intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

Chia sẻ: Cẩn Ngôn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề còn bất cập, vướng mắc về pháp luật hiện hành của bảo hiểm tiền gửi đang tác động trực tiếp, gián tiếp đến quyền lợi của người gửi tiền tại các TCTD. Tìm hiểu những khó khăn, trăn trở của người gửi tiền để làm rỏ hơn các hạn chế của hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi hiện nay;.... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

  1. LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình những người tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành việc học cũng như thực hiện tốt luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Lê Vũ Nam – Người thầy đã tận tình hướng dẫn, dành thời gian quý báo của mình để chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu luận văn. Những kiến thức bổ ích đó đã chỉ dạy, giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm không chỉ trong suốt thời gian làm luận văn mà còn vận dụng vào cuộc sống và công việc. Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian qua, đó chính là cơ sở, nền tảng giúp tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, những người đã ủng hộ, khích lệ tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Chân thành cảm ơn tất cả! Ngày 15 tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Huỳnh Hồng Duy
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên: Huỳnh Hồng Duy, mã số học viên 7701250405A là học viên lớp LOP_K25_MBL_CaMau; khóa K25-2 chuyên ngành Luật Kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác gia luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng”. Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đề được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn hoàn toàn có tính khách quan và trung thực. TÁC GIẢ Huỳnh Hồng Duy
  3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nguyên văn 01 BHTG Bảo hiểm tiền gửi 02 TCTD Tổ chức tín dụng 03 NHTM Ngân hàng thương mại 04 QTDND Quỹ tín dụng nhân dân 05 BHTGVN Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 06 NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................ 2 3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................... 3 3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 3 3.2. Giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu ......................................... 3 4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu..................................................................... 4 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ....................................................... 4 6. Kết cấu của luận văn ................................................................................................... 4 CHƯƠNG 1 .......................................................................................................................... 5 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ ................................................................ 5 PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI ............................................................................... 5 1.1. Lý luận chung về bảo hiểm tiền gửi ........................................................................ 5 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi ................................................... 5 1.1.2. Phân loại bảo hiểm tiền gửi ............................................................................. 12 1.1.3. Vai trò của BHTG ............................................................................................. 14 1.1.4. Sự cần thiết phải bảo hiểm tiền gửi ................................................................. 18 1.1.5. Các mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi: ................................. 19 1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm tiền gửi: ........................................................... 22 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi: ...................................................... 22 1.2.2. Quan hệ pháp luật về bảo hiểm tiền gửi:......................................................... 23 1.2.3. Pháp luật bảo hiểm tiền gửi là công cụ quan trọng bảo vệ người gửi tiền. ... 25 1.3. Tổng quan về người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ......................................... 26 1.3.1. Khái niệm người gửi tiền.................................................................................. 26 1.3.2. Phân loại người gửi tiền ................................................................................... 26 1.3.3. Các quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD ................................... 27 1.3.4. Sự cần thiết bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền ................................. 29
  5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 31 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ............................................................................................ 32 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ..................................................................................................... 32 2.1.1. Quy định về chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi .............................. 33 2.1.2. Các quy định về loại tiền gửi, phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi. .............................................................................................................. 43 2.1.3. Hoạt động đầu tư của Bảo hiểm tiền gửi......................................................... 49 2.1.4. Quy định về thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền và thủ tục chi trả bảo hiểm. ............................................................... 50 2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. .................................................................................................... 55 2.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định pháp luật BHTG trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ........................................................................... 55 2.2.2. Các nguyên tắc và định hướng cơ bản hoàn thiện các quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền................................... 60 2.2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. .......................................................................... 61 2.2.4. Các giải pháp hỗ trợ cho việc hoàn thiện pháp luật về BHTG ....................... 71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................. 74 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa thì nhu cầu huy động các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng ngày càng tăng lên theo xu thế phát triển của xã hội. Kèm theo sự tăng lên về nhu cầu đó là những rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ này cũng tăng lên do quá trình cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. Trong khi các tổ chức tín dụng thường là một bộ máy to lớn với nhiều khâu quản lý, điều hành chuyên nghiệp thì người gửi tiền ở đây đơn thuần chỉ là những tổ chức, cá nhân với những khoản tiền gửi nhằm mục đích chủ yếu là gửi tiết kiệm, đầu tư sinh lời. Đặc biệt, đối với người gửi tiền là các cá nhân thì đó là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu của họ gửi gắm niềm tin vào ngân hàng vì muốn sự an toàn cho số tiền gửi của họ thì việc bảo vệ quyền, lợi ích của những con người này là việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa. Họ cần một cơ chế để bảo vệ cho họ khi mà nơi họ đã tin tưởng, đặt niềm tin khi tham gia gửi tiền gặp sự cố trong kinh doanh, không còn khả năng thanh toán cho số tiền họ đã bỏ ra. Hiện nay, để tồn tại và phát triển, các Tổ chức tín dụng (TCTD) phải nổ lực cạnh tranh bằng nhiều hình thức khác nhau để có thể kêu gọi các nguồn vốn từ bên ngoài có hiệu quả nhất, từ đó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền càng có nhiều sự lựa chọn, hưởng được nhiều chính sách ưu đãi hơn từ các TCTD. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang ra sức tham gia hội nhập với nền kinh tế thế giới, bên cạnh những thuận lợi, những ưu đãi mà Việt Nam được hưởng trong quá trình này thì những khó khăn, thách thức và sức ép to lớn từ hội nhập, việc các TCTD nước ngoài với nguồn, tiềm năng vốn dồi dào được tự do cạnh tranh với các TCTD trong nước là thử thách khó khăn, to lớn đối với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng chưa có chiến lược cạnh tranh phù hợp, rỏ ràng của Việt Nam. Hậu quả là sự tồn tại và phát triển của các TCTD có năng lực cạnh tranh thấp, quy mô vốn, năng lực quản lý chưa đủ sức phòng ngừa, xử lý những rủi ro đối với những hệ lụy xảy ra trong quá trình cạnh tranh,… có nguy có rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán,
  7. 2 gây thiệt hại cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người gửi tiền là điều không tránh khỏi. Một trong những công cụ để phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động của các TCTD đang được áp dụng phổ biến hiện nay đó là Bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Có vai trò hết sức quan trọng với sự tồn tại, phát triển của hệ thống các TCTD và nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Tác giả nhận thấy việc nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện pháp luật bảo hiểm tiền gửi trên phương diện pháp lý, có sự đối chiếu với thực tiễn để làm rỏ những ưu điểm và những hạn chế, tồn tại của pháp luật Việt Nam hiện hành về Bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi từ góc độ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng” để làm luận văn tốt nghiệp cao học ngành luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xét về góc độ đảm bảo an toàn cho tiền gửi đã có nhiều tác giả, bài viết nghiên cứu lựa chọn làm đề tài khoa học, luận văn tốt nghiệp như “Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh, bảo vệ tại Học viện Quốc gia vào năm 2004; “Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, bảo vệ tại Học viện chính sách và phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào năm 2014,… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu ở góc độ các vấn đề kinh tế, không tập trung trọng tâm vào các quy định của pháp luật, các vấn đề pháp lý đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó cũng có một số công trình nghiên cứu ở góc độ pháp luật về bảo hiểm tiền gửi như “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam” luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Thu Hằng, bảo vệ tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội
  8. 3 vào năm 2013; “Bảo hiểm tiền gửi – quy định của pháp luật và áp dụng thực tiễn” – Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh, bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2009;… các nghiên cứu trên cũng chỉ tập trung giải quyết các vấn đề pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, chưa nghiên cứu sâu đến các quyền lợi, lợi ích khác về pháp luật liên quan đến người gửi tiền. Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu để hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Việt Nam đang ra sức hội nhập với nền kinh tế chung của thế giới thì đây là việc làm hết sức cần thiết. 3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề còn bất cập, vướng mắc về pháp luật hiện hành của bảo hiểm tiền gửi đang tác động trực tiếp, gián tiếp đến quyền lợi của người gửi tiền tại các TCTD. Tìm hiểu những khó khăn, trăn trở của người gửi tiền để làm rỏ hơn các hạn chế của hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi hiện nay; đồng thời đề xuất một số giải pháp của bản thân nhằm tiếp tục phát huy những ưu điểm và giải pháp khắc phục các hạn chế, khuyết điểm để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, tạo niềm tin cho người gửi tiền khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, giúp họ yên tâm sản xuất, lao động và kinh doanh,… góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 3.2. Giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu thực tiễn việc áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD. Các chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi, loại tiền được bảo hiểm, phí bảo hiểm tiền gửi, hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, thời điểm chi trả bảo hiểm và thủ tục chi trả bảo hiểm tiền gửi khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh. Từ đó lý giải những nội dung mang tính thực tiễn về thực trạng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế của những quy
  9. 4 định về những vấn đề trên, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. 4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng biện pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải quyết các vấn đề khoa học và thực tiễn một cách toàn diện nhất. Ngoài ra, luận văn sẽ phân tích các vấn đề và tìm ra phương hướng giải quyết trên nguyên tắc tổng hợp, thống kê các thông tin thu thập, so sánh nhiều thông tin khác nhau nhằm đảm bảo tính chính xác, thực tế của các vấn đề và cách giải quyết trong khuôn khổ luận văn này. 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên cơ sở khoa học và thực tiễn, các vấn đề và cách giải quyết của tác giả hi vọng góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD, tạo thêm niềm tin của người gửi tiền đối với các TCTD. Sau khi nghiên cứu hoàn thành, luận văn cũng có thể là tài liệu để các cá nhân, tổ chức có nhu cầu nghiên cứu đến lĩnh vực này tìm đến, phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu giảng dạy, học tập,… Đặc biệt, đây là hành trang quan trọng đối với tác giả trong việc nghiên cứu cao hơn về lĩnh vực này trong thời gian tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 02 chương, bao gồm: CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI GỬI TIỀN
  10. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1.1. Lý luận chung về bảo hiểm tiền gửi 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi 1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi Nói đến lịch sử hình thành các khái niệm cơ bản về bảo hiểm tiền gửi thì Mỹ là một trong những quốc gia tiên phong trên thế giới trong hình thành các hình thức về bảo vệ tiền gửi, “Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới hình thành hệ thống BHTG. Tổng Công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC) thành lập ngày 16/6/1993. Tính đến nay, số TCTD hiện tại đang hoạt động và đang được bảo lãnh bởi FDIC lên tới 6656”1. Nguồn gốc ra đời của BHTG là xuất phát từ hoạt động “bảo vệ tiền gửi công khai”. Bảo vệ tiền gửi công khai là chính sách đảm bảo tất cả hoạt một phần tiền gửi cùng với tiền lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi tiền theo cơ chế hợp đồng hoặc cam kết công khai2. Bảo vệ tiền gửi công khai xuất hiện đầu tiên ở New York vào năm 1892 với tên gọi “Chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng”3. Còn theo quy chế bảo hiểm của Công ty BHTG Canada, quy định: Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ những khoản tiền gửi quy định tại các tổ chức thành viên của hệ thống bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức thành viên bị phá sản. Nếu một tổ chức thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi thường cho thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi thường cho những người gửi tiền tại tổ chức đó. 1 Nguyễn Thị Thu Trang, “Hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG), kinh nghiệm một số nước trên thế giới”, http://dainam.edu.vn/hoat-dong-bao-hiem-tien-gui-bhtg-kinh-nghiem-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.htm. Truy cập này 20/3/2017 2 Nguyễn Thị Kim Oanh(2009), “Nghiên cứu bảo hiểm tiền gửi trên thế giới”, Bản tin Đại học quốc gia Hà Nội, (số 220), tr.21. 3 Nguyễn Thị Kim Oanh (2009), tlđd số 220, tr.30.
  11. 6 Nhìn chung, BHTG là một loại dịch vụ bảo hiểm, theo đó nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG được bảo đảm khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Khi tham gia tổ chức BHTG, các tổ chức huy động tiền gửi phải đóng góp một khoản chi phí nhất định theo một định kỳ nhất định, khoản chi phí này là một trong những nền tảng cơ bản duy trì hoạt động của tổ chức BHTG. Trường hợp các tổ chức huy động tiền gửi bị phá sản, bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, tổ chức BHTG sẽ đứng ra thanh toán một số tiền phù hợp với hạn mức chi trả tối đa theo quy định của pháp luật cho người gửi tiền tại các tổ chức huy động tiền gửi đó. Ở Việt Nam, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 9 năm 1999 về BHTG và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 đã không đưa ra khái niệm về BHTG. Mãi đến khi Luật BHTG được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 (Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012) Việt Nam chính thức có khái niệm đầu tiên về BHTG: “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”4. Khái niệm này đã xác định rỏ thời điểm tổ chức BHTGVN có nghĩa vụ chi trả trong hạn mức cho người gửi tiền là khi tổ chức tham gia BHTG lâm và tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản. 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi: BHTG là một loại hình bảo hiểm đặc biệt chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những đặc tính, bản chất chung của hình thức bảo hiểm là một phương thức chia sẻ hoặc giảm thiểu rủi ro bằng cách biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính, ngăn ngừa, hạn chế rủi ro thì BHTG còn có những nét khác biệt, mang tính chất đặc thù, được thể hiện như sau: 4 Khoản 1 Điều 4 Luật BHTG năm 2012.
  12. 7 Thứ nhất, BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại: Thông thường tổ chức đứng ra thực hiện nhiệm vụ BHTG là các định chế do nhà nước thành lập và cấp vốn hoạt động. Các tổ chức này thường hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài những mục tiêu chính đó, hoạt động BHTG còn tạo ra một môi trường cạnh tranh để các ngân hàng nhỏ, mới thành lập có thể cạnh tranh được với các ngân hàng có quy mô lớn, lâu đời; tăng cường tiết kiệm và khuyến khích tăng trưởng kinh tế; xác định mức độ can thiệp của Chính phủ đối với các thiệt hại xảy ra khi một các tổ chức tín dụng bị mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Hoạt động này không nhằm mục tiêu sinh lời mà thực hiện những mục tiêu xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng. Điều này giúp phân biệt BHTG với các loại hình bảo hiểm khác hoạt động theo luật kinh doanh bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… Hiện nay, có hơn 33 quốc gia tổ chức BHTG theo hình thức này5. Tuy nhiên, ở ở một số nước, BHTG là hoạt động bảo hiểm mang tính thương mại, thực hiện theo nguyên tắc hạch toán. Điển hình là BHTG tại Đức, quỹ BHTG do hiệp hội ngân hàng thương mại (NHTM) Đức tổ chức6. Quỹ bảo hiểm tiền gửi được thành lập với mục đích tương trợ các ngân hàng hội viên để đảm bảo an toàn cho hệ thống. Các ngân hàng thành viên của hiệp hội có nghĩa vụ đóng góp phí bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm. Tổ chức thực hiện BHTG có quyền tiến hành đầu tư tìm kiếm lợi nhuận dựa trên vốn nhàn rỗi đó. Thứ hai, BHTG là loại hình dịch vụ thuộc hàng hóa công không thuần túy7, BHTG hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các TCTD, mang tính chất bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động BHTG là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội. 5 Bùi Thị Kim Ngân (2010), Kinh nghiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ trong việc xử lý các ngân hàng bị đỗ vỡ và bài học cho Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Ngoại thương, tr.5. 6 Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.14 7 Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế,bảo vệ tại Học viện ngân hàng năm 2004, tr.9.
  13. 8 Tổ chức BHTG có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại các TCTD có tham gia BHTG khi các TCTD đó mất khả năng thanh toán. Tổ chức nhận tiền gửi cũng là đối tượng được hưởng lợi từ dịch vụ BHTG ở chổ tính ổn định của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền vay được an toàn và có trách nhiệm hơn đối với những khoản tiền đó. Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt đối mà dịch vụ BHTG được xếp vào hàng hóa không thuần túy. Bên cạnh đó, hoạt động BHTG cũng như của tổ chức BHTG không chịu sự điều chỉnh của Luật Bảo hiểm như các loại bảo hiểm tài sản khác mà theo quy định của Luật chuyên ngành như Luật ngân hàng, Luật bảo hiểm tiền gửi,.. Thứ ba, BHTG là loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bởi nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền của các TCTD chính là một trách nhiệm dân sự và BHTG là tổ chức đứng ra làm thay cho các TCTD những nghĩa vụ đó. Trách nhiệm dân sự này phát sinh từ hợp đồng huy động tiền gửi được ký kết giữa người gửi tiền và các TCTD. Khác với các loại bảo hiểm thương mại như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… một khi TCTD huy động tiền gửi có tham gia BHTG mà bị mất khả năng thanh toán thì trong hoạt động BHTG, trách nhiệm này sẽ được chuyển giao cho tổ chức BHTG. Số tiền vượt quá hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi khoản tiền gửi của người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình thanh lý, tổ chức tham gia BHTG với thứ tự ưu tiên về vị trí chủ nợ theo quy định của pháp luật về giải thể hoặc phá sản. Thứ tư, chủ thể tham gia BHTG là những chủ thể đặc thù: khác với các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản,… (gọi chung là các loại hình bảo hiểm thương mại), thì chủ thể tham gia BHTG có nhiều điểm đặc thù hơn. Cụ thể là khi gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi, người gửi tiền không phải làm các thủ tục để tham gia BHTG. Chỉ có tổ chức nhận tiền gửi mới có trách nhiệm tham gia BHTG. Người gửi tiền sẽ đương nhiên được tổ chức BHTG bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Tuy nhiên, không có bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào được hình thành giữa người gửi tiền và tổ chức BHTG.
  14. 9 Một điểm đáng lưu ý nữa là người nộp phí BHTG trong mọi trường hợp luôn tách rời với người thụ hưởng bảo hiểm. Người nộp phí BHTG luôn là tổ chức huy động tiền gửi. Còn người gửi tiền trong mọi trường hợp luôn là người thụ hưởng bảo hiểm. Thứ năm, đối tượng được bảo hiểm là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi tại các tổ chức có hoạt động huy động tiền gửi: Trong khi đối tượng được bảo hiểm của các bảo hiểm thương mại khác chính là tính mạng, sức khỏe, tài sản,… được thỏa thuận trực tiếp giữa doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm. Sau khi hợp đồng bảo hiểm đã được hình thành thì việc bảo hiểm của BHTG được phát sinh một cách tự động. Đó là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm là cơ sở tính phí BHTG định kỳ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. Nguyên tắc hoạt động BHTG nói chung là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền với số lượng không lớn. Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của cá nhân bằng nội tệ là loại tiền gửi mà đến nay tất cả các hệ thống BHTG trên thế giới đều bảo vệ. Việc loại trừ những khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như quy định mức BHTG tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho tổ chức BHTG và nâng cao trách nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Các khoản tiền gửi không được bảo hiểm thường là bằng ngoại tệ hoặc tiền của các tổ chức. Việc quyết định bảo hiểm cho đồng ngoại tệ hay không là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ đối với mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tỷ lệ thấp, các giao dịch chủ yếu được thực hiện thông qua đồng nội tệ thì việc loại trừ đối tượng bảo hiểm là đồng ngoại tệ là điều dễ dàng được chấp nhận. Còn ở những nước đang phát triển, việc loại trừ bảo hiểm đối với đồng ngoại tệ thường gắn với lý do là nhằm ngăn chặn tình trạng đô la hóa hoặc ngoại tệ hóa nền kinh tế. Thứ sáu, cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể tham gia BHTG được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật: Các sản phẩm bảo hiểm thương mại khác cũng là các văn bản quy phạm pháp luật nhưng đó là
  15. 10 những văn bản pháp luật quy định về vấn đề kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Khác với các dịch vụ bảo hiểm thương mại khác, trong quan hệ BHTG sẽ không có việc thỏa thuận giữa tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG, giữa người gửi tiền và tổ chức BHTG. Tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền cũng như tổ chức BHTG không thể tự thỏa thuận với nhau để thay đổi một nội dung nào đó nếu không đồng ý, do đó không xuất hiện hợp đồng BHTG giữa tổ chức BHTG và các tổ chức tham gia BHTG vì hợp đồng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận, còn mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG là theo hình thức bắt buộc, BHTG là loại hình dịch vụ thực hiện chính sách công của Nhà nước với mục tiêu là bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân hàng, nên ở đây hoàn toàn không có sự cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động BHTG như các sản phẩm bảo hiểm thương mại khác. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, việc thanh toán của tổ chức tham gia BHTG sẽ được thực hiện căn cứ vào việc tham gia BHTG của tổ chức huy động tiền gửi, tuân theo các quy định tại các văn bản pháp luật mà không có sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể trên cơ sở hợp đồng như bảo hiểm thương mại. Thứ bảy, về cơ chế bảo hiểm: Đối với các loại hình bảo hiểm thương mại, khi chủ thể tham gia bảo hiểm sẽ xuất hiện mối quan hệ trực tiếp giữa tổ chức bảo hiểm với tổ chức tham gia bảo hiểm (đối tượng được bảo hiểm). Còn ở BHTG, khi gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi, người gửi tiền không phải làm các thủ tục để tham gia BHTG mà tổ chức nhận tiền gửi phải có trách nhiệm tham gia BHTG. Ở đây, xuất hiện mối quan hệ ba bên, đó là mối quan hệ giữa tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền (khi người dân gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi); mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và tổ chức nhân tiền gửi; mối quan hệ giữa tổ chức BHTG với người gửi tiền (khi tổ chức nhận tiền gửi bị giải thể). Hiện nay, theo quy định của pháp luật về BHTG của nhiều nước, bất cứ một TCTD nào có hoạt động nhận tiền gửi từ dân cư thì điều này phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc. Thứ tám, phí bảo hiểm hình thành trên cơ sở quy định của pháp luật mà không dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia BHTG: Phí BHTG là khoản phí
  16. 11 do pháp luật quy định. Các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thỏa thuận về mức phí như các loại hình bảo hiểm khác. Các hệ thống BHTG trên thế giới thường đứng trước sự lựa chọn hai loại phí bảo hiểm: phí đồng hạn hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng ngân hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống BHTG thường áp dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lý. Tuy nhiên, chế độ phí này không đề cập tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ thống nên không đảm bảo tính công bằng, dễ gây những phản ứng từ các ngân hàng hoạt động tốt, có quy mô và uy tín hơn trên thị trường. Do vậy, xu hướng những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, các nước chuyển sang chế độ tính phí theo mức độ rủi ro. Theo cách tính này, cơ sở để xác định tỷ lệ phí BHTG là kết quả phân loại tổ chức tham gia BHTG. Ngân hàng nào hoạt động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỷ lệ phí BHTG cao, ngược lại ngân hàng nào hoạt động tốt, rui ro thấp sẽ được áp dụng tính phí thấp và còn có thể được miễn phí. Việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức này và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động BHTG. Bên cạnh đó, nó còn góp phần hạn chế rủi ro đạo đức phát sinh. Nếu áp dụng một mức phí, các ngân hàng dễ dàng hoạt động bất cẩn, huy động vốn lãi suất cao, hoạt động đầu tư với mức độ rủi ro lớn và luôn an tâm với các khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được bảo hiểm khi bị mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, hệ thống ngân hàng dễ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng do các ngân hàng bị “yếu đi”, mất uy tín trên thương trường và tổ chức chi trả bảo hiểm cũng phải chịu hậu quả nặng nề liên quan đến các khoản chi phí bảo hiểm cho người gửi tiền8. Thứ chín, BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc: Tại nhiều quốc gia có hoạt động BHTG trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đều quy định việc tham gia BHTG là bắt buộc. Quy định này đã tạo nên sự bình đẳng giữa các TCTD có quy mô hoạt động khác nhau trong hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như đảm bảo nguyên tắc 8 Rủi ro đạo đức là rủi ro xuất phát từ hành vi cư xử thiếu đạo đức của những chủ thể hưởng lợi ích từ BHTG, qua đó tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển lành mạnh của tổ chức BHTG. Rủi ro đạo đức có thể xuất phát từ hành vi chủ yếu của người hưởng lợi là người gửi tiền hoặc tổ chức tham gia BHTG.
  17. 12 lấy “số đông bù số ít” của loại hình dịch vụ bảo hiểm. Điều này là hợp lý vì BHTG là hoạt động mang tính chất công, nó không đơn thuần chỉ là hoạt động chia sẻ rủi ro mà nó còn phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, trong kinh doanh ngân hàng, tính lan truyền cao, dễ gây ảnh hưởng đến toàn hệ thống các TCTD khi có sự cố xảy ra. Trong khi đó, người tham gia bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ,… là bất kỳ cá nhân nào có nhu cầu nhận dịch vụ bảo hiểm thương mại. Nói cách khác, việc tham gia bảo hiểm thương mại phần lớn dựa trên tinh thần tự nguyện của các chủ thể tham gia. Đây là một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất của BHTG với các loại hình bảo hiểm thương mại khác. Ngoài sự khác biệt cơ bản nêu trên, giữa BHTG và các loại hình bảo hiểm thương mại khác còn có sự khác nhau về mô hình tổ chức, về cách tổ chức hoạt động9. Tóm lại, BHTG là một định chế tài chính, được Nhà nước sử dụng để bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh của hoạt động ngân hàng. BHTG là nơi người gửi tiền gửi gắm niềm tin tại các tổ chức tín dụng, góp phần thúc đẩy quy trình huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước. Chính vai trò quan trọng của hệ thống BHTG đối với quốc gia nên các nước rất chú trọng đến việc xây dựng và phát triển hệ thống BHTG. 1.1.2. Phân loại bảo hiểm tiền gửi Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, có thể chia BHTG thành những loại khác nhau. Một là, căn cứ theo đối tượng bảo hiểm, BHTG được phân thành 2 loại BHTG đối với cá nhân và BHTG đối với tổ chức. BHTG đối với cá nhân tức là đối tượng được BHTG là những cá nhân có tiền gửi tại các TCTD. Tùy theo chính sách của mỗi quốc gia mà tiền gửi của đối tượng là cá nhân có thể được xác định là tiền riêng của cá nhân, vợ chồng hay đồng sở hữu 9 Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, của Văn phòng Quốc hội (2008), Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội, Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu.
  18. 13 đứng tên của cá nhân mà tiền gửi này không đại diện cho bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Nhìn chung, chính sách BHTG của các quốc gia trên thế giới đều BHTG cho đối tượng này vì mục tiêu của BHTG là bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền nhỏ lẻ, thiếu thông tin, không có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh. BHTG đối với tổ chức: tổ chức có thể được hiểu là hai hay nhiều người cùng làm việc, phối hợp với nhau để đạt kết quả chung, gồm các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Với chính sách BHTG đối với tổ chức thì các đối tượng nêu trên sẽ được BHTG khi có tiền gửi tại các tổ chức có tham gia BHTG. Tùy theo chính sách của các nước mà tiền gửi của tổ chức có thể được bảo hiểm hoặc không. Việc không bảo hiểm cho tiền gửi của các tổ chức thường gắn với lý do tiền gửi này không nhằm mục đích tiết kiệm mà thường được dùng để thanh toán, tính luân chuyển cao, được quản lý chặt chẽ bởi chế độ quản lý của tổ chức nên ít có vấn đề thiếu thông tin về tổ chức huy động tiền gửi. Hai là, căn cứ theo loại tiền gửi được bảo hiểm, BHTG được phân thành 3 loại, gồm: BHTG đối với tiền gửi là đồng nội tệ, BHTG đối với tiền gửi là đồng ngoại tệ và BHTG đối với tiền gửi là vàng, kim khí, đá quý. BHTG đối với đồng nội tệ: đối tượng được bảo hiểm là đồng tiền do các quốc gia phát hành (đồng bản tệ). Đây là loại tiền gửi được bảo hiểm trong chính sách BHTG của hầu hết các quốc gia có sử dụng BHTG như một công cụ giám sát tài chính. BHTG đối với đồng ngoại tệ: loại tiền gửi được bảo hiểm theo chính sách này là đồng tiền nước ngoài hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước được gửi tại các tổ chức huy động tiền gửi từ công chúng. BHTG đối với vàng, kim loại quý: vàng bao gồm vàng thuộc dự trữ nhà nước, vàng trên tài khoản nước ngoài của người cư trú, vàng khối, vàng thỏi, vàng miếng. Do vàng cũng là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người dân thì một khi các tổ chức có huy động tiền gửi là vàng, kim loại quý thì dây cũng là thuộc đối tượng được bảo hiểm tiền gửi.
  19. 14 1.1.3. Vai trò của BHTG 1.1.3.1. Bảo hiểm tiền gửi góp phần bảo vệ người gửi tiền, góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của người gửi tiền Trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và bảo vệ người gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc gia. Bảo vệ người tiêu dùng là để đảm bảo cân bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân trong xã hội Vai trò của BHTG xuất phát từ bản chất của hoạt động tài chính luôn gắn liền với yếu tố niềm tin, mang tính nhạy cảm và có tính lan truyền cao. Trong hoạt động tài chính ngân hàng, nếu niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống này bị mất đi, điều đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của một TCTD đơn lẻ mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Có thể nói, niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống tài chính ngân hàng là rất quan trọng, và một trong những mối quan tâm của người người tiền là tính an toàn của tiền gửi và tính ổn định trong hoạt động ngân hàng. Sự ra đời của BHTG đã tạo ra và củng cố niềm tin của người gửi tiền khi chọn các tổ chức tham gia BHTG là nơi gửi tiền. Niềm tin của người gửi tiền vào độ an toàn của tiền gửi được thể hiện ngay từ lúc người gửi tiền lựa chọn TCTD nào để gửi tiền, đặc biệt thể hiện rỏ nhất trong trường hợp tổ chức huy động tiền gửi gặp rủi ro gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán. BHTG xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thông qua một số hoạt động như: Thứ nhất, tổ chức BHTG cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về các ngân hàng ở một mức độ nào đó, giúp họ nắm bắt được tình hình hoạt động của ngân hàng. Khi đó, họ lựa chọn được nơi gửi tiền tin cậy mà họ cảm thấy yên tâm nhất. Thứ hai, tổ chức BHTG thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro đối với tổ chức tham gia BHTG, hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn về tài chính nhằm phục hồi hoạt động của tổ chức đó.
  20. 15 Thứ ba, khi tổ chức tham gia BHTG bị giải thể hoặc phá sản, BHTG sẽ tham gia vào quá trình xử lý tổ chức bị đổ vỡ, đồng thời thực hiện chi trả tiền gửi cho người gửi tiền (bao gồm cả phần tiền gốc và lãi phát sinh trên phần gốc) với mức chi trả tối đa theo quy định của phát luật. Qua đó cho thấy BHTG có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hàng. Và một khi quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm thì thực tế cho thấy, BHTG góp phần củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Như vậy, sự ra đời của BHTG và hoạt động tích cực của tổ chức này chính là chỗ dựa quan trọng cho các TCTD trong việc củng cố, duy trì và làm tăng lòng tin của dân chúng cũng như toàn xã hội trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn. 1.1.3.2. Bảo hiểm tiền gửi góp phần xử lý khủng hoảng tài chính. Hầu hết các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới bùng nổ đều do ảnh hưởng từ hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng, do đây là hoạt động mang nhiều tính rủi ro và đổ vỡ theo dây chuyền, đôi khi chỉ vì những tin đồn không chính xác mà không phải xuất phát từ nguyên nhân sâu xa do hoạt động của một TCTD yếu kém nào đó. Trường hợp này, BHTG có những hoạt động quan trọng công khai hỗ trợ tài chính, là “lá chắn” quan trọng để ngăn chặn hiện tượng đó. BHTG sẽ chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, hoạt động hỗ trợ tài chính dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ, ngăn chặn sự phát triển của các khoản nợ xấu, nợ khó đòi, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn dẫn đến sự đổ vỡ của các TCTD, đối với các TCTD trước khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, từ đó giữ lòng tin của người dân, tránh hiện tượng người gửi tiền ào ạt rút tiền khi có một TCTD bị mất khả năng thanh toán10. Chính vì thế, xuyên suốt quá trình phát triển của hệ thống tài chính hiện đại, các nhà hoạch định chính sách luôn coi BHTG là một công cụ quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính. Điều 10 Lê Thị Thu Thủy (2008), “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam”. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. tr.23.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0