intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

54
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG QUANG TOÀN KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG QUANG TOÀN KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG Hà Nội, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Đặng Quang Phương. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đều đảm bảo độ tin cậy, trung thực và chính xác. Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Với lời cam đoan này, tôi kính mong Giám đốc Học viện Khoa học xã hội và Hội đồng chấm luận văn cho phép tôi bảo vệ luận văn. Trân trọng cám ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lương Quang Toàn
  4. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang MỞ ĐẦU........................................................................................... 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm................................................................................................... 7 1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm....................................................... 18 Chương 2: Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng..................................... 37 2.1. Tổng quan thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.......................................... 37 2.2. Những vi phạm, sai lầm trong kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và nguyên nhân 49 Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm........................................ 59 3.1. Các yêu cầu cần nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm................................................................................... 59 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm................................................................................... 65 KẾT LUẬN...................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự. BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự. BLDS: Bộ luật Dân sự. BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự. ĐCS: Đảng Cộng sản. HLPL: Hiệu lực pháp luật. TCTAND: Tổ chức Tòa án nhân dân. TAND: Tòa án nhân dân. TANDCC: Tòa án nhân dân cấp cao. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao. TAQS: Tòa án quân sự. TNHS: Trách nhiệm hình sự. TTHS: Tố tụng hình sự. VKSND: Viện kiểm sát nhân dân. VKSNDCC: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao. VKSQS: Viện kiểm sát quân sự. XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TÊN BẢNG Trang Bảng 2.1: Bảng kết quả xử lý đơn đề nghị, văn bản đề nghị giám đốc thẩm đối với các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng........ 38 Bảng 2.2: Kết quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng...................................................................... 39 Bảng 2.3. Bảng số liệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm TANDCC tại Đà Nẵng phải giải quyết từ 2016-2019...................... 40 Bảng 2.4. Tỷ lệ quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án các cấp và Viện trưởng VKS được UBTP TANDCC tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm từ 2016 - 2019........ 47 Bảng 2.5: Kết quả giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của các Tòa án thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà Nẵng................................................................................................... 50
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tính chất: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370], cho thấy kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL, để từ đó Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc phục những sai lầm, thiếu sót, đồng thời thống nhất việc áp dụng pháp luật. Do vậy có thể nói kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN. Cũng thông qua quá trình hoạt động thực tiễn trong thời gian qua đã cho thấy công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc bị Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa kịp thời nên bị quá thời hạn kháng nghị hoặc khi quyết định kháng nghị thì người bị kết án đã chấp hành xong bản án, quyết định; việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm còn có phần hạn chế,... Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do còn có những quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; đối tượng kháng nghị; 1
  8. thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng nghị nhưng lại chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, nên trong quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là sau khi BLTTHS năm 2015 được ban hành. Bên cạnh đó còn phải kể đến một số nguyên nhân như: trình độ, năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm có phần hạn chế; chế độ đãi ngộ, trang thiết bị, cơ sở vật chất đối với họ còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên. Kể từ ngày được thành lập cho đến nay, TANDCC tại Đà Nẵng đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định tại Điều 29 Luật TCTAND, trong đó có công tác giám đốc thẩm các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án hình sự. Thông qua hoạt động giám đốc thẩm đối với các vụ án hình sự do các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đã có hiệu lực pháp luật, cho thấy các hoạt động TTHS được tiến hành ngày một minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng và đề cao tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, qua thực tiễn hoạt động TTHS cho thấy vẫn còn một số bản án, quyết định của Tòa án sau khi có hiệu lực pháp luật mới phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách qua của vụ án, đã làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới các góc độ là các đề tài nghiên cứu cấp bộ, luận án, luận văn, bình luận khoa học, sách chuyên khảo… Trong phạm vi khả năng của mình, học viên đã nghiên cứu và tìm hiểu một số công trình nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài luận văn như sau: - Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm cần phải kể đến như: Đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC: “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự”, do ThS. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005 [35]; Luận văn Thạc sĩ: “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Dương Thị Ánh, năm 2015 [2]; Luận văn Thạc sĩ: “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ”, của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo, năm 2007 [64]; sách chuyên khảo: “Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [32]. - Các công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, liên quan một phần đến quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như: Bài viết:“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp” của tác giả Nguyễn Văn Hiện, Tạp chí TAND, số 3 năm 1997 [19]; bài viết: “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang Hiền, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; bài viết: “Thực trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [69]. - Các công trình có phạm vi nghiên cứu liên quan đến đề tài như: Luận văn Thạc sĩ: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 3
  10. từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn Thành An, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [1]; Luận văn Thạc sĩ: “Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Trần Minh Tú, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [71]; Luận văn Thạc sĩ: “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Như Thắng, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014 [65]; Bài viết: “Căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, của tác giả Nguyễn Trung Kiên, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 07 năm 2019 [26], ... Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá đối với thực tiễn công tác giám đốc thẩm nói chung và công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nói riêng tại TANDCC tại Đà Nẵng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ: Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự về khái niệm, ý nghĩa, căn cứ, thời hạn, trình tự, thủ tục,...; phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. 4
  11. Hai là, đánh giá toàn diện thực trạng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian từ tháng năm 2016 đến năm 2019, từ đó rút ra những kết quả đạt được, những vi phạm, sai lầm trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế tại TANDCC tại Đà Nẵng hiện nay. Ba là, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận, các quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và hoạt động áp dụng pháp luật quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng đối với các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân và các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học... Ngoài ra, học viên còn tham khảo ý kiến chuyên gia, cán bộ trực 5
  12. tiếp làm công tác giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng và nghiên cứu tiểu hồ sơ, hồ sơ vụ án được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự trong khoa học luật TTHS Việt Nam như: làm rõ khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS về căn cứ kháng nghị, thời hạn, trình tự... của kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm, có so sánh với kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm và hạn chế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. - Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu và học tập. Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng nói riêng và trong hệ thống TAND nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục cùng Danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Chương 2. Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Chương 3. Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị giám theo thủ tục đốc thẩm. 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM 1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015 đều quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Đó là nguyên tắc “hai cấp xét xử” trong xét xử các loại vụ án nói chung và xét xử án hình sự nói riêng. Quy định này mang tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự của nước ta và là một bảo đảm pháp lý rất cần thiết trong công tác xét xử của các Tòa án, để việc xét xử của hệ thống Tòa án được chính xác và đúng đắn hơn. Thông qua hai cấp xét xử, những nội dung trong vụ án sẽ thêm một lần nữa được đưa ra xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng và đầy đủ hơn, từ đó các phán quyết của Tòa án đảm bảo tính công minh, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng đắn với quy định của pháp luật. Vì vậy, BLTTHS có những quy định về xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm. Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt, “là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370]. Theo đó, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định và có nội dung theo quy định của BLTTHS. Đây là một văn bản tố 7
  14. tụng mang tính chất pháp lý, là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm 2005 do Nguyễn Văn Xô làm chủ biên thì: “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến để phản đối một việc gì” [74, tr345]. Trong liệt kê của tác giả có ví dụ “Bản kháng nghị”. Như vậy, kháng nghị ở đây được hiểu là ý kiến phản đối một việc gì đó nhưng được thể hiện bằng văn bản. Cũng đề cập đến khái niệm kháng nghị, nhưng tác giả Nguyễn Duy Lãm đã đưa ra khái niệm kháng nghị trong “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng”, do Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 1996 như sau: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án cấp có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [27, tr.192]. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì khái niệm này chưa hoàn toàn chính xác, bởi theo quy định của pháp luật về TTHS thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không mặc nhiên làm ngừng hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định, trừ khi người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi hành đối với bản án, quyết định bị kháng nghị. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Như Thắng cũng đã đưa ra khái niệm về kháng nghị như sau: “Kháng nghị trong TTHS là hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản đối, bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật” [65, tr.12]. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với khái niệm về kháng nghị này, vì tác giả đã gắn kháng nghị với hoạt động tố tụng, thể hiện 8
  15. đầy đủ nội hàm của khái niệm và đúng với thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và cả tái thẩm. Đối với khái niệm về giám đốc thẩm, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau trong các nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án” [65, Tr10]; có quan điểm lại cho rằng: “Giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án” [72]; hoặc có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật..”. [68]; hay: “Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt được áp dụng để phát hiện và khắc phục bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết” [71, tr.6]. Nhìn chung, các quan điểm này đều cho rằng giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm thì cho rằng giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho rằng đó là một thủ tục tố tụng. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự trong BLTTHS, học viên cho rằng “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 9
  16. Điều 21 Luật TCTAND năm 2014 thì giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC. BLTTHS năm 2015 đã bỏ quy định “Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới” [46, Đ21] mà BLTTHS năm 2003 đã quy định. Như vậy có nghĩa rằng hoạt động giám đốc việc xét xử chỉ do TANDTC thực hiện, nhằm kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của các Tòa án. Thông qua hoạt động giám đốc việc xét xử, TANDTC có thể phát hiện những vi phạm, sai lầm trong hoạt động xét xử để kịp thời nhắc nhở, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục; tổng kết kinh nghiệm xét xử để hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách thống nhất và phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm để thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Theo nghĩa này, hoạt động giám đốc việc xét xử là hoạt động mang tính hành chính hơn là hoạt động tố tụng cụ thể; còn giám đốc thẩm là một hoạt động tố tụng có tính chất “thủ tục tố tụng đặc biệt”. Khác với BLTTHS 2003, giám đốc việc xét xử được quy định là một nguyên tắc cơ bản thì BLTTHS 2015 lại không quy định nguyên tắc này. Thực tiễn thi hành BLTTHS, để giám đốc thẩm một vụ án hình sự thì cần có nhiều hoạt động tố tụng như: phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; xét xử giám đốc thẩm,… Trong các hoạt động này thì hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quan trọng nhất, vì không có hoạt động này thì thủ tục giám đốc thẩm không diễn ra. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Minh Tú đã đưa ra khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm: “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là việc người có thẩm quyền ban hành một văn bản tố tụng can thiệp trực tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực 10
  17. pháp luật do có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị giám đốc thẩm làm phát sinh việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định bị kháng nghị” [71, tr.9]. Còn tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có HLPL để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [37]. Như vậy, các quan điểm đều cho rằng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được pháp luật tố tụng giới hạn là những chủ thể nhất định. Bên cạnh đó, BLTTHS cũng quy định các dấu hiệu đặc trưng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như căn cứ, thời hạn, trình tự… Từ các luận điểm trên, học viên cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là hoạt động của người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS, bằng một văn bản tố tụng nêu rõ lý do và mục đích, đề nghị Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong một số trường hợp sẽ làm phát sinh việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định và việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật. 1.1.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 11
  18. Trong hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thể hiện tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự Việt Nam. Đây được coi là một “công cụ” hữu hiệu nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự, làm cho công tác áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nói riêng ngày càng thống nhất. Thông qua công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS được bảo đảm thực hiện, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, là một kênh thông tin quan trọng để nhân dân giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Thông qua đó, các nguyên nhân dẫn đến vi phạm trong bản án, quyết định như quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc còn có bất cập, khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn dẫn đến nhận thức khác nhau của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,... được tập hợp để từ đó có những đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện hoặc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. 1.1.2. Trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Trình tự là sự sắp xếp theo thứ tự trước, sau, hay là thứ tự diễn ra từ đầu đến cuối. Trong một hoạt động nhất định thì trình tự là các bước tiến hành những công việc theo thứ tự trước, sau để đạt được một mục tiêu cụ thể. Để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với một vụ án hình sự cụ thể cũng cần phải theo một trình tự nhất định, theo quy định của BLTTHS. Cụ thể: Một là: Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, người bị 12
  19. kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, đối với Tòa án, VKS, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL thì thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị biết để xem xét, quyết định có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không. Hai là: Thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thông báo được thực hiện sau khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi đó, người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn hình thức thông báo hoặc là bằng văn bản hoặc là trình bày trực tiếp; và có thể thông báo với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, VKS nơi gần nhất. Quá trình thông báo, người thông báo có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh nội dung thông báo của mình. Nếu việc thông báo bằng văn bản thì cần nêu đầy đủ nội dung: ngày, tháng năm thông báo; tên, địa chỉ cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật cần được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; nội dung của vi phạm pháp luật được phát hiện và kiến nghị đối với người có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Văn bản thông báo của cá nhân thì phải được ký tên hoặc điểm chỉ; văn bản của cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu. Đối với việc thông báo bằng trình bày trực tiếp thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản. Ba là: Tiếp nhận thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc này được thực hiện bởi Tòa án, Viện kiểm sát. Theo đó, khi nhận được thông báo, kể cả 13
  20. bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp, thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ nhận thông báo; sau đó gửi ngay thông báo (văn bản hoặc biên bản nếu trình bày trực tiếp) cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho người phát hiện bản án, quyết định có vi phạm được biết. Bốn là: Chuyển hồ sơ vụ án có bản án, quyết định được thông báo có vi phạm. Sau khi tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ để nghiên cứu. Việc yêu cầu này được thể hiện bằng văn bản và trong thực tiễn thường là quyết định rút hồ sơ vụ án. Trong thời hạn 07 ngày, Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có yêu cầu. Trường hợp cả Tòa án và VKS cùng yêu cầu thì Tòa án quản lý hồ sơ chuyển cho cơ quan có yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau. Năm là: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xem xét, nếu xét thấy có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và trong trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; đồng thời gửi các quyết định đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ngay sau khi được ban hành. 1.1.3. Phân biệt kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, cùng tính chất là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ngoài thủ tục giám đốc thẩm còn có thủ tục tái thẩm. Khác với xét lại bản án, quyết định Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0