intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

23
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề pháp lý cơ bản của việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam như: khái niệm kháng nghị tố tụng, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý… Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NHƯ THẮNG KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Như Thắng
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM .................................................................. 8 1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm................................................................................................. 8 1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng ............................................................. 11 1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm ................................................ 12 1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm ........................................................... 13 1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ...................... 14 1.3. Mục đích, ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ........ 20 1.3.1. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ............................ 20 3.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .............................. 21 1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 1945 đến nay ...................................................................................... 22 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988 ............................................ 22 1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về kháng nghị giám đốc thẩm ................................................................. 24 1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về kháng nghị tái thẩm ............................................................................ 28
  4. 1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một số nước trên thế giới .............................................................................. 30 1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga .................................................................... 30 1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ............................. 34 1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức ................................................... 36 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 41 Chương 2: KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ............................................................................. 42 2.1. Quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .... 42 2.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm ................................................................. 42 2.1.2. Kháng nghị tái thẩm ............................................................................ 68 2.2. Thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ............................. 78 2.2.1. Kết quả đạt được trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ............. 78 2.2.2. Một số tồn tại trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ....... 83 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên ................................................... 87 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 91 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM ........................................... 92 3.1. Sự cần thiết, định hướng và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ........................................... 92 3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ................................................................................................ 92 3.1.2. Định hướng, nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm................................................................................ 93 3.2. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm........................................................... 94
  5. 3.3. Các giải pháp khác .......................................................................... 100 3.3.1. Tăng cường kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp.............. 100 3.3.2. Tăng cường giải quyết đơn khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm........ 101 3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .................................................................... 102 3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ........................................... 102 3.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là giữa Tòa án với VKS trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .............................................................................................. 104 3.3.6. Nâng cao nhận thức pháp luật trong nhân dân .................................. 105 Kết luận chương 3 ....................................................................................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................. 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HLPL : Hiệu lực pháp luật TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TAQS: Tòa án quân sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSQS: Viện kiểm sát quân sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp đã được giải quyết ........... 80 Bảng 2.2. Tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm giữa Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp .......................................... 81 Bảng 2.3. Kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án các cấp ......... 82 Bảng 2.4. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng VKS các cấp ... 83
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, nhưng cũng không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, là những định hướng quan trọng của pháp luật TTHS Việt Nam. Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng ta đã có những quan điểm chỉ đạo về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị đã xác định mục tiêu là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao [4]. Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác giải quyết án hình sự nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Theo đó, các hoạt động TTHS được tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết định sau khi có HLPL mới phát hiện ra có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm. 1
  9. Thực tiễn cho thấy, kháng nghị giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL. Từ đó, Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc phục những sai lầm, thiếu sót và áp dụng thống nhất pháp luật. Vì thế, có thể nói kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc không được Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chấp nhận; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa kịp thời nên không còn thời hạn kháng nghị; việc kiểm tra bản án, quyết định đã có HLPL, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn quá ít… Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do nhiều quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đối tượng kháng nghị; thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng nghị… nhưng lại chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, nên trong quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Mặt khác, trình độ, năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm, tái thẩm có phần hạn chế, cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên. Vì thế, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và các quy định của pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chỉ ra những hạn 2
  10. chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, là một yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, nhà khoa học pháp lý, luật gia và cán bộ thực tiễn, nhưng nhiều vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác này còn có những quan điểm khác nhau; mặt khác trong thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nên cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn. Hiện nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có một số công trình nghiên cứu được công bố, như các giáo trình đại học giảng dạy về luật TTHS ở Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Cảnh sát nhân dân... đã nghiên cứu khái quát những vấn đề cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm và đã được công nhận là đề tài cấp Bộ, luận án, luận văn, bình luận khoa học, sách chuyên khảo. Trong đó phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự”, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005 [37]; luận án Tiến sĩ của tác giả Phan Thị Thanh Mai với đề tài “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2007 [30]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo với đề tài “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm 2007 [67]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng với đề tài “Giám đốc thẩm trong TTHS”, năm 1996 [70]; sách chuyên khảo “Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [33]... 3
  11. Một số công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, có liên quan một phần đến quy định về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được công bố trên các tạp chí, báo chuyên ngành. Chẳng hạn, bài viết của các tác giả như: Nguyễn Văn Hiện,“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp”, Tạp chí TAND, tháng 3 năm 1997 [19]; Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; Vũ Gia Lâm, “Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 10 năm 2006 [26]; Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí TAND, số 14 năm 2006 [40]; Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [72]; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9 năm 2005 [36]; Đinh Văn Quế, “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22 năm 2004 [35]... Qua nội dung các công trình nghiên cứu, các bài viết cũng như các giáo trình giảng dạy nêu trên cho thấy: các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về giám đốc thẩm, tái thẩm và có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn. Nhưng một số công trình có phạm vi nghiên cứu quá rộng, ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS. Chẳng hạn, luận án Tiến sĩ của tác giả Phan Thị Thanh Mai, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng đã nghiên cứu chuyên sâu về lý luận giám đốc thẩm, nhưng không nghiên cứu về kháng nghị tái thẩm, đề cập rất ít đến thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm và chủ yếu xem xét đánh giá pháp luật để kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giám đốc thẩm. Ngược lại, đề tài cấp Bộ “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của 4
  12. TANDTC do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên và các công trình nghiên cứu khác của tác giả này đều mang tính ứng dụng cao, nhưng lại đề cập rất ít về mặt lý luận, mà chủ yếu là giải thích pháp luật, liên hệ những quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc thẩm, tái thẩm từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm, tái thẩm. Một số công trình khoa học khác chỉ nghiên cứu trên phạm vi hẹp, đã làm sáng tỏ phần nào về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, như về tính chất giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý... của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện các quy định trên. Tuy nhiên, một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được làm rõ, cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn, để đưa ra các khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, như đã trình bày ở trên, thực tiễn hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của pháp luật TTHS liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, không còn phù hợp trong tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề pháp lý cơ bản của việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam như: khái niệm kháng nghị tố tụng, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quá trình 5
  13. hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý… của kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm; đồng thời đi sâu phân tích hoạt động thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số vướng mắc, bất cập về mặt lý luận và thực tiễn thi hành; nguyên nhân của những tồn tại đó và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam. 3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp thống kê hình sự; nghiên cứu thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm... để làm luận chứng cho các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả có nghiên cứu, tham khảo các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật liên quan đến phạm vi đề tài; tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố, tổng kết, đánh giá của các cơ quan chuyên môn và ý kiến của các chuyên gia có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong khoa học luật TTHS Việt Nam 6
  14. như: làm rõ khái niệm kháng nghị tố tụng, đặc biệt là khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS năm 2003 về căn cứ kháng nghị, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý... của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của tác giả luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLTTHS Việt Nam liên quan đến hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Chương 2: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2003 và thực tiễn thi hành Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 7
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM 1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì nghĩa vụ chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Kết quả của cả quá trình tố tụng được thể hiện qua bản án, quyết định của Tòa án có HLPL. Khi đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và thi hành bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, không phải mọi bản án, quyết định của Tòa án có HLPL đều đảm bảo tính khách quan và đúng quy định của pháp luật. Vì thế, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác, BLTTHS có những quy định về trình tự, thủ tục xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL. Luật TTHS các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đều quy định thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Nhưng khác với luật TTHS đa số các nước trên thế giới chỉ quy định một thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đó là thủ tục tái thẩm (như Đức [80], Hàn Quốc, Na Uy [Dẫn theo 30, tr.15]...) hoặc thủ tục giám đốc thẩm (như Trung Quốc [82], Đan Mạch [Dẫn theo 30, tr.15]...); luật TTHS Việt Nam lại quy định hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt, để xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Thủ tục tái thẩm cũng xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng bị kháng 8
  16. nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó [48, Điều 272 và 290]. Hiện nay, trong nghiên cứu khoa học pháp lý và trong thực tiễn áp dụng pháp luật còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm giám đốc thẩm như: Quan điểm thứ nhất cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật... [70, tr.23]. Quan điểm thứ hai cho rằng, giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án [76, tr.734]. Quan điểm thứ ba cho rằng, giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục do Tòa án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định hình sự đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn và thống nhất [30, tr.35]. Quan điểm thứ tư cho rằng, giám đốc thẩm là một thủ tục của luật TTHS nhằm xác định và khắc phục vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL của Tòa án dựa trên những căn cứ kháng nghị của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật [67, tr.14]. Như vậy, hầu hết các quan điểm trên đều cho rằng giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm thì cho rằng giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho là một thủ tục tố tụng. Nhìn chung mỗi quan điểm đều có góc độ tiếp cận khác nhau, với phạm vi nghiên cứu khác nhau; tuy chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm, nhưng ở mức độ nào đó thì mỗi quan điểm đều có nhân tố phù hợp nhất định. 9
  17. Theo chúng tôi để làm rõ nội hàm khái niệm giám đốc thẩm, thì cần phân biệt giám đốc thẩm với xét xử lại và giám đốc việc xét xử. Tại Điều 20 BLTTHS quy định: “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử... Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm” [48]. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những vấn đề, nội dung đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, nhưng có kháng cáo, kháng nghị. Còn Tòa án xét xử giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử, mà là thủ tục tố tụng đặc biệt, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định đã có HLPL. Theo Điều 21 BLTTHS thì “Giám đốc việc xét xử là việc Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, TANDTC giám đốc việc xét xử của TAND và TAQS các cấp để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [48]. Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới bao gồm cả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; kiểm tra, phát hiện các vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử để sửa chữa, khắc phục kịp thời; kháng nghị bản án, quyết định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử. Do đó, giám đốc thẩm chỉ là một hoạt động của công tác giám đốc việc xét xử và có phạm vi hẹp hơn giám đốc việc xét xử. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về giám đốc thẩm, tái thẩm, chúng tôi cho rằng: Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật. 10
  18. Như vậy, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì trước hết phải có kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trên cơ sở căn cứ do BLTTHS quy định. Văn bản kháng nghị phải có những lập luận, đánh giá về các tình tiết của vụ án và phải chỉ ra được sai lầm trong áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL. Đây là văn bản tố tụng mang tính chất pháp lý và là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng Theo quan niệm chung nhất được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa thì “Kháng nghị là tỏ lòng phản đối” [73, tr.569]. Trong TTHS thì khái niệm kháng nghị gắn liền với việc ra bản án và các quyết định của Tòa án hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, khi kháng nghị sẽ bao gồm đối tượng, nội dung kháng nghị và hệ quả của việc kháng nghị. Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng”, tác giả Nguyễn Duy Lãm đưa ra khái niệm kháng nghị như sau: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền, làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [25, tr.192]. Tuy nhiên, quan điểm này không hoàn toàn chính xác, vì theo quy định của BLTTHS thì kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm không mặc nhiên làm ngừng HLPL của bản án, quyết định bị kháng nghị, trừ khi người đã kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học 11
  19. pháp lý - Bộ Tư pháp thì “Kháng nghị trong TTHS là việc VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm” [78, tr.420]. Mặc dù đã đưa ra khái niệm về kháng nghị trong TTHS, nhưng định nghĩa trên lại không bao gồm mục đích của kháng nghị và chưa phản ánh đầy đủ chủ thể của kháng nghị giám đốc thẩm, vì ngoài VKS thì Tòa án cũng có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm trên và nghiên cứu thực tiễn về kháng nghị, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị trong TTHS là hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản đối bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật. 1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm Để giám đốc thẩm một vụ án hình sự có nhiều hoạt động tố tụng như phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, kháng nghị giám đốc thẩm, tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm... Trong đó, kháng nghị giám đốc thẩm là hoạt động quan trọng nhất, vì không có kháng nghị giám đốc thẩm thì cũng không có thủ tục giám đốc thẩm. Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì kháng nghị giám đốc thẩm thuộc thẩm quyền của cả Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS, nhằm khắc phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong các bản án hoặc quyết định đã có HLPL, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân. Phạm vi của kháng nghị giám đốc thẩm có thể là kháng nghị toàn bộ hoặc 12
  20. một phần bản án hoặc quyết định có HLPL và việc kháng nghị giám đốc thẩm phải còn thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 278 BLTTHS. Khi nghiên cứu về kháng nghị giám đốc thẩm, Ths. Đinh Văn Quế cho rằng “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có HLPL để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [41, tr.318]. Quan điểm này đã nêu được một cách khái quát về kháng nghị giám đốc thẩm, nhưng chưa phản ánh đầy đủ, chính xác các dấu hiệu đặc trưng của kháng nghị giám đốc thẩm, như về hình thức kháng nghị; căn cứ kháng nghị và mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm. Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm về hình sự là một quyền năng mang tính đặc thù của Tòa án và VKS, do người có thẩm quyền thực hiện bằng một văn bản pháp lý, trong đó nêu rõ lý do của việc kháng nghị và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật. 1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm Theo quy định của BLTTHS thì thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm đều là thủ tục tố tụng đặc biệt và cùng xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản giữa hai thủ tục tố tụng này là ở căn cứ kháng nghị, nếu kháng nghị giám đốc thẩm dựa trên cơ sở phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì kháng nghị tái thẩm dựa vào việc phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có HLPL. “Chính sự khác biệt này của hai thủ tục đã quyết định nội dung việc xem xét và phán quyết của bản án tái thẩm và giám đốc thẩm. Nếu như quyết định tái thẩm liên quan đến 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1