intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày một số vấn đề lí luận và quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người; Thực tiễn áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG TIẾN TRUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính Mã số : 8.38.01.02 Người hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Xuân Hưởng HÀ NỘI - NĂM 2021
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả Luận văn Dương Tiến Trung
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật Hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng số 2.1: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người khởi tố từ năm 2015 – 2019. Bảng số 2.2: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa bị tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra từ năm 2015 – 2019. Bảng số 2.3: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa khi kết thúc điều tra được Viện kiểm sát truy tố từ năm 2015 – 2019. Bảng số 2.4: Số lượng các vụ án về tội xâm phạm sức khỏe của con người khác trên địa bàn huyện Hoằng Hóa mà VKS truy tố bị tạm đình chỉ, đình chỉ trong giai đoạn xét xử từ năm 2015 - 2019
  5. MỤC LỤC CHƯƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người 1.1.1. Khái niệm 1.1.2. Đặc điểm 1.1.3. Vai trò 1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người 1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người CHƯƠNG 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TẠI HUYỆN HOẰNG HÓA,TỈNH THANH HÓA 2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tổ chức bộ máy, cán bộ của VKSND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người 2.1.2 Đặc điểm tình hình Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa 2.2.1. Những kết quả đạt được 2.2.2. Những tồn tại, hạn chế 2.2.3. Nguyên của hhững hạn chế, bất cập
  6. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA. 3.1. Giải pháp chung 3.1.1. Phải triệt để tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sức khỏe con người. 3.1.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật 3.1.3. Tăng cường hướng dẫn việc áp dụng pháp luật liên quan đến giải quyết các vụ án xâm hại sức khỏe người khác. 3.1.4. Hoàn thiện kỹ năng áp dụng pháp luật. 3.1.5. Một số giải pháp khác. 3.2. Giải pháp đối với Viện kiếm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa và huyện Hoằng Hóa 3.1. Quan điểm tăng cường áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cải cách tư pháp là yêu cầu mang tính cấp thiết của Đảng, nhà nước ta hiện nay với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về cải cách tư pháp đã xác định: “VKS phải chịu trách nhiệm chính về những oan, sai trong việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố; phải đảm bảo việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với CQĐT khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội”. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận chức năng của VKSND trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ ”. Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của cơ quan tư pháp, trong đó có VKSND: “…đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn hạn chế trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ có biểu hiện sa sút về phẩm chất, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp. Tình trạng oan, sai trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vẫn còn.” Hoằng Hóa là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Huyện nằm ở ven biển phía đông của tỉnh Thanh Hóa, chiều dài bờ biển khoảng 12 km. Diện tích khoảng 224,56 km². Dân số khoảng 253.450 người. Tuyến giao thông chính của huyện: quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất. Huyện Hoằng Hóa có 37 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Bút Sơn và 36 xã: Hoằng Cát, Hoằng Châu, Hoằng Đạo, Hoằng Đạt, Hoằng Đông, Hoằng Đồng, Hoằng Đức, Hoằng Giang, Hoằng Hà, Hoằng Hải, Hoằng Hợp, Hoằng Kim, Hoằng Lộc, Hoằng Lưu, Hoằng Ngọc, Hoằng Phong, Hoằng Phú, Hoằng Phụ, Hoằng
  8. 8 Phượng, Hoằng Quỳ, Hoằng Quý, Hoằng Sơn, Hoằng Tân, Hoằng Thái, Hoằng Thanh, Hoằng Thành, Hoằng Thắng, Hoằng Thịnh, Hoằng Tiến, Hoằng Trạch, Hoằng Trinh, Hoằng Trung, Hoằng Trường, Hoằng Xuân, Hoằng Xuyên, Hoằng Yến. So với các địa phương khác trên toàn quốc, Huyện Hoằng Hóa là khu vực luôn chiếm tỷ lệ lớn các tội phạm này và có chiều hướng gia tăng và mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Công tác thực hành quyền công tố đối với các tội Xâm phạm sức khỏe của con người của Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê, trong những năm qua huyện Hoằng Hoá có số lượng án luôn đứng thứ 3 toàn tỉnh. Số lượng án nhiều nhưng luôn được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, đảm bảo sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác cũng cho chúng ta thấy được nhiều hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời. Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là hết sức cần thiết. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa” để nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thực hành quyền công tố là chủ đề được khá nhiều học giả hiện nay quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến những công trình điển hình như: Một số vấn đề về quyền công tố của Phó Giáo sư, tiến sĩ Trần Văn Độ, đăng trên Tạp chí Luật học số 03/2001. Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố của Tiến sĩ Lê Cảm, đăng trên Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2001. Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên và đồng tác giả, Nhà xuất bản tư pháp
  9. 9 Hà Nội năm 2008. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sĩ Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 8/2012. Thẩm quyền của Kiểm sát viên theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên Bang Nga, luận án tiến sỹ luật học của TS. Mai Đắc Biên, Liên bang Nga, 2012. Bàn về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sơn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 9/2013. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, của Tiến sĩ Lê Hữu Thể. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (năm 2014). Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 11/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, luận án Tiến sỹ Luật học… Các công trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ khác nhau khi bàn về hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm
  10. 10 phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thời gian nghiêm cứu từ năm 2018 đến 2020. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của luận văn là nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hoá trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức, kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm tìm ra những khó khăn vướng mắc, tồn tại, bất cập và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động áp dụng pháp luật này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hoá góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đấu tranh phòng, chống hiệu quả hơn với loại tội phạm này trong thời gian tới. Luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về áp dụng pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạn về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại VKSND huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá trong 05 năm, từ năm 2015 - 2019 - Đề xuất phương hướng, xây dựng các giải pháp nâng cao về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trong thời gian tới đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn của học viên đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp được đề ra ngày 02/01/2002 (Nghị quyết số 08 - NQ/TW) và Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra, trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, thể hiện tính đặc thù của khoa học tố tụng
  11. 11 hình sự như: Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp hệ thống,… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích dành cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án xâm phạm sức khỏe của con người được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài iệu tham khảo nội dung của luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận và Quy định của pháp luật về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá, trong thời gian tới
  12. 12 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI 1.1. Khái quát chung về các tội xâm phạm sức khỏe của con người 1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm sức khỏe con người Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền con người, quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người”. 1 Trong đó, sức khỏe con người "là trạng thái thoải mái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có ý nghĩa là không có bệnh hay thương tật, cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với biến đổi môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả"2. Do đó quyền được bảo vệ sức khỏe là một biểu hiện cụ thể của quyền con người, “là nhu cầu tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”3 Xâm phạm sức khỏe con người là gây lên mức độ thương tật hoặc làm mất khả năng lao động trong một chừng mực nhất định. Tùy theo tính chất của hành vi phạm tội và mức độ lỗi của người phạm tội mà Luật hình sự quy định mức độ gây thương tích cho người khác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khái niệm một nhóm tội phạm cụ thể - các tội xâm phạm sức khỏe con người, chính là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm (chung) đã nêu ở trên. Trên cơ sở tổng kết các 1 Nguồn: Trần Văn Luyện, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 2 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.835 3 Nguồn: Khoa Luật,Đại học Quốc gia Hà Nội, (2009), “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”, Nxb, Hà Nội. tr.45
  13. 13 quan điểm khác nhau trong khoa học và căn cứ vào các quy định của BLHS năm 2015, khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe con người là hành vi dùng vũ lực hoặc các hành vi khác làm tổn hại sức khỏe của người khác do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân là quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người. Bộ luật hình năm 2015 quy định các tội xâm phạm sức khỏe của con người gồm các tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136); Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139); Tội hành hạ người khác (Điều 140). 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm sức khỏe con người Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sức khỏe con người bao gồm: Khách thể của tội phạm: Hành vi xâm phạm đến sức khỏe con người là dùng tác động ngoại lực hoặc dùng bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây tổn thương, cố tật ở các bộ phận của con người, gây nên bệnh tật làm tổn hại đến sức khỏe dẫn đến hoạt động (lao động, sinh hoạt) bị suy giảm, hoặc mất khả năng suy nghĩ, học tập, lao động sáng tạo của nạn nhân. Khái niệm sức khỏe của con người được xem xét ở đây là tình trạng sức khỏe vốn có ban đầu của nạn nhân khi chưa bị xâm phạm và sau khi bị xâm phạm. Đây chính là cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi. Do đó, khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe. Đối
  14. 14 tượng của nhóm này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe. Đó là những người đang sống, đang tồn tại với tư cách là con người thực thể tự nhiên và xã hội. Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi có tính chất dùng những tác động vật chất gây tổn hại cho sức khỏe của con người (tác động vào thân thể người khác trái pháp luật) như đấm, đá, đâm, chém, đánh, bắn… “Các tội phạm này được tiến hành bằng những hành vi ai cũng có thể tri giác được, còn người bị hại bao giờ cũng phải chịu một thiệt hại mà khi mất đi thì không thể bù đắp lại được về sự hoàn thiện đối với thân thể và sức khỏe”.4 Những hành vi đó có thể là hành động hoặc có thể là không hành động (chủ yếu là với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, Điều 139 BLHS). Hậu quả của hành vi khách quan nói trên là những thiệt hại gây cho quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe, “thông qua việc thực hiện các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, người phạm tội mới thực hiện được mục đích phạm tội khác của mình hoặc hậu quả của tội phạm (làm chết người, gây thương tích) là bộ phận cấu thành tội phạm riêng biệt”5. Một vấn đề đặt ra là quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác, khi đã xác định có hành vi xâm phạm sức khỏe và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác, đòi hỏi phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra. Công cụ, phương tiện phạm tội: để thực hiện hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, người phạm tội dùng công cụ phương tiện gì. Các tội xâm phạm sức khỏe con người, người phạm tội dùng rất nhiều công cụ phương tiện phạm tội, có thể là công cụ phương tiện được chế tạo tinh vi, cũng có những công cụ có sẵn trong tự nhiên. Nhưng 4 Nguồn: Bùi Văn Thịnh, Đặc điểm, nguyên nhân của tội phạm cố ý gây thương tích và hoạt động phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.11. 5 Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự. Tập 1, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người: Bình luận chuyên sâu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.172
  15. 15 vấn đề đặt ra là công cụ, phương tiện nào được coi là hung khí nguy hiểm và đối với vấn đề cấu thành tội phạm là phải chứng minh được quan hệ nhân quả giữa công cụ, phương tiện gây án và hậu quả là thương tích, tổn hại để lại trên cơ thể nạn nhân, xác định thương tích đó là do công cụ, phương tiện đó gây ra. - Đối với lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận hậu quả đó. Ngoài dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định, chủ thể đòi hỏi phải có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân, trong đó nạn nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội (Điều 140 BLHS) hoặc phải là người đang trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS). 1.2. Tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe con người Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử" 6 như vậy, THQCT trong các vụ án xâm phạm sức khỏe con người là hoạt động của VKSND trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội xâm phạm sức khỏe con người và thực hiện buộc tội người đó tại Tòa án. Để đảm bảo cho Cơ quan THQCT thực hiện tốt quyền năng của mình, pháp luật quy định cho cơ quan này chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy cụ thể, độc lập, rõ ràng. Theo đó, nội dung pháp luật THQCT có thể phân chia thành hai nhóm: Nhóm quan hệ xác lập chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của Cơ quan THQCT và nhóm quan hệ điều chỉnh các hoạt động cụ thể của Cơ quan THQCT. 6 Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 95-103.
  16. 16 Ngành KSND cũng ban hành và đảm bảo cả về mặt số lượng và chất lượng của các văn bản trong nội bộ ngành để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ, cụ thể như sau: - Hiến pháp: Hiến pháp là sự kiện đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử lập hiến nước ta, là cơ sở pháp lý hiến định để thực hiện mục tiêu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tư tưởng vì con người, đó là tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở kế thừa và đổi mới thể chế, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND để hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy. Vì vậy, đối với các vụ án xâm hại sức khỏe, trách nhiệm của VKSND phải tổ chức công cuộc đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này theo tinh thần chủ đạo của Hiến pháp, đó là đề cao, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa. * Hệ thống pháp luật hình sự Xét về bản chất, áp dụng pháp luật trong THQCT các vụ án xâm phạm sức khỏe con người là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật hình sự nói riêng đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ xâm phạm sức khỏe con người. “Việc bảo vệ các quyền con người đã và vẫn đang là vấn đề trung tâm và có ý nghĩa thời đại vì nó không chỉ là vấn đề mang tính lịch sử từ bao đời nay, mà còn mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý, mà còn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái đất”. 7 7 Nguồn: Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11(6)/2006, tr.15.
  17. 17 Trong đó, dưới góc độ nội dung tội phạm, nhóm tội xâm phạm sức khỏe con người được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật sau đây: - Bộ luật hình năm 2015: Với nhiệm vụ cụ thể hóa Hiến pháp, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã quy định tội phạm và hình phạt tại Chương XIV (từ Điều 123 đến Điều 156) đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người để bảo vệ một cách có hiệu quả các quyền trên. Trong đó, riêng nhóm tội về xâm phạm sức khỏe được BLHS năm 2015 quy định 06 điều luật, từ Điều 134 đến Điều 140. Ngoài việc quy định các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để VKSND có thể đối chiếu trong việc định tội danh, định khung hình phạt và đề xuất hình phạt áp dụng trong quá trình xét xử, phê chuẩn, hủy bỏ, thay đổi các biện pháp ngăn chặn… BLHS còn lượng hóa tỷ lệ thương tật hoặc tỷ lệ tổn hại sức khỏa của người bị hại do hành vi phạm tội gây ra để các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và VKSND nói riêng thuận lợi trong việc áp dụng. Trong đó, để cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, BLHS đã quy định “tổn thương cơ thể” thay cho cụm từ “tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe” của người bị hại do hành vi phạm tội gây ra. Tại nhóm tội gây thương tích (bao gồm cả 2 hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý) và được quy định trong 2 trường hợp: Trường hợp thứ nhất, quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại trong cấu thành tội phạm cơ bản. Quy định này giúp Kiểm sát viên đối chiếu với thực tế để định tội danh, tức là ‘‘xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định".8 Trong trường hợp này Bộ luật Hình sự đã quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại từ 11% đến 30% đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác hay từ 31% đến 60% đối với các tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn lại. 8 Nguồn: Kuđriavtxev V. N. Lý luận chung về định tội danh. Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1972, tr.8 (tiếng Nga).
  18. 18 Trường hợp thứ hai, quy định tổn thương cơ thể của người bị hại trong khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này Bộ luật Hình sự đã quy định tổn thương cơ thể của người bị hại từ 31% đến 60% đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và từ 61% trở lên đối với các tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn lại. Để giải quyết triệt để các vụ án xâm phạm sức khỏe con người, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Viện kiếm sát nói riêng còn cần đến hệ thống các văn bản “dưới luật”, đây là hệ thống những quy phạm được ban hành để cụ thể hóa các nội dung được các văn bản luật quy định trên nguyên tắc không được trái với quy định của hiến pháp và các văn bản luật về tư pháp hình sự. Bao gồm: - Nghị quyết số: 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29 tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Trong đó các nội dung liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe con người được hướng dẫn tại Chương 2 như tình trạng tinh thần bị kích động, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó, phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại cho sức khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe… - Nghị quyết số: 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về một số tình tiết định tội, định khung hình phạt như tình tiết "gây cố tật nhẹ cho nạn nhân", trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân, trường hợp làm giảm chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân, khái niệm “vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”… Nghị quyết là văn bản quan trong để các cơ quan tố tụng áp dụng đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật Hình sự về loại tội phạm này. - Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, trong đó có hướng dẫn các tình tiết "người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả", tình tiết "phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ
  19. 19 có thai, người già", Tình tiết "dùng hung khí nguy hiểm", Tình tiết "đối với thầy giáo, cô giáo của mình"… * Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự - Bộ luật tố tụng hình sự: Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. BLTTHS hiện hành ra đời để thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội. Đối với các tội xâm phạm sức khỏe con người BLTTHS còn có vai trò tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục để người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, kĩ thuật lập pháp của BLTTHS hiện hành còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng hạn chế tối đa việc phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành trong quá trình áp dụng. Trong hoạt động áp dụng pháp luật về tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án xâm phạm sức khỏe con người, các cơ quan tiến hành tố tụng đối chiếu với các quy phạm về những nguyên tắc cơ bản, các chế định về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, về người tham gia tố tụng, về chứng cứ và chứng minh, các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, các chế định cụ thể quy định trình tự thủ tục trong từng giai đoạn tố tụng để tiến hành giải quyết. - Các văn bản thi hành pháp luật tố tụng hình sự dạng văn bản hướng dẫn: + Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VKSND tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đây là văn bản có ý nghĩa quan
  20. 20 trọng trong quá trình Viện kiểm sát áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ việc, vụ án xâm phạm sức khỏe con người, bảo đảm THQCT sớm hơn, triệt để hơn nhằm tránh bỏ lọt tội phạm. + Thông tư liên tịch số 04/2018 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Thông tư này quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS về khởi tố, điều tra và truy tố. Cơ quan điều tra các cấp của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao, VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp, người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan trên và Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan áp dụng các quy định của Thông tư để bảo đảm tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật, bảo đảm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật và quy định của mỗi ngành. Ngoài ra, pháp luật còn có nhiểu văn bản điều chỉnh các trường hợp đặc biệt trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm sức khỏe con người nói riêng như Thông tư liên tịch số 02/2017/TTTLT - VKSNDTC - TANDTC- BCA-BQP ngày 22/12/2017 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Thông tư số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ tư pháp, Bộ lao động thương binh xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi; Thông tư số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP của VKSNDTC, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định phối hợp thực hiện một số điều của BLTTHS về quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ….
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0