intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác lập chủ quyền quốc gia về thềm lục địa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:137

36
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn chủ yếu đi sâu vào việc nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn việc xác lập chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa đặc biệt là quyền chủ quyền của quốc gia trong việc nghiên cứu, thăm dò, khai thác thăm dò các tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác lập chủ quyền quốc gia về thềm lục địa

  1. Đại học quốc gia hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thuỷ Xác lập chủ quyền quốc gia về thềm lục địa Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 Luận văn thạc sĩ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Diến Hà Nội - 2009
  2. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thuỷ Xác lập chủ quyền quốc gia về thềm lục địa Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 Luận văn thạc sĩ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Diến Hà Nội - 2009
  3. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Nguyễn Thị Thu Thuỷ
  4. Mục lục Lời cam đoan Mục lục ......................................................................................................... 1 Danh mục các hình vẽ, đồ thị ....................................................................... 3 Mở đầu .......................................................................................................... 4 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thềm lục địa .............................. 9 1.1. Lịch sử hình thành thềm lục địa trong thực tiễn và dưới góc độ khoa học pháp lý ................................................................................................. 9 1.2. Khái niệm thềm lục địa về mặt địa chất .............................................. 12 1.3. Khái niệm thềm lục địa về mặt pháp lý .............................................. 14 1.3.1.Quá trình hình thành khái niệm thềm lục địa về mặt pháp lý trước khi Công ước về Luật biển ra đời........................................................... 14 1.3.2. Xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa trước Công ước 1958 .... 17 1.3.3. Thềm lục địa theo Công ước Giơnevơ 1958. ................................ 19 1.3.4. Thềm lục địa theo Công ước Luật biển 1982 ................................ 27 1.4. Cơ sở pháp lý để xác định ranh giới của thềm lục địa được quy định trong Pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế, Tập quán quốc tế .................. 43 1.4.1. Thềm lục địa được quy định trong pháp luật của các quốc gia .... 43 1.4.2.Các điều ước quốc tế song phương và đa phương quy định về thềm lục địa.................................................................................................... 49 1.5. Vai trò của thềm lục địa ..................................................................... 51 1.5.1.Nguồn lơi về mỏ, khoáng sản ........................................................ 52 1.5.2. Những trầm tích và kết hạch ........................................................ 54 1.5.3. Dầu khí và hơi đốt ....................................................................... 54 1.5.4. Nguồn lợi sống............................................................................. 56 Chương 2: Xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa .......................... 59 2.1.Cơ sở lý luận của nguyên tắc chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa. .....59 2.1.1. Thềm lục địa là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia ..................... 59 2.1.2. Nội dung của nguyên tắc chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa. ..... 60 2.2. Xác lập chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa theo Công ước Luật biển 1982 .................................................................................................. 64 2.2.1.Giới hạn thềm lục địa của quốc gia ven biển ................................ 66 1
  5. 2.2.2. Thềm lục địa được xác định theo bề rộng nằm ngoài giới hạn 200 hải lý...................................................................................................... 68 2.2.3.Thềm lục địa được xác định theo phương pháp bề dày trầm tích. ..... 69 Chương 3: Quan điểm của Việt Nam về thềm lục địa ................................ 1 3.1.Vị trí và cấu trúc thềm lục địa của Việt Nam......................................... 1 3.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến thềm lục địa ............ 7 3.3. Việc xác lập chủ quyền của Việt Nam về thềm lục địa theo các hiệp định được ký kết giữa Việt Nam với các nước láng giềng. ........................ 12 3.3.1. Việt Nam và Inđônêxia ................................................................. 14 3.3.2. Việt Nam và Malaixia .................................................................. 22 3.3.3. Việt Nam và Thái Lan .................................................................. 24 3.3.4. Việt Nam và Philippin .................................................................. 32 3.3.5.Việt Nam và Trung Quốc .............................................................. 34 3.4. Một số đề xuất dưới góc độ pháp luật quốc gia nhằm xác định rõ chủ quyền của Việt Nam về thềm lục địa. ........................................................ 44 3.4.1. Tổ chức nghiên cứu, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về thềm lục địa. .................................................................................. 46 3.4.2. Một số giải pháp vềxây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản của các cơ quan quản lý nhà nước về “xác lập chủ quyền quốc gia về thềm lục địa” ................................................................................................. 47 3.4.3 Tiến tới xây dựng về Luật thềm lục địa ......................................... 51 Kết luận....................................................................................................... 54 2
  6. Danh mục các hình vẽ Hình 1: Sơ đồ phương pháp xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa theo tiêu chuẩn trầm tích ....................................................................... 71 Hình 2: Sơ đồ phương pháp xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa theo tiêu chuẩn khoảng cách ................................................................. 72 Hình 3: Giới hạn tối đa của thềm lục địa theo Điều 76, mục 5 ................... 73 Hình 4: Sơ đồ chiều rộng tối đa của thềm lục địa theo đường đẳng sâu (Điều 76, mục ................................................................................ 74 3
  7. Mở đầu 1.Tính cấp thiết Với diện tích chiếm 71% bề mặt trái đất, từ xưa đến nay biển luôn được coi là cái nôi của sự sống trên hành tinh và có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của loài người. Biển là môi trường đầu tiên phát triển giao lưu giữa các đại lục, biển là nơi dự trữ khổng lồ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo sự sống và phát triển của con người. Nếu như trước đây biển được coi là “khu vực sân chung”của loài người thì ngày nay, với việc các quốc gia ven biển muốn xác lập chủ quyền hoặc quyền chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác các tài nguyên thiên nhiên trong các vùng biển đã trở thành một vấn đề nhạy cảm và hết sức phức tạp trong Luật quốc tế về biển. Thềm lục địa - vùng thuộc quyền tài phán quốc gia - là một trong những vấn đề quan trọng và hấp dẫn có ý nghĩa to lớn về kinh tế, chính trị và quân sự. Thềm lục địa với diện tích rộng 66.200.000km2, bằng36% diện tích lục địa, cung cấp một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên sinh vật, là nơi cung cấp nguyên nhiên liệu phục vụ quốc phòng và là nơi thuận lợi để đặt các thiết bị quân sự.Lớp đá trầm tích thuộc nguyên đại đệ tam ở đấy, là nơi chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên, dày hơn bất cứ nơi nào trên lục địa. Chỉ tính đến vùng thềm có mực nước sâu 300m thì trữ lượng dầu thô có thể lên tới 700 thùng và trữ lượng khí đốt có thể tương đương với 50 tỷ thùng dầu thô. Chính những điều này đã dẫn đến ngay từ khi ra đời thềm lục địa đã có một vai trò to lớn về ý nghĩa pháp lý. Vì vậy cuộc đấu tranh đòi quyền làm chủ đối với tài nguyên thiên nhiên trong thềm lục địa đã trở thành một vấn đề quan trọng trong Luật biển quốc tế hiện đại. Nó thu hút sự quan tâm và chú ý của tất cả các quốc gia có biển và không có biển. Trước tình hình đó Liên hợp quốc đã triệu tập hội nghị Luật biển lần thứ nhất (sau 10 năm chuẩn bị) tại Giơnevơ năm 1958 đã thống nhất và đi đến 4 Công ước về Luật biển. Hội nghị về Luật biển lần thứ hai cũng tại Giơnevơ (năm 1960) nhưng không có kết quả, và lần thứ ba được tiến hành năm 1982, họp tất cả 11 khoá trong 9 năm và cuối cùng đã được thông qua Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (sau đây gọi tắt là Công ước 1982). 4
  8. Là kết quả của một quá trình thương lượng lâu dài nhằm làm pháp điển hoá và phát triển tiến bộ những nguyên tắc, quy phạm của ngành luật biển quốc tế, Công ước 1982 được coi là một thành công lớn của Luật biển quốc tế. Với 17 phần bao gồm 320 Điều, 9 phụ lục, Công ước là một văn kiện pháp lý tổng hợp, toàn diện, đề cập đến tất cả các vấn đề quan trọng nhất về biển và đại dương, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ trên biển của mọi quốc gia (có biển hay không có biển, hoặc có chế độ kinh tế xã hội khác nhau...) Do đó tại Hội nghị này nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến biển và các tài nguyên thiên nhiên của biển được đặt ra và được chia làm hai vấn đề: - Các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. - Vùng biển quốc tế. Chính vì thế cùng với Hiến chương của Liên Hợp Quốc, Công ước Luật biển 1982 được coi là một trong những văn kiện pháp lý quốc tế đa phương quan trọng nhất được thông qua trong lịch sử của tổ chức này. Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài trên 3260 km nằm ở trung tâm biển Đông với một thềm lục địa rộng lớn nên Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc sử dụng và khai thác biển để phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Biển Việt Nam nằm đối diện và tiếp giáp với nhiều nước như (Inđônêxia, Malayxia, Thái lan, Philipin, Brunêy, Campuchia, và Trung Quốc). Chính vì yếu tố này nên thềm lục địa của Việt Nam có nhiều vùng bị chồng lấn với các quốc gia có vùng biển khác, đặc biệt trong quá trình sử dụng và khai thác biển như việc thăm dò và khai thác các tài nguyên liên quan đến thềm lục địa, đặc biệt là khai thác dầu khí góp phần vô cùng quan trọng vào nền kinh tế của nước ta. Với tư cách là một quốc gia thành viên của Công ước Luật biển 1982 Việt Nam muốn xác lập quyền chủ quyền của mình đối với thềm lục địa. Cho nên có nhiều vấn đề liên quan đến thềm lục địa được đặt ra và cần phải giải quyết. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của thềm lục địa trong Luật biển quốc tế hiện đại nói chung và với Việt Nam nói riêng thềm lục địa là một trong những vấn đề cần phải đi sâu và nghiên cứu. Đó cũng chính là lý do của tôi khi chọn đề tài: “Xác lập chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa” 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Thềm lục địa là một trong những vấn đề chuyên nghành khó. Do đó trong một vài năm qua mới chỉ có một vài tác phẩm nghiên cứu về thềm lục địa. Cụ thể ở nước ta có một số tác phẩm như: 5
  9. -“Thềm lục địa-những vấn đề pháp lý quốc tế” của nhà xuất bản Pháp lý Viện quan hệ quốc tế Hà Nội năm 1990 của tác giả Phạm Ngọc Chi. -“Phân định thềm lục địa” Tài liệu của Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại Giao. -“Những điều cần biết về Luật biển” nhà xuất bản Công an nhân dân Hà Nội năm 1997 của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao. - Vị trí chiến lược vấn đề biển và Luật biển ở khu vực Châu á Thái Bình Dương. Các công trình bài viết kể trên đã đưa ra những khái niệm cụ thể phản ánh thế nào là thềm lục địa và xu hướng xác lập chế độ pháp lý của các quốc gia đối với thềm lục địa. Tuy nhiên thì vấn đề thềm lục địa có một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển đang là một trong những điểm “nóng”thậm trí còn xảy ra tranh chấp trong vấn đề xác lập quyền chủ quyền. Do đó trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu về thềm lục địa cần phải phát huy nhiều hơn nữa để có thể vạch ra những con đường, bước đi trong việc xác lập quyền chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa phù hợp nhất ở Việt Nam. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Ngày nay, biển đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Nó là nơi bắt nguồn của sự sống và có nhiều điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con người. Trong đó thềm lục địa là một vùng biển được đặc trưng bởi sự giàu có về tài nguyên sinh vật và không sinh vật. Thềm lục địa, nói một cách khái quát, là phần lục địa bị ngập dưới biển, tiếp với bờ biển, nằm ở dưới những độ sâu khác nhau và có chiều rộng khác nhau. Do có ý nghĩa kinh tế, chính trị, quân sự mang tính chiến lược quan trọng và do đặc điểm riêng của mình thềm lục địa nói chung và chế độ pháp lý của nó nói riêng đã trở thành một vấn đề quan trọng mà mỗi một quốc gia đều hướng đến với xác lập chủ quyền của mình trong việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên sinh vật và không sinh vật ở thềm lục địa. Cũng như các quốc gia khác Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài 3260 km, với một thềm lục địa rộng lớn và chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của Việt Nam hầu như còn nguyên vẹn chưa được khai thác nhiều vì điều kiện thăm dò khai thác do chúng đều nằm ở dưới độ sâu 100m nước. 6
  10. Việt Nam lại đối diện và tiếp giáp với nhiều nước nên có nhiều vấn đề cần liên quan đến thềm lục địa được đặt ra, nhất là việc hoạch định thềm lục địa giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong việc thăm dò, khai thác tài các nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa đặc biệt là dầu hoả và khí đốt phụ thuộc hoàn toàn vào chỗ là vùng thềm của Việt Nam được kéo dài đến giới hạn nào? Với ý nghĩa đó việc xác lập chủ quyền của các quốc gia có biển cũng như không có biển trong việc khai thác tài các nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa là một điều hết sức quan trọng trong Luật biển quốc tế hiện đại nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Đây là một trong những vấn đề mà cần được đi sâu nghiên cứu. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chủ yếu đi sâu vào việc nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn việc xác lập chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa đặc biệt là quyền chủ quyền của quốc gia trong việc nghiên cứu, thăm dò, khai thác thăm dò các tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Với ý nghĩa và tầm quan trọng của thềm lục địa trong Luật biển quốc tế hiện đại nói chung và với Việt Nam nói riêng luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa trong việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên. Luận văn sẽ đề cập đến các vấn đề sau: Những vấn đề lý luận chung về thềm lục địa Xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa theo Công ước Luật biển 1958, 1982 Xác lập chủ quyền quốc gia của Việt Nam về thềm lục địa và qua đó sẽ nêu ra một số đề xuất dưới góc độ Luật pháp quốc tế để nhằm xác định rõ chủ quyền quốc gia về thềm lục địa. 4. Phương pháp nghiên cứu Về cơ bản tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp logic kết hợp với lịch sử để nghiên cứu về xác lập chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, phân tích, quy nạp, diễn dịch, mô hình hóa ... để làm rõ những luận điểm được đề cập trong luận văn. 7
  11. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương1: Những vấn đề lý luận chung về thềm lục địa Chương 2: Xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa Chương 3: Quan điểm của Việt Nam về thềm lục địa 6. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa lý luận về thềm lục địa - Phân tích, đánh giá những yếu tố ban đầu lịch sử hình thành thềm lục địa - Việc xác lập quyền chủ quyền của quốc gia có biển cũng như quốc ven biển trong việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên trong thềm lục địa. - Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng việc xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa - Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ và làmm rõ những vấn đề trên tôi đó lựa chọn đề tài này. 8
  12. Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thềm lục địa 1.1. Lịch sử hình thành thềm lục địa trong thực tiễn và dưới góc độ khoa học pháp lý Thềm lục địa hỡnh thành từ khi “tạo thiờn lập địa”. Loài người phát hiện ra nó từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Có quy chế pháp lý quốc tế được tất cả các nước công nhận từ khi ký Cụng ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 Cuối thế kỷ 19, những cuộc khảo sát biển của nước Anh phát hiện dưới đáy biển, bên ngoài lónh hải, cú một phần đất rộng lớn tiếp giáp đất liền, có nước biển phủ lên trên, nhưng chưa xác định cụ thể nó là gỡ? Giỏ trị của nú đối với đời sống của người ra sao? Khái niệm “thềm lục địa” ra đời cùng với sự kiện một số quốc gia nhận thấy tầm quan trọng của các tài nguyên thiên nhiên ở vùng thềm ngoài khơi bờ biển đối với nền kinh tế quốc dân của họ và tuyên bố giành quyền kiểm soát các hoạt động thăm dò khai thác và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở đó. Con người trên trái đất trước đây tuy đã biết khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa từ lâu đời, nhưng cũng chưa chú ý đầy đủ hết mọi khía cạnh kinh tế, chính trị và pháp lý của nó. Vì người ta cũng chưa có một quan niệm đầy đủ, rõ ràng về thềm lục địa là như thế nào. Nhưng khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, khả năng của con người ngày càng được vươn xa tới những tài nguyên vô cùng phong phú ở thềm lục địa. Thì ý nghĩa về mặt pháp lý của thềm lục địa ngày càng được quan tâm. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã mở ra một tiền đồ hứa hẹn trong việc khai thác nguồn lợi khoáng sản vô cùng giàu có của thềm lục địa, nhất là trong toàn bộ diện tích của các biển và đại dương trên thế giới. Do vậy thềm lục địa là nơi dễ nghiên cứu, dễ khai thác nhất đã khiến cho tất cả các quốc gia ven biển phải quan tâm bảo vệ những nguồn lợi thiên nhiên ở vùng thềm lục địa bao quanh nước mình. Muốn bảo vệ tất cả những tài nguyên thiên nhiên ưu đãi ở thềm lục địa, các quốc gia “đơn phương” đưa ra tuyên bố xác định chủ quyền của quốc gia mình đối với thềm lục địa dưới dạng các văn bản pháp lý như: tuyên bố, quyết định hay những điều ước song phương, đa phương giữa hai hay nhiều quốc 9
  13. gia nhằm xác định chủ quyền và giải quyết tranh chấp đối với những vùng thềm lục địa bị chồng lấn trên một vùng biển. Tuyên bố đầu tiên là Tuyên bố ngày 29 tháng 9 năm 1916 của Nga hoàng về chủ quyền đối với các đảo không có người ở miền Bắc Xi -Bê - Ri. Thực ra lúc ấy Chính phủ Nga hoàng mới nhằm tới quyền đánh cá chứ chưa có ý thức về thềm lục địa với những tài nguyên theo quan niệm như ngày nay (năm 1924 chính phủ Liên xô đã chính thức xác định Tuyên bố này). Điều cần lưu ý là người đầu tiên đề cập tới thềm lục địa và tài nguyên ở đó là Hugh Robert Mill sử dụng lần đầu tiên vào năm 1887. Sau đó nó xuất hiện trong đề nghị của nhà hải dương học người Tây Ban Nha Odon de Buer. Trong Hội nghị quốc gia về ngư nghiệp (National Fisiery congeress) ở Madrid năm 1916, ông cho rằng lãnh hải của Tây Ban Nha cần phải được mở rộng ra trên toàn bộ “thềm lục địa” bởi vì đó là một biện pháp có hiệu qủa để giữ gìn và bảo vệ cá không bị đánh bắt một cách ồ ạt và huỷ diệt. Các chuyên gia người Arhentina Storni và Suarez, người Bồ Đào Nha Almeida d’Eca năm 1921, Barbosa de Magalhaes năm 1926, Nhưng sau đó danh từ “thềm lục địa” hầu như bị lãng quên. Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của khái niệm thềm lục địa ta thấy điểm xuất phát là Hiệp định ký giữa Anh và Vênêzuêla ngày 26 tháng 2 năm 1942 về các vùng đất dưới biển ở vịnh Paria nằm giữa Vênêzuêla và Trinidad (thuộc Anh), trong Hiệp định này chưa ghi rõ thuật ngữ “thềm lục địa” mà chỉ nói chung chung là “đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ngoài lãnh hải của các bên” Hiệp định còn quy định mỗi bên tham gia Hiệp định công nhận chủ quyền của bên kia đối với “vùng đất và lòng đất dưới đáy biển tiếp giáp với bờ biển của nước đó cho tới đường phân chia” Mãi đến tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman ngày 28 tháng 9 năm 1945 thuật ngữ “thềm lục địa” mới được chính thức đề cập tới. Trong bản tuyền bố này Mỹ đã đề căn cứ vào cơ sở địa lý, địa chất của thềm lục địa và đã gắn khái niệm đó với vấn đề tìm kiếm và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bản tuyền bố nêu rõ: “ Chính phủ Mỹ coi những tài nguyên thiên nhiên ở lòng đất và đáy biển của thềm lục địa nằm dưới biển cả kế cận với bờ biển của Mỹ là thuộc về Mỹ, thuộc quyền tài phán và kiểm soát của Mỹ”. 10
  14. Đồng thời Mỹ cũng đã nêu ra một luận điểm về thềm lục địa có thể được coi là sự kéo dài của lãnh thổ quốc gia ven biển và như vậy đương nhiên là thuộc quyền tài phán của quốc gia đó. Tuy không nói rõ giới hạn ngoài của sự kéo dài đó đến đâu, tuy nhiên sau đó Nhà trắng đã có một bài giải thích rõ thềm lục địa là “vùng đất ngập dưới nước, tiếp giáp với lục địa, độ sâu không quá 150 sải (600 feet)”. Giải thích đó là một bổ sung cho định nghĩa về thềm lục địa của Mỹ. Như vậy trong tuyên bố Truman, khái niệm về mặt pháp lý của thềm lục địa đã khá rõ ràng. Sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ Trumam, một loạt các nước ven biển khác, chủ yếu là các nước Mỹ La tinh, cũng ra những tuyên bố tương tự xác lập quyền tài phán hoặc chủ quyền đối với thềm lục địa kế cận bờ biển của mình như: Cuba 1945, Mêhicô 1945-1949, Achentina 1946, Chilê, Pêru, Equatơ 1947, Côtxta- Rita 1948, Brazin 1950, Irăng, Arập, Xê-út 1949, Tiểu vương quốc Bahrein 1949, Tiểu vương quốc Co-et 1949.Phần lớn các Tuyên bố này đều cho rằng “thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của đất liền”. Nhưng về giới hạn bên ngoài của thềm lục địa đã có một số quy định khác nhau. Có Tuyên bố nêu thềm lục địa kéo dài đến độ sâu 200m (Tuyên bố của Mêhicô ngày 29 tháng 10 năm 1945). Tuyên bố của Chi lê ngày 25 tháng 6 năm 1947 không xác định rõ độ sâu hay bề rộng là bao nhiêu, trong tuyên bố này Chi lê chỉ nêu rõ: “Chính phủ Chi lê khẳng định và tuyên bố chủ quyền quốc gia đối với vùng biển tiếp giáp với bờ biển của mình bất kể ở độ sâu nào và trong giới hạn cần thiết để bảo vệ, quản lý và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.” Thậm chí có những nước như El Slavador lại tuyên bố thềm lục địa của họ kéo dài ra đến “200 hải lý kể từ ngấn nước thuỷ triều thấp nhất của bờ biển”. Mỹ là quốc gia đầu tiên tuyên bố về thềm lục địa nhưng sau khi các nước khác tuyên bố thì Mỹ lại cùng với Anh kịch liệt chống lại. Sở dĩ như vậy, vì mục đích cơ bản của tuyên bố Truman năm 1945 là nhu cầu tìm kiếm các tài nguyên thiên nhiên dưới đáy biển để phục vụ cho kinh tế của Mỹ sau chiến tranh, còn các bản tuyên bố của các nước Châu Mỹ La tinh đã đe doạ lợi ích của Mỹ và Anh (như trường hợp một số nước tuyên bố đòi cả chủ quyền đối với thềm lục địa như Achentina) Qua quy định của các nước, khái niệm pháp lý về thềm lục địa đã dần dần được xác định và sử dụng ở phạm vi rộng rãi hơn nhưng mới chỉ là các quy phạm tập quán. 11
  15. Để việc khảo sát, thăm dò, khai thác, nghiên cứu khoa học đối với thềm lục địa theo một trật tự nhất định thì việc ban hành các văn bản pháp luật, hay thể chế hoá các quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia là việc cần thiết nhằm đảm bảo chủ quyền và quyền lợi của quốc gia. Các quy phạm pháp luật còn nhằm mục đích điều chỉnh mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia với nhau, hay giữa quốc gia với cá nhân, pháp nhân nước ngoài trong quá trình tham gia, hợp tác khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của một nước. Từ nhu cầu đó thềm lục địa được đặt ra và đưa vào khoa học pháp lý quốc tế nhằm mục đích xác lập chủ quyền của quốc gia đối với thềm lục địa làm cho ngành luật này có một nội dung kinh tế quan trọng vì: Tổng diện tích thềm lục địa bao quanh các Châu lục lên đến khoảng 27.500.000 km2, bằng 8% diện tích đáy biển. Phân bổ rất không đồng đều giữa các nước ven biển do cấu trúc địa chất của các nước không giống nhau. Có nước hầu như không có (Colombia), hoặc có thềm lục địa hẹp các nước Ảrập, châu Phi). Có nước có thềm lục địa rộng bao la (Mỹ, Nga, Canada, Ireland, Argentina, Australia, Srilanka...). Do vậy chế định thềm lục địa trong Luật biển quốc tế được ra đời nó song song tồn tại và phát triển với các chế định khác của Luật biển quốc tế và chế định thềm lục địa trong Luật biển của mỗi nước. Để hiểu rõ hơn về mặt pháp lý của các quốc gia trong việc xác lập chủ quyền của mình đối với thềm lục địa thì cần phải nghiên cứu khái niệm về thềm lục địa dưới những góc độ sau: 1.2. Khái niệm thềm lục địa về mặt địa chất Cho đến nay các nhà địa chất địa mạo đáy biển vẫn chưa thống nhất được một khái niệm về thềm lục địa địa chất. Tuy vậy, theo một số nhà địa chất thì giữa lục địa và nền đại dương có một vùng trung gian. Cấu tạo địa chất của vùng trung gian liên quan mật thiết với lục địa. Nói một cách khác đó là phần kéo dài tự nhiên của lục địa ra biển. Vùng trung gian này tương đối 20% diện tích đáy đại dương nói chung). Dựa vào cơ cấu địa chất và địa mạo đáy biển và lòng đất dưới đáy biển các nhà khoa học tự nhiên nói trên đã khẳng định thềm lục địa theo khái niệm địa chất là: 12
  16. Rìa lục địa chiếm khoảng 22% bề mặt đại dương,là phần kéo dài ngập dưới nước của lụa địa của quốc gia ven biển, cấu thành ba phần: thềm (shelf); dốc (slope); và bờ (rise). * Thềm lục địa: Phần nền lục địa ngập dưới nước với độ dốc thoai thoải (độ dốc trung bình 0,007-1˚) thường kéo dài đến độ sâu 200m. ở một số nơi thềm lục địa không tồn tại hoặc có bề rộng hẹp khoảng 70km (vùng Côte d’Azur phía Nam nước Pháp, Chi Lê. Peru, ven biển miền Trung Việt Nam). Một số nơi khác rất rộng khoảng 500km (thềm lục địa Brazin, Arhentina, úc) * Dốc lục địa: Phần nằm giữa thềm lục địa và bờ lục địa, phân biệt với thềm lục địa bằng một sự thay đổi độ dốc đột ngột, trung bình khoảng 4-5˚, đôi khi tới 45˚. Dốc thường đạt tới độ sâu từ 3000 đến 4000mét. * Bờ lục địa: Là vùng tiếp giáp theo dốc lục địa khi độ dốc thoai thoải trở lại, thường rất nhỏ 0,5˚ mở rộng ta từ chân dốc lục địa cho đến khi gặp đáy đại dương, khoảng cách này thường thay đổi từ 50m đến 0,55km. Vùng bờ lục địa này được tạo thành từ các lớp trầm tích, đôi khi có bề dày tới hàng chục kilômét. Bên ngoài rìa lục địa là đáy đại dương có độ sâu lớn đôi khi vượt 6000m với các dãy núi đại dương ngầm, các hố sâu tới 11000mét. Việc ấn định cụ thể giới hạn của thềm lục địa, dốc và bờ lục địa thực tế gặp phải không ít khó khăn do có thay đổi phức tạp về độ đốc do cấu tạo hình thể không nơi nào giống nơi nào của vỏ trái đất, do đó về mặt địa chất người ta cũng chưa có được định nghĩa chính xác rõ ràng nào hơn so với các khái niệm được nêu trên. Về mặt địa chất thềm lục địa (continental shelf) là một phần của vỏ trái đất nằm giữa các lục địa và đáy đại dương, chính là nền của lục địa và bất cứ lục địa nào cũng có thềm bao quanh nó. Thềm lục địa thường có độ nghiêng thoai thoải dài từ bờ lục địa cho đến khi độ dốc thay đổi khá lớn có độ dốc sâu đột ngột. Nói chung thềm lục địa nối liền với lục địa như những bậc thang và có cùng cấu tạo địa chất với lục địa như một thể thống nhất. Tuy nhiên, hình thái thềm lục địa của các nước ven biển không đồng nhất, có nơi rộng, có nơi hẹp, có nước thềm lục địa sụt sâu ngay gần bờ biển như trường hợp thềm lục địa của Sri Lanca, Philipin, Chi lê và một số nước khác ở Châu Mỹ La tinh. Có nước thềm lục địa của họ ngăn cách với lục địa bằng một rãnh sâu như trường hợp của Nauy. Các nhà địa lý học đã tính toán rằng chiều sâu của nước biển phía trên các thềm lục địa trên thế giới là từ 20m đến 550m, trung bình là 13
  17. khoảng 135m, chiều rộng của thềm lục địa có thể kéo dài tới 1500m, trung bình khoảng 80km. Như vậy, về mặt địa lý, địa chất thềm lục địa là cái nền của lục địa, có độ nghiêng thoai thoải, kéo dài từ lục địa ra biển và ngập dưới nước cho đến khi có độ sâu đột ngột. Người ta đánh giá rằng thềm lục địa là một vùng chứa nhiều dầu khí vì các lớp đá trầm tích thuộc đại đệ tam ở đây dày. Chỉ tính đến vùng thềm lục địa có mức nước sâu hơn 300m thì trữ lượng dầu thô có thể lên tới 700 tỷ thùng (1 thùng = 150 lít) và trữ lượng khí đốt có thể tương đương với 350 tỷ thùng dầu thô. Nguồn của cải quan trọng của thềm lục địa từ lâu đã làm cho loài người quan tâm đến. Đây chính là một nội dung cơ bản của vấn đề thềm lục địa, động lực thúc đẩy quá trình pháp điển hoá khái niệm thềm lục địa đã và đang diễn ra trên phạm vi thế giới. Khái niệm thềm lục địa về mặt pháp lý cũng vì thế mà được phát triển và hình thành trong Luật biển quốc tế hiện đại. 1.3. Khái niệm thềm lục địa về mặt pháp lý 1.3.1.Quá trình hình thành khái niệm thềm lục địa về mặt pháp lý trước khi Công ước về Luật biển ra đời. Cũng như các nội dung khác của Luật biển khái niệm thềm lục địa pháp lý đã có một quá trình tiến triển từ một vấn đề có tính chất khoa học địa chất thuần tuý dần dần trở thành một vấn đề mang nhiều yếu tố pháp lý, kinh tế, chính trị phức tạp. Kể từ khi ý thức được rằng ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc vùng đất kéo dài tự nhiên của vùng đất mà mình đang sống chứa đựng nhiều tài nguyên vô cùng phong phú, quý giá người ta đã chứng minh hoặc tìm cách chứng minh nguồn của cải đó là vốn có của quốc gia mình. Do đó mỗi quốc gia đều phải ra sức quản lý và bảo vệ và hợp pháp hoá bằng các hình thức pháp lý quan trọng như ra những tuyên bố, hiệp ước hoặc công ước quốc tế: Đó là: Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman ngày 28 tháng 9 năm 1945: “Coi các nguồn tài nguyên thiên nhiên của lòng đất dưới đáy biển và của đáy biển của thềm lục địa nằm dưới biển cả và cả tiếp giáp với bờ biển của Hợp chủng quốc Hoa kỳ là thuộc Hoa Kỳ và phụ thuộc vào quyền tài phán và quyền lực của nước này” Mặc dù có tiền lệ trên, Tuyên bố Truman đã là mốc quyết định cho việc hình thành một thể chế mới và đặc thù về thềm lục địa -vì nó lần đầu tiên đã 14
  18. được nêu lên dưới hình thức khái niệm và bản chất pháp lý của thềm lục địa: “Việc quốc gia kế cận thực thi quyền tài phán đối với các tài nguyên thiên nhiên của đáy và lòng đất dưới đáy thềm lục địa là hợp lý và đúng đắn bởi vì tính hiệu quả của các biện pháp áp dụng nhằm khai thác và bảo tồn chúng sẽ phải bị phụ thuộc vào sự hợp tác và bảo vệ mà chúng chỉ có thể được đảm bảo từ phía bờ biển, bởi vì thềm lục địa có thể được xem như sự mở rộng của lục địa đất liền của quốc gia ven biển và dường như thuộc quốc gia đó một cách tự nhiên” Tuyên bố này đã khái quát bản chất pháp lý của khái niệm thềm lục địa dù còn chưa rõ ràng: - Thềm lục địa là sự mở rộng tự nhiên của lục địa đất liền của quốc gia ven biển. - Tính kế cận của thềm lục địa. Về ranh giới ngoài của thềm lục địa, Tuyên bố không nói gì nhưng Thông cáo báo chí của Nhà trắng cùng ngày có đưa ra định nghĩa khoa học: “Nói chung, vùng đất ngập tiếp liền với lục địa và được bao phủ bởi nước sâu không quá 100 fathom (200 mét) được coi là thềm lục địa”. Có thể nói Tuyên bố ngày 23 tháng 9 năm 1945 Tổng thống Mỹ Truman đã ra tuyên bố về chính sách của Mỹ đối với tài nguyên thiên nhiên nằm trong lòng đất và trên đáy biển của thềm lục địa. Điểm quan trọng của tuyên bố này là khái niệm thềm lục địa được gắn liền và ràng buộc với vấn đề tìm kiếm và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở dưới đáy biển và lòng đất ở dưới đáy biển. Tuyên bố đó cho rằng đó là một vấn đề công bằng và hợp lý, bởi vì thềm lục địa được coi như là một phần kéo dài tự nhiên của vùng đất nội địa quốc gia ven biển và đương nhiên thuộc về quốc gia đó. Như vậy Tuyên bố của Mỹ đã đưa ra những căn cứ nhằm giải thích việc xác định thềm lục địa có chiều rộng tới đường đẳng sâu là 200 mét. Mặt khác Tuyên bố của Tổng thống Truman vê thềm lục địa của Mỹ đã mang đầy đủ ý nghĩa nhất về chủ quyền của quốc gia ven biển vì mục đích thăm dò, khai thác hay có thể nói nó còn mang đầy đủ ý nghĩa về chính trị, kinh tế, pháp lý của thềm lục địa nói chung. Nhưng thực ra Tuyên bố này của Mỹ chưa phải là tuyên bố đầu tiên về thềm lục địa vì ngày 29 tháng 9 năm 1916 Nga hoàng đã ra một văn bản pháp lý về chủ quyền với các đảo không có lục địa ở miền Bắc Xibiri. Tuyên bố này thực ra Nga hoàng lúc đó chỉ đề cấp tới quyền đánh cá là chủ yếu chứ 15
  19. vẫn không nói gì về việc làm chủ hay là khai thác các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa vì họ chưa có ý thức đầy đủ về thềm lục địa với những tài nguyên thiên nhiên của nó như ngày nay. Đồng thời qua Hiệp ước ngày 26 tháng 2 năm 1942 giữa Anh (nhân danh Trinité và Tobago) và Venezuela phân định vùng biển trong Vịnh Paria đã nêu lên khái niệm vùng phân định là “Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài vùng nước lãnh thổ”. Sắc lệnh của Tổng thống Arhentina ngày 24 tháng 1 năm 1944, Điều 2 “Vùng biển gần lục địa của Arhentina sẽ là các vùng tạm thời bảo tồn tài sản”. Và 7 năm sau đó mới có thêm những phản ứng từ các quốc gia không có vùng thềm lục địa theo tiêu chuẩn địa chất: Đó là vào tháng 3 năm 1952 các nước Chi lê, Êcurado, Pêru đã họp nhau lại và ra Tuyên bố chung Sangchiagô. Theo Tuyên bố này họ đã giành lấy mọi chủ quyền cũng như quyền tài phán đối với một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ bờ biển kể cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Họ cho rằng các giới hạn lãnh hải có từ trước không đủ để phát triển, sử dụng và bảo toàn các tài nguyên thiên nhiên ở biển mà quốc gia ven biển có quyền chiếm hữu. Hai nguyên tắc cơ bản về luật biển, hỡnh thành từ thế kỷ 18, khụng cũn phự hợp (lónh hải rộng 3 hải lý và tự do biển cả). Xuất hiện xu hướng mở rộng tối đa quyền tài phán quốc gia ra các vùng biển nhằm mục đích xác định chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật và không sinh vật, tăng cường vị thế nước ven biển trong khu vực và trên thế giới. Tỡnh hỡnh đó làm gia tăng mâu thuẫn quyền lợi chiến lược kinh tế - quốc phũng giữa cỏc nước ven biển và không có biển, các nước có công nghệ cao về khai thác độ sâu đáy biển và đại dương, các nước có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau trong việc phân định thềm lục địa. Tóm lại, trước năm 1958 các quốc gia đã xác định giới hạn thềm lục địa của mình một cách tuỳ tiện, không theo một tiêu chuẩn cố định nào. Trong các tuyên bố đó, các quốc gia chủ yếu nhấn mạnh những quyền chủ quyền của mình đối với thềm lục địa hơn là xác định rõ khái niệm thềm lục địa. Nhưng chủ quyền quốc gia đối với mỗi thềm lục địa ở các quốc gia là như thế nào thì trước hết chúng ta lần lượt nghiên cứu việc xác lập chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa qua các quy định của Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc qua các thời kỳ sau: 16
  20. 1.3.2. Xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa trước Công ước 1958 Vấn đề xác định chủ quyền quốc gia về thềm lục địa được đặt ra cách đây không lâu và nó gắn liền với sự phát triển khả năng thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Với mục đích nắm lấy những nguồn nguyên liệu mới, các quốc gia lần luợt công bố những văn bản pháp lý quốc gia nhằm xác lập chủ quyền của mình đối với thềm lục địa. Lúc đầu là những Tuyên bố đơn phương về sau được công nhận rộng rãi và trở thành Luật tập quán quốc tế về thềm lục địa tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau như: Có nước chỉ đòi chỉ đòi chủ quyền thậm trí cả với vùng nước phía trên như Argentina, ElSalvadoro. Còn Mỹ và Anh thì chỉ đòi quyền kiểm soát. Tóm lại trước khi có Công ước Giơnevơ năm 1958 thì các quốc gia đòi hỏi những quyền chủ quyền khác nhau đối với thềm lục địa. Xuất phát từ việc thừa nhận chủ quyền quốc gia ở thềm lục địa, từ lâu người ta đã chấp nhận quốc gia ven biển có thể thực hiện rộng rãi nhiều quyền hành đối với vùng nước cũng như đối với đáy và lòng đất dưới đáy biển và vùng trời bên trên thềm lục địa: đó là các quyền “lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Tất cả các vấn đề chủ quyền quốc gia đối với thềm lục địa sẽ được xem xét từ trước khi các Công ước Luật biển có hiệu lực. Nhìn chung có các loại như sau: 1.3.2.1. Chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa. Quy chế pháp lý của thềm lục địa bắt nguồn từ Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman nhằm thiết lập chủ quyền của Hoa Kỳ ở thềm lục địa. Đây không phải là một sự ngẫu nhiên mà Tổng thống nước Mỹ - Truman đưa ra tuyên bố này mà chính là vì Hoakỳ muốn độc quyền chiếm tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa. Bằng chứng là sau 2 năm Hoa kỳ đã dùng dàn khoan dầu hoả đầu tiên trên thềm lục địa của Louisian. Điểm đáng chú ý ở đây là Tuyên bố của Tổng thống Mỹ- Truman chỉ thiết lập các quyền sở hữu, tài phán và kiểm soát đối với tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của thềm lục địa (chủ yếu là nhằm vào các mỏ dầu) mà không hề đả động tới tài nguyên sinh vật ở vùng nước phía trên của thềm lục địa. Tuyên bố Truman đã biện luận rằng: 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2