intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

18
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc thực hiện chúng trong thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Thông qua sự tìm hiểu đó, tác giả luận văn đưa ra những nhận xét và đánh giá theo quan điểm cá nhân về sự phù hợp hay không phù hợp của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH Ng-êi tiÕn hµnh tè tông Thuéc ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n theo LuËt tè tông h×nh sù ViÖt Nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH Ng-êi tiÕn hµnh tè tông Thuéc ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n theo LuËt tè tông h×nh sù ViÖt Nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MẠNH HÙNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính chính xác, trung thực, tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hạnh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................................................................... 8 1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................................ 8 1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự.......................................... 8 1.1.2. Các loại người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện KSND ............. 13 1.2. Nguyên tắc hoạt động của những người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam......... 20 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát từ khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân đến trước Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ........................................................................................... 28 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 1988 ................................. 28 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 ................................. 30 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2010-2014 ............................................................ 35
  5. 2.1. Các quy định về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ......................... 35 2.1.1. Các quy định của BLTTHS năm 2003 về Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân .......................................................... 36 2.1.2. Các quy định của BLTTHS năm 2003 về Kiểm sát viên ................... 53 2.2. Thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2010-2014 ........................................................................................... 70 2.3. Những khó khăn, vướng mắc về hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội ................................................................................................ 84 2.3.1. Những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...... 84 2.3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong điều tra vụ án hình sự. ........................ 87 2.3.3. Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ...... 90 2.3.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên ........... 91 Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ................................................................. 93 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân ............................................ 93 3.1.1. Hoàn thiện các quy định về chức năng, thẩm quyền của Viện kiểm sát............................................................................................... 93 3.1.2. Hoàn thiện các quy định về quan hệ tố tụng giữa VKS với CQĐT và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra ............................................................................. 97
  6. 3.1.3. Hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên ............................................ 99 3.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân .................................................................................... 102 3.2.1. Nâng cao chất lượng, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ kiểm sát .. 102 3.2.2. Xác định vị trí việc làm; xây dựng và thực hiện tốt đề án cơ cấu công chức góp phần đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức; đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo Điều hành trong ngành Kiểm sát ................................................................................. 103 3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát ...... 106 3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ kiểm sát ............................................. 108 KẾT LUẬN .................................................................................................. 111 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 114
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên HĐXX: Hội đồng xét xử KSV: Kiểm sát viên KSND: Kiểm sát nhân dân TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, trong giai đoạn khởi tố của Viện KSND TP Hà Nội trong 05 năm (2010 - 2014) 72 Bảng 2.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn Điều tra của Viện KSND hai cấp TP Hà Nội trong 05 năm (2010 - 2014) 75 Bảng 2.3: Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn truy tố của Viện KSND hai cấp TP Hà Nội trong 05 năm (2010 - 2014) 77 Bảng 2.4: Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của Viện KSND hai cấp TP Hà Nội trong 05 năm (2010 - 2014) 80 Bảng 2.5: Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự trong xét xử phúc thẩm của Viện KSND TP Hà Nội trong 05 năm (2010 - 2014) 81
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khác nhau với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Nếu như Cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan đại diện cho Nhà nước tiến hành các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì người tiến hành tố tụng trong các cơ quan đó có trách nhiệm thực thi các quyền hạn, trách nhiệm để thực hiện chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự cũng như trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tôi, không làm oan người vô tội góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị, đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp… Nâng cao chất 1
  10. lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam giữ, bảo đảm đúng pháp luật; Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình [11]. Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên, trong thời gian qua ngành Kiểm sát đã không ngừng nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là việc giải quyết các vụ án hình sự, đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định, như: việc Tòa án, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại nhiều lần; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn xảy ra oan sai, vẫn còn một số trường hợp đã khởi tố bị can sau phải đình chỉ do không phạm tội... không những gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị oan sai mà còn làm mất uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời làm giảm lòng tin của nhân dân đối với công lý và pháp luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức, trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân; từ các quy định của pháp luật có liên quan đến địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân. 2
  11. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó đưa ra kiến giải lập pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của những người này trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng. Đây là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài "Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm qua việc nghiên cứu về người tiến hành tố tụng nói chung và người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và cán bộ thực tiễn, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng như: Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có các đề tài của các tái giả Trần Mạnh Đông, Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến tình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Hà Nội, 2009; Nguyễn Trọng Hải, Người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2008;... Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có đề tài của tác giả Đào Hữu Dân, Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự, Hà Nội, 2006; Nguyễn Duy Giảng, Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, Hà Nội, 2014. Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: GS. TSKH. Lê Cảm - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại 3
  12. học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007; TS. Dương Thanh Biểu, Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2007; PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2014; TS. Lê Hữu Thể, Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008;.... Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến người tiến hành tố tụng như: GS. TSKH. Lê Cảm, các mô hình lý luận về tổ chức hệ thống Viện công tố trong chiến lược cải cách tư pháp, kiểm sát, 2007; Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, kiểm sát, 2004; PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Nguyên tắc tranh tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số kiến nghị, Tạp chí Khoa học - ĐHQGHN, Kinh tế-Luật, Số 4/ 2003; Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay”, kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội, 2003;.... Như vậy, có thể nói cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về VKSND, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhưng mỗi công trình đó mới chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực hoặc trên phạm vi nghiên cứu chung về người tiến hành tố tụng ở tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra, mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhất là khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về người tiến hành tố tụng nhưng chỉ giới 4
  13. hạn ở người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Với những số liệu và thông qua thực tiễn của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài - Mục đích nghiên cứu: Khi lựa chọn đề tài cho luận văn của mình, tác giả luận văn có mục đích tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc thực hiện chúng trong thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Thông qua sự tìm hiểu đó, tác giả luận văn đưa ra những nhận xét và đánh giá theo quan điểm cá nhân về sự phù hợp hay không phù hợp của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó, luận văn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân. - Đối tượng nghiên cứu: Tác giả luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật có liên quan đến người tiến hành tố tụng hình sự; các loại người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề xung quanh việc quy định về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân nhưng chỉ giới hạn ở người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự mà 5
  14. không nghiên cứu về người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo hoạt động tố tụng hình sự theo BLTTHS năm 2003, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định trong thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội, từ đó xác định những điểm hạn chế, vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn, để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân, cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân khi giải quyết các vụ án hình sự. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của thành phố Hà Nội trong 05 năm (2010-2014). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn, tác giả đã dựa trên các quan điểm của Đảng, của Nhà nước về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp… khi nghiên cứu đề tài. 5. Đóng góp của luận văn Với việc nghiên cứu đề tài này, luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng hình sự, các loại người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó đánh giá các quy định về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân; Làm rõ thực trạng hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật về 6
  15. chức năng, thẩm quyền của Viện kiểm sát, về nhiệm vụ quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liêu tham khảo, nội dung của luận văn được thể hiện trong ba chương với nôi dung như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2010-2014. Chương 3: Hoàn thiện các quy định của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân. 7
  16. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự Việc nghiên cứu về người tiến hành tố tụng trong Luật TTHS có thể xem xét dưới nhiều phương diện khác nhau, tuy nhiên tiếp cận theo chức năng tố tụng có lẽ sẽ hợp lý vì mỗi chức năng tố tụng sẽ do một hoặc một số chủ thể tố tụng đảm nhiệm và chức năng của mỗi chủ thể sẽ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể đó. Trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa các chức năng của TTHS đã hình thành niên các mô hình tố tụng khác nhau. Về chức năng của TTHS hiện vẫn còn những quan điểm khác nhau. Theo PGS. TS Nguyễn Thái Phúc thì: Chức năng tố tụng là nghĩa vụ tố tụng chủ yếu của các chủ thể mà thông qua đó thể hiện bản chất tố tụng và quyết định vai trò của các chủ thể đó trong hoạt động tố tụng. Mỗi chủ thể chỉ thực hiện một chức năng vốn có của mình [47, 44]. Theo GSTS Võ Khánh Vinh thì: Chức năng TTHS được hiểu là những phương hướng hoạt động được tiến hành trong phạm vi, giới hạn của việc giải quyết vụ án hình sự. Đó là chức năng điều tra, truy tố, bào chữa, xét xử. Ở dạng chung nhất, chức năng thứ nhất thuộc CQĐT; chức năng thứ hai thuộc VKS; chức năng thứ ba thuộc bị can, bị cáo; chức năng thứ tư thuộc Tòa án [49, 17]. 8
  17. Tác giả Nguyễn Tiến Châu cho rằng: Chức năng TTHS là những định hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi nhất định trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên tố tụng [48, 13]. Như vậy, có thể hiểu Chức năng TTHS là những định hướng cơ bản phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể khác nhau, có những mục đích khác nhau, có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. TTHS là một lĩnh vực hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, để duy trì trật tự pháp luật chung, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của người dân cũng như của nhà nước. Mục tiêu chung của TTHS là giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan, công bằng. Để đạt tới mục tiêu chung đó, TTHS được phân chia theo các phương diện hoạt động cơ bản, chủ yếu mang tính hệ thống, thống nhất nhằm thực hiện các chức năng chung của TTHS. Mỗi chức năng cơ bản của TTHS được giao cho một hoặc một số chủ thể thực hiện. Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về các chức năng cụ thể của TTHS (Chẳng hạn hoạt động điều tra của CQĐT, hoạt động kiểm sát việc điều tra vụ án của VKS có được coi là những chức năng của TTHS hay không), nhưng đã có sự thống nhất chung là TTHS có ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử [48,19]. Mỗi chức năng đảm nhận một phương diện hoạt động cơ bản của TTHS, có vị trí, vai trò khác nhau, có chủ thể thực hiện khác nhau và có sự độc lập với nhau. Tuy vậy, giữa các chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai chức năng còn lại. Có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa (gỡ tội) thì hoạt động tố tụng là hoạt động áp đặt quyền lực, ý chí và rất dễ dẫn đến oan sai. Chức năng bào chữa chỉ xuất 9
  18. hiện, tồn tại khi có sự tồn tại, hoạt động của chức năng buộc tội. Chức năng xét xử sẽ không còn khi không có chức năng buộc tội và sẽ không thể thực hiện được tốt khi chỉ có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa cùng hoạt động. Để hoạt động TTHS được vận hành hiệu quả, giải quyết các vụ án hình sự kịp thời, đúng pháp luật, không xảy ra oan sai thì các chức năng của TTHS đều phải được coi trọng, không nên quá nhấn mạnh chức năng này mà xem nhẹ chức năng khác. Hiện nay, có nhiều quan điểm, xu hướng trái ngược nhau về vấn đề này. Xu hướng thứ nhất quá đề cao vai trò và vị trí của chức năng buộc tội, quan tâm đến nhiệm vụ ”kiểm soát tội phạm” của TTHS, chưa nhận thức đầy đủ vai trò của chức năng bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xu hướng ngược lại là quá đề cao vai trò và vị trí của chức năng bào chữa, xem việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân có ý nghĩa tuyệt đối, trong khi các lợi ích xã hội chưa được quan tâm đúng mức, việc xử lý vụ án chỉ chú trọng đến việc “không làm oan người vô tội”. Đặc điểm của quan hệ pháp luật TTHS là tính phức tạp, đa chiều về lợi ích của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Các chủ thể thuộc nhóm buộc tội thường có xu hướng cố gắng tìm mọi cách thức chứng minh người bị tình nghi, bị can, bị cáo đã phạm tội, phạm tội nặng hơn, phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng và phải chịu hình phạt; những thiệt hại của người bị hại phải được khôi phục, đền bù thỏa đáng. Ngược lại, nhóm chủ thể bị buộc tội thường có xu hướng tìm cách gỡ tội như chứng minh mình không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ..... Các chủ thể khác có tính chất bổ trợ như người giám định, người làm chứng, người chứng kiến, người phiên dịch có xu hướng chung là hành động vô tư, khách quan; tuy nhiên sự vô tư, khách quan này bị phụ thuộc vào kiến thức, trình độ chuyên môn, trách nhiệm của từng cá nhân. Kết quả hoạt động của nhóm này có thể được cả bên buộc tội và bên gỡ tội sử dụng làm chứng cứ. Chủ thể xét xử (tòa án) là đại diện cho công lý, trên cơ sở 10
  19. đã xem xét đầy đủ chứng cứ, lý lẽ của bên buộc tội, bên bị buộc tội để ra phán quyết công bằng, tuy nhiên, việc ra được phán quyết (bản án) công bằng không phải lúc nào cũng dễ dàng vì bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Toàn bộ hoạt động của các nhóm chủ thể nói trên có tạo ra “công lý” cho người dân hay không phụ thuộc vào sự đúng đắn, hợp lý trong các quy định của pháp luật hình sự và TTHS; năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, pháp luật TTHS phải tạo ra được cơ chế để ”Kiểm soát” việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, qua đó hạn chế oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm trong hoạt động TTHS. Như vậy, có thể khái quát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có các nhóm chủ thể như sau: chủ thể thuộc phía buộc tội (điều tra, truy tố/buộc tội) bao gồm người bị hại hoặc đại diện của họ, CQĐT, cơ quan công tố/VKS; chủ thể thuộc phía bị buộc tội (người bị tình nghi, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp, người bào chữa của họ); chủ thể có quyền xét xử là tòa án (phán quyết người bị cáo buộc có phạm tội hay không, phạm tội gì và mức độ hình phạt phải chịu) và một số chủ thể khác có liên quan như người làm chứng, người chứng kiến, người giám định, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong TTHS Việt Nam hiện hành về cơ bản không hình thành “các bên” tố tụng như bên buộc tội, bên gỡ tội và tòa án là trọng tài xét xử mà chủ thể tố tụng được phân định thành các chủ thể tiến hành tố tụng (gồm CQĐT, VKS, Tòa án cùng các chức danh tư pháp trong các cơ quan này là ĐTV, thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT; KSV, viện trưởng, phó viện trưởng VKS; Thẩm phán, chánh cán, phó chánh án, hội thẩm, thư ký TAND) và người tham gia tố tụng (bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch). 11
  20. Theo quy định của BLTTHS thì người tiến hành tố tụng bao gồm: ĐTV, Thủ trưởng, Thó Thủ trưởng CQĐT; KSV, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án, Hội thẩm, Thư ký TAND và người tham gia tố tụng bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Ngoài ra, trong từng trường hợp cụ thể còn có những người như: người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ; của bị can, của bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, của bị đơn dân sự, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Việc xác định đúng tư cách tham gia tố tụng là rất quan trọng, vì nó liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp do xác định không đúng tư cách tố tụng nên dẫn đến việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều là các chủ thể của tố tụng hình sự, quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được quy định trong luật. Người tiến hành tố tụng là những chủ thể đại diện cho công quyền, trực tiếp thực hiện các chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn người tham gia tố tụng là những người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án hoặc có nghĩa vụ tham gia để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án thông qua việc cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu, lập luận về tội phạm và người phạm tội [9, tr.185]. Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người bị tình nghi phạm tội; thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự tham gia tố tụng để đòi hỏi khôi phục lại những thiệt hại của họ do hành vi phạm tội gây ra, thì giữa hai nhóm người này luôn có sự mâu thuẫn về lợi ích cần được giải quyết trong 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0