intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

23
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý và cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Làm rõ tình hình áp dụng Luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong giai đoạn vừa qua. Thông qua đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DIỆU TRANG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ Nội - 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DIỆU TRANG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2015 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 3 năm 2015 NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Diệu Trang 3
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................... 7 1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý chung của các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo luật hình sự Việt Nam ............................................ 7 1.1.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp .............................. 7 1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý chung của các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ................................................................................................... 15 1.2. Khái quát lịch sử quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999. .......................................... 19 1.3. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong pháp luật một số nước trên thế giới. ............................................................................. 22 1.3.1. Liên bang Nga ...................................................................................... 23 1.3.2. Trung Quốc .......................................................................................... 25 1.3.3. Cộng hòa liên bang Đức ...................................................................... 26 1.3.4. Hoa Kỳ .................................................................................................. 27 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .......... 29 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. ................................................................................................. 29 2.1.1. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp thực hiện ............................................. 29 2.1.2. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có nghĩa vụ phải giúp các cơ quan tư pháp trong thực hiện hoạt động tư pháp. ............. 33 2.1.3. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc quyết định của cơ quan tư pháp............................................... 37 4
  5. 2.1.4. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể có thể là công dân bình thường, là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và đã sử dụng, chức vụ quyền hạn này để cản trở các hoạt động tư pháp .......................... 40 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay. ..................................................................................... 42 2.3. Những bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. ........ 50 2.3.1. Những bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. ............................................................................... 50 2.3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ........................................................................ 58 Chương 3: SỰ CẦN THIẾT, CÁC KIẾN NGHỊ CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP ...... 62 3.1. Nhu cầu và sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp............................................................................... 62 3.1.1. Xuất phát từ tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp hiện nay ở Việt Nam ............................................................................................... 62 3.1.2. Thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp....... 63 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. ........................................................... 65 3.2.1. Sửa đổi một số nội dung về tội bức cung, dùng nhục hình…………66 3.2.2. Hoàn thiện quy định về tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội………………………………………………………………….67 3.2.3. Bổ sung một số điều luật mới, tôi phạm hóa đối với một số hành vi nguy hiểm cho xã hội……………………………………………………….69 3.2.4. Sửa đổi nội dung một số điều luật hiện có trong bộ luật hình sự…..69 3.2.5. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn áp dụng bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp…………………………………………...69 5
  6. 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ........................................... 69 3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động hướng dẫn và áp dụng pháp luật..................... 69 3.3.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp ............................................................................. 70 3.3.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc giải quyết các vụ án ............................................................................................... 72 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76 6
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.2.1. Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp đã bị khởi tố trong 5 năm từ 2010 – 2014...................................................................................... 45 Bảng 2.2.2. Tỷ lệ một số tội phạm cụ thể xảy ra trong nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong năm 2013 ................................................................. 46 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Hoạt động của các cơ quan tư pháp có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động chung của bộ máy nhà nước, nó không chỉ góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thường của xã hội (thông qua việc đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo đảm an ninh – trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và công dân), mà còn góp phần vào công tác phòng ngừa tội phạm, giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật. Đây là lý do đòi hỏi phải có những biện pháp cần thiết cũng như các quy phạm pháp luật phù hợp bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, chống lại mọi hành vi xâm hại việc thực hiện chức năng của các cơ quan này. Hiện nay, tình hình kinh tế-xã hội trong nước ta còn gặp nhiều khó khăn, "tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước". Trước tình hình đó, để ngăn chặn và trừng trị các loại tội phạm, nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và mọi công dân, thì hoạt động của các cơ quan tư pháp như các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án và Thi hành án đóng vai trò rất quan trọng. Là công cụ chuyên chính của Đảng, có nhiệm vụ thực thi pháp luật, hoạt động đúng đắn và có hiệu quả của các cơ quan này sẽ góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với bộ máy Chính quyền nói chung, đối với các cơ quan tư pháp nói riêng. 1
  9. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ta đang thực hiện cải cách tư pháp toàn diện để “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,… có hiệu quả và hiệu lực cao” thì các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân diễn ra ngày càng phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong một Chương riêng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1985 và sau này là Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trên thực tế, nhóm tội phạm này đã gây tổn hại không nhỏ đến việc thực hiện chức năng của các cơ quan tư pháp, gây tác hại đáng kể đến uy tín của các cơ quan này. Với tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động tư pháp, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp luôn luôn ở trạng thái bình thường và đúng đắn. Đó là các biện pháp về tổ chức, về cán bộ, về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, về pháp luật. Trong số các biện pháp pháp luật thì các biện pháp pháp luật hình sự có vai trò rất quan trọng đối với việc bảo vệ một nền tư pháp khỏi sự xâm hại của các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do người là cán bộ công chức của các cơ quan tư pháp và các tội phạm khác xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp diễn ra ngày một nhiều và gây ra bức xúc trong dư luận. Hàng loạt các vụ bức cung, nhục hình, ra bản án trái pháp luật... đã được điều tra, truy tố, xét xử trong giai đoạn vừa qua cho thấy, tội phạm trong lĩnh vực này gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm ảnh hưởng tới hình ảnh của cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật một cách công minh và công lý. 2
  10. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn có nhiều bất cập dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng. Nhiều quy định còn chưa được hướng dẫn cụ thể, có nhiều cách hiểu khác nhau làm cho khi áp dụng có nhiều quan điểm tranh luận. Quy định về các dấu hiệu pháp lý của một số tội chưa rõ ràng, còn thiếu quy định trong luật hình sự về một số hành vi trên thực tế đang diễn ra nhưng hiện nay chưa được quy định là tội phạm... Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong Bộ luật hình sự hiện nay, thông qua đó để đề xuất những kiến nghị sửa đổi các quy định của Bộ luật hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội xâm phạm hoạt động tư pháp là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiêt hiện nay. Từ những lý do trên đây, tác giả quyết định chọn đề tài “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong phạm vi nghiên cứu về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, trong ngành kiểm sát đã có Đề tài khoa học cấp Bộ "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu tranh chống các tội phạm này" do Trường Cao đẳng kiểm sát thực hiện năm 1998 (Chủ nhiệm Đề tài: Bùi Đức Long); Ngoài ra còn có thể kể đến đề tài "Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và việc nâng cao chất lượng, hiểu quả hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân" do Viện khoa học kiểm sát thực hiện năm 1998 (Chủ nhiệm: Tiến sỹ Vũ Văn Mộc). Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ luật học về vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Tất Viễn với luận án tiến sỹ "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam" bảo vệ năm 1996 tại Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang với luận văn thạc sỹ "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam" bảo vệ năm 2012 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội... 3
  11. Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết khoa học công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật liên quan đến đề tài như: Nguyễn Văn Hải với bài viết “Một số kinh nghiệm điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp” Tạp chí Kiểm sát số 11/2012; Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang với bài viết “Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp” Tạp chí Kiểm sát số 8/2013... Ngoài ra, còn có các Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ, cũng như các chuyên đề nghiệp vụ khác nhau của cơ sở đào tạo, của các Bộ, ngành có liên quan. Tuy nhiên, hiện chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể và toàn diện về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam đồng thời nghiên cứu về thực trạng áp dụng các quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong 5 năm từ 2010 đến 2014. Từ đó, việc lựa chọn đề tài càng có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn: làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý và cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Làm rõ tình hình áp dụng Luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong giai đoạn vừa qua. Thông qua đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ nghiên cứu: luận văn giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau đây: + Những vấn đề lý luận chung về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; + Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và tình hình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về các tội phạm này trong giai đoạn từ năm 2010-2014; 4
  12. + Phân tích chỉ rõ những hạn chế bất cập của những quy định của pháp luật hình sự nói chung, Bộ luật hình sự 1999 nói riêng, những tồn tại thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thi hành, áp dụng Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện chính sách hình sự liên quan đến loại tội phạm này và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy phạm pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và thực tiễn áp dụng các quy định này trong giai đoạn 2010-2014. Đồng thời luận văn còn nghiên cứu những bất cập, vướng mắc trong quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và những khó khăn trong thực tiễn áp dụng về các tội này. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy phạm của Bộ luật hình sự hiện hành. Về thực tiễn số liệu được sử dụng trong giai đoạn 2010 - 2014. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm hình sự nói chung, tội phạm xâm phạm hoạt đô ̣ng tư pháp và vi ệc hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến loại tội phạm này. Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, lôgic, thống kê, so sánh, tổng hợp, thống kê xã hội học, v.v… 5
  13. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ngoài việc đề xuất được các giải pháp kiến nghị với Nhà nước nhằm sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp luận văn còn đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt tư pháp trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần là tài liệu nghiên cứu, học tập của các học giả, sinh viên, cán bộ làm công tác pháp luật. 7. Kết cấu của Đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và thực tiễn áp dụng Chương 3: Đường lối của Đảng và chính sách hình sự của nhà nước về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với các tội phạm này 6
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý chung của các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp Trước khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta vào năm 1985, một số hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp đã được quy định trong các văn bản pháp luật đơn hành. Ví dụ, Luật số 103SL/L105 ngày 10/5/1957 quy đinh ̣ tại Điều 14 theo đó: “đố i với những người bi ̣bắ t , bị tạm giữ , bị tạm giam tuyê ̣t đố i nghiêm cấ m tra tấ n hoă ̣c dùng bấ t cứ nhu ̣c hiǹ h nào ”. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ban hành ngày 30/10/1967 cũng có các quy đinh ̣ về các hành vi bao che tội phản cách mạng. Tương tự, Pháp lệnh trừng trị tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ban hành ngày 21/10/1970 cũng có quy định về việc xử lý các hành vi bao che cho người xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc quy định tội phạm xâm phạm hoạ t đô ̣ng tư pháp trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên nói chung còn tản mạn và không mang tính đồng bộ và không đề cập hết các khía cạnh và sự phức tạp của loại tội phạm này. Để khắc phục tình trạng này, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống các hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắ n của các cơ quan tư pháp, Bộ luật hình sự năm 1985 đã có một chương riêng ở Phần các tội phạm quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đó là chương X với 19 điều, từ Điều 230 đến Điều 248. Trong 19 điều luật này có 17 điều quy định 20 tội thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp. BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại chương XXII từ Điều 292 đến Điều 314. 7
  15. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được quy định tại Chương X Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của việc lành mạnh hoá hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và mọi công dân; đề phòng những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan tư pháp; cán bộ thi hành án trong cơ quan thi hành án; cảnh sát tư pháp, cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải, các trại tạm giam, trại giam và nhà tạm giữ. Tuy nhiên, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là những người tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó chánh án Toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án; của Cảnh sát tư pháp hoặc của Chấp hành viên thực tiễn xét xử không nhiều. Không phải các tội phạm này không xảy ra trong thực tế mà là do việc điều tra chứng minh rất khó khăn. Có lẽ đây là một đặc điểm nổi bật nhất đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể lại chính là những người trong các cơ quan tư pháp, có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. Ví dụ: Một Thẩm phán ra bản án trái pháp luật nhưng để chứng minh là họ cố ý thì không phải là đơn giản. Bị can, bị cáo khai là mình bị bức cung, bị nhục hình nhưng việc xác định họ có bị bức cung, bị nhục hình hay không cũng rất khó, v.v... Cũng chính vì việc chứng minh khó, nên thực tiễn xét xử đối với loại tội phạm này ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây cũng là một vấn đề xã hội đang quan tâm. Chưa có một công trình điều tra tội phạm học nào, nhưng ai cũng thấy tội phạm ẩn trong lĩnh vực tham nhũng và trong lĩnh vực hoạt động tư pháp còn cao. Có nhiều tội quy định trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII) trên thực tế có xảy ra nhưng, thậm chí xảy ra nhiều nhưng rất ít bị phát hiện và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với Chương X Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung. Một số hành vi trước đây chưa bị coi là tội phạm, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm như: hành vi không truy cứu trách 8
  16. nhiệm hình sự người có tội; hành vi ra quyết định trái pháp luật của người có thẩm quyền trong cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án; hành vi đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng loại trừ trách nhiệm hình sự một số hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là tội phạm như: hành vi không tố giác tội phạm của ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, (trừ hành vi không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự ). Đối với các tội phạm cụ thể cũng được bổ sung các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Về đường lối xử lý, nói chung các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đều có mức hình phạt nặng hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. Nhìn chung, nếu dựa theo đặc điểm của chủ thể tội phạm, có thể chia loại tội này làm bốn nhóm: Nhóm 1: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp thực hiện được quy định từ các điều từ Điều 293 đến 296, các điều từ 298 đến 303 và Điều 305 Nhóm 2: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có nghĩa vụ phải giúp các cơ quan tư pháp trong thực hiện hoạt động tư pháp được quy định tại các Điều 307, 308 và 301. Nhóm 3: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc quyết định của cơ quan tư pháp được quy định tại các Điều 304 và 311. Nhóm 4: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể có thể là công dân bình thường, là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và đã sử dụng, chức vụ quyền hạn này để cản trở các hoạt động tư pháp. Nhóm tội này bao gồm các tội được quy định tại các Điều 297, 306, 309, 312, 313 và 314. 9
  17. Để hiểu rõ về khái niệm các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trước hết chúng ta cần nắm rõ khái niệm tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp. Theo Từ điển Tiếng Việt thì "Tư pháp là xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân” [23, tr. 1315]. Còn quan niệm của pháp luật Trung Quốc thì "Tư pháp là việc nắm giữ pháp luật" và theo nghĩa Hán Việt "Tư pháp là trông coi và bảo vệ". Trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" của Jean - Jacques Rouseau, tác giả có đưa ra quan điểm: "Tư pháp là cơ quan thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất vì nó bảo vệ luật mà luật do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành" [19, tr.251]. Theo tác giả Dương Thanh Mai: "Tư pháp là một ý tưởng cao đẹp về một nền công lý đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ phải, công bằng, bình đẳng và đảm bảo sự tin cậy đối với sự phát triển an toàn của mỗi công dân, xã hội" [22, tr. 42]. Hiện nay về khái niệm tư pháp còn nhiều quan điểm khác nhau để hiểu vấn đề này. Trong đó chủ yếu gồm các nhóm quan điểm sau đây. Có quan điểm cho rằng hệ thống pháp luật gồm Công pháp và Tư pháp. Công pháp điều chỉnh các quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức như luật hành chính hay luật hình sự. Tư pháp là luật tư điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân, cơ quan hay tổ chức với nhau; Nhà nước chỉ tham gia dưới góc độ quản lý và định hướng như luật dân sự, luật kinh tế, luật thương mại. Đây là quan điểm được thừa nhận ở các nước theo truyền thống Châu Âu lục địa, tuy nhiên, quan điểm này không được thừa nhận tại Việt Nam [33, tr176]. Bên cạnh đó còn có ý kiến cho rằng tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực Nhà nước là hành pháp, lập pháp và tư pháp. Quan điểm này theo Thuyết tam quyền phân lập. Việt Nam không theo thuyết này và tổ chức Nhà nước ở nước ta theo phương thức tập quyền, vào Quốc hội, nhưng có sự phân công giữa các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp [25, tr.26] 10
  18. Ngoài ra còn một số ý kiến cho rằng Tư pháp là khái niệm chung dùng để chỉ các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp; là các chủ thể làm công tác tư pháp - hộ tịch. Khái niệm này cũng bao gồm hoạt động của các chủ thể nêu trên như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự, thi hành án hình sự, hoạt động bổ trợ tư pháp (giám định, công chứng...) hay hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp (công chứng, hộ tịch...). Khái niệm này rất rộng vì những cơ quan bổ trợ tư pháp và hành chính- tư pháp là những hoạt động do pháp luật hành chính điều chỉnh, độc lập với hoạt động tư pháp của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án vì chúng chỉ có ý nghĩa hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Các quyết định hoặc hành vi trong hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp hoặc giám định, tư pháp hộ tịch chỉ là những quyết định, hành vi mang tính hành chính hoặc chuyên môn nghiệp vụ đơn thuần, không phải là quyết định hoặc hành vi tư pháp. [13, tr.236]. Qua các văn kiện của Đảng như Văn kiện các Đại hội IX, X, XI, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII); Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 03-5-2005 về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 tầm nhìn đến năm 2020 và nhất là Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì nhiệm vụ đặt ra đối với công cuộc cải cách tư pháp là đổi mới, nâng cao chất lượng của hai hệ thống cơ quan. Thứ nhất, là các cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án trong đó Tòa án là trung tâm của các cơ quan tư pháp; thứ hai là các các cơ quan bổ trợ tư pháp, bao gồm luật sư, giám định tư pháp, lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp. Ngoài ra, nhiệm vụ cải cách tư pháp còn đặt ra với công tác tư pháp bao gồm: công tác điều tra, công tác kiểm sát, công tác xét xử, công tác thi hành án và công tác bổ trợ tư pháp, trong đó xét xử là hoạt động trung tâm của hoạt động tư pháp. 11
  19. Ở nước ta, tổ chức nền tư pháp quốc gia bao gồm hệ thống các cơ quan và tổ chức nghề nghiệp. Hoạt động của các cơ quan, tổ chức này trực tiếp hoặc hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Như vậy, khái niệm “tư pháp” có hai cách hiểu, thứ nhất là hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp; thứ hai, tư pháp là thuật ngữ để chỉ các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp và những hoạt động trong lĩnh vực tư pháp do các cơ quan nay thực hiện. Về khái niệm “Quyền tư pháp”. Quyền tư pháp được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp: Quyền tư pháp trong Nhà nước là quyền hoạt động tài phán (quyền xét xử) độc lập của Tòa án. Nghĩa rộng: Quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án nói riêng, cũng như hoạt động bảo vệ pháp luật của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án để đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử đạt hiệu quả cao, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước vào đời sống thực tế [1, tr.25]. Về khái niệm “Cơ quan tư pháp” hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau dù nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước. Nếu căn cứ vào tổ chức nhà nước ta theo mô hình tập quyền thì quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tương ứng với nó là bốn hệ thống cơ quan: Quốc hội, Chính Phủ, Tòa án – Viện kiểm sát. Theo đó, Tòa án và Viện kiểm sát được hiểu là các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước nên trên thì không thể lý giải được việc tại sao các cơ quan thuộc nhánh hành pháp như Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án lại gọi là Cơ quan tư pháp hoặc Bộ Tư pháp (trừ lĩnh vực thi hành án dân sự) thực chất lại không phải là cơ quan tư pháp mà thuộc Chính phủ. Do đó, phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan thì mới đánh giá đúng về tính chất hoạt 12
  20. động của mỗi cơ quan. Có nghĩa là một cơ quan, mặc dù thuộc hệ thống cơ quan nào phải căn cứ vào hoạt động của nó trong từng lĩnh vực cụ thể để nhận biết được đúng tên gọi của nó. Ví dụ, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án có phạm vi hoạt động trong lĩnh vực tố tụng nên được gọi là cơ quan tư pháp. Các cơ quan bổ trợ tư pháp dù có liên quan mật thiết và có vai trò hỗ trợ rất lớn trong hoạt động tố tụng như tổ chức Luật sư, Giám định tư pháp, Công chứng, Cảnh sát tư pháp nhưng vẫn thuộc hệ thống cơ quan hành chính hoặc do cơ quan hành chính quản lý. Như vậy, qua nghiên cứu tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng như các văn kiên của Đảng và các văn bản của Nhà nước cho thấy, các cơ quan tư pháp ở nước ta luôn được hiểu và đề cập đến ở nghĩa rộng, bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Về khái niệm “hoạt động tư pháp”, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào định nghĩa hoặc hướng dẫn chính thức về khái niệm "hoạt động tư pháp", mà tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; của những những người tiến hành tố tụng như Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án. Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động tư pháp còn bao gồm các chủ thể được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng như: Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Kiểm sát biển; Cơ quan thi hành án (dân sự và hình sự). Quan điểm thứ ba cho rằng, khái niệm hoạt động tư pháp phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm ba dạng hoạt động: hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng (tư pháp – tố tụng), hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hành chính (tư pháp – hành chính), và hoạt động bổ trợ tư pháp. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1