thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử…. đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở một chừng mực nhất định đã hiện thực hóa vào thực tiễn cuộc sống toàn dân những chính sách pháp luật mà cụ thể là thông qua Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nhằm điều chỉnh tình hình tội phạm trong một khoảng thời 13
  20. gian và không gian cụ thể. Tránh trường hợp định tội danh sai làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với loại tội phạm này dẫn đến vi phạm quyền con người được quy định trong Hiến pháp, gây mất lòng tin trong nhân dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp. Thứ ba, một hành vi LDTNCĐTS cụ thể được thực hiện trong thực tế thông qua hoạt động định tội danh đúng của chủ thể có thẩm quyền định tội danh sẽ là tiền đề chuẩn xác trong việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt của một bản án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Người phạm tội và dư luận xã hội sẽ nhận thức đầy đủ tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật thông qua hoạt động định tội danh đúng đối với các vụ án hình sự. Từ đó góp tăng cường hiệu quả tuyên truyền giáo dục về Tội LDTNCĐTS cho nhân dân. Ngoài ra định tội danh tội LDTNCĐTS đúng còn thể hiện tư duy về lý luận định tội danh của chủ thể có thẩm quyền định tội danh có sự đồng nhất trong việc hiểu và tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mà trung tâm là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa với bản lĩnh về chuyên môn nghiệp vụ của mình tiến hành ban hành bản án đúng pháp luật. 1.1.2. Các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.2.1. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Định tội danh tội LDTNCĐTS là một dạng của hoạt động thực tiễn ADPLHS, là một quá trình nhận thức logic. Trình tự tiến hành của hoạt động định tội danh gồm: - Giai đoạn xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế khách quan là tội phạm hay không phải là tội phạm. Kết luận cuối dung của hoạt động định tội danh phụ thuộc trực tiếp và sự thật vụ án. Một hành vi 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1