Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
lượt xem 6
download
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự từ đó kiến nghị đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRUNG KIÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRUNG KIÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2013 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA 6 CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONGGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự 6 1.2. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 12 1.2.1. Vị trí, chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự 12 1.2.2. Khái niệm mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 19 1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 21 1.3. Một số nguyên tắc tác động đến mối quan hệ giữa các cơ quan 24 tiến hành tố tụng hình sự 1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa 24 1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân 25 1.3.3. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án 26 1.3.4. Nguyên tắc cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong hoạt 27 động tố tụng hình sự 1.4. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở mô hình tố 28 tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ 33 TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1. Tổ chức, vị trí và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến 33 hành tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam 3
- 2.1.1. Cơ quan điều tra 33 2.1.2. Viện kiểm sát 37 2.1.3. Tòa án 40 2.2. Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành 41 tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam 2.2.1. Đặc điểm, nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với 45 Viện kiểm sát 2.2.2. Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với 61 Tòa án 2.2.3. Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa 67 án Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 74 HIỆU QUẢ THỰC THI MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 3.1. Thực trạng mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 74 hình sự trong giải quyết vụ án hình sự 3.1.1. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra 74 3.1.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án 83 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi mối quan hệ giữa 88 các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự 3.2.1. Những vấn đề đặt ra cho mối quan hệ giữa các cơ quan tiến 88 hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự 3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ 93 quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã khẳng định nhiệm vụ mang tính chiến lược của nước ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng công tác tư pháp vì sự phát triển chung của đất nước. Việc nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân; đảm bảo hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… là những đòi hỏi quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 "về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã nói lên tình hình công tác tư pháp trong những năm vừa qua. Trong những năm vừa qua công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên từng bước. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) mang tính quyền lực nhà nước rất cao, nơi mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến quyền, lợi ích của công dân thì việc quy định rõ quyền hạn và trên cơ sở đó, xác định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn 5
- trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác. Từ những điều đã phân tích trên đây cho thấy việc nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc biệt là mối quan hệ của các cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định đó trong thực tiễn. Để góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tôi đã chọn đề tài "Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự" làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học với mong muốn nghiên cứu góp phần bổ sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn hiện nay 2. Tình hình nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học và bài viết liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, trong đó đáng chú ý là một số công trình sau: Công trình của PGS,TS Đỗ Ngọc Quang về "Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự" (sách tham khảo), đề cập mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tiến hành tố tụng khác và các cơ quan bổ trợ tư pháp trong tố tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tiến Sơn với đề tài "Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam", phân tích cơ sở và những đặc trưng cơ bản của quan hệ cũng như những chế định cụ thể trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra xuất phát từ vai trò, chức năng của Viện kiểm sát và của Cơ quan điều tra trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Ngô Văn với đề tài "Mối 6
- quan hệ giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố điều tra", mới chỉ đề cập, nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự. Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Hồng Sơn với đề tài "Mối quan hệ giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình điều tra bổ sung các vụ án hình sự theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân", đã nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình điều tra bổ sung vụ án hình sự. Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Văn Sơn với đề tài "Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra với Viện kiểm sát, Tòa án trong điều tra truy tố xét xử các vụ án hình sự ở cấp huyện - tỉnh Hải Dương", đã phân tích lý luận về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và đưa ra một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện. Bài báo "Mối quan hệ tố tụng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân", của PGS.TS Nguyễn Đức Thuận đăng trên tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 2/1998, phân tích một số tồn tại trong quan hệ giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ này. Bài báo "Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự", của ThS. Phạm Quang Luyện đăng trong Tạp chí Kiểm sát, số 12/2003, mới chỉ nghiên cứu phân tích các hình thức thể hiện mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. Từ cách thức tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, phân tích sâu và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. 7
- Phạm vi nghiên cứu mà đề tài đặt ra chỉ giới hạn ở những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự trong đó làm sáng tỏ khái niệm, mối quan hệ, các mô hình tố tụng, lịch sử mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự từ đó kiến nghị đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. - Làm rõ thực trạng và các yêu cầu về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam, cũng như xác định phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và lý luận nhà nước và pháp luật. Qua nghiên cứu những tài liệu thu thập được luận văn này sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và một số phương pháp khác. 8
- 5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn Đây là đề tài chuyên khảo mà tôi nghiên cứu dựa trên những hiểu biết về tri thức khoa học pháp lý, trình bày, phân tích và đánh giá có hệ thống về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự. Lần đầu tiên, trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích một cách có hệ thống thực trạng và các yêu cầu về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo và vận dụng từng bước vào quá trình nâng cao chất lượng công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ở Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự. Chương 2: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. 9
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hoạt động tố tụng hình sự và xử lý tội phạm là hoạt động mang tính tất yếu của bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện. Thực hiện chức năng này các nhà nước thiết lập ra các cơ quan để đảm nhiệm các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Lúc đầu những chức năng này chưa được tách khỏi bộ máy công quyền chung, nhưng khi xã hội phát triển các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được tách bạch thì hoạt động tố tụng hình sự được tách khỏi bộ máy cai trị và trở thành một bộ phận của quyền tư pháp. Tùy theo đặc điểm của từng nước mà cách thức tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. "Ở những nơi nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền thì quyền tư pháp chỉ là hoạt động xét xử và cơ quan tư pháp chỉ là Tòa án, cơ quan công tố và cơ quan điều tra là những cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp" [10, tr. 77-86]. Ngược lại, ở Việt Nam hoặc những nước mà việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền thì hoạt động tư pháp có phạm vi rộng hơn, không chỉ có hoạt động xét xử mà còn có cả hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và thi hành án. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án để đảm nhiệm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Cho dù các cơ quan này, với những nguyên tắc tổ chức bộ 10
- máy nhà nước khác nhau và nằm trong nhánh quyền lực nào thì hoạt động của nó cũng mang tính độc lập không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan, tổ chức cá nhân nào. Trong các nhà nước dù được tổ chức theo nguyên tắc nào thì Tòa án cũng là một trong số các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử và là đại diện hoặc là trung tâm của quyền lực tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là những cơ quan nhà nước đại diện cho quyền lực công để xét xử tội phạm, để thực hành quyền công tố truy cứu trách nhiệm hình sự một người ra trước Tòa án và để thi hành án hình sự. Cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tư tố không đại diện cho quyền lực nhà nước nên mặc dù có tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng không phải là cơ quan tiến hành tố tụng. - Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền uy đảm bảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tùy tính phức tạp, nghiêm trọng và yêu cầu giải quyết vụ án phải chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm, đồng thời do yêu cầu khách quan của việc giải quyết vụ án hình sự nên không phải bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng có thể tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội mà chỉ những cơ quan có chuyên môn và được pháp luật qui định mới có thẩm quyền tiến hành giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, trong giải quyết vụ án hình sự, ngoài cơ quan tiến hành tố tụng còn có các cơ quan nhà nước, tổ chức khác cùng tham gia. Tuy nhiên, những cơ quan, tổ chức này không phải là cơ quan tiến hành tố tụng. Chẳng hạn, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn có các cơ quan nhà nước khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi lĩnh vực quản lý của mình, như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan nghiệp vụ trong Quân đội nhân dân và Công 11
- an nhân dân. Khi phát hiện hành vi phạm tội trong phạm vi lĩnh vực mình quản lý, các cơ quan này có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu sau đó chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn luật định. Sự khác nhau cơ bản giữa các cơ quan điều tra và cơ quan được tiến hành một số hoạt động điều tra là: Cơ quan điều tra được thực hiện đầy đủ các hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra. Trong khi đó, cơ quan được tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ được tiến hành một số hoạt động điều tra khi tội phạm xảy ra trong phạm vi lĩnh vực mình quản lý và hành vi phạm tội đó cần thiết phải áp dụng các biện pháp không cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, ngăn chặn kịp thời tội phạm đang xảy ra, chứ không được thực hiện trọn vẹn tất cả các hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra. Sau khi thực hiện xong một số hoạt động tố tụng, các cơ quan này phải chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn luật định để tiếp tục giải quyết vụ án. Các cơ quan này được tiến hành một số hoạt động sau: + Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; + Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Riêng đối với các cơ quan nghiệp vụ trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thì chỉ được tiến hành một số hoạt động như: khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Khi tiến hành hoạt động điều tra, các cơ quan này phải thực hiện 12
- đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này. Trong quá trình tiến hành tố tụng còn có các cơ quan, tổ chức tham gia vào việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Các cơ quan này có chức năng thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến việc đưa quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực ra thi hành nhưng cũng không phải là cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm khác biệt giữa cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực ra thi hành ở chỗ: các cơ quan này chỉ thực hiện một số nhiệm vụ đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực ra thi hành, còn việc ra quyết định đưa bản án đã có hiệu lực pháp luật vào thi hành và giám sát các hoạt động liên quan đến việc thi hành quyết định, bản án đó lại do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. - Giải quyết vụ án khách quan, công bằng là mục đích mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải hướng tới trong quá trình tiến hành tố tụng. Khi vụ án xảy ra thì việc xác định sự thật khách quan và giải quyết vụ án kịp thời, đảm bảo công bằng là đòi hỏi tất yếu của trách nhiệm hình sự trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi điều tra, truy tố, xét xử thường có sự không "cân bằng", không bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác do một bên là đại diện cho công quyền với đầy đủ sức mạnh của quyền lực, của pháp luật, một bên là những người bị nghi là phạm tội không có những sức mạnh và điều kiện như vậy. Người tiến hành tố tụng là những người thay mặt nhà nước ở các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm làm rõ bản chất vụ án. Việc vô tư của họ khi tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc giải quyết vụ án một cách khách quan nên luật tố tụng hình sự các quốc gia cũng như trong các thiết chế tư pháp quốc tế đều coi bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng là nền tảng, là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự [8]. 13
- Tính khách quan trong giải quyết vụ án hình sự thể hiện trên những khía cạnh sau: + Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập chứng cứ, khôi phục lại sự thật khách quan vụ án; + Khi tiến hành tố tụng, tất cả mọi quyết định, phán quyết của cơ quan tiến hành tố tụng đều phải dựa trên cơ sở chứng cứ, trên cơ sở sự thật khách quan đã được thu thập. Đồng thời, mọi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng ngoài việc có căn cứ pháp luật còn phải được lý giải tại sao lại áp dụng Quyết định đó đối với những trường hợp cụ thể; + Người tiến hành tố tụng phải vô tư trong quá trình giải quyết vụ án, tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới sự vô tư của những người này đều phải được loại bỏ; + Tòa án có trách nhiệm xác định, đánh giá tính khách quan của vụ án và trên cơ sở đó đưa ra quyết định và bản án phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; + Trách nhiệm chứng minh vụ án thuộc về bên buộc tội (Cơ quan công tố, Viện kiểm sát), những chủ thể khác của tố tụng hình sự có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh. Vấn đề cốt lõi để bảo đảm những khía cạnh nêu trên của tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án là sự vô tư của những người tiến hành tố tụng. Sự vô tư của những người này được hiểu là trong quá trình giải quyết họ phải có thái độ công tâm khi thu thập, đánh giá chứng cứ và kết luận các vấn đề của vụ án, phải dựa vào các qui định của pháp luật làm căn cứ, hướng tới công lý, bình đẳng làm mục tiêu của toàn bộ hoạt động tố tụng, không vì tình riêng mà thiên vị đưa ra các quyết định không phù hợp với thực tế khách quan và trái pháp luật [7]. Ngoài trách nhiệm hướng tới sự khách quan, tố tụng hình sự còn đòi hỏi việc công bằng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tố tụng. 14
- "Quyền được xét xử công bằng" là một quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Giải quyết vụ án công bằng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm những quyền cụ thể sau đối với người bị tình nghi phạm tội: Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thường khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng. Thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi tính chặt chẽ, dân chủ, tranh tụng, minh bạch tôn trọng công lý, bảo vệ quyền con người. Những yêu cầu này, trước hết được thể hiện trong các qui phạm pháp luật tố tụng hình sự thông qua việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật. Đến lượt mình, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật tố tụng hình sự, làm cho các qui định của pháp luật được thể hiện đầy đủ nhất trong thực tiễn giải quyết vụ án. Tất cả mọi tư tưởng tiến bộ được qui định trong pháp luật tố tụng sẽ trở thành vô nghĩa nếu các qui phạm pháp luật không được các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi một cách nghiêm chỉnh. Trên cơ sở những phân tích trên PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí đã đưa khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng như sau: Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa trên cơ sở và trong phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự [9]. 15
- 1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG 1.2.1. Vị trí, chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự - Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước đòi hỏi không chỉ được phân chia rõ ràng mà còn phải dựa trên cơ sở hợp hiến, hợp pháp. Tính tối thượng của pháp luật không phải là phạm trù chung chung mà phải được thể hiện ở từng thiết chế, từng hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chỉ có thể đại diện cho quyền lực nhà nước để giải quyết vụ án khi được thành lập theo một đạo luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là những cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng tư pháp của nhà nước, trên cơ sở đó mỗi cơ quan lại có chức năng của riêng mình trong hoạt động tố tụng hình sự. Theo quan niệm chung được thừa nhận tương đối rộng rãi thì tố tụng hình sự có ba chức năng: chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội; chức năng xét xử. Trong đó chức năng xét xử, chức năng buộc tội (trong trường hợp công tố) hoàn toàn thuộc thẩm quyền của các các cơ quan tiến hành tố tụng, chức năng gỡ tội là quyền của người bị buộc tội và người bào chữa. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể tố tụng hình sự theo các chức năng cơ bản nêu trên sẽ giúp cho hoạt động tố tụng hình sự có tính chuyên nghiệp cao, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện chức năng tố tụng được giao, là điều kiện quan trọng để bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của tố tụng hình sự. Ngoài ra, ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự được phân định rõ ràng còn là điều kiện quan trọng cho việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nó cũng góp phần làm minh bạch, dân chủ trong tố tụng hình sự, góp phần tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Những chức năng của tố tụng hình sự do nhiều chủ thể thực hiện, đó là những cơ quan, người đại diện cho công quyền; Người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án; Các cơ quan, cá nhân khác liên 16
- quan hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án. Trong số này thì các cơ quan tiến hành tố tụng là chủ thể chính giải quyết phần lớn các chức năng của tố tụng hình sự. Cụ thể là: Tòa án Khi tội phạm xảy ra những xung đột về lợi ích cần phải giải quyết bởi một cơ quan đại diện cho công quyền, đại diện công lý là Tòa án. Vì vậy, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án không những là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước mà còn nhân danh công lý xem xét, đánh giá xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để ra bản án, quyết định trong đó ấn định trách nhiệm hình sự cho người đã thực hiện hiện tội phạm xâm phạm đến những lợi ích được Nhà nước bảo vệ. Hoạt động xét xử của Tòa án, mặc dù được tiến hành trên cơ sở những kết quả đã được ghi nhận trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố - là những giai đoạn tố tụng được tiến hành tiền xét xử nhưng lại mang tính chất chính thức về mặt pháp lý đối với sự việc phạm tội và trách nhiệm của người thực hiện tội phạm. Cơ quan công tố Công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật trước Tòa án. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và gắn liền với một cơ quan nhất định. Quyền công tố luôn luôn là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước gắn liền với bản chất nhà nước và vì vậy, nó cũng gắn liền với cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền công tố được tách ra khỏi quyền lập pháp, hành pháp và do một cơ quan thực hiện - Cơ quan công tố hoặc Viện kiểm sát. Quyền công tố trong lĩnh vực tố tụng hình sự chính là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thực hiện sự buộc tội đối với người đó trước Tòa án. Vì vậy, quyền công tố 17
- được bắt đầu kể từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra trên thực tế và chấm dứt khi Tòa án ra một bản án (kết tội hoặc tuyên vô tội đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đó) có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Quyền công tố có thể hiểu là việc Cơ quan công tố thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp lý được nhà nước trao để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó. Khi Nhà nước Xô viết ra đời, theo sáng kiến của V.I.Lênin, Viện công tố được chuyển thành Viện kiểm sát và ngoài chức năng công tố, nó còn đảm nhiệm một nhiệm vụ rất quan trọng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong phạm vi cả nước. Sau khi xuất hiện lần đầu tiên ở nước Nga, mô hình Viện kiểm sát - cơ quan thực hiện quyền công tố - đã được các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, vai trò của Viện kiểm sát ngày càng được đề cao trong việc tổ chức bộ máy nhà nước. Viện kiểm sát là cơ quan trực thuộc Quốc hội - Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương. Cơ quan điều tra Trong các mô hình tố tụng hình sự, một phần chức năng công tố được thực hiện bởi Cơ quan điều tra. Cơ quan này là một trong những chủ thể tố tụng hình sự, nhân danh Nhà nước (công quyền) thực hiện các hoạt động điều tra xác định sự thật khách quan của vụ án và những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như những nội dung khác có liên quan. Đồng thời, cơ quan điều tra còn có trách nhiệm chứng minh, xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội và đưa ra ra biện pháp khắc phục, phòng ngừa tội phạm. Tùy theo đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước, mỗi quốc gia có cách thức tổ chức hoạt động điều tra và phân công thẩm quyền điều tra cho 18
- những cơ quan khác nhau. Về cơ bản có những cách thức sau: Cơ quan công tố trực tiếp tiến hành điều tra trên cơ sở phối hợp, trợ giúp của cơ quan cảnh sát hoặc những cơ quan khác như: Cơ quan An ninh, Quân đội, Hải quan... Trong trường hợp này chức năng điều tra là một trong những nội dung của quyền công tố và do cơ quan công tố đảm nhiệm; Cơ quan công tố không trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nhưng chỉ đạo mọi hoạt động điều tra của cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra được tiến hành bởi những cơ quan khác nhưng cơ quan công tố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả điều tra cũng như có toàn quyền đối quá trình điều tra; Thành lập cơ quan điều tra riêng đảm nhiệm chức năng điều tra trong tố tụng hình sự dưới sự kiểm sát của cơ quan công tố (Viện kiểm sát). Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra không những phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các hoạt động của mình trong quá trình điều tra mà còn phải đưa ra bản kết luận điều tra và các quyết định phù đối với từng vụ án trong đó có quyết định đề nghị cơ quan công tố truy tố tội phạm và người thực hiện tội phạm ra trước Tòa án. - Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đảm nhiệm những chức năng khác nhau hướng tới việc thực hiện chức năng chung của tố tụng hình sự. Trong tố tụng tranh tụng, với việc hình thành lợi ích của chủ thể và vai trò độc lập của các chủ thể đã hình thành rõ rệt hai bên tố tụng và cả hai bên đều hoàn toàn bình đẳng, tự do, tự chịu trách nhiệm cho riêng mình về việc sử dụng mọi khả năng và phương tiện tố tụng mà pháp luật đã đặt ra để bảo vệ quan điểm, quyền và lợi ích của mình. Sự hiện hữu của hai yếu tố chủ đạo: Yếu tố hai bên tố tụng và yếu tố phân chia chức năng tranh tụng là điểm đặc trưng cơ bản của tố tụng tranh tụng. Căn cứ của việc hình thành và tồn tại hai bên trong tranh tụng là sự tồn tại của các lợi ích tố tụng độc lập. Từ đó, việc theo đuổi tố tụng để bảo vệ lợi ích của mình đã làm nên tính tranh tụng của tố tụng, tức là quan hệ tranh tụng giữa các bên có lợi ích khác nhau. Cũng vì lý 19
- do đó, mà trong tố tụng tranh tụng, các hoạt động tố tụng không được coi là nhiệm vụ duy nhất của một phía trong việc phát hiện tội phạm, xử lý người phạm tội, để qua đó đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa tội phạm và giáo dục người phạm tội. Tố tụng tranh tụng được coi là địa hạt hành động của cả hai phía: Phía nhà nước mà đại diện là các cơ quan có chức năng buộc tội; phía bị can, bị cáo cùng với người bào chữa hoặc Tòa án người bào chữa đại diện. - Bên công tố: Khái niệm quyền công tố bao hàm trong đó quyền phát hiện những hành vi vi phạm những điều cấm của nhà nước và việc nhân danh nhà nước truy tố hành vi vi phạm và người vi phạm đó ra trước Tòa án. Các hoạt động điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án là những hình thức để thực hiện quyền công tố. Nếu xét về thẩm quyền thì đó là những hoạt động của các cơ quan hành pháp và do vậy, đó là chức năng của hành pháp trong quá trình thực hiện vai trò duy án trì và bảo vệ trật tự pháp luật. Nếu xét theo mục đích cần đạt được thì những hoạt động này nằm trong chuỗi các hoạt động tư pháp vì đích cần hướng tới ở đây là xét xử tội phạm đã xảy ra; Điều tra, truy tố là để xét xử. Trong trường hợp mục đích xét xử không còn thì sẽ không còn chức năng công tố. Chức năng công tố là một hệ thống hoạt động do những cơ quan khác nhau thực hiện, trong đó Viện kiểm sát chịu trách nhiệm chủ đạo. Vì thế pháp luật của các quốc gia đều giao cho Viện kiểm sát hoặc các thiết chế tương tự vai trò chỉ huy điều tra, chí ít là phối hợp điều tra và phê chuẩn kết luận điều tra, quyết định truy tố hay không truy tố. Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất giữ quyền công tố, là một bên trong tố tụng tranh tụng với việc một mình chịu trách nhiệm chứng minh lời buộc tội; chịu trách nhiệm về dung lượng và chất lượng buộc tội, truy tố hay rút truy tố (toàn bộ hay từng phần). Hơn thế nữa, Viện kiểm sát còn có nhiệm vụ đưa ra các lập luận trong việc bác bỏ (một phần hay toàn bộ) nội dung bào chữa của bên bị buộc tội. Vì vậy, 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 348 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn