Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch
lượt xem 78
download
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHAN NHẬT VŨ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHAN NHẬT VŨ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Kinh tế
- Mã số: 60380107 Người hướng dẫn khoa học:PGS. TS. BÙI XUÂN HẢI TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận Văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Xuân Hải. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các tài liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, có nguồn gốc, tin cậy và trung thực. TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2015 Tác giả luận văn Phan Nhật Vũ
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BVHTTDL: Bộ văn hóa thể thao Du lịch LDN: Luật Doanh Nghiệp LDL: Luật Du Lịch TCDL: Tổng cục Du lịch
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................ 3 a. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................................. 3 b. Đối tượng nghiên cứu: .................................................................................................. 3 c. Phạm vi nghiên cứu: ..................................................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................................ 4 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: .................................................................... 4 6. Bố cục của luận văn: .................................................................................................... 4 CHƯƠNG 1 ........................................................................................................................... 5 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH .......................... 5 1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch và lưu trú du lịch ............................................................. 5 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch ...................................................... 5 1.1.2. Khái niệm lưu trú du lịch .................................................................................. 14 1.2. Khái niệm và đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch .......................................... 17 1.2.1. Khái niệm kinh doanh lưu trú du lịch ................................................................ 17 1.2.2. Đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch ........................................................ 19 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch .......................... 23 1.4 Vai trò của hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch ..................................................... 28 1.5. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch ...................... 30 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................... 36 CHƯƠNG 2 ......................................................................................................................... 37 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH ......................... 37 VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN .................................................................................. 37 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ................................ 37 2.1.1. Điều kiện kinh doanh lưu trú du lịch ................................................................ 37 2.1.2. Các loại cơ sở lưu trú du lịch. ........................................................................... 45 2.1.3. Xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch ......................................................................... 49 2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh lưu trú du lịch ............................ 53 2.1.5. Xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. .................................. 69 2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. .................................................. 72 2.2.1. Thị trường cơ sở lưu trú du lịch. ....................................................................... 72 2.2.2. Thực tiễn kinh doanh lưu trú ở Đà Lạt. ........................................................... 75 2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. ................................................................................................................................... 77 2.3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ............ 77 2.3.2 Các kiến nghị cụ thể .......................................................................................... 78 KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 84
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay trên thế giới du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, là cầu nối hữu nghị, phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, du lịch là cánh cửa mở ra thế giới để chúng ta tìm kiếm sự giao thoa về kinh tế xã hội. Tầm quan trọng đó đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước.1 Cụ thể hoá chủ trương này, văn kiện đại hội Đảng lần thứ X đã ra những quyết sách nhằm khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch. 2 Có thể khẳng định rằng, với những chủ trương nêu trên, du lịch trong nước đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, mà trong đó các thành phố phát triển về dịch vụ du lịch đã đóng góp một nguồn ngân sách lớn cho đất nước. Trong các thành phố du lịch thì Đà Lạt được xem là một điểm đến lý tưởng với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi, có các tiềm năng thế mạnh về phát triển kinh tế du lịch dịch vụ nghỉ dưỡng và các lễ hội văn hóa lớn. Hằng năm, Đà lạt thu hút một lượng lớn khách du lịch tới tham quan và nghỉ dưỡng. Do đó, cùng với sự phát triển của ngành du lịch Đà Lạt thì ngành nghề kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch cũng chiếm một vị thế rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch. Tuy nhiên, có thể nói hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch còn mang tính tự phát và pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế vướng mắc. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang có những nỗ lực vượt bậc nhằm đánh thức tiềm năng phát triển của ngành du lịch, vì thế việc Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính 1 trị quốc gia, tr.178. 2 Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), tlđd 1, tr.202.
- 2 nghiên cứu về “Pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch” là việc làm cấp thiết và mang tính thời sự sâu sắc. Bởi những lẽ trên, tác giả đã chọn đề tài “ Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh lưu trú du lịch mà trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Kim Dung năm 2007: “ Pháp luật về kinh doanh du lịchthực trạng và hướng hoàn thiện ’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “ Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch’’; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Giáng Sao năm 2011 “ Đánh giá thực trạng trong hoạt động quảng cáo tại khách sạn Sammy Đà Lạt”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Hiền năm 2012 “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Vietsovpetro” (2012)… Các công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và LDL 2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh lữ hành. Các công trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh lưu trú du lịch một cách cụ thể. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liên quan tác giả còn tiếp cận được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010), "Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch ở một số nước trên thế giới" đăng trên Tạp chí Kinh tế phát triển số 2; Hải Dương (2008), "Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch", đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử, chẳng hạn như bài viết "Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch khi luật du lịch thực thi ” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan…Tuy
- 3 nhiên những bài báo, kết quả nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc phân tích dưới góc độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Mặc dù vậy, các thông tin từ các bài viết trên cũng có những giá trị tham khảo nhất định cho việc nghiên cứu chuyên sâu pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể các quy định của pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Do đó, việc nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này là một yêu cầu mang tính cấp thiết. 3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ở Việt Nam. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và kinh doanh lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật du lịch về kinh doanh lưu trú du lịch. Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch của Việt Nam. b. Đối tượng nghiên cứu: Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch, thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. c. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định về kinh doanh lưu trú du lịch tại Luật Du lịch số 44/2005/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành kết hợp với việc nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
- 4 Về thực tiễn: Tác giả nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch trong cả nước, đặc biệt là tại TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin và phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp khảo sát được sử dụng tại Chương II phần thực trạng kinh doanh lưu trú: khảo sát các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà lạt để tìm ra được loại hình kinh doanh lưu trú mới; phương pháp thu thập số liệu thực tế của các cơ sở kinh doanh lưu trú tại Đà Lạt, phương pháp phân tích; phương pháp so sánh được áp dụng chủ yếu trong phần 2.1 về thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch như là: so sánh quy định của Luật Du lịch 2005 với Pháp lệnh du lịch 1999, so sánh các Nghị định hướng dẫn về kinh doanh du lịch để tìm ra sự chồng chéo và thiếu sót của các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch nói chung và kinh doanh lưu trú du lịch nói riêng; phương pháp tổng hợp: tổng hợp các nhận định của các chuyên gia, các công trình đã nghiên cứu trước đó, cũng như tổng hợp các số liệu về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ các phương pháp trên, tác giả có được kết quả để đánh giá và nghiên cứu những nội dung cơ bản của luận văn. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Kết quả nghiên cứu giúp cho người đọc tiếp cận và đánh giá hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch dưới góc độ pháp luật và thực tiễn. Luận văn này có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành, như người kinh doanh, sinh viên, và các nhà nghiên cứu. Một số kiến nghị cũng có thể được những cơ quan chức năng quan tâm. 6. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kinh doanh lưu trú du lịch. Chương 2: Thực trạng pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và Định hướng hoàn thiện.
- 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH 1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch và lưu trú du lịch Sự phát triển khoa học luôn gắn liền với việc xây dựng hệ thống các khái niệm. Bởi lẽ, khái niệm vừa là kết quả của tư duy khoa học vừa là phương tiện để tư duy. Vì thế, để nghiên cứu pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch chúng ta sẽ bắt đầu từ những khái niệm cơ bản. 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội của các quốc gia. Về mặt kinh tế, đối với các nước đang phát triển du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quốc gia. 3 Hội đồng lữ hành và Du lịch quốc tế (World travel and Tourism CouncilWTTC) đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Ở một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương.4 Chính vì vậy, du lịch hiện nay là mối quan tâm của nhiều quốc gia bởi nó đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn, thậm chí ở một số nước, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do vậy khái niệm về du lịch có nhiều cách hiểu rất khác nhau. Mathieson và Wall của Mỹ cho rằng "Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ" .5 Với quan niệm này, cho thấy du lịch có đối tượng hướng đến đó là người du lịch và thể hiện một hoạt động đơn thuần của khách du lịch. Cũng có quan niệm cho 3 Trần Đức Thanh (1998), Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, tr. 5. 4 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa(2008), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 5. 5 Trần Đức Thanh (1998), tldd 3, tr. 12.
- 6 rằng du lịch là chuyến đi của con người trong một khoảng thời gian không nhằm mục đích kiếm tiền như trong định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa Canada: "Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm". 6 Ở góc độ bao quát hơn, Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization) cho rằng du lịch là bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.7 Đây là một định nghĩa tương đối đầy đủ và khái quát về du lịch. Tóm lại, từ những định nghĩa trên cho thấy, khái niệm du lịch trên thế giới có một nội hàm khá rộng, dùng để chỉ sự đi lại của con người tới những vùng, lãnh thổ khác ngoài nơi họ sinh sống, với bất cứ mục đích gì, chẳng hạn như tham quan, khám phá, nghỉ ngơi thư giản, thậm chí cả hành nghề, nhưng loại trừ mục đích kiếm tiền một cách trực tiếp nơi họ đặt chân đến. Ở một góc độ khác, du lịch còn được xem xét dưới khía cạnh kinh tế như đánh giá của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie: "Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4.tr 15. 6 Nguồn từ: http://vi.wikipedia.org/wiki/Du_l%E1%BB%8Bch, truy cập ngày 19/8/2015. 7
- 7 uống, nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hóa, chính trị, kinh tế,v.v...) mà không có mục đích lao động kiếm lời".8 Như vậy, từ những phân tích trên đưa đến một nhìn nhận là, khái niệm du lịch còn được đánh giá ở góc độ kinh tế, đó là một ngành kinh doanh, sự trao đổi và cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng của con người trong một thời gian nhất định. Mặc dù mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn nhưng pháp luật du lịch Việt Nam đã có điều kiện tiếp thu những giá trị tích cực từ quan niệm du lịch của các nước trên thế giới, đồng thời từng bước hoàn thiện những quy định pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động du lịch. Theo điều 10 Pháp lệnh Du lịch năm 1999 thì du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Với định nghĩa này thì du lịch mới dừng lại ở việc chỉ những hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình để thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, Khoản 1 Điều 4 Luật Du lịch 2005 đã điều chỉnh khái niệm về du lịch theo hướng cụ thể hơn, theo đó thì "Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định". Như vậy, khái niệm du lịch theo quy định của Việt Nam có phạm vi khá hẹp, với bốn mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng. Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc phát triển ngành du lịch thì cũng kéo theo các loại hình dịch vụ liên quan. Theo định nghĩa của ISO 9001:1991 dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 15. 8
- 8 cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.9 Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không gắn liền với sản phẩm vật chất.10 Như vậy, có thể hiểu các hoạt động dịch vụ bổ trợ du lịch bao gồm các hình thức sau: Thứ nhất, dịch vụ lữ hành, Dịch vụ lữ hành gồm các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”.11 Trong đó tồn tại song song hai hoạt động phổ biến sau: + Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thành lập các chương trình du lịch trọn gói, hay từng phần; Quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. + Kinh doanh đại lý lữ hành(Travel Subagency Business) là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng. Thứ hai, dịch vụ lưu trú du lịch, Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của khách du lịch. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch, gồm: Khách sạn; Làng du lịch; Biệt thự du lịch; Căn hộ du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phòng cho khách thuê; và các cơ sở lưu trú du lịch khác. Thứ ba, kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Transportation), Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch và tại các khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch. Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch 9 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94. 10 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94. 11 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 69.
- 9 chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, với một khoảng cách xa. Do vậy khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng, không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như: Ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thực tế cho thấy ít có doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn du lịch trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. Đây cũng là một loại hình kinh doanh có điều kiện.12 Thứ tư, dịch vụ phát triển khu du lịch, Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác, phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch phải xây dựng dự án phù hợp với phát triển du lịch, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Thứ năm, dịch vụ du lịch khác.13 Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch. Cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Điều 57 Luật Du lịch 2005 12 Mục 6 Chương V Luật Du lịch 2005. 13
- 10 Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định: Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi, không chuyển quyền sở hữu khi sử dụng. Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch, thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ.14 Cụ thể, đó là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Với khái niệm này thì kinh doanh dịch vụ du lịch có những đặc điểm cơ bản như sau: (i) Tính phi vật chất. Đây là tính chất quan trọng nhất của dịch vụ du lịch, tính phi vật chất đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hoặc không thể thử nghiệm trước. Cho nên đối với du khách thì tính phi vật chất của dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ chưa một lần sử dụng nó. Dịch vụ du lịch không đồng hành với những sản phẩm vật chất, nhưng dịch vụ du lịch mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Du khách thực sự rất khó đánh giá dịch vụ. Từ những nguyên nhân nêu trên mà nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đầy đủ thông tin về lợi ích của dịch vụ chứ không chỉ đơn thuần chương trình dịch vụ, qua đó làm cho du khách phải quyết định mua dịch vụ của mình15. (ii) Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) quá trình sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau. Người ta có thể sản xuất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng, còn đối với dịch vụ không thể Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr194. 14 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr195. 15
- 11 như vậy. Do tính đồng thời như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Chẳng hạn thời gian nhàn rỗi của nhân viên du lịch vào lúc không có khách không thể để dành cho lúc cao điểm, một phòng khách sạn không cho thuê được trong ngày thì đã coi như mất dịch vụ, do đó mất một nguồn thu…Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung và cầu cũng không thể tách rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu trong dịch vụ là hết sức quan trọng16. (iii) Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ. Đặc điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã trở thành nội dung của quá trình sản xuất. Sự gặp gỡ giữa khách hàng và người sản xuất như một sự gắn bó qua lại giữa các chủ thể với nhau. Sự gắn liền họ trong sự tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định phụ thuộc vào mức độ lành nghề, khả năng cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ. Ngoài những nội dung kinh tế, những tính cách của con người trong sự tương tác đóng vai trò quan trọng như cảm giác, sự tin tưởng, tính thân thiện về cá nhân, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn như khi mua những hàng hóa tiêu dùng khác. Dịch vụ gắn liền với những kinh nghiệm chủ quan, đối với mỗi người là duy nhất đó cũng là một quá trình xã hội, và tất nhiên có nhiều nhân tố khác nhau tác động lên quá trình này người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng không thể bí mật thay đổi thời gian, địa điểm và các tình tiết liên quan đến quá trình cung ứng dịch vụ. Ngoài trao đổi thương mại, sự tương tác qua lại còn biểu hiện nhân tố thứ ba đó là sự trao đổi tâm lý. Mức độ hài lòng của khách hàng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện ý nguyện của khách hàng, trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kĩ thuật, sản xuất và tiêu dùng những loại dịch vụ Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr195. 16
- 12 này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ, những chức năng truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường. Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí tuệ hay là về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời gian cũng như các khả năng sản xuất17. (iv) Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khi mua hàng hóa người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hóa và sau đó có thể sử dụng như thế nào, nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là người đang mua quyền sử dụng với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn khi đi du lịch được chuyển chở, được ở khách sạn, được sử dụng bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng.18 (v) Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch. Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được. Khách hàng muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến cơ sở du lịch. Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh, khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thỏa mãn các điều kiện tự nhiên: địa hình, khí hậu, thủy văn, tài nguyên… Và điều kiện xã hội (dân số, phong tục tập quán, chính sách dân số, cơ sở hạ tầng…). Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch tiến hành các dịch vụ du lịch xúc tiến mạnh mẽ để kéo được du khách đến với điểm du lịch.19 (vi) Tính thời vụ của dịch vụ du lịch. Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ. Ví dụ các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại đông nhất 17 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr196. 18 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr197. 19 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr197.
- 13 vào mùa hè. Các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách vào buổi trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần… dẫn đến cung cầu dịch vụ mất cân đối, vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút. Vì vậy các doanh nghiệp thường đưa ra các chương trình khuyến mãi cho khách du lịch khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lí tốt chất lượng dịch vụ khi cầu cao điểm.20 (vii) Tính trọn gói của dịch vụ du lịch. Bao gồm các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung. Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ mà nhà cung ứng cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng, bar… dịch vụ bổ sung là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung của khách. Tuy chúng không có tính bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có tính quyết định đến sự lựa chọn của khách du lịch. Tính trọn gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng hợp của du khách. Mặt khác nó cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng dịch vụ. (viii) Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch. Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không đồng nhất. Doanh nghiệp du lịch rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ. Tóm lại, dịch vụ du lịch mang những đặc trưng cơ bản mà các loại hình khác không có. Có thể thấy rõ sự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và sản phẩm du lịch đó là: Đối với sản phẩm vật chất là một sản phẩm cụ thể, được trưng bày trước khi bán, sản phẩm vật chất có thể được cất giữ hay lưu kho, vận Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr198. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 174 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Luận văn thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 202 | 34
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành
24 p | 137 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn