Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện
lượt xem 10
download
Mục tiêu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở, đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động của thiết chế xã hội này, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện thể chế hòa giải ở cơ sở.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ THU HUYỀN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ THU HUYỀN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu 1 Chương 1: hòa giải ở cơ sở và sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ 8 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 1.1. Sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích nhỏ trong 8 cộng đồng bằng hòa giải 1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở 10 1.1.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở 15 1.2. Vai trò của hòa giải ở cơ sở và nhu cầu điều chỉnh bằng 21 pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở 1.2.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở 21 1.2.1.1. Hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi phạm, xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, tiết 21 kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước 1.2.1.2. Hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết 22 trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội 1.2.1.3. Hòa giải góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật 22 của nhân dân. 1.2.1.4. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống 23 tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
- 1.2.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở 23 1.3. Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở 25 1.3.1. Nguyên tắc hòa giải ở cơ sở 25 1.3.1.1. Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp 25 của nhân dân 1.3.1.2. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp 26 đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải 1.3.1.3. Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp 27 pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng 1.3.1.4. Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt 28 được kết quả hòa giải 1.3.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở 30 1.3.2.1. Những vụ, việc được tiến hành hòa giải 30 1.3.2.2. Những vụ, việc không được hòa giải 32 Chương 2: các quy định pháp luật về Tổ Chức Hoạt Động Hòa Giải 36 ở CƠ Sở và thực tiễn áp dụng 2.1. Thực trạng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 36 2.1.1. Quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 36 2.1.1.1. Thời kỳ trước năm 1945 36 2.1.1.2. Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 39 2.1.2. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải 47 2.1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về công tác hòa giải 47 2.1.2.2. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước về công tác hòa giải 49
- 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải 55 ở cơ sở 2.2.1. Tổ chức hòa giải ở cơ sở 55 2.2.2. Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hòa giải 65 2.2.3. Thể chế tài chính cho hoạt động hòa giải 66 2.3. Những vướng mắc về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 67 2.3.1. Pháp luật chưa đồng bộ, thiếu thống nhất 67 2.3.2. Những vấn đề mới phát sinh về tổ chức hòa giải chưa được 68 giải quyết dứt điểm 2.3.3. Đầu tư nguồn lực 69 Chương 3: phương huớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ 72 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.1 Những phương hướng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về tổ 72 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải được tiến hành trong sự phù hợp với các biện pháp thực thi chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp 72 luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo tinh thần Nghị Quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 72 phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 74 phải theo hướng phù hợp với việc kiện toàn các thiết chế xã hội tự nguyện trong điều kiện xây dựng và củng cố xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa 3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 75
- phải đáp ứng được yêu cầu củng cố trật tự xã hội, giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật và những quy ước tiến bộ của cộng đồng 3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 76 phải hướng tới việc bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức 77 hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.2.1. Sớm ban hành Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ 77 sở 3.2.2. Tiếp tục bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động 83 hòa giải 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về sự quản lý của Nhà nước, sự 84 phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở 3.2.4. Nâng cao việc tuyên truyền pháp luật về vai trò của hòa 86 giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở 3.2.5. Đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp 86 vụ hòa giải cho tổ viên Tổ hòa giả kết luận 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 phụ lục 97
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, công tác hòa giải ở cơ sở có vị trí rất quan trọng. Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa VII (tháng 1-1995) đã khẳng định: "Coi trọng vai trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở" [1, tr. 30]. Chế định hòa giải cũng đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thức hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật" (Điều 127 Hiến pháp 1992) [29]. Hòa giải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm ổn định xã hội trên nhiều phương diện. Hòa giải ở cơ sở thể hiện đặc điểm lịch sử, đạo đức tâm lý truyền thống của dân tộc. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Hòa giải là sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong giải quyết các xung đột nhỏ trong xã hội. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý và tình, đến mức "thấu tình, đạt lý". Hòa giải là một phương thức để thực hiện dân chủ, là sự thể hiện rõ rệt của tư tưởng "lấy dân làm gốc". Một đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Đây chính là biểu hiện của tính dân chủ trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Thông qua các hình thức hòa giải, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở, nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong việc giải quyết các tranh chấp, xây dựng tình làng nghĩa xóm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, làm giảm số vụ án 1
- phải đưa ra tòa án xét xử. Dễ trăm lần không dân cũng chịu - Khó vạn lần dân liệu cũng xong như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói. Tại Hội nghị tập huấn tư pháp toàn quốc năm 1950 ở Việt Bắc, Hồ Chủ tịch đã nói: "Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn". Hòa giải ở cơ sở là phong trào có sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở cơ sở: cấp ủy đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh..., qua đó xây dựng được một cộng đồng dân cư mà vai trò tự quản của người dân được tăng cường, thực hiện được việc xã hội hóa hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật. Đây là một xu hướng phát triển khách quan của xã hội, theo đó Nhà nước có thể từng bước giao cho nhân dân tự quản những gì họ có thể tự quản được. Đó chính là biểu hiện của một xã hội dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang nghiên cứu để khẳng định nó trong quá trình đổi mới, trong đó có đổi mới việc điều hành, quản lý đất nước và xã hội. Hòa giải đã từng có trong lịch sử làng xã Việt Nam, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (giai đoạn 1945 - 1981), chế định hòa giải được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quy định hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành tư pháp, chế định này hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của các cơ quan tư pháp. Nhiệm vụ hòa giải lúc đầu được giao cho Ban Tư pháp xã sau đó được giao cho tổ chức xã hội, đó là Tổ hòa giải - một tổ chức mang tính chất tự quản, dân chủ trực tiếp của nhân dân. Trong giai đoạn từ năm 1982 đến năm 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên cũng trải qua nhiều thăng trầm, tổ chức và hoạt động hòa giải ở nhiều nơi bị giảm sút, gần như tan rã, hoạt động không hiệu quả. Từ năm 2
- 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã từng bước được khôi phục, củng cố và phát triển. Ngày 25 tháng 11 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Đây là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay về hòa giải ở cơ sở, đánh dấu một bước phát triển mới của công tác hòa giải trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị và phát huy dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện Pháp lệnh, ngày 18 tháng 10 năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, tiếp đó, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế Nghị định 38/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993) và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV ngày 05 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương (thay thế Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26 tháng 7 năm 1993) đều có quy định về việc quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi cao hơn tính tự quản của người dân trong quản lý nhà nước, trong đó có các giải quyết tranh chấp nhỏ, tạo ổn định và trật tự xã hội mà không cần Nhà nước can thiệp vào. Đó là vấn đề có tính quy luật của sự chuyển đổi vai trò của Nhà nước trong thế giới hiện đại. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trong những năm qua cũng đã bộc lộ những hạn chế như chưa có mô hình thống nhất về tổ chức hòa giải ở cơ sở, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của Tổ hòa giải trong điều kiện hiện nay; về trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải, phần lớn tổ viên Tổ hòa giải chưa được bồi dưỡng kiến thức pháp 3
- luật và nghiệp vụ hòa giải thường xuyên, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Bên cạnh đó, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ hòa giải được biên soạn thống nhất còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế cho cán bộ hòa giải nói riêng và công tác hòa giải nói chung… Thực tế tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở đang đặt ra nhiều vấn đề trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của công tác hòa giải ở cơ sở là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong nhiều năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở cũng đã có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như cuốn sách: "Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996" của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Công tác hòa giải ở cơ sở" do Luật gia Nguyễn Đình Hảo chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997), "Vì hạnh phúc của mọi nhà" do Phó tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, đề cập đến thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, chứ không đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận của công tác hòa giải ở cơ sở. 4
- Trong một số sách hướng dẫn về nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở như: "Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở (tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn)" - Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 2000 do Tiến sỹ Dương Thanh Mai chủ biên, "Công tác hòa giải ở cơ sở" - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ tư pháp và các hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010" do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ, các cuốn sách này chỉ đề cập đến các quy định pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào nghiên cứu thực trạng, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở hay như chỉ đề cập đến một khía cạnh con người của công tác hòa giải ở cơ sở như cuốn sách "Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở", trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005. Cuốn "Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" do Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006 cũng đã có một chương riêng về hòa giải ở cơ sở và phổ biến giáo dục pháp luật. Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết "Đồng thuận xã hội" trên Tạp chí Tia sáng, tháng 11 năm 2005; tác giả Nguyễn Thị Lan với bài viết "Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay" đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; các bài viết của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về "Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Hòa giải ở nông 5
- thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)" đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001, số 1 và số 3 năm 2002. Một số các bài viết trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7 năm 2006 về công tác hòa giải ở Hải Phòng mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định. Còn đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, cũng đã có những công trình nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở tại Việt Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về "Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam"; Dự án điều tra của Viện Xã hội học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc về vấn đề này. Tuy nhiên đến nay chưa có những công trình nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện ở Việt Nam. Những vướng mắc nói trên chưa được đề cập và nghiên cứu một cách thấu đáo. Do đó, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở là cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: làm rõ những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở, đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động của thiết chế xã hội này, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện thể chế hòa giải ở cơ sở. 6
- - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: + Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của hoạt động hòa giải đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở. + Nêu, phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở. + Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học. 5. Những điểm mới của luận văn - Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, vị trí, vai trò của hòa giải ở cơ sở cũng như nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở nhằm góp phần hoàn thiện những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở. - Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác, sử dụng trong công tác nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của các cơ quan tư pháp và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng 7
- Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, dự kiến trong Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XII. - Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp, hòa giải viên có thể khai thác, vận dụng những kết quả nghiên cứu của luận văn để tập huấn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác hòa giải ở cơ sở. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1. SỰ CẦN THIẾT GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP, XÍCH MÍCH NHỎ TRONG CỘNG ĐỒNG BẰNG HÒA GIẢI Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương...Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ gia đình), các quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau. Thực tiễn cho thấy, qua các giai đoạn, qua các thời kỳ lịch sử, trong xã hội, tồn tại và phổ biến là những quan hệ xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Chính những quan hệ tốt đẹp, lành mạnh đó là nền tảng, là cơ sở, động lực cho việc xây dựng lối sống văn hóa, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy 8
- nhiên, bên cạnh những quan hệ xã hội tốt đẹp kể trên, còn tồn tại những mối quan hệ không lành mạnh, tiêu cực, lệch chuẩn, những quan hệ bị biến dạng theo chiều hướng xấu, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Những quan hệ đó có thể là những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật thậm chí là những hành vi phạm tội. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước hòa mình trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu, kết quả trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà nền kinh tế thị trường mang lại, sự phát triển của đời sống xã hội trên các lĩnh vực cũng kéo theo những hạn chế, tiêu cực và những mặt trái của nó: sự xung đột về lợi ích, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng... Chính những yếu tố đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng, biến dạng những quan hệ truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Trong một chừng mực nào đó, ở những hoàn cảnh cụ thể, các quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc, thầy trò, bạn bè... cũng có những xáo trộn nhất định, bị chi phối bởi những yếu tố về lợi ích, quan điểm khác nhau, hay có thể gọi chung là những "xung đột xã hội nhỏ". Các xung đột xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các tranh chấp, xích mích nhỏ ở cộng đồng. Những va chạm, xích mích giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là điều không thể tránh khỏi, có điều kiện nảy sinh, tồn tại thậm chí phát triển. Có thể là mâu thuẫn ngay giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai hay nhiều hộ gia đình, có khi là mâu thuẫn giữa một dòng họ, một dòng tộc, xóm này với xóm kia, mâu thuẫn giữa làng với làng... Mâu thuẫn đó xảy ra khá đa dạng, phong phú trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hôn nhân và gia đình. 9
- Những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp này dù là nhỏ nhưng nếu không có biện pháp giải quyết sẽ gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Để giữ gìn trật tự xã hội, việc giải quyết xung đột có thể được tiến hành theo năm phương pháp: giải quyết bằng sự tác động của dư luận xã hội; thông qua các tổ chức tự quản; giải quyết bằng các phán quyết của trọng tài; bằng các quyết định của cơ quan hành pháp và thông qua cách giải quyết của cơ quan tư pháp - Tòa án. Như vậy, có rất nhiều cách giải quyết xung đột trong xã hội, trong số những cách giải quyết đó, hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng - hình thức giải quyết thông qua các tổ chức tự quản được coi là một trong những phương pháp giải quyết rất hiệu quả. Đây là hình thức giải quyết đang ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong đời sống xã hội đối với các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân. 1.1.1. Khái niệm hoà giải ở cơ sở Trước khi đi sâu vào khái niệm hòa giải ở cơ sở, cần tìm hiểu các quan niệm về hòa giải nói chung. Tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải mà có rất nhiều quan niệm về hòa giải trong khoa học cũng như trong thực tiễn: quan niệm hòa giải như một hình thức, một quá trình giải quyết tranh chấp. Theo ý kiến của một số luật gia, hòa giải được coi là một chế định pháp luật, coi hòa giải như trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Đối với các nhà thực tiễn thì coi hòa giải là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những bất đồng, mâu thuẫn. Trên thế giới có rất nhiều quan niệm về hòa giải. Hiệp hội hòa giải Hoa Kỳ quan niệm "Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ" [39]. Như vậy, vai trò của người hòa giải là người trung gian giúp hai bên tranh chấp 10
- giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng của họ trên cơ sở tự nguyện, chứ người hòa giải không tham gia vào quá trình, vào việc thỏa thuận các giải pháp. Từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan hệ lao động và các vấn đề có liên quan thì cho rằng: Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên..., không có quyền áp đặt..., hành động như một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được [39]. Quan niệm khác thì cho rằng: "Mục đích của hòa giải là chuyển cuộc đấu tranh hai bên thành cuộc khảo cứu ba bên, nhằm kiến tạo một kết quả chung" [39]. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1995, hòa giải được hiểu là "hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa" [60]. Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa và Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006 thì hòa giải "là thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa" [59, tr. 365]. Như vậy, có rất nhiều quan niệm về hòa giải cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Dựa trên những khái niệm về hòa giải ở trên cũng như qua thực tiễn hoạt động hòa giải, có thể khái quát được đặc trưng của hòa giải cụ thể như sau: Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba này không áp đặt ý chí của mình lên sự thỏa thuận của hai bên tranh chấp mà chỉ giải thích, thuyết phục, giúp hai bên đạt được sự thỏa thuận, chấm dứt bất đồng, mâu thuẫn. Sự 11
- thỏa thuận đó của hai bên - chủ thể của tranh chấp, mâu thuẫn là kết quả được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của mỗi bên, phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Với nhiều quan niệm về hòa giải, các luật gia cho rằng rất khó có thể đưa ra một khái niệm hòa giải chung, thống nhất cho tất cả các loại hình hòa giải do các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tiến hành trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ đặc trưng được rút ra ở trên, có thể đưa ra một khái niệm về hòa giải như sau: "Hòa giải là một quá trình giải quyết những bất đồng, tranh chấp giữa các bên, quá trình đó có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò trung lập, giúp các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó". Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với những phạm vi, đối tượng, phương pháp, trình tự, thủ tục... tiến hành hòa giải khác nhau như: hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài kinh tế, hòa giải ở cơ sở - hòa giải các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân. Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình..., hòa giải đều được coi là một nguyên tắc, một thủ tục bắt buộc khi giải quyết các tranh chấp. Ví dụ: đối với luật dân sự, sự bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên, quyền tự định đoạt, tự do giao kết hợp đồng dân sự là bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự, do đó, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có quyền tự định đoạt và tự do thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Vì vậy, một mặt hòa giải là nguyên tắc trong quan hệ dân sự, mặt khác, hòa giải vừa là thủ tục bắt buộc của các cấp Tòa án trong quá trình giải quyết phần lớn các tranh chấp dân sự. Điều 12 Bộ luật Dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005) quy định về nguyên tắc hòa giải như sau: 12
- "Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự" [33]. Dưới góc độ của luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một trong những nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): "Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này" [32]. Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 180 của Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải là thủ tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án dân sự Tòa án đều phải tiến hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ, việc được quy định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự cũng có những quy định gần với hòa giải. Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất" [30]. Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong các 13
- điều luật nói trên của Bộ luật Hình sự đều khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Theo quy định, chỉ được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong trường hợp hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều luật nói trên. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại chỉ áp dụng trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức nguy hiểm thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và khi người bị hại đã không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật thì có thể tự dàn xếp với nhau. Khác với hình thức hòa giải khác, hòa giải ở cơ sở không có yếu tố "tư pháp", nghĩa là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện thông qua hoạt động của Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở cơ sở thực hiện, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp do Tổ hòa giải tiến hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải chỉ kết thúc khi các bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật " [29]. Cụ thể hóa Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp năm 1992, Điều 1 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 (có hiệu lực từ ngày 08 tháng 01 năm 1999) quy định: Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 348 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn