Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
lượt xem 11
download
Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và hực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đưa ra các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HƯỚNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HƯỚNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2020
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, là nguồn căn cứ để kịp thời phát hiện các hành vi phạm tội xảy ra; từ đó xác định hành vi đó có dấu hiệu tội phạm hay không để xem xét khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời thông qua hoạt động này, CQĐT, VKS cũng như các cơ quan hữu quan sẽ nắm được tình hình tội phạm xảy ra trên thực tế để có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước. Theo đó, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện KSND được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng và các hoạt động tư pháp khác nói chung. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong những năm qua cho thấy, công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố sẽ quyết định đến chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Nhận thức được tầm quan trọng của khâu công tác này, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn quan tâm, chú
- trọng đến khâu công tác này và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, nhất là yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới thì công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều hạn chế từ các quy định của pháp luật cũng như trên thực tế áp dụng, dẫn đến hiệu quả việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm chưa cao, nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa được xử lý đúng quy trình, có những tố giác, tin báo tội phạm chưa được CQĐT kịp thời xác minh làm rõ dẫn đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa kịp thời làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án… Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm theo yêu cầu cải cách tư pháp và việc nghiên cứu, thực hiện các quy định mới của BLTTHS năm 2015 nói chung và nhất là việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố sẽ làm sáng tỏ về mặt khoa học, nêu lên những kết quả đạt được, những bất cập, hạn chế từ những quy định của pháp luật cũng như việc thực hiện các quy định này trên thực tế. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định trên thực tiễn, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố làm tiền đề cho việc nghiên cứu đề tài luận văn như: Bình luận khoa học BLTTHS; Nông Xuân Trường, Vai trò, trách nhiệm của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thực trạng và một số giải pháp, (Trang tin điện tử
- VKSNDTC); ThS. Nguyễn Duy Giảng, Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 18-20/2008; ThS. Lê Ra, Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát số 20/2012; ThS. Lê Minh Long, Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người, Tạp chí kiểm sát số 4/2011... Ngoài ra, còn có một số các Luận văn thạc sĩ luật học như: “Kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phan Văn Khai (Hà Nội-2018); “Kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Loan (Hà Nội-2018); “Kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” của tác giả Bé Thị Thảo (Hà Nội-2018)... Như vậy, vấn đề kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã được các nhà nghiên cứu lý luận cũng như những người làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Tuy nhiên, liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thì chưa có một bài viết, một công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Đây là đề tài do bản thân tác giả tự nghiên cứu nên sẽ không trùng với bất kỳ đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
- thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đưa ra các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định theo pháp luật TTHS Việt Nam về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 - 2019. Qua đó đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiểu quả kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn hoạt động của công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ khi CQĐT tiếp nhận đến khi ra các Quyết định khởi tố, không khởi tố và tạm đình chỉ.
- - Về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019, số liệu thống kê của VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Về không gian: huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn dịch, phân tích quy phạm pháp luật để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận cứ các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND. Luận văn tổng hợp các quan điểm khoa học về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ đó xây dựng các khái niệm về kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế liên quan đến khâu công tác này. Từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện khâu công tác này.
- 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, học viên, sinh viên và những người làm công tác thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Chương 2: Thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực hiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, trình tự, thủ tục kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố 1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn thông tin quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội phạm, trên cơ sở đó sẽ tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để xác định có căn cứ để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Đây là tiền đề quan trọng bởi lẽ nếu kết quả kiểm tra, xác minh dẫn đến việc CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì nó sẽ mở ra hoàng loạt các hoạt động tố tụng sau này. Vì vậy, việc hiểu và đưa ra khái niệm chính xác về tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố sẽ giúp cho người THTT cũng như các Cơ quan THTT thuận lợi hơn trong việc phân loại, giải quyết các nguồn tin báo về tội phạm đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động giải quyết tố giác tội phạm và tố cáo thường gây nhầm lẫn cho các chủ thể khi thực hiện nhiệm vụ vì giữa chúng có những điểm tương đồng, gây ra không ít khó khăn trong cách hiểu và cách xử lý dẫn đến việc phân loại không chính xác, làm cho hoạt động áp dụng pháp luật cũng như quy trình xử lý chưa thật sự phù hợp. Vì vậy, cần phân biệt giữa khái niệm “tố cáo” và “tố giác” Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ: Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: thứ nhất, tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết hoặc hành động phạm pháp
- nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn. [14] Khái niệm “Tố giác” được hiểu là báo cho chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. [14] Thứ hai, dưới góc độ pháp lý: Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của luật này báo cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [17]. Như vậy, xét về bản chất việc thực hiện quyền tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà trong đó bên đi tố cáo báo cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (lĩnh vực dân sự, hành chính...) theo những trình tự, thủ tục giải quyết khác nhau. Khoản 1, Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”.[15] Từ đó có thể thấy rằng, tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm; còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm những hành vi có dấu hiệu tội phạm được quy định trong BLHS nên có thể nói khái niệm tố cáo rộng hơn, bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm. Điểm khác biệt cơ bản giữa tố cáo và tố giác là: Tố cáo là quyền, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp
- luật phát sinh khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật về tố giác tội phạm phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền quyết định việc mình có tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật nhưng bắt buộc phải tố giác nếu biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 BLHS năm 2015 đang được thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện. Nếu không tố giác, công dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015. Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa, một là, điều được truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình huống nào đó đã xảy ra. Hai là, sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau cho biết về thế giới xung quanh và quá trình xảy ra trong nó.[14] Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Một là, cho biết việc gì đó đã xảy ra. Hai là, báo cho người có trách nhiệm biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung..., là dấu hiệu biết trước.[14] Theo đó, tin báo về tội phạm được hiểu là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền và những thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng có dấu hiệu tội phạm . Kiến nghị khởi tố được hiểu là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ có liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền giải quyết. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về cơ bản là giống nhau nhưng chưa được cụ thể làm cho việc phân biệt giữa các khái niệm này còn khó khăn. Đến Bộ luật TTHS năm 2015 thì khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mới được quy định
- một cách hoàn chỉnh, đầy đủ và cụ thể. Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. 1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố Khái niệm “Giải quyết” được hiểu là làm cho một vấn đề không còn là vấn đề nữa.[14] Theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 thì CQĐT có trách nhiệm giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.[18]. Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định: CQĐT, VKS có trách nhiệm giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền của mình; các cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm; các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Như vậy, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tố tụng đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, quá trình này được diễn ra xuyên suốt thông qua các hoạt động tố tụng từ khâu tiếp nhận, phân loại, thụ lý và giải quyết. Qua kiểm tra, xác minh nguồn tin
- chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc CQĐT sử dụng các quyền năng pháp lý của mình được quy định trong BLTTHS để thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Hiện nay, khái niệm “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố” chưa có định nghĩa cụ thể và thống nhất, ở nước ta mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở cấp độ kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung hay cụ thể là kiểm sát một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng như kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra... Ở nước ta, VKSND là cơ quan duy nhất trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội quy định hai chức năng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng của Viện KSND đã được cụ thể hóa tại Luật Tổ chức VKSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [18]. Trong chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có chức năng kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đây là hoạt động của VKKSND để kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nói chung và những người THTT nói riêng. Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được Ngành kiểm sát xác định là một trong những khâu công tác quan trọng, trọng điểm. Thông qua khâu công tác này, Viện kiểm sát mới có cơ sở để đảm bảo các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
- nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là có căn cứ, đúng pháp luật; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo CQĐT, những người THTT và những người tham gia tố tụng đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, trong những năm qua nhất là từ khi BLTTHS năm 2015 ra đời, khâu công tác này luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Viện KSND tối cao, của các cấp chính quyền địa phương. Chức năng kiểm sát của VKSND trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc VKSND sử dụng những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong BLTTHS và những quy định pháp luật có liên quan nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trên thực tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tham gia “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” trong TTHS không chỉ có VKS mà còn có các chủ thể khác như: người tham gia tố tụng, cá nhân công dân, đại biểu dân cử và toàn thể xã hội. Các chủ thể này có quyền được kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực TTHS xuất phát từ những chế định quan trọng của Hiến pháp và pháp luật, về tổ chức Bộ máy Nhà nước và địa vị pháp lý của công dân. Về bản chất, hoạt động của các chủ thể này như theo dõi, yêu cầu cơ quan THTT báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Điều này, sẽ làm ảnh hưởng đến việc kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan THTT và loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân trong TTHS. Nhưng không thể coi đây là
- hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các chủ thể nói trên chính là một số quyền mà pháp luật cho phép chỉ có VKSND mới có khi thực hiện hoạt động kiểm sát như: Yêu cầu CQĐT tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; yêu cầu kiểm tra, xác minh nguồn tin tội phạm; ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT... Những quyền này đồng thời cũng là nghĩa vụ của VKSND, tạo nên sự khác biệt về phương thức hoạt động của Viện kiểm sát mà các chủ thể khác không có. Quyền của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS được thực hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên theo quy định tại các Điều 41, 42 BLTTHS năm 2015. Các quyền và nghĩa vụ của VKSND đặt trong mối quan hệ tổng thể tạo ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, riêng có của VKS, tạo sự phân biệt dễ dàng giữa hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS với hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS có quyền và nghĩa vụ có mặt trong tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét xử - thi hành án. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát là việc VKS có quyền giám sát các hoạt động cụ thể như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bị can, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng... VKS kiểm sát một cách trực tiếp các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc VKS có mặt ở những hoạt động tố tụng bắt buộc phải có sự tham gia của KSV; thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc kịp thời khi các cơ quan THTT thực hiện các hoạt
- động giải quyết vụ án. Tuy nhiên, VKSND không phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi mà còn phụ thuộc vào điều kiện thực tế về nhân sự, số lượng vụ án, tính chất từng vụ án và quy định của pháp luật TTHS mà VKS sẽ quyết định việc trực tiếp kiểm sát diễn biến của một hoạt động tố tụng hay chỉ cần kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố tụng. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và những phân tích nên trên, có thể hiểu khái niệm như sau: “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý của mình được pháp luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật”. Bên cạnh chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát còn có chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Quá trình kiểm sát hoạt động của CQĐT trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm chúng ta cần phân biệt rõ hai chức năng này để áp dụng pháp luật đúng đắn. Thực hành quyền công tố của VKSND trong TTHS là việc VKSND thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi giải quyết nguồn tin tội phạm đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKSND trong quá trình giải quyết những thông tin về hành vi có dấu hiệu của tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thực hành quyền công tố trong
- việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKSND như: Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, hủy bỏ quyết định tạm giữ; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh; trực tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng CQĐT không khắc phục...Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hai chức năng độc lập nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Từ khi CQĐT tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là đã phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND. 1.2. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố 1.2.1. Về chủ thể thực hiện quyền kiểm sát VKSND là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng này của VKS được kế thừa từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Tuy qua các thời kỳ khác nhau, chức năng của VKSND có những thay đổi khác nhau nhưng về cơ bản Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
- pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. [19]. Như vậy, một trong những nội dung đầu tiên trong công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan duy nhất tham gia đầy đủ các giai đoạn tố tụng. Chức năng thực hành quyền công tố của VKS là những hoạt động trong việc xác định tội phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và việc buộc tội trước Tòa án. Vì vậy, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, thì các hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Đặc biệt trong tiến trình cải cách tư pháp và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu VKS phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt động tố tụng hình sự phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ, bởi vì các hoạt động này đều có tác động, liên quan đến quyền con người, quyền công dân, thậm chí là sinh mệnh chính trị của con người... đây là nguyên tắc tối thượng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo vệ. Như vậy, việc giải quyết tố giác, tin báo trở thành “một giai đoạn” của tố tụng hình sự, VKS thực hành quyền công tố sớm hơn, ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Tại Điều 160 BLTTHS năm 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thông qua các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự thực hiện việc tiếp nhận, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT; kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi
- giải quyết nguồn tin về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trường hợp khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động, như: (1) tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật; (2) kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo kết quả cho VKS; (3) cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; (4) khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm; (5) yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS. Trong Điều luật này cũng quy định VKS tiến hành trực tiếp các cuộc kiểm sát, là những hoạt động kiểm sát mang tính toàn diện, để kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của CQĐT… trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất và ngăn ngừa các vi phạm, xử lý nghiêm tội phạm trong hoạt động tư pháp. Từ những quy định nêu trên, có thể thấy VKSND là cơ quan Nhà nước duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao cho quyền được thực hiện việc kiểm sát hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là chức năng đặc thù của VKSND cùng với chức năng thực hành quyền công tố, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 1.2.2. Về mục đích, đối tượng và phạm vi kiểm sát 1.2.2.1. Mục đích kiểm sát Giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ
- mới của Viện kiểm sát được quy định trong BLTTHS năm 2015. Đây là khâu công tác hết sức quan trọng của ngành kiểm sát nói chung và của các hoạt động tố tụng nói riêng bởi lẽ đây là giai đoạn mở đầu cho các hoạt động tố tụng hình sự. Có tiếp nhận và giải quyết tốt các nguồn tin về tội phạm, thì mới xác định được có tội phạm hay không có tội phạm xảy ra, để quyết định khởi tố hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, VKS được giao nhiệm vụ thực hiện khâu công tác này nhằm đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời phải đảm bảo cho việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được khách quan, toàn diện, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. 1.2.2.2. Đối tượng kiểm sát Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định cụ thể tại Điều 145 BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017. Theo các quy định này thì mọi tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tiếp nhận, không được từ chối tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. [15] Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo trình tự TTHS được chia thành hai nhóm là cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – thực tiễn tại tỉnh Nam Định
17 p | 139 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 235 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn