intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

22
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ s làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bắt người trong giai đoạn điều tra, luận văn làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------------- PHAN TRUNG THỦY BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Thị Trang Vân HÀ NỘI – 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu, các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Người cam đoan Phan Trung Thủy
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 .......................................................................................................... 8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................................................................................................... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt và giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..... 8 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt ........................................................... 8 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự .................. 14 1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền con người, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................................................... 17 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con người .................................................. 17 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự 20 1.2.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự............................................................ 20 1.3. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra hình sự trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước ............................. 35 1.3.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong pháp luật quốc tế ............................................................ 35 1.3.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong pháp luật một số nước .................................................... 37
  4. Chương 2 ........................................................................................................ 46 PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH............................. 46 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................ 46 2.1.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự ...................... 46 2.1.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người ............... 52 2.1.3. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt ............... 64 2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 2.2.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự 2.2.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định địa vị pháp lý 2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........... 69 2.3.1. Kết quả đạt được: .................................................................................. 69 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................... 75 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ............................................. 81 Chương 3 ........................................................................................................ 85 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...................... 85
  5. 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................. 85 3.1.1. Hoàn thiện quy định về các nguyên tắc tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ......... 85 3.1.2. Hoàn thiện các quy định của biện pháp bắt người bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................ 86 3.1.3. Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự...................................................................................... 92 3.2. Các giải pháp khác ................................................................................... 96 3.2.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra .............................................. 96 3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong đảm bảo quyền con người của người bị bắt.................................................... 96 3.2.3. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với đối cơ quan tiến hành tố tụng 97 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát TAND: Tòa án nhân dân HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân CQĐT: Cơ quan điều tra BPNC: Biện pháp ngăn chặn
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại hiện nay. Ở Việt Nam, bảo đảm quyền con người đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chú trọng. Điều này được thể hiện thành quả về xây dựng lý luận về bảo vệ quyền con người cũng như thực tiễn bảo đảm quyền con người. Trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, biện pháp ngăn chặn bắt là biện pháp mang tính cưỡng chế tố tụng tương đối nghiêm khắc, có nguy cơ xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do thân thể và cá nhân của người bị áp dụng. Do đó, trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt thì quyền của người bị bắt có nguy cơ bị đe dọa rất cao. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người của người bị bắt là vấn đề rất quan trọng trong cả quá trình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan rất chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động tố tụng hình sự là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất; và vì vậy là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ 1
  8. quan, người tiến hành tố tụng đối với công dân... Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của người bị bắt trong giai đoạn điều hình sự nói riêng từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng nước ta. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có những thay đổi rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong đó có người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề quyền con người của những đối tượng này vẫn còn những vướng mắc nhất định. Tỉ lệ bắt người sai quy định, sai trình tự thủ tục tuy đã giảm nhưng vẫn còn phổ biến. Cá biệt có một số nơi quyền của người bị bắt còn chưa thực sự được quan tâm, việc dùng nhục hình đối với người bị bắt trước khi vào sổ thụ lý còn có một số nơi. Đặc biệt có một số trường hợp người bị bắt đã chết sau khi bị bắt dấy lên nghi ngờ trong dư luận về sự an toàn của biện pháp ngăn chặn này. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra đang là một yêu cầu mang tính cấp thiết cao. Với những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng như quyền con người trong tố tụng hình sự đặc biệt cũng có những công trình 2
  9. đã nghiên cứu một cách trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó có biện pháp ngăn chặn bắt người. Các công trình nghiên cứu đã công bố có thể được phân thành các nhóm sau đây: - Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong Nhà nước pháp quyền có các công trình như sau: Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm đồng chủ trì,"Quyền con người trong thế giới hiện đại", Sách chuyên khảo, Nxb. Khoa học xã hội (1995); Trần Ngọc Đường"Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia (1997);Đinh Văn Mậu"Quyền lực Nhà nước và quyền con người", Sách chuyên khảo, Nxb.Chính trị quốc gia (2002). Ngoài ra còn có thể kể đến bài báo khoa học đã được đăng tải trên tạp chí chuyên ngành như: Tường Duy Kiên, "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5(2005); - Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được công bố. Trong số các công trình này có: Nguyễn Huy Hoàng, "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”,Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia (2003); Trần Quang Tiệp,"Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam", Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia (2004); Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Đại học Quốc Gia Hà Nội (2005);Nguyễn 3
  10. Quang Hiền,"Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học,Viện nhà nước và pháp luật (2008);Nguyễn Thái Phúc,Báo cáo tại Hội thảo về Quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010);... - Về lĩnh vực nghiên cứu biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung và bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong các hoạt động tố tụng hình sự có một số công trình nghiên cứu khoa học khác nhau về vấn đề này như: Nguyễn Mạnh Cường“Thực trạng áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ hình sự tại các đồn Biên phòng”,Đề tài cấp cơ s , Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Hà Nội (2010); Nguyễn Hồng Ly, “Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương”,Luận án thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (2011);Dương Thị Hồng Lĩnh,“Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (2014) … Một số bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Tiến Đạt,“Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3(2006);H oàng Minh Sơn, “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong tố tụng hình sự hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 3 (2011); Nguyễn Văn Mạnh, “Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8 (2014)… Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích, nghiên cứu dưới những góc độ nhất định khác nhau về quyền con người nói chung, cũng như quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng. Tuy nhiên cho đến hiện nay chưa có công trình nghiên cứu cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học 4
  11. nào tìm hiểu về bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ s làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bắt người trong giai đoạn điều tra, luận văn làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra; làm rõ những đòi hỏi đặc thù trong bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra. - Nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra; - Phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị bắt; tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự; - Kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra hình sự. 5
  12. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và các văn bản khác có liên quan. Về thực tiễn đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2014. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ s phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa MácLênin và tư tư ng Hồ Chí Minh cũng như các quanđiểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, vềnhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người nói chung và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê v.v... 5. Ý nghĩa và các đóng góp mới của đề tài 5.1. Ý nghĩa - Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý luận về quyền của người bị bắt nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt trong điều tra hình sự nói riêng. - Ý nghĩa về thực tiễn: Với việc đưa ra nhận thức đầy đủ, toàn diện, có hệ thống lý luận về quyền của người bị bắt trong điều tra hình sựvà phân tích thực trạng của vấn đề này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS, đem đến sự nhận thức đúng đắn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích cuối cùng là bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong thực tế. 6.2. Những đóng góp mới của luận án 6
  13. Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về "Quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra" và "Bảo đảm quyền con người của người bị bắttrong giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" đồng thời nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề quy định của pháp luật về quyền của người bị bắt trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành; Thứ hai, đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập, thiếu sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra cũng như thực tiễn áp dụng; Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể chế; thiết chế về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần m đầu, kết luận, các bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn thi hành. Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 7
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái nhiệm, đặc điểm người bị bắt và giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt Bắt người là một trong những hình thức thể hiện của biện pháp ngăn chặn. Bắt có tính chất kh i đầu cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tiếp theo. Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định. Bắt là biện pháp ngăn chặn nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Bắt người là biện pháp ngăn chặn mang tính đặc thù thường được áp dụng liền trước các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam. Biện pháp ngăn chặn này làm hạn chế một số quyền tự do của cá nhân người bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa điểm quy định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt người được tính từ thời điểm người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến khi kết thúc là người bị bắt được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam. Như vậy, việc bắt người là một hoạt động mang tính chất nghiệp vụ, tố tụng của các cơ quan, cá nhân được BLTTHS trao quyền thực hiện việc này. Do đó, hoạt động bắt người mang tính thời điểm, việc kiểm tra, giám sát để tránh tình trạng xâm phạm tới quyền 8
  15. con người của chủ thể bị áp dụng thường khó khăn hơn các biện pháp tạm giữ, tạm giam. Trước khi tìm hiểu về khái niệm người bị bắt, chúng ta cùng tìm hiểu về khái niệm bắt người - với tư cách là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội mà là biện pháp ngăn chặn của hoạt động TTHS. Bắt đúng người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ án. Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn chế một số quyền tự do của cá nhân, là điểm kh i đầu sự trừng phạt củapháp luật nếu người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, b i vì khi thi hành án, thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án. Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị vi phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con người bị xâm hại, ảnh hư ng đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo hộ. Điều này dẫn đến việc, yêu cầu bảo đảm quyền con người của người bị bắt là rất cần thiết. B i lẽ người bị bắt trong TTHS thường có nguy cơ cao bị xâm phạm tới các quyền con người cơ bản trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Từ đó việc bắt người trái pháp luật ảnh hư ng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện BLTTHS các cơ 9
  16. quan tư pháp như: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt. Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường hợp bắt, đó là: - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; - Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [28]. Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng. Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND), các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định đối với người phạm tội là người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các đối tượng này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước ta. Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể tóm tắt khái niệm về biện pháp bắt trong TTHS như sau: Bắt người là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và những trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm 10
  17. tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tiếp theo chúng ta đi tìm hiểu về khái niệm người bị bắt. Khái niệm này được xây dựng dựa trên cơ s của khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người. Người bị bắt là chủ thể bị các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các chủ thể khác theo quy định của BLTTHS áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người thuộc một trong ba trường hợp: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Theo đó, có thể hiểu khái niệm người bị bắt nói chung là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người do các chủ thể được quy định trong BLTTHS hình sự tiến hành theo thủ tục được pháp luật quy định. Hiện nay BLTTHS chưa quy định khái niệm người bị bắt mà chỉ quy định các trường hợp bắt người, đồng thời cũng đưa ra khái niệm người bị tạm giữ. Theo quy định của Điều 48 BLTTHS thì: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ [28]. Điều này có nghĩa, các trường hợp người bị bắt sau đó chuyển hóa thành tư cách tố tụng của người bị tạm giữ, b i lẽ người bị tạm giữ sau khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt quả tang, bắt đang bị truy nã, bắt khẩn cấp và có quyết định tạm giữ thì tr thành chủ thể tố tụng này. Nghiên cứu giai đoạn điều tra vụ án hình sự ta thấy, giai đoạn điều tra được xác định từ khi có quyết định kh i tố vụ án hình sự cho đến khi hoặc là có quyết định kết luận điều tra, đề nghị truy tố, hoặc kết luận điều tra, đình chỉ vụ án. Như vậy trong giai đoạn điều tra chỉ có sự xuất hiện của người có những tư cách tố tụng là người bị tạm giữ hoặc bị can mà không có người có tư cách bị cáo. B i lẽ theo Điều 50 BLTTHS thì: Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, đối với người bị bắt trong giai đoạn điều 11
  18. tra chỉ có thể là những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt đối với các trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã và bắt bị can để tạm giam mà không thể có trường hợp bắt bị cáo để tạm giam. Một điều lưu ý là riêng đối với trường hợp bắt người đang bị truy nã, bắt bị can để tạm giam, bắt khẩn cấp, bắt quả tang có thể có cả trong các giai đoạn tố tụng khác như giai đoạn kh i tố, truy tố trong TTHS. Do đó, cần phải phân biệt các trường hợp này với trường hợp bắt người trong giai đoạn điều tra, để từ đó xác định đúng nội dung bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Thực tiễn hiện nay đa số biện pháp bắt người đều được tiến hành trong giai đoạn điều tra. Nghiên cứu bắt người trong giai đoạn này có những ý nghĩa rất quan trọng trong đảm bảo quyền con người của người bị bắt. Từ những phân tích về khái niệm bắt người trong TTHS và khái niệm giai đoạn điều tra trong TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về người bị bắt trong giai đoạn điều tra như sau: Người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là người bị các cơ quan điều tra hoặc các cơ quan khác được giao thẩm quyền điều tra theo quy định của BLTTHS áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp họ là bị can trong vụ án hoặc họ là người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng hoặc có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can gây khó khăn cho việc điều tra, vụ án hình sự. Từ khái niệm trên về người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ta có thể rút ra các đặc điểm sau về người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 12
  19. Thứ nhất, người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người. Biện pháp này được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, với các điều kiện về căn cứ bắt, chủ thể bắt, thủ tục bắt rất chặt chẽ. B i lẽ, bắt người cũng như các biện pháp ngăn chặn khác là các biện pháp hạn chế quyền con người của người bị áp dụng. Do đó, khi áp dụng biện pháp bắt cũng như các biện pháp ngăn chặn khác thường có tác động tới các quyền cơ bản của con người như quyền bất khả xâm phạm về thân thể... Chính vì vậy, nghiên cứu về việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt là rất quan trọng. Thứ hai, người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bị tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nhưng không phải trong mọi trường hợp bắt. Theo quy định của BLTTHS thì hiện nay quy định ba trường hợp bắt là: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy nhiên, để phù hợp với giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì biện pháp bắt người chỉ áp dụng đối với trường hợp bắt bị can để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. B i lẽ nếu đã xác định là bị cáo trong vụ án hình sự thì là người đã có quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, giai đoạn này thuộc giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Việc xác định phạm vi người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong việc giới hạn đối tượng người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Thứ ba, người bị bắt trong giai đoạn điều tra là người sau khi bị áp dụng biện pháp bắt người thì họ là người tiếp theo bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Đó là các biện pháp tạm giữ, tạm giam hoặc một số biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2003. Điều này cho thấy, biện pháp bắt người khi kết hợp với các biện pháp ngăn chặn khác mới đảm 13
  20. bảo yếu tố nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, vụ án hình sự. Thứ tư, một đặc điểm chung của người bị bắt trong giai đoạn điều tra cũng như những người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác đó là những người có nguy cơ bị hành vi tố tụng tác động tới các quyền con người cơ bản của họ như tự do thân thể, tự do cư trú... điều này cho thấy yêu cầu cần thiết của việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Vấn đề bảo đảm quyền của người bị bắt có liên quan đến rất nhiều yêu cầu khác nhau về điều kiện bắt, thủ tục bắt, chủ thể có quyền bắt... Đáp ứng được điều kiện này là một nhân tố quan trọng trong đảm bảo quyền của người bắt trong giai đoạn điều tra. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự.Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [4]. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2