Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
lượt xem 13
download
Đề tài này nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố nói chung. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ YẾN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ YẾN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. NGHIÊM XUÂN MINH HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Nguyễn Thị Yến
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ....... 8 1.1. Cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố, thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân ........................................ 8 1.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................................................. 18 1.3. Yêu cầu trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................................................................... 27 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI.................................................................................... 32 2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ........................ 32 2.2. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến tháng 12/2018 ...................................................................................................................... 39 2.3. Nhận xét, đánh giá về hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi............................. 51 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI ............ 58 3.1. Tình hình tội phạm hình sự và yêu cầu đối với công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................................................ 58 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian tới ................................................................. 63 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CB, CC Cán bộ, công chức CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự THQCT Thực hành quyền công tố TTHS Tố tụng hình sự UBKS Ủy ban kiểm sát VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Thống kê về số liệu công bố cáo trạng/ số vụ án đã xét xử ........................5 Bảng 2.3. Thống kê số vụ án/bị can Tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung ...........................5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại khoản 1 Điều 107 và khoản 2 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 qui định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [10]; “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự...” [12]. Như vậy hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là một hình thức thực hành quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Đây cũng là một trong những biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thể hiện quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, hạn chế được việc truy tố oan sai, kịp thời xử lý các hành vi phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể; các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế. Những kết quả đó đã được ghi nhận từ xã hội, sự lãnh đạo của Đảng trong các văn kiện của Đảng, trong tổng kết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Một số vụ 1
- án truy tố oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, nhiều trường hợp còn bỏ lọt tội phạm, kiểm sát viên làm chưa tốt công tác chuẩn bị cho hoạt động xét xử, chất lượng xét hỏi, tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp,...làm cho hiệu quả xét xử của Tòa án chưa cao, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm... Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại hóa mà trọng tâm là hoạt động xét xử, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian tới: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác” [3, tr.3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục xác định trong lĩnh vực tư pháp, “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”; yêu cầu phải“nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” [4, tr.9]; “... việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Đảng yêu cầu phải “nâng cao chất lượng công tố tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Do vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, trước chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn còn có nhiều quan điểm lý luận khác nhau về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nên dẫn đến có các lý giải khác nhau, đa số các quan điểm cho rằng thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự nhưng cũng có quan điểm cho rằng thực hành quyền công tố được thực hiện trong cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, kinh tế, lao động... Thời điểm bắt đầu và kết thúc của thực hành quyền công tố cũng chưa được 2
- nhận thức thống nhất. Ngay trong tố tụng hình sự cũng có quan điểm cho rằng thực hành quyền công tố có trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; quan điểm khác lại cho rằng thực hành quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà thôi...Nhìn chung, mỗi quan điểm đều được lí giải trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn, vì vậy cần có văn bản chỉ rõ hoạt động này thuộc chức năng của Viện Kiểm sát ở góc độ quy định của nhà nước. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập từ quy định của pháp luật, khoa học cũng như thực tiễn là: Thực hành quyền công tố chỉ là hình thức thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự dẫn đến xem nhẹ bản chất của thực hành quyền công tố như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát được nhà nước uỷ quyền; đánh đồng thực hành quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật dẫn đến mở rộng phạm vi thực hành quyền công tố sang cả các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế...; thu hẹp phạm vi thực hành quyền công tố chỉ có trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó hạn chế quyền hạn cũng như trách nhiệm của Viện kiểm sát như là cơ quan có trách nhiệm chính trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Xuất phát từ những lý do trên và từ nhận thức lý luận về việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát là một trong những vấn đề quan trọng, cần được quan tâm hơn nữa cả lý luận và thực tiễn, nhất là chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân tỉnh Quảng Ngãi. Là một kiểm sát viên công tác trong ngành kiểm sát nhân dân, học viên đã chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự là đảm bảo tính cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ nhu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu về hoạt động thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước. Theo đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một 3
- số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề cập nhiều nội dung mới, trong đó có nội dung về hoạt động xét xử sơ thẩm trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nên luận văn được nghiên cứu theo hướng gắn chặt với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Qua nghiên cứu, học viên nhận thấy, có nhiều công trình khoa học đề cập đến nội dung này, cụ thể là một số công trình sau: - Luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”, của Vũ Hồng Điệp, năm 2010; - Luận văn thạc sỹ“Hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm”, của Võ Thị Hồng Luyến, năm 2010; - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định”, của Nguyễn Hữu Phước (2016). Đề cập một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nêu lên thực trạng vấn đề này tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi”, của Trương Thị Thu Thắm (2017). Đã nêu một số vấn đề về lý luận và thực trạng về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thâm vụ án hình sự. Ngoài ra còn có các nghiên cứu là sách, bài viết có liên quan đến vấn đề này như: “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của Nguyễn Hải Phong chủ biên, NXB Tư Pháp 2013; Sách “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, NXB Chính trị quốc gia của Lê Hữu Thể. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập tới thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở một số địa phương và đề xuất các giải pháp gắn liền với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương đó. 4
- Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Các kết quả trên là cơ sở để tác giả kế thừa có chọn lọc, vận dụng vào các nội dung của luận văn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các vấn đề sau đây: - Thu thập tài liệu, số liệu về tình hình hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích, đánh giá, nhận xét về thực trạng, kết quả và những hạn chế, tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2014 đến nay. - Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo tinh thần cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: 5
- Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. - Phạm vi về không gian: Nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân tỉnh Quảng Ngãi. - Phạm vi về thời gian: Số liệu sử dụng để nghiên cứu được tổng hợp từ kết quả thống kê từ năm 2014 đến hết năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được kết hợp sử dụng nhiều phương pháp như: Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn, tổng kết để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận văn. 6. Ý nghiã lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu, học tập 6
- liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở cho cán bộ, kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân sử dụng để xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên quan đến vấn này trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có phần mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. 7
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố, thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm về quyền công tố, thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân Quyền công tố, thực hành quyền công tố Theo từ điển tiếng Việt thì quyền công tố là quyền của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dùng để điều tra, truy tố và buộc tội đối tượng phạm pháp trước Tòa án hay là quyền truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật. “Công tố” theo Đại từ điển tiếng Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư ”, còn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”, “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án” [47, tr. 453, 459,1663]. Ở nước Việt Nam “quyền công tố”, “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được qui định tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980 và được phát triển hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giúp cho việc xác định vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng; xác định rõ chức năng của Viện kiểm sát, đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau. Có tác giả đề cập khi giải quyết các vấn đề chung của tố tụng hình sự [25]; có những bài viết có tính chất tham khảo phân tích có hệ thống về quyền công tố và gần đây có một số luận văn thạc sĩ cũng đề cập quyền công tố trong từng phạm vi khác nhau (trong giai đoạn 8
- điều tra, trong xét xử sơ thẩm...). Mặc dù vậy có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố của Viện kiểm sát. Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, “ tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [18, tr.17]. Quan điểm này đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát. Quan điểm thứ hai cho rằng “quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hiện quyền công tố)” [27, tr.24]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố và chỉ thực hiện duy nhất trong tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án. Quan điểm thứ ba cho rằng “quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [28, tr.84]. Theo quan điểm này, quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật nên quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.... Quan điểm thứ tư cho rằng “ quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó” [9, tr.24]. Theo quan điểm này, quyền công tố của Nhà nước không chỉ được thực hiện trong tố tụng hình mà còn được thực hiện cả trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước được giao cho Viện kiểm sát để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhằm đưa người đó ra xét xử và thực hiện sự buộc tội người đó trước Tòa án [33, tr.140]. Các quan điểm trên đều có các cơ sở đề cập đến quyền công tố ở các góc độ khác nhau, tuy nhiên ở góc độ thực tiễn thực hiện công tác này, tác giả đồng tình 9
- với quan điểm thứ năm vì quan điểm này phù hợp với kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam. Trong điều kiện cụ thể, quan điểm này giúp ta xác định được: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát; quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự; nội dung của quyền công tố là truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội; quyền công tố gắn liền với một tội phạm cụ thể; nó bắt đầu từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Trong thực tế quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kết thúc khi Tòa án tuyên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm về quyền công tố là: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án nhân dân để xét xử và thực hiện việc buộc tội đối với người đó tại phiên tòa đảm bảo đúng qui định của pháp luật”. Xuất phát từ khái niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nên thực hành quyền công tố chính là thực hiện hành vi tố tụng cần thiết theo qui định của Luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tại Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 thì: “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật trong chính sách hình sự nước ta là Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đã bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Trong đó quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xử lý về hình sự là không chỉ có cá nhân mà pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ có pháp nhân thương mại đã thực hiện tội phạm theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội danh, thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản 10
- lý kinh tế và nhóm các tội phạm về môi trường. Về nguyên tắc xử lý mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, bảo đảm tính pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian qua, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra. Như vậy, pháp nhân thương mại qui định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 phải chịu sự điều chỉnh của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đó chính là là quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, pháp nhân phạm tội nên thực hành quyền công tố cũng chính là thực hiện hành vi tố tụng cần thiết theo qui định của Luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, pháp nhân phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. 1.1.2. Cơ sở pháp lý trong thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân Cơ sở pháp lý của thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát được qui định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố...”; Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố…trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện .......nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh...”[5 tr.19]. Như vậy, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nhằm thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Theo đó, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng 11
- người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội... Trên cơ sở nhận thức về quyền công tố, thực hành quyền công tố được hiểu như thế nào? Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 nêu khái niệm về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát như sau: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. 1.1.3. Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân 1.1.3.1. Nhận thức về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân - Khái niệm xét xử và xét xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Theo Từ điển Tiếng Việt xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, hành chính,kinh doanh, thương mại, lao động...).[27] Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án, quyết định. Chia theo nội dung xét xử có: Xét xử vụ án hình sự, xét xử dân sự, xét xử hành chính, xét xử lao động… Khi xét xử các Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc: Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Như vậy, xét xử là quá trình áp dụng các qui định của pháp luật để kiểm tra lại một cách chính xác, tính căn cứ và tính hợp pháp các quyết định, kết luận của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện trước khi chuyển vụ án qua Tòa án, nhằm 12
- loại bỏ những sai lầm, tiêu cực hoặc bỏ lọt tội phạm trong quá trình khởi tố, điều tra và truy tố, để đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. - Theo Từ điển luật học giải thích thì: “ Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền ” [27, tr.870]. Phạm vi xét xử sơ thẩm bao gồm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động,..., đặc trưng của xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên xét xử đối với vụ án, do Tòa án có thẩm quyền xét xử. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là một trong những hoạt động trung tâm của hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động truy tố của Viện kiểm sát là căn cứ pháp lý cho hoạt động xét xử, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án khi ban hành đúng pháp luật và là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Như vậy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự mà Tòa án sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai tại phiên tòa, nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội, người đã thực hiện tội phạm, từ đó đưa ra một phán quyết phù hợp với căn cứ, tính chất của vụ án mà Viện kiểm sát đã quyết định truy tố. Có thể thấy, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm cơ bản là: Nó là một giai đoạn của tố tụng hình sự có tính bắt buộc; xét xử lần đầu đối với vụ án; vụ án được đưa ra xét xử công khai; kết quả của việc xét xử là việc ban hành bằng một bản án, quyết định có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần vào việc giải quyết đúng đắn vụ án, bảo đảm công lý, sự công bằng trong xã hội. Như vậy, từ những phân tích trên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”. - Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Học viên đồng tình với một số tác giả về nội dung này tại các công trình [19, tr.22] và [7, tr.12]. Giai đoạn xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự: Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử; đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, 13
- đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai, dân chủ của các bên (buộc tội và bào chữa) để phán xét về vấn đề hành vi phạm tội ( có hay không), có (hay không) tội của bị cáo và cuối cùng, tuyên một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh, đúng pháp luật và đảm bảo sức thuyết phục. Giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án hình sự ( quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án của Viện kiểm sát ) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng việc Tòa án tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng trung tâm, độc lập, thực hiện các nhiệm vụ luật định, áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa, còn phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện rõ nhất nội dung của hoạt động tố tụng hình sự, thông qua đó nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong giai đoạn xét xử của Tòa án. - Khái niệm về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện bởi cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát, thực hiện việc truy tố bị can ra trước Tòa án, trên cơ sở kết quả điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh được người phạm tội ở các giai đoạn trước đó. Thực hiện việc buộc tội và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa là đặc điểm quan trọng nhất của thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vì nó thể hiện đầy đủ nhất quyền năng của Viện kiểm sát tại phiên tòa được thực hiện thông qua người đại diện của Viện kiểm sát là Kiểm sát viên. Từ những phân tích nêu trên học viên đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa. - Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nghiên cứu khái niệm về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cuả Viện kiểm sát thấy có một số đặc điểm cơ bản sau: Thực hành quyền 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 75 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn