ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VI THỊ TIẾP

PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY

Ở HÕA AN - CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Thái Nguyên – 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VI THỊ TIẾP

PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY

Ở HÕA AN - CAO BẰNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

GS. TS VŨ ANH TUẤN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Thái Nguyên – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi , các tài liệu

trong luâ ̣n văn là trung thực . Nô ̣i dung luâ ̣n văn chưa từ ng đươ ̣c công bố trong

bất cứ công trình nào .

Tôi xin chi ̣u trách nhiê ̣m về lờ i cam đoan này .

Thái nguyên , ngày 20 tháng 4 năm 2016

Ngườ i cam doan

Vi Thi ̣ Tiếp

XÁC NHẬN XÁC NHẬN

CỦA KHOA CHUYÊN MÔN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn i

GS.TS Vũ Anh Tuấn

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình

của các thầy cô giáo, người thân và gia đình.

Qua đây, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Vũ Anh Tuấn, người

thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban Giám hiệu,

phòng Đào tạo, bộ phận Sau đại học và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn

trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

Em xin gửi lời cảm ơn đến nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Triều Ân,

nhà nghiên cứu dân gian Dương Sách, các nghệ nhân dân gian, Phòng văn hóa

huyện Hòa An- Cao Bằng và các cán bộ thư viện tỉnh Cao Bằng ... đã cung cấp

tư liệu và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu.

Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô gáo đã đọc và chỉ ra

những thành công và hạn chế của em trong luận văn tốt nghiệp này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn ii

Vi Thị Tiếp

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan .................................................................................................... i

Lời cảm ơn ....................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

NỘI DUNG ..................................................................................................... 7

Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN –

CAO BẰNG VÀ THỂ LOẠI PHONG SLƢ ................................................. 7

1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Cao Bằng. .......................................... 7

1.1.1. Cộng đồng người Tày ở Cao Bằng. ........................................................ 7

1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Hòa An – Cao Bằng ......................................... 7

1.1.2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế của người Tày ở Hòa An – Cao bằng ......... 7

1.1.2.2. Đặc điểm xã hội – văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng ....... 9

1.2. Khái quát về Phong slư ........................................................................... 13

1.2.1. Khái niệm Phong slư ............................................................................ 13

1.2.2. Nguồn gốc và bản chất diễn xướng của Phong slư ............................... 14

1.2.3. Phong slư trong quá trình lưu truyền và đổi mới. ................................. 16

1.3. Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng ............................................................. 17

1.3.1. Phong slư trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng.. 17

1.3.2. Các giai đoạn phát triển của thể loại Phong slư. ................................... 18

1.3.3. Hình thức diễn xướng của Phong slư .................................................... 19

Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHONG SLƢ Ở HÕA

AN – CAO BẰNG ........................................................................................ 22

2.1. Phong slư là những lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. ....................................... 22

2.1.1. Phong slư là những lời tỏ tình chân thành, giản dị. ............................... 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iii

2.1.2. Phong slư là những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi. ............ 28

2.1.3. Phong slư là những lời bày tỏ nỗi buồn trong tình yêu cách trở ............ 33

2.2. Phong slư là những lời nhắn gửi, lời dặn dò. ........................................... 37

2.3. Sự chuyển hóa đổi mới chức năng của Phong slư trong đời sống hiện đại ..... 44

2.3.1. Phong slư là những lời ca ngợi Đảng và Bác Hồ. ................................. 44

2.3.2. Phong slư là những lời ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. .............. 50

Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHONG SLƢ Ở

HÕA AN– CAO BẰNG ............................................................................... 55

3.1. Kết cấu của Phong slư ............................................................................. 55

3.2. Thể thơ thất ngôn trường thiên. ............................................................... 59

3.3. Ngôn ngữ lời thơ Phong Slư .................................................................... 62

3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh .......................................... 63

3.3.2. Lời thơ Phong slư là sự kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ

bác học........................................................................................................... 66

3.4. Nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ .................................................. 70

3.4.1. Biện pháp tu từ so sánh ........................................................................ 71

3.4.2. Biện pháp tu từ điệp ngữ ...................................................................... 73

3.5. Không gian và thời gian nghệ thuật trong Phong slư ............................... 76

3.5.1. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 76

3.5.1.1. Không gian thiên nhiên ..................................................................... 77

3.5.1.2. Không gian tâm tưởng ....................................................................... 81

3.5.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 84

3.5.2.1. Thời gian hiện thực. .......................................................................... 84

3.5.2.2. Thời gian tâm lý. ............................................................................... 87

KẾT LUẬN .................................................................................................. 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 93

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Về phương diện khoa học

Cao Bằng – mảnh đất văn hóa, từ xa xưa là nơi hội tụ của nền văn hóa

các tộc người Tày, Nùng, Dao, Mông ... Trong quá trình vận động của lịch sử,

văn hóa các dân tộc luôn có sự hòa nhập, đan xen, bồi đắp lẫn nhau tạo nên

những nét văn hóa riêng biệt, mang nét đặc trưng của từng tộc người. Riêng

vùng đất Hòa An – Cao Bằng kinh đô thành nhà Mạc xưa nơi tập trung nhiều

nét đẹp văn hóa khác nhau của tỉnh Cao Bằng với những làn điệu dân ca mượt

mà say đắm lòng người như Sli, Lượn, Phong slư, hay những câu ca dao, thành

ngữ, tục ngữ... Diễn tả nhận thức, tâm lý, tình cảm của con người về thiên

nhiên vũ trụ, về cuộc sống xã hội, đời sống tình cảm cha con, vợ chồng, nhất là

tình yêu nam nữ… Trong kho tàng văn học dân gian của người Tày ở Hòa An -

Cao Bằng, Phong slư hiện nay vẫn còn tồn tại nhưng cũng đang dần bị mai

một, số người biết Phong slư hiện nay không còn nhiều, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Do vậy, việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị Phong slư

là sự trăn trở của những người có tâm huyết muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc.

Thực tế từ trước tới nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về

Phong slư nhưng với số lượng còn rất hạn chế. Vì vậy việc nghiên cứu về

Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng vẫn là một đề tài mở cho những ai yêu thích

loại hình văn học dân gian này.

1.2. Về phương diện thực tế.

Phong slư là thơ tình, thư tình của người Tày có kết cấu và luật thơ cố

định, có cách ngâm riêng biệt mang đậm bản sắc văn hóa của người Tày. Khi

chữ Nôm Tày xuất hiện và phát triển mạnh mẽ trong văn chương cũng là thời

kỳ Phong slư phát triển rực rỡ, tuy nhiên, khi chữ quốc ngữ xuất hiện, chữ

Nôm Tày dần bị mai một làm cho nền văn học chữ Nôm rơi vào suy thoái và

1

có nguy cơ mất hẳn. Theo đó các làn điệu dân ca Tày được viết theo thể thơ

thất ngôn truyền thống của người Tày (trong đó có Phong slư) cũng tàn lụi dần.

Do vậy, việc nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật

của Phong slư sẽ giúp chúng ta phần nào hiểu được về đời sống văn hóa, tinh

thần của người Tày, đồng thời góp phần gìn giữ, bảo lưu và phát huy những

nét đẹp đó trong văn hóa truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Hòa An – Cao

Bằng nói riêng của cộng đồng dân tộc Tày nói chung.

Xuất phát từ phương diện khoa học và thực tiễn nêu trên chúng tôi chọn

"Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" làm đề tài luận văn tốt

nghiệp của mình. Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của tôi, người

con của vùng đất Hòa An với mong muốn được khám phá, tìm hiểu, tôn vinh

những giá trị văn hóa của quê hương mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Dân Tộc Tày có nền văn hóa lâu đời, đã góp cho nền văn hóa nghệ thuật

chung của dân tộc Việt Nam nhiều thể loại phong phú, đặc sắc và đa dạng như:

Then, lượn, câu đố, thành ngữ, tục ngữ... Tuy nhiên cũng như nhiều dân tộc

khác khi chưa có chữ viết, chưa có kho lưu trữ và chủ yếu được truyền miệng

nên việc nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Tày cũng còn gặp nhiều khó

khăn. Nhưng cũng do ưu thế truyền miệng nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ

khác trong sinh hoạt cộng đồng, trong những lễ hội mà những giá trị văn hóa

đó vẫn còn tồn tại.

Phong slư là một thể loại văn học dân gian của người Tày, được lưu

truyền trong dân gian. Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu quy mô lớn

nào về Phong slư của người Tày, các tài liệu nghiên cứu về Phong slư mà

chúng tôi có được mới chỉ dừng lại ở mức khái quát sơ bộ, chưa đi sâu vào tìm

hiểu, phân tích nội dung, nghệ thuật của Phong slư. Dưới đây là một số bài

viết, đề tài nghiên cứu đã từng quan tâm đến Phong slư của người Tày:

2

- Tạp chí văn học số 3 (1976) có bài viết: "Vài suy nghĩ về hát Quan

Lang, Phong slƣ, lƣợn" của tác giả Vi Hồng. Trong bài viết này tác giả giới

thiệu về những nội dung tổ chức, hình thức cơ bản, khái quát về các loại hình

dân ca phổ biến của dân tộc Tày, Nùng. Tuy nhiên tác giả mới chỉ giới thiệu

khát quát về các thể loại này.

- Trong tài liệu "Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày – Nùng" (1979) của tác giả

Vi Hồng có giới thiệu đến đời sống văn hóa, tinh thần của hai dân tộc Tày-

Nùng qua làn điệu dân ca Sli, Lượn. Trong đó tác giả cũng đề cập tới nhóm

dân ca đặc thù Tày được gọi là Phong slư. Tác giả có viết "Phong slư là những

bức thư viết bằng thơ về tình yêu được trai gái Tày dùng để trao đổi, bày tỏ

tình cảm lứa đôi. Phong slư là những khúc hát diễm tình hô hào, kêu gọi, thiết

tha cho những mối tình chung thủy". [18, tr. 231]

- Trong tài liệu" Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam" của tác giả

Đặng Văn Lung xuất bản năm 1997 có đề cập đến khái niệm, hình thức diễn

xướng của Phong slư dân tộc Tày.

- Trong tài liệu "Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng

Sơn" (2000)của tác giả Nông Thị Nhình, nhà xuất bản văn hóa dân tộc đã đề

cập tới các loại hình dân ca của các dân tộc Tày – Nùng – Dao, trong đó có

nhắc tới thể loại dân ca Phong slư của dân tộc Tày. Tác giả cho rằng Phong slư

là một làn điệu hát thơ, làn điệu này dùng để diễn tả những bài thơ, đúng hơn

là những bức thư về tình yêu đôi lứa.

- Tác giả Hoàng Hựu nhà nghiên cứu văn hóa trong bài viết "Về bức

Phong slƣ (Thƣ tình) viết trên nền vải của ngƣời Tày" đăng trên tạp chí Hán

Nôm, số 2(87) năm 2008 đã đề cập nội dung của bức Phong slư cổ, trong đó có

đề cập tới khái niệm, thể loại, hình thức, nội dung của một bức Phong slư.

- Năm 1994 Phương Bằng cho xuất bản công trình sưu tầm, nghiên cứu

"Phong slƣ", trong công trình này tác giả đã sưu tầm, phiên dịch chữ Nôm của

những bức Phong slư tình yêu cổ ở các tỉnh miền núi Phía Bắc.

3

- Đề tài nghiên cứu khoa học "Hệ thống đề tài trong Phong slƣ của

ngƣời Tày ở Lạng Sơn" của tác giả Lâm Thị Diệp đã nghiên cứu về thể loại

Phong slư trên phương diện hệ thống đề tài chung của Phong slư trong giai

đoạn xưa và hiện đại.

Nhìn chung việc nghiên cứu về Phong slư còn rất ít so với bề dày của

thể loại này trong nền văn hóa dân tộc Tày.

Các bài viết, các công trình nghiên cứu đề cập tới Phong slư chỉ dừng lại

ở một góc độ nhỏ mà chưa đi sâu tìm hiểu cặn kẽ thể loại này. Từ thực tế trên,

đề tài "Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" sẽ hướng tới nghiên

cứu về thể loại văn học này một cách cụ thể hơn và góp phần giữ gìn, bảo tồn,

phát huy những giá trị về nội dung và nghệ thuật của Phong slư trong đời sống

hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

3.1. Mục đích nghiên cứu.

- Nghiên cứu "Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" để

tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật của thể loại văn học này.

- Tìm hiểu đời sống tư tưởng tình cảm của người Tày ở Hòa An, Cao

Bằng.

- Góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Tày

ở Hòa An, Cao Bằng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tập hợp các tài liệu liên quan đến Phong slư.

- Sưu tầm, tìm hiểu thêm các văn bản về Phong slư tồn tại trong đời

sống dân gian dưới hình thức diễn xướng từ đó tiếp cận nghiên cứu, đưa ra

những phân tích, đánh giá về nội dung và nghệ thuật.

- Bước đầu đưa ra ý kiến gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn

hóa, nghệ thuật của Phong slư trong cuộc sống hiện tại.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát những lời bài hát Phong slư đã

được các nhà nghiên cứu sưu tầm và xuất bản thành sách.

- Những tư liệu sưu tầm, điền dã tại Hòa An- Cao Bằng của tác giả

đề tài.

4.2. Phạm vi gnhiên cứu

* Phạm vi tư liệu nghiên cứu:

- Phương Bằng, (1976), Phong slƣ, Nxb văn hóa dân tộc, Hà nội.

- Những tư liệu chưa xuất bản:

+ Văn bản của chính tác giả sưu tầm qua các nghệ nhân dân gian.

* Phạm vi vấn đề nghiên cứu:

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số đặc

điểm nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả có sử dụng kết hợp nhiều

phương pháp nghiên cứu khác nhau cụ thể:

- Phương pháp điền dã văn học.

- Phương pháp khảo sát, thống kê.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

6. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu Phong slư trong đời sống văn hóa dân gian của người Tày ở

Hòa An – Cao Bằng góp phần giới thiệu một thể loại ca dao, dân ca trong kho

tàng văn học dân gian người Tày đến người đọc. Đồng thời giúp cho người đọc

hiểu rõ hơn về nội dung, nghệ thuật của Phong slư và đời sống tư tưởng, tình

cảm của đồng bào dân tộc Tày nói chung, đồng bào dân tộc Tày ở Hòa An –

Cao Bằng nói riêng.

5

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

được trình bày trong 3 chương:

Chương 1 : Khái quát về cộng đồng người Tày ở Hòa An – Cao Bằng và

thể loại Phong slư.

Chương 2 : Những nội dung cơ bản của Phong slư ở Hòa An – Cao

Bằng.

Chương 3 : Một số đặc điểm nghệ thuật của Phong slư ở Hòa An – Cao

Bằng.

6

NỘI DUNG

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN – CAO BẰNG

VÀ THỂ LOẠI PHONG SLƢ

1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng.

1.1.1. Cộng đồng người Tày ở Cao Bằng.

Cao Bằng là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tổ quốc. Nơi

đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc như: Tày, Nùng, Dao, Mông, Kinh...

Nhưng người Tày có số lượng lớn nhất chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh.

Theo một số nghiên cứu, người Tày ở Cao Bằng được hình thành từ ba nhánh:

- Nhánh người Tày gốc: Còn gọi là Thổ, nghĩa là thổ dân, là những

người đã sinh sống ở địa phương từ lâu đời, nhánh này là con cháu của người

Tày cổ.

- Nhánh người Ngạn có nguồn gốc từ Quý Châu, Trung Quốc, theo "Sơ

khảo lịch sử Cao Bằng" ghi chép: Trong các cuộc giao tranh giữa các tộc

người, người Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, hòa nhập vào cư dân địa

phương và trở thành người Tày.

- Nhánh người Kinh hóa Tày: Là con cháu các quan lại và binh lính

người Kinh từ dưới xuôi lên cai quản và bảo vệ biên giới, họ lấy vợ người Tày,

sinh sống và lập nghiệp tại đây lâu dần trở thành người Tày. Sách cũ còn ghi

chép lại: Khi triều đình nhà Mạc bị Lê Trịnh đánh đuổi đã chạy lên trấn giữ

vùng đất Cao Bằng trong gần một thế kỉ. Sau khi nhà Mạc diệt vong, con cháu

và quan quân sống hòa vào cùng nhân dân địa phương, đồng hóa với người

Tày. Chính sự giao lưu Kinh - Tày này đã tạo nên một nét văn hóa đặc sắc

riêng biệt của người Tày ở nơi đây.

1.1.2. Cộng đồng ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng

1.1.2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao bằng

Hòa An là một huyện trung tâm nằm xung quanh, bao bọc lấy thành phố

Cao Bằng. Có các đầu mối giao thông từ đường 3, 4 tỏa đi các huyện và đi cả

biên giới Trung Quốc. Có tọa độ địa lý:

7

Từ 20039'49 vĩ độ Bắc từ Khuổi Săng xã Hồng Nam đến núi Bản Chang

xã Dân Chủ.

Từ 106000'49 đến 100024'18 Kinh độ Đông từ Lũng Ong xã Công Trũng

đến Khuổi Săng xã Hồng Nam.

Phía Bắc giáp huyện Hà Quảng, phía Đông giáp huyện Trà Lĩnh –

Quảng Uyên, phía Nam giáp huyện Thạch An, phía Tây giáp huyện Nguyên

Bình và Thông Nông. Với tổng diện tích 60.952,08 ha, Hòa An là địa bàn cư

trú của nhiều dân tộc như: Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh.... Trong số những

dân tộc đó người Tày chiếm đa số, Với sự quy tụ này đã tạo nên một đời sống

văn hóa tinh thần đa sắc màu của con người vùng đất Hòa An.

Đặc điểm địa hình huyện Hòa An tương đối bằng phẳng với những cánh

đồng rộng lớn nằm cạnh những dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho

việc tưới tiêu phát triển nông nghiệp lúa nước. Khí hậu vùng đất này chia

thành bốn mùa rõ rệt, mùa xuân còn rét, mùa hè mưa nhiều, mùa thu rất nóng,

mùa đông rất lạnh. Với khí hậu ẩm nhiệt đới đã tạo điều kiện thuận lợi cho cư

dân canh tác và trồng trọt theo mùa. Ngay từ xa xưa người dân nơi đây đã biết

tận dụng những ưu thế của thiên nhiên để lao động phục vụ cuộc sống, sinh

hoạt hàng ngày.

Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, huyện Hòa An được đánh giá là một

huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh. Huyện có những cánh đồng rộng,

phì nhiêu là vựa lúa lớn nhất của tỉnh, trong dân gian vẫn còn lưu truyền các

câu thơ thể hiện sự giàu có của mảnh đất này:

"Cao Bằng gạo trắng nƣớc trong

Bát ngát ruộng đồng

Giàu nhất Hòa An"

Là huyện nông nghiệp nên nguồn lực chủ yếu của Hòa An là đất đai,

mặt nước và nguồn lao động khá dồi dào tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát

triển kinh tế của huyện, cụ thể:

8

Về cơ cấu nền kinh tế hiện nay của huyện Hòa An chủ yếu là nền kinh tế

nhiều thành phần nông lâm kết hợp chăn nuôi, kinh doanh, thương nghiệp và

dịch vụ. Tiềm năng khai thác chủ yếu vẫn là nông nghiệp, tuy nhiên Hòa An

đang từng bước chuyển dịch sang cơ cấu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp

dụng chuyển giao công nghệ, khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp đã dần làm

tăng cao đời sống của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, môi trường tự nhiên cũng

gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống. Chế độ mưa theo mùa gây

nên tình trạng lũ lụt gây mất mùa. Cùng với việc chịu ảnh hưởng của gió mùa

Đông Bắc trong mùa đông với các hiện tượng thời tiết như sương muối, sương

giá gây nhiều ảnh hưởng xấu đến sản xuất.

Địa hình huyện Hòa An như một dải đồng bằng với những cánh đồng

bằng phẳng trải dài dọc theo những sườn đồi, những dòng suối, con sông như

những dải lụa dài vô tận. Khung cảnh sơn thủy hữu tình này dường như đã

khơi nguồn cảm hứng thơ ca cho con người nơi đây. Ai đã từng đặt chân đến

mảnh đất này đều sẽ không bao giờ quên được khung cảnh yên bình với những

cánh đồng rộng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những câu lượn vút cao theo

gió, những câu Phong slư tình yêu thấm đẫm hương vị của cánh đồng, bờ

ruộng của núi rừng Hòa An.

Chính điều kiện tự nhiên, kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, mang đặc trưng riêng biệt của vùng

đất này. Phải chăng những làn điệu Then, Lượn, Phong slư ra đời và tồn tại để

đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát vọng tinh thần,

tình yêu của họ với mảnh đất nơi đây.

1.1.2.2. Đặc điểm xã hội – văn hóa của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng

Hòa An là huyện có nhiều dân tộc sinh sống và định cư lâu đời. Trong

đó đông nhất là dân tộc Tày, cộng đồng người Tày ở Hòa An chủ yếu sống tập

trung thành các làng, bản có từ 40 – 60 nóc nhà trở lên, sống đoàn kết quy tụ

9

với nhau. Một gia đình thường có từ 2 – 3 thế hệ cùng chung sống với nhau

trong một mái nhà. Tất cả các gia đình người Tày đều được xây dựng theo chế

độ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính phụ hệ. Người phụ nữ Tày trong gia

đình trước đây không được xã hội đối xử bình đẳng như nam giới nhưng họ

vẫn được coi trọng trong gia đình bởi họ có vai trò là người quan trọng trong

lao động sản xuất, quản lí kinh tế gia đình và chính họ còn là người nuôi

dưỡng và làm giàu thêm những điệu hát dân ca từ thế hệ này sang thế hệ khác,

cứ như thế ngọn lửa văn hóa cứ hồng mãi trong mỗi nếp nhà sàn và thấm

đượm trong mỗi tâm hồn của những con người nơi đây.

Hòa An có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được quy tụ và thể

hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của cộng đồng mỗi

dân tộc, biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo ở

lễ hội truyền thống.

- Về Văn hóa vật thể.

Về văn hóa ẩm thực: người Tày ở Hòa An, Cao Bằng có đời sống văn

hóa ẩm thực rất phong phú đa dạng mang bản sắc văn hóa dân tộc, miền núi.

Trong bữa ăn người Tày luôn thể hiện sự kính trên, nhường dưới trong nội tộc,

gia quyến và thành tâm, hào hiệp mến khách. Hiện thực sinh động ấy cũng đã

đi vào dân ca Tày cùng năm, tháng.

Về trang phục, người Tày, nói chính xác hơn là phụ nữ Tày có truyền

thống quanh năm, trồng bông, kéo sợi, dệt vải rất khéo léo. Họ nhuộm vải

trắng dệt xong bằng thứ thuốc nhuộm tinh chế từ cây chàm, để có được màu

xanh tím óng. Từ đó làm ra trang phục nam và nữ của người Tày. Tất cả từ

quần, áo, váy, thắt lưng đến khăn đội đầu, khăn trùm đều nhuộm chàm. Trong

tang lễ, hay thời gian để tang họ vận đồ trắng may vội, khăn tang trắng, giày

vải má trắng, khuy áo thay bằng tua vải trắng khâu vào áo, buộc lại. Họ quan

niệm rằng, màu trắng là màu trong tang lễ. Trang phục của người Tày cũng

được phản ánh rất rõ qua các bài ca dao, dân ca Tày.

10

Về nhà ở, từ lâu, người Tày sống quần tụ thành xóm, làng từ 8 đến 15

nhà, cũng có nơi tới 20, 30 nhà san sát nhau, hoặc nhiều hơn. Tùy từng nơi,

hoàn cảnh khác nhau mà bà con làm nhà có khác khác nhau. Vùng đồi núi,

vùng sâu, vùng xa, biên giới người Tày thường làm nhà sàn thưng ván, cót,

buộc cây, trát vách xung quanh hoặc tường trình hay xây đá. Vùng đồng bằng,

ven thị trấn thường làm nhà trệt. Nhưng nhà truyền thống của người Tày, nét

kiến trúc văn hóa độc đáo, đặc trưng điển hình chính là ngôi nhà sàn.

- Văn hóa phi vật thể.

Quá trình lịch sử và hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt đã tạo cho người Tày

ở Hòa An một kho tàng văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc, với sự

phong phú, sinh động về phong tục tập quán, tín ngưỡng và giàu có về văn học

nghệ thuật...

Về phong tục tập quán, Phong tục tập quán của người Tày ở Hòa An rất

đặc sắc. Phong tục cưới xin của người Tày thể hiện đầy đủ sự thiêng liêng, sự

vui vẻ ấm nồng tình cha mẹ và họ hàng, bạn bè, là ngày vui của cộng đồng.

Theo các cụ già kể lại qua những làn điệu dân ca, đặc biệt là làn điệu Phong

slư có thể thấy được sự bình đẳng tự do trong việc lựa chon bạn đời trăm năm

cho mình. Họ tự tìm hiểu nhau để xây dựng một cuộc đời chung. Theo phong

tục thì việc định ngày cưới rất quan trọng nên gia đình nhà trai phải đến nhờ

những người thông hiểu Nho giáo để xem ngày lành tháng tốt rồi mới tổ chức

đám cưới.

Phong tục đám ma của người Tày cũng có nhiều nét đặc sắc. Trong đám

tang dù xót thương nhưng không ai được khóc khi chưa nhập quan, đây là một

tục lệ phải tuân thủ nghiêm túc. Khi có người thân qua đời người trong nhà

phải đi nhờ thầy tào về thực hiện các thủ tục đám ma. Quan tài người chết

được đặt ở giữa nhà trên hai cây chuối chắc nịch bên trên có úp nhà táng. Quần

áo đám tang đều do người nhà tự khâu bằng vải trắng. Sau khi mọi thủ tục đã

11

xong thầy tào sẽ làm lễ tế cúng người chết về cõi tiên, một đám ma của người

Tày thường diễn ra từ 3 đến 7 ngày.

Bên cạnh đó còn có lễ chúc phúc, chúc thọ, lễ chúc khang ninh cũng là

một phong tục đặc sắc của người Tày tại Hòa An – Cao Bằng, nhằm báo hiếu

cha mẹ những người sinh thành. Các lễ này thường mời thầy tào hoặc bà bụt

đến góp vui, hát những bài hát ca ngợi công đức của cha mẹ

Về Tết và lễ hội: người Tày quanh năm có nhiều tết và lễ hội mang đặc

trưng của nền sản xuất nông nghiệp, lúa nước như: Tết nguyên đán, Tết Đắp

nọi, Tết Thanh Minh, Rằm Tháng bẩy... Lễ hội Lồng Tồng, Lễ hội đền, chùa

(Hội chùa: Đống Lân, đền Kỳ Sầm, đền Vua Lê...)

Về Tín ngưỡng, tôn giáo: Người Tày ở Hòa An rất coi trọng thờ cúng tổ

tiên. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và không thể thiếu trong đời sống

tâm linh của người Tày và là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa

của người Tày.

Về Văn học dân gian, Văn học dân gian của người Tày ở Hòa An cũng

giống như dân tộc Tày các vùng khác có sự phong phú và đa dạng về nhiều thể

loại như: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện thơ

Nôm, lời ăn tiếng nói của nhân dân (thành ngữ, tục ngữ, vè, phuối pác, phuối

rọi...). Văn học dân gian Tày đi sâu phán ánh cuộc sống lao động sản xuất,

chiến đấu, phản ánh khát vọng của nhân dân. Bên cạnh đó các làn điệu dân ca

trữ tình mượt mà phản ánh đời sống tâm hồn tình cảm của người Tày sâu sắc

như: Lượn, Then, hát Quan Lang, Mo, Pựt.... Trong đó Phong slư là một hình

thức thơ ca đặc biệt của người Tày, Phong slư là những bức thư tình yêu, một

thể thơ đặc sắc của trai gái Tày dùng để trao đổi tình cảm, tình yêu lứa đôi.

Những bức thư tình yêu này được viết bằng chữ nôm Tày được các trí thức

bình dân viết và ghi lại những tâm tư tình cảm thầm kín của trai gái Tày, được

đọc ngâm với giai điệu rất thiết tha, vì vậy những bức Phong slư đó trở thành

một loại dân ca mang tính cộng đồng như những loại hình dân ca khác.

12

Về ngôn ngữ, người Tày chủ yếu sử dụng hệ ngôn ngữ Tày – Thái, là

nhóm ngôn ngữ rất gần với tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và thanh âm. Tuy

nhiên chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, sự vật hiện tượng trong sinh hoạt là

sáng tạo của người Tày còn lại là vay mượn từ Tiếng Hán, tiếng Hán Việt và

tiếng Việt. Về chữ viết, người Tày không có chữ viết riêng nên lịch sử thành

văn của dân tộc Tày gần như không có. Ngày xưa khi chữ viết chưa ra đời

người Tày giao tiếp chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Chữ Nôm ra đời

trong khoảng thế kỉ từ XIII – XV. Đến khi nhà Mạc chuyển triều đình lên Cao

Bằng đã để lại dấu ấn chữ Nôm Tày trên vùng đất bản địa vào khoảng thế kỉ

XVI – XVII. Vì vậy có thể khẳng định chữ Nôm Tày ra đời không muộn hơn

so với chữ Nôm Việt. Chữ Nôm Tày do chịu ảnh hưởng của chữ Nôm Việt mà

ra nên có cấu tạo như chữ Nôm Việt. Đến giai đoạn sau này người Tày vừa sử

dụng chữ viết theo lối Quốc Ngữ bằng chữ cái Latinh, do vốn từ của dân tộc

còn nghèo nàn, và việc vay mượn chữ Nôm và chữ Hán làm cho chữ viết của

dân tộc Tày gặp nhiều khó khăn. Có thể thấy việc chữ viết ra đời là một trong

những điều kiện vô cùng quan trọng trong việc lưu giữ nền văn hóa văn học

của các dân tộc nói chung của dân tộc Tày nói riêng.

Tiếng nói Tày rất sinh động về âm thanh, giàu có về từ ngữ và đặc biệt là

rất sinh động về sắc thái biểu cảm. Việc ra đời của chữ viết tiếng Tày trở thành

một phương tiện đắc dụng cho việc ghi chép, sáng tác thơ ca. Trong đó Phong

slư là một loại hình tiêu biểu.

Tất cả những điều kiện trên đã tạo cho dân tộc Tày ở Hòa An sáng tạo ra

nhiều hình thức sinh hoạt văn học nghệ thuật giàu bản sắc được lưu truyền

trong dân gian.

1.2. Khái quát về Phong slƣ

1.2.1. Khái niệm Phong slư

Trong quá trình sáng tạo văn hoá nghệ thuật dân gian của dân tộc mình,

người Tày đã có nhiều điệu lượn, hát phong phú, đa dạng và làn điệu Phong slư

13

với chất liệu đậm đà trữ tình, yêu thương da diết của đôi lứa đã được xuất hiện

từ lâu, đó là các câu hát theo lối tự sự hoặc là những lá thư của những người

đang yêu gửi cho nhau. Phong slư khác với các loại hình dân ca khác như: Then,

Sli, Lượn, Phong slư vừa mang tính cá nhân vừa mang tính quần chúng. Cho

đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về loại hình nghệ thuật này.

Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân dân

gian và qua quá trình tiếp xúc tìm hiểu chúng tôi lấy khái niệm về Phong slư

của nhà văn, nhà nghiên cứu Vi Hồng làm định hướng cho việc nghiên cứu của

mình trong luận văn này:

Phong slƣ là những bức thƣ viết bằng thơ về tình yêu đƣợc trai gái Tày

dùng để trao đổi, bày tỏ tình cảm lứa đôi. [18, tr. 222]

1.2.2. Nguồn gốc và bản chất diễn xướng của Phong slư

Văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của đời sống xã hội, do con

người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và phục vụ cho chính nhu

cầu của họ. Phong slư cũng giống như các loại hình nghệ thuật dân gian khác

đều bắt nguồn từ trong hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt đời sống của

nhân dân nên khó có thể xác định được rõ ràng thời điểm ra đời. Từ xa xưa

Phong slư đã tồn tại và lưu truyền ở Hòa An và nhiều địa phương khác đã có

sức sống lâu bền cùng sự phát triển của người Tày ở Hòa An.

Phong slư ra đời từ nhu cầu trao đổi tâm tư, tình cảm của các chàng trai,

cô gái Tày trong tình yêu, phản ánh các cung bậc tình cảm và những khát vọng

của người đang yêu. Trong giai đoạn chữ viết hình thành và phát triển, khi hát

sli, lượn giao duyên trực tiếp không diễn đạt được hết mọi nỗi nhớ, niềm

thương chất chứa trong lòng những chàng trai cô gái Tày, họ đã nhờ đến các

"slấy sli" những trí thức bình dân viết nên những bức Phong slư để gửi gắm

đến người mình yêu thương. Các "Ssấy sli" này đã dựa trên những câu ca có

sẵn trong dân gian sáng tác thành một bức Phong slư hoàn chỉnh phù hợp với

tâm trạng của người nhờ viết.

14

Xuân thiên vằn dú quẹng giƣờng ngần

Slíp hốc vọng hai mần tỏng táng

Sĩ từ dú lặm mản hác than

Vằng quẹng dú giƣờng chang lo xót

Điếp thâng bạn nâu boóc voằn xƣa

Phuồn lai vỉ viết slƣ thăm bạn.

Dịch nghĩa:

Ngày xuân vắng vẻ ngự giƣờng hoa

Mƣời sáu nhìn trăng vọng cửa sổ

Mình thân trai than thở sau màn

Ngày vắng đơn côi lòng lo lắng

Nhớ em nụ hoa trắng ngày xƣa

Buồn quá anh viết thƣ thăm bạn

Hầu hết trong các bức Phong slư đều miêu tả, giãi bày tâm trạng của

mình với bạn tình với những cung bậc tình cảm khác nhau. Đến khi họ có được

nhau thì những bức Phong slư trở thành kỉ vật lưu giữ kỉ niệm được trân trọng

giữ gìn của hai người, còn những cặp không đến được với nhau Phong slư trở

thành kỉ niệm mãi mãi không bao giờ quên của họ.

Trong quá trình phát triển của mình, loại hình Phong slư với tư cách là

một thể loại văn học dân gian có kết cấu hoàn chỉnh, với cách ngâm đọc riêng

biệt được cả xã hội đón nhận. Khi nhận được Phong slư gửi đến nếu biết chữ

thông thường những chàng trai cô gái họ tự đọc, nhưng cũng có lúc bức "Slư"

đó được đọc cho cả làng, cả bản cùng nghe. Nhưng trong xã hội trước đây số

người biết chữ không nhiều nên khi nhận được Phong slư họ phải đến nhờ các

"slấy sli" những người tri thức bình dân đọc hộ, bằng việc ngâm ngợi, diễn

xướng những bức Phong slư những “slấy sli” này đã biến những con chữ riêng

tư, cụ thể thành một sinh hoạt dân ca không thể thiếu trong đời sống của dân

tộc Tày.

15

1.2.3. Phong slư trong quá trình lưu truyền và đổi mới.

Văn học dân gian chủ yếu là những sáng tác truyền miệng của nhân dân

lao động, tuy nhiên bên cạnh việc truyền miệng văn học dân gian còn có cả

những sáng tác bằng văn bản. Trải qua lịch sử lâu dài khi đã có chữ viết thì văn

học dân gian được lưu truyền bằng cả hai phương diện. Trong đó Phong slư

của người Tày là loại hình thơ ca dân gian được lưu truyền bằng cả hai phương

diện truyền miệng và chữ viết.

Phong slư là những bức thư tình yêu của những chàng trai cô gái Tày

gửi cho nhau để trao đổi tình cảm, tình yêu đôi lứa. Trong xã hội xưa kia khi

những người biết chữ không nhiều, những chàng trai cô gái muốn viết Phong

slư phải đến nhờ những "sấy sli" những người trí thức bình dân viết hộ. Họ là

những người sáng tác Phong slư thay những chàng trai cô gái đang yêu, đồng

thời là người đọc những bức Phong slư được gửi đến. Thông thường những

bức Phong slư được gửi đến sẽ được "Sấy sli" đọc cho một mình người nhận

nghe nhưng cũng có khi bức Phong slư ấy được đọc cho cả nhà, cả bản để mọi

người cùng nghe. Chính yếu tố này đã tạo cho Phong slư vừa mang tính cá

nhân vừa mang tính cộng đồng. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi được các cụ

trên 80 tuổi cho biết, trước đây những bức Phong slư rất nhiều nhưng ngày nay

để tìm được một bức Phong slư hoàn chỉnh là rất hiếm, nếu còn chỉ là những

đoạn, những câu lưu trong trí nhớ, những đoạn được ghi chép trong những

quyển sách của các cụ.

Tuy nhiên cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, những chàng

trai cô gái Tày dần dần không còn viết Phong slư gửi cho nhau nữa, vì vậy

Phong slư không còn là những bức thư tình yêu mà Phong slư có sự đổi mới,

chuyển hóa phù hợp với tiến trình của văn học thời đại mới. Phong slư ngày

nay là sự sáng tạo nghệ thuật của một tác giả cụ thể, các bài Phong slư mới vẫn

tuân thủ theo cách diễn đạt của Phong slư cổ về luật thơ, cách ngâm, đọc

16

nhưng kết cấu, lời thơ, nội dung thơ đã có sự thay đổi cho phù hợp với đặc

điểm của xã hội ngày nay. Nếu như trước đây Phong slư chỉ là những bức thư

sử dụng để trao đổi về tình yêu đôi lứa thì hiện nay Phong slư là tiếng nói ca

ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi quê hương đất nước và cuộc sống mới... Có thể

thấy đề tài trong Phong slư hiện nay đã trở nên phong phú và đa dạng hơn.

Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp các bài Phong slư mới này tại các Cuộc thi, Hội

diễn văn nghệ quần chúng ở Hòa An - Cao Bằng.

1.3. Phong slƣ ở Hòa An – Cao Bằng

1.3.1. Phong slư trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng

Phong slư là thư tình của người Tày, khi chữ Nôm Tày ra đời và phát

triển mạnh mẽ Phong slư được viết bởi những người trí thức bình dân sống gần

gũi và trân trọng những sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động. Chính

những trí thức bình dân này đồng sáng tạo, cải biên tạo nên những bức Phong

slư mang đậm sắc thái tình cảm cá nhân cụ thể. Những bài Phong slư đã in sâu

trong tâm hồn tình cảm của biết bao người và những giai điệu ấy vẫn còn

được lưu truyền tới các thế hệ con cháu hôm nay. Thông qua những bài Phong

slư trai gái Tày có thể bày tỏ những nỗi niềm từ đáy sâu lòng mình để bạn tình

có thể cảm nhận được, bởi trước kia trai gái Tày rất ngại ngùng trong việc thổ

lộ tình yêu, mặc dù cả hai bên đều biết mình có tình cảm với nhau nhưng

không thể nói thành lời, họ chỉ gặp nhau, chào nhau ở đám cưới, ngày chợ,

ngày hội... chỉ nói với nhau vài lời ngắn ngủi nên không thể diễn tả hết được

lòng mình. Khi trở về, với nỗi nhớ nhung da diết ấy họ viết lên (hoặc nhờ sấy

sli viết hộ) gửi cho nhau để có thể đọc, hát bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào trong

bản, ngoài đồng, ngoài rẫy... Những người nghe Phong slư có thể thức cả đêm

để nghe Phong slư, để ngẫm nghĩ về cái tình, cái nghĩa được gửi gắm trong đó.

Mỗi lần nghe như vậy mọi người cảm tưởng tình yêu, tình vợ chồng của mình

được củng cố thêm, cao đẹp hơn.

17

Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi được các cụ cao tuổi ở địa phương

cho biết: Ngày xưa ở các làng, bản tồn tại hình thức sinh hoạt cộng đồng hàng

tháng vào buổi tối của một ngày nhất định (thường là ngày 15 âm lịch), đó là

dịp để mọi người giao lưu, gặp gỡ và hát Sli, Lượn cùng nhau. Trong các tối

sinh hoạt cộng đồng ấy, các bức Phong slư được trai gái Tày mang tới và nhờ

những người biết chữ hát cho mọi người cùng nghe. Đây là một hình thức diễn

xướng đặc trưng của Phong slư khác biệt so với các thể loại dân ca khác của

dan tô ̣c.

g

Qua viê ̣c điền dã ta ̣i 5 xã của huyệ n Hòa An chú ng tôi thu đươ ̣c 76 bài, đoa ̣n Phong slư từ các cu ̣ cao tuổi và các nghệ nhân dân gian . Chính số lượng bài như vậy cho chú ng tôi nhâ ̣n thấy Phong slư vẫn có mô ̣t vi ̣ trí quan tro ̣n trong đờ i sống văn hóa củ a ngườ i Tày nơi đây. Tuy ngày nay các thanh niên nam nữ Tày không còn viết những bứ c Phong slư để gử i cho nhau nữa mà giờ đây những bài Phong slư hiê ̣n đa ̣i là những bài thơ tình và là những lời ca ca

ngợi tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi cuộc sống lao động sản xuất và

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Chính viê ̣c lưu truyền và sự chuyển đổi đó cho thấy Phong slư vẫn còn tồn tại, lưu truyền và phát triển cùng sự phát triển củ a cô ̣ng đồng ngườ i Tày vù ng đất nơi đây .

1.3.2. Các giai đoạn phát triển của thể loại Phong slư.

Cùng với sự vận động của lịch sử văn học Phong slư cũng có những

bước phát triển mạnh mẽ trải qua các giai đoạn cụ thể như sau:

- Giai đoạn đầu tiên:

Ở giai đoạn này Phong slư chủ yếu được sử dụng để trao đổi tâm tư

tình cảm của trai gái Tày, có kết cấu và luật thơ cố định, với cách ngâm vịnh

riêng biệt. Cùng với sự ra đời của chữ Nôm nền văn học viết (Văn học chữ

Nôm) của dân tộc Tày có những bước phát triển rực rỡ, đặc biệt là Thơ Nôm

Tày. Đây là giai đoạn Phong slư có sự phát triển nhất. Xuất phát từ nhu cầu

18

giao lưu tình cảm của những chàng trai cô gái khi những lời hát giao duyên

Sli Lượn không nói hết được những tâm tư tình cảm của họ, khi họ không có

đủ điều kiện để ngày ngày hát giao duyên với nhau, dẫu đang yêu say đắm

bao nhiêu, nhưng ngoảnh sang bên cạnh thì thấy ngổn ngang những công việc

ruộng nương, nên họ đã đến nhờ những "Slấy sli" (người trí thức bình dân)

viết hộ những tình cảm của mình để gửi đến người yêu thương. Trong giai

đoạn này, gửi Phong slư cho nhau trở thành một phong trào của những chàng

trai, cô gái đang yêu.

Bên cạnh đó ở giai đoạn này Phong slư còn được vận dụng để trao đổi

thông tin như vận dụng trong thiệp cưới, để ghi chép lại những câu chuyện đã

qua. Có thể thấy đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao nhất của Phong slư và trở

thành điểm nối giữa văn học dân gian và văn học viết.

- Giai đoạn hiện nay:

Theo thời gian Phong slư có sự vận động và biến đổi mạnh mẽ. Phong

slư giai đoạn này chủ yếu đề cập đến đề tài Đảng, Bác Hồ, tình yêu quê hương

đất nước. Ở giai đoạn này Phong Slư vẫn sử dụng thể thơ, cách sáng tác, cách

đọc ngâm của Phong slư xưa tuy nhiên không còn mang kết cấu chặt chẽ của

một bức thư nữa mà chỉ còn lại phần nội dung mà bài thơ muốn đề cập đến.

1.3.3. Hình thức diễn xướng của Phong slư

Cũng là hình thức dân ca nhưng mỗi dân tộc lại mang một đặc điểm

khác nhau. Nếu Ở dân ca Quan họ Bắc Ninh không thể tách khỏi môi trường

sông nước, Sli của người Nùng chủ yếu gắn với quang cảnh hội xuân, phiên

chợ, trên các gò đồi ven suối thì người Tày hát dân ca chủ yếu hát trong môi

trường tương đối ổn định là trong nhà. Trong không gian làng bản tĩnh mịch,

xung quanh phủ màn đêm, bên bếp lửa bập bùng những tiếng lượn, tiếng ngâm

cất lên phá tan đi quang cảnh tĩnh lặng, buồn tẻ, u tịch của núi rừng. Chính

trong không gian này những lời ca lại có một sức hút mãnh liệt.

19

Qua quá trình tìm hiểu thực tế một số xã trên địa bàn huyện và theo nhận

xét của các nghệ nhân dân gian đều cho rằng: Hát Phong slư của vùng được

chia ra làm hai giai đoạn:

- Giai đoạn nguyên sơ:

Phong slư gửi cho các chàng trai cô gái Tày thông thường thì họ nhờ các

Sấy sli đọc hộ, hoặc tự đọc nếu họ biết chữ. Tuy nhiên trước đây số người biết

đọc biết viết ở Hòa An Cao Bằng không nhiều vì vậy các Sấy sli mới là những

người sáng tác Phong slư thực sự thay cho những chàng trai cô gái đang yêu,

đồng thời đọc những Phong slư từ nơi khác gửi tới. “Các sấy sli” có thể đọc,

ngâm Phong slư tại nhà của mình, hoặc tại nhà của các chàng trai cô gái.

Người nghe có thể chỉ có một mình chàng trai cô gái hoặc cả gia đình và bạn

bè người thân. Việc ngâm này thường diễn ra khi mọi công việc đồng áng đã

kết thúc và quây quần bên ánh lửa bập bùng. Hình thức diễn xướng diễn ra đơn

lẻ này là dạng thức nguyên hợp tồn tại phổ biến ở nhiều thể loại dân ca của các

dân tộc khác.

- Giai đoạn có tổ chức lề lối:

Hình thức này đã dần dần tách khỏi không gian sinh hoạt đời thường . Ở

giai đoạn này hình thức diễn xướng đã có sự tổ chức bài bản, thứ tự trước sau.

Hình thức tổ chức này cũng giống như các cuộc hát Quan họ ở Kinh Bắc, hát

Ví dặm của người Kinh ở Xứ Nghệ. Trong các dịp lễ hội, các cuộc thi, giao lưu

văn hóa văn nghệ... Phong slư đã được diễn xướng trên sân khấu giống như các

làn điệu dân ca khác. Đây là một hình thức mới phát triển của Phong slư ở giai

đoạn hiện đại.

Phong slư là những bức thư tình của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng,

qua những lời thơ chân thành, giản dị cho chúng ta thấy được nét đẹp tâm hồn,

tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc Tày nơi đây.

20

TIỂU KẾT

Qua những nội dung được trình bày trên đây, chúng tôi thấy người Tày

ở Hòa An - Cao Bằng cũng như người Tày ở các địa phương khác trên cả nước

đều có truyền thống lịch sử, nền văn hóa phong phú và đa dạng, mang những

nét đặc trưng riêng về phong tục, tập quán và lối sống. Trong kho tàng văn

hóa nghệ thuật dân gian của người Tày ở Hòa An - Cao Bằng, Phong slư giữ

vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, phản ánh sinh động tâm hồn, tình

cảm, phong tục, tập quán của cư dân bản địa.

Với những nét giới thiệu mang tính sơ lược và khái quát về dân tộc Tày

và một vài đặc điểm về Phong slư của người Tày ở Hòa An - Cao Bằng đã

giúp chúng ta phần nào hiểu được nền văn hóa, văn học của người Tày và thể

loại Phong slư. Để qua đó làm nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn về nội

dung và nghệ thuật của thể loại văn học dân gian này ở các chương sau.

21

Chƣơng 2

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHONG SLƢ

Ở HÕA AN – CAO BẰNG

2.1. Phong slƣ là những lời bày tỏ tình yêu đôi lứa.

Tình yêu là đề tài muôn thủa không bao giờ vơi cạn của văn học nghệ

thuật từ xưa tới nay. Với người Tày ở Hòa An - Cao Bằng đề tài về tình yêu

cũng được thể hiện một cách ý nhị, uyển chuyển, chân thành, mộc mạc qua

những khúc hát dân ca trữ tình mượt mà như làn điệu Then, Sli, Lượn, Phong

slư... Tất cả tạo nên nét đặc sắc riêng biệt của thơ ca dân tộc Tày. Trong đề tài

này chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu tìm hiểu một số nội dung của Phong slư ở

Hòa An - Cao Bằng.

Phong slư cũng có những nét giống vớ i các loa ̣i hình dân ca khác củ a

. Tuy nhiên loa ̣i hình khác đặc b iê ̣t là

ngườ i Tày đều là những lờ i bô ̣c lô ̣ bày tỏ tình cảm lứ a đôi Phong slư cũng có những nét khác biê ̣t so loa ̣i hình dân ca Lươ ̣n của người Tày ở chỗ Phong slư là những bức thư trao đổi tình cảm của hai ngườ i ba ̣n tri kỉ vớ i hình thứ c trao đổi mô ̣t cách gián tiếp để diễn tả tình cảm lứa đôi , còn Lượn chỉ là những lời hát diễn tả tìn h cảm cá nhân , tình yêu quê hương đất nướ c mà không có văn bản cu ̣ thể . Nội dung cơ bản của Phong slư là nói về tình yêu, đề tài về tình yêu đôi

lứa trong Phong slư được thể hiện một cách sâu sắc nhất với nhiều cung bậc,

sắc thái tình cảm khác nhau, chủ yếu là mượn hình ảnh cỏ cây, hoa lá, chim

muông, nước non, trời đất... để bày tỏ tâm trạng, tình cảm sâu xa với bạn tình.

2.1.1. Phong slư là những lời tỏ tình chân thành, giản dị.

Cũng giống như nhiều thể loại văn học dân gian khác Phong slư phản

ánh được tất cả những cung bậc của tình yêu. Ngay từ những ngày đầu làm

quen cho đến hôn nhân không thể thiếu được những lời tỏ tình, nó chính là

chiếc chìa khóa mở cửa trái tim đang còn đóng chặt. Với bản tính đặc trưng

của người Tày "Cái bụng nghĩ sao, cái miệng nói vậy" họ không nói bóng gió,

xa xôi mà thẳng thắn bộc lộ tình cảm của mình. Chàng trai với lối tỏ tình diễn

đa ̣t thẳng thắn chàng nhắc la ̣i từ ngày gă ̣p cô gái hình bóng cô gái như in sâu

22

vào trong tâm trí chàng trai và chà ng muốn kết ba ̣n để dược làm quen với cô gái, lối tỏ tình đầy thẳng thắn những vẫn mang trong mình sự e dè ướ m hỏi “không biết em còn nhớ tớ i ngày đôi ta gă ̣p nhau” gă ̣p em anh mang theo nỗi nhớ trở về, ngày tháng qua đi số ng trong nỗi nhớ cô đơn không biết em có lòng thương anh không.

Từ vằn én sặp nhạn ngộ căn

Mèng pjạc bjoóc mùa xuân hâng mử

Kết căn sle đảy rú quén căn

Bấu chắc noọng nhằng chứ dú đai

Điếp bạn tồng thiên thai là dá

Pi bƣơn vằn tốc mạ dú đai

Chắc noọng nhằng diếp quan nảy rá

Rụ là chê táng xá vô duyên

Dịch nghĩa:

Từ ngày én nhạn gặp nhau

Ong đã rời hoa xuân lâu lắm

Kết bạn để đƣợc quen nhau

Không biết em còn nhớ tới ngày đó

Nhớ em ngẩng nhìn trời càng nhớ

Ngày tháng năm qua anh ở cô đơn

Không biết em có thƣơng không đã

Hay là chê anh khác xã vô duyên [13]

Nhận được bức Phong slư của chàng trai gửi đến lòng cô gái bồi hồi xao

xuyến nhưng vẫn tỏ ý nghi ngờ, không biết những lời nói trong thư kia có thật

lòng không hay đó chỉ là những lời trêu đùa khi mới gặp.

Noọng phác căm mừa chổn vỉ quan

Táng cần dú táng mƣờng cách biệt

Niên quá nguyệt khổn tiết lai lai

Bấu chắc vỉ nam giai đâu toọng

23

Ké khả bấu cảm vội bạn cằn

cừn văn hác tƣơng tƣ đâu toọng

Lắp kết đuổi vỉ cá táng mƣờng

Dịch nghĩa:

Em gửi lời về chốn quan anh

Khác ngƣời ở khác bản cách biệt

Năm qua trăng đến nhanh nhanh

Không biết lòng anh thế nào

Ngƣời già bảo đừng vội tin

Tối ngày hãy suy nghĩ trong lòng

Nếu kết với bạn khác mƣờng [48]

Kết thúc những lễ hội mùa xuân, sau những cuộc lượn hát giao duyên

gặp gỡ, những chàng trai cô gái mang tình cảm của mình trở về với những

công việc thường ngày nhưng vẫn mang trong mình một nỗi nhớ về người đã

gặp, chính những cuộc gặp gỡ lượn giao duyên đó là vườn ươm cho những mối

tình tuổi trẻ, và đã yêu thì phải có thư tình, những lá thư tình đó được gửi đi,

trao lại mang trong đó những lời tỏ tình làm quen chân thành nồng thắm, thiết

tha đến người mình yêu thương. Nhận được những lá thư bày tỏ tình cảm ấy

những cô gái có trao lòng đáp lại sẽ có những bức thư trả lời đáp lại tình cảm

đó. Mới đầu có thể là sự hồ nghi, lo lắng đó chỉ là lời trêu đùa nhưng cũng có

khi đó là sự đáp lại tình cảm ấy một cách thẳng thắn.

Phong slƣ én tốc lồng bƣởng nả

Én cỏi thẻo mừa khả Lƣơng quân

Thân noọng nhằng nhất tâm đuổi vỉ

Dịch nghĩa:

Mang thƣ én tới luôn trƣớc mặt

Én hãy về kể thật cùng anh

24

Em sẽ một lòng thƣơng anh [15]

Tình yêu xuất phát từ tình cảm chân thành và sâu lắng nên nỗi nhớ

nhung càng da diết mặn nồng. Có ai yêu mà không nhớ, có lẽ nỗi nhớ đã trở

thành một đặc trưng bất biến của tình yêu. Với người Tày cũng vậy nỗi nhớ

hàng đêm khóc thầm trên gối được gửi gắm theo gió, theo mây đến người

thương. Để thể hiện tình yêu của mình chàng trai Tày đã dùng các tấm gương

người đời, nhất là gương trong lịch sử, trong các chuyện cổ tích mượn những

tích như Lưu Đài – Hán Xuân, Nam Kim – Thị Đan, Ngưu Lang – Chức Nữ,

Thục Đế - Hằng Nga... để bày tỏ tình cảm của mình, để khéo léo gợi cho người

yêu noi theo:

Ngƣu Lang xo ăn cầu pây mà

Thục Đế vọng Hằng Nga nhằng đảy

Buồn lai vỉ lặc hảy tềnh mon

Điếp bạn bấu đảy nòn cừn rủng

Dịch nghĩa

Ngƣu Lang xin cái cầu đi lại

Thục Đế thƣơng Hằng Nga còn đƣợc

Buồn quá anh khóc thầm trên gối

Yêu em không đƣợc thao thức đến sáng. [15]

Chàng trai nhận được lá thư lúc này bằng một giọng điệu vừa gần vừa

xa, một phần chàng lấy những câu chuyện tình yêu để làm minh chứng, dẫu có

khoảng cách xa xôi nhưng nhất định sẽ đến được với nhau, phần nữa chàng

mong khi nhận được bức thư này sẽ cùng em được kết duyên.

Ngộ răng ngộc cắp rà sinh thẻ

Hết cần noọng cỏi nghỉ hẩu thông

Xƣa Minh Nga cầm cung thƣợng đáng

Khúy mả lồng đạo lảng tu đin

Nhằng kết bạn Vƣơng Sinh đảy mả

25

Nàng tiên dú tềnh phả nhằng thông

Cần thển cắp cần bân nhằng hợp

Hiền sị vỉ xo kết đuổi nàng

Tiểng là bức thƣ mà tham khảo

Dịch nghĩa:

Gặp gỡ nhau mang tiếng yêu thƣơng

Mong em hãy suy nghĩ nông sâu

Nàng Minh Nga bị cấm cung

Còn cƣỡi ngựa xuống chốn trần gian

Và kết bạn với Vƣơng Sinh còn đƣợc

Nàng tiên ở trên trời còn nghĩ

Ngƣời tiên ở với ngƣời trần còn hợp

Nên anh xin kết duyên cùng em

Nay có bức thƣ đến để thăm hỏi. [15]

Và để ướm hỏi thêm tình cảm của cô gái, trong bức thư chàng trai đã

mạnh dạn xin chiếc túi để làm tin, để được mơ màng tơ tưởng tới em để cho

thỏa nỗi nhớ.

Phác Slƣ xo tủi nỏi đuổi nàng

Sli hẩu căn phải tèn cọng toọng

Đảy thảy mà tung phóng pjàng khoăn

Đua nòn khỏi mền phăn mơ mảng

Dịch nghĩa:

Gửi thƣ xin túi với nàng

Em cho anh cái túi xoàng cũng đƣợc

Đƣợc túi về anh để ôm ấp

Đi khỏi ngỏi mơ màng tơ tƣởng. [13]

Trong những bức Phong slư ta luôn bắt gặp hình ảnh những chàng trai,

cô gái diễn tả nỗi nhớ bằng sự mất ăn, mất ngủ nhớ đến người thương nơi xa

làm lòng nhũn mềm . Nhìn xa xa bướm ong đủ đôi vậy mà nhìn lại bản thân

mình lẻ loi đơn chiếc .

26

Chứ siết căn gằm nòn bấu đắc

Gần dú nam, dú bắc vuồn sim

Đang lểu ón vận đin thảo dƣợc

Mèng đo tôi khua khƣớc đuổi hoa

Táng ngậy đang thân rà mình lế.

Dịch nghĩa:

Nhớ nhau lòng bồi hồi chẳng ngủ

Ngƣời ở nam, ở bắc sầu lòng

Ngƣời nhũn mềm nhƣ chi đúc chảy

Bƣớm đủ đôi vui nhảy cùng hoa

Day dứt thân phận ta đơn chiếc.

[46, Tr. 1087]

Buồn vì nỗi cô đơn thường trực lại thêm nỗi nhớ người phương xa

không thể kể hết, chàng trai trở về cầm giấy bút viết gửi tâm trạng của mình

đến người mình yêu thương.

Vỉ chứ noọng căm bút viểt slƣ

Viết soong cằm phác mừa giƣơng bạn

Pi bƣơn bặng én nhạn bân pây

Thì giờ bặng nặm lây lồng hát

Ngẩn ngơ mốc sẩy khát tốc châu

Vạ đăm choắc voằn tầu đảy rủng

Dịch nghĩa:

Anh nhớ em cầm bút viết thƣ

Viết đôi lời đến với bạn

Năm tháng qua nhanh nhƣ én lƣợn

Thời gian qua nhanh nhƣ tiếng hát

Ngẩn ngơ bối rối trong lòng

Trời tối biết ngày nào mới sáng. [13]

27

Không chỉ trong Phong slư mà trong những làn điệu hát giao duyên thể

hiện tình yêu trong buổi chớm nở của các dân tộc khác cũng thật đặc sắc và

phong phú. Đây là lời tỏ tình đầy bóng bẩy, hoa mĩ của chàng trai dân tộc Kinh

bày tỏ niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu:

Ƣớc gì anh hóa ra hoa

Để em nâng lấy rồi mà cài khăn

Ƣớc gì anh hóa ra khăn

Để cho em đắp, em lăn, em nằm

[36, tr. 581]

Cũng là cách bày tỏ tình yêu nhưng chàng trai cô gái Tày có phần bày tỏ

thẳng thắn hơn, điều đó cũng thật dễ hiểu bởi bản chất con người lao động

miền núi so với miền xuôi có phần bộc trực, thật thà. Còn những chàng trai

Kinh lại sử dụng cách nói chuyện tầm phào bâng quơ trên mây, dưới gió mượn

những yếu tố gián tiếp để dẫn dắt đến tình cảm của mình.

Sông cách sông, thủy cách thủy

Em xe sợi chỉ, em bắc cây cầu

Để cho anh sang mà giảm mối sầu tƣơng tƣ

[36, tr.490]

Vớ i những lối tỏ tình của những chàng trai cô gái buổi đầu mới yêu chứa đựng sự hồn nhiên trong sáng, chân thật của tâm hồn tuổi trẻ. Những lời thơ tỏ

tình thuở ban đầu e ấp đó đầy ắp niềm vui, sự hứa hẹn đến với nhau để thành

vợ thành chồng. Hơn hết vần thơ đó càng tô đẹp thêm cho cuộc sống tâm hồn

của người Tày tinh thần lạc quan, yêu đời yêu cuộc sống thiết tha.

2.1.2. Phong slƣ là những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi.

Trong Phong slư không chỉ chứa đựng những cảm xúc say sưa buổi ban

đầu gặp gỡ của những chàng trai, cô gái Tày dành cho nhau mà trong đó còn là

những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi cháy bỏng:

Vằn cón rầu kết khỏa tận tâm

Kết căn nhất đẩy căn chắng sử

28

Dịch nghĩa:

Ngày trƣớc ta cùng nhau cam kết

Yêu nhau nhất định lấy đƣợc nhau [13]

Và để rồi họ có nhau, nhìn thấy nhau sớm tối, cùng nhau đi qua bao

ngày tháng:

Thƣơng căn cụng ngòi nả căn đai

Sloong khăn cỏi ngòi đét cón ngài

(Thƣơng nhau chỉ cần nhìn thấy nhau

Nắng trƣa đến cùng nhau ta ngắm) [48]

Nỗi khát khao tự do hạnh phúc ấy dâng trào, họ hẹn ước mãi mãi bên

nhau không rời xa đến khi nào con hươu bỏ rừng lớn, con trâu bỏ không ăn cỏ

và khi nào múc nước được đầy giỏ mới biết tình yêu của họ sâu nặng đến

nhường nào:

Slƣơng căn sƣơng hẩu nắc hẩu hâng

Vửa tầu nạn lìa đông gỏi dá

Vửa tầu oài lìa nhả gỏi thôi

Tắc nẳm đảy têm cuôi gỏi viạc.

Dịch nghĩa:

Thƣơng nhau thƣơng cho nặng cho lâu

Khi nào hoẵng lìa rừng sẽ bỏ

Khi nào trâu bỏ cỏ mới thôi

Múc nƣớc đƣợc đầy giỏ mới biết. [48]

Họ yêu nhau thề nguyện hẹn ước dẫu bao gặp khó khăn vất vả nhưng họ

vẫn lạc quan vượt qua, cùng nhau vươn tới một cuộc sống gia đình ấm no đầy

đủ, họ chỉ có ước mơ giản đơn được về cùng chung một nhà với nhau.

Vỉ đảy noọng bấu nghị lăng tàng

Cần bấu định soong khoăn hác định

Chỉ kết đuổi mỉnh kỉn đing rƣờn

29

Đảy noọng vỉ bấu ngại lăng khỏ

Bấu mì khẩu lồng mỏ gỏi xa

Tắm tò đảy lƣơng gia định các

Dịch nghĩa:

Anh có em không còn lo nghĩ

Ngƣời không đƣợc tình để cho hồn

Chỉ một lấy em thƣơng cho đƣợc

Đƣợc em anh sẽ hết buồn

Không có gạo thổi cơm sẽ kiếm

Chỉ mong cho đƣợc đến chung nhà. [13]

Khát vọng yêu thương, hạnh phúc của những chàng trai cô gái Tày đôi

khi là những lời trái lôgic thực tế để cam đoan rằng vì người mình yêu mà họ

sẽ làm được những công việc trái với thực tế đời thường như: Thả lá tre xuống

ao để thành cá, vãi trấu để thành gà, cấy cỏ thành lúa.

Đảy vỉ noọng bấu ngại lăng tàng

Thả mảy peo lồng thôm pền tra

Vãn cóc cụng pền cáy têm lằng

Đăm nhả lồng làng pền khẩu

Dịch nghĩa:

Đƣợc anh em không ngại gian lao

Thả lá tre xuống ao thành cá

Vãi trấu cũng nên gà đầy chuồng

Cấy cỏ tranh xuống đồng thành thóc [15]

Khát vọng hạnh phúc ấy còn được thể hiện qua lời của cô gái dẫu cuộc

sống đầy vất vả khó khăn đói rét nhưng đã yêu thì quyết cùng nhau vượt qua:

Tậu vỉ lăng mong bấu ngại

Gẳm bấu fà sứt vải cũng khua

Tón bấu đảy kin đay cụng dú

30

Au căn đảy vần dảu bấu thân

Tháp nẳm bấu mì càn mừ thỉu

Kin lảo bấu mì điếu noọng xo

Thây rẩu bấu mì mò bai bác

Bấu hử vỉ thai rác là thôi

Pản tắc đảy pền tôi vỉ ới.

Dịch nghĩa:

Thành đôi khó khăn không ngại

Đêm ngủ không chăn màn vẫn cƣời

Bữa không đƣợc ăn ngon vẫn ở

Lấy đƣợc nhau dẫu khó vẫn bên nhau

Gánh nƣớc không đòn thì xách tay

Hút thuốc không điếu em sẽ tìm

Bừa rẫy không trâu làm bằng cuốc

Không để nhau đói rét là thôi

Làm sao đƣợc thành đôi hạnh phúc. [13]

Khát vọng tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của trai gái Tày cho ta

nhớ đến khát vọng tình yêu của những chàng trai cô gái dân tộc Thái trong

truyện thơ "Tiễn dặn người yêu" họ muốn vượt lên mọi lễ giáo phong kiến kìm

kẹp để được bên nhau hạnh phúc. Khát vọng ấy khiến người con trai Thái thốt

lên như một lời thề hẹn trong tình yêu.

Yêu em anh quyết đƣợc

Đã thƣơng nhau quyết lấy.

[42, tr. 222]

Trong tình yêu ấy những chàng trai cô gái Thái họ chỉ mang trong mình

ước mơ được sống bên nhau hạnh phúc, trọn đời trọn kiếp đến già.

31

Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng

Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già

Ta yêu nhau, tàn đời gió, không rung không chuyển

[42, tr. 225]

Sức mạnh tình yêu đang đốt cháy trong lòng những người đang yêu,

khiến họ nói lên được những ý nghĩ táo bạo, kiên quyết vượt lên trên tất cả mọi

khó khăn gian khổ phía trước nhưng các chàng trai, cô gái Tày phải bất lực

trước thực tế cuộc sống. Họ không lấy được nhau, họ bị ngăn cách bởi gia

đình, xã hội, những lễ giáo cổ xưa khiến tình yêu của họ phải chia cắt, đau

đớn. Dẫu vậy, khát vọng được bên nhau khiến tình yêu trong họ vẫn mãi mạnh

mẽ, họ hẹn nhau thoát khỏi cuộc sống kìm kẹp đó đến một nơi mới, nơi chỉ có

hai người cùng nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc:

Giờ nẩy noọng vẫn nghị au căn

Tằng gần ké nắm hăn thúc toọng

Bấu chứ cạ một noọng hác thông

Nhƣợc vỉ nhằng nhất tâm đuổi noọng

Mì thƣơng dú keng kéo hất nà

Tọ rà khổn xa tháng đảy hăn

Bặng soong rà kết căn giừo nẩy

Kết bạn mong cạ đảy định rƣờn

Noọng kết bạn hết gƣơng thiên hạ

Khỏ khát dú chang đông tó ké.

Dịch nghĩa:

Đến nay em vẫn hẹn lấy anh

Dẫu cha mẹ song thân không vừa ý

Không phải em chỉ nghĩ vậy đâu

Nếu chàng còn nhớ nhau hãy liệu

Thƣơng nhau hẹn ở đỉnh núi cấy cày

32

Ta đi đâu kiếm tình hỡi chàng

Giống hai ta kết duyên chốn này

Yêu nhau định lấy ngay cho đƣợc

Lấy cho thiên hạ biết nêu gƣơng

Dẫu cùng nhau nghèo đói tới già. [48]

Cũng có khi đó là những lời tiễn dặn nhau cùng về nơi suối vàng để tình

yêu còn mãi:

Vằn thai khửn thƣợng nƣa cỏi tím

Slíp soong quản thƣợng đính cỏi xa

Mửa mển bạn thƣơng rà cỏi xiết.

Dịch nghĩa:

Chết đi ta sẽ gặp ở trời

Sẽ tìm ngƣời hai nơi cung quán

Khi ấy sẽ làm bạn vợ chồng. [15]

Đọc Phong slư ta thấy được sức mạnh tình yêu mãnh liệt của những

chàng trai, cô gái Tày được thể hiện qua khát vọng được đến bên nhau. Qua đó

ta cảm nhận được tâm hồn giản dị, chân thành, nồng thắm của họ.

2.1.3. Phong slƣ là những lời bày tỏ nỗi buồn trong tình yêu cách trở

Khát khao hạnh phúc là vậy, thậm chí họ còn nguyện sẽ chết cũng nhau.

Nhưng không phải đôi trai gái nào cũng đi hết con đường tình yêu ấy. Ta bắt

gặp trong Phong slư tình cảm của những đôi trai gái yêu nhau nhưng không

đến được với nhau qua những bức thư buồn nói lời chia tay:

Lìa căn ná tủi hƣơng mầu dá

Phjạc căn nghịa bạn khả soong tàng

Từ này rừ pây mà khổn cúng

Phjạc căn ná đạo rủng soong khoăn

33

Dịch nghĩa:

Chia tay nhau chẳng có túi trầu

Chia tay tình bạn chia hai ngả

Từ nay đƣờng ai nấy đi

Chia tay hồn chia làm hai ngả [15]

Lời chia tay của chàng trai đầy dứt khoát nhưng trong lòng vẫn đầy lưu

luyến, đau xót, day dứt không thôi, ngược lại cô gái cũng vậy:

Pjạc pỉ bặng thoản phải rặng đang

Chứ căn nẳm tha lồng ròi ròi

Pền lăng tẻ pây đuổi gàm tin

Lìa căn pây rừ kin rừ dú

Phầu ngài nhằng tói thú gằn buôm

Căm pát nặm tha loòng lít liệng

Nhằng chứ thâng xẩu tiểng táng tàng

Dịch nghĩa:

Chia tay anh nhƣ bỏ thắt lƣng

Nƣớc mắt tràn rơi đều chan chứa

Giá nhƣ đƣợc đi mãi bên nhau

Xa nhau thực bồn chồn khó nghĩ

Bữa ăn nhìn đôi đũa nhớ hình

Cầm bát tƣởng nhƣ hình tồn tại

Lại thân lẻ đồn đại càng buồn. [13]

Tình yêu với những lời hẹn ước của họ đang diễn ra tốt đẹp nhưng bởi lễ

giáo phong kiến, xã hội kiên quyết chia rẽ họ một cách nghiệt ngã trong khi họ

tự nguyện thiết tha gắn bó với nhau, thiết tha gặp nhau nhưng bị ngăn cấm. Có

thể thấy nỗi buồn trong Phong slư là cái buồn mang tính "căm ghét, nguyền

rủa" xã hội. Họ bị ngăn cách, không lấy được nhau họ chỉ biết than trách duyên

số không hợp, trách trời cao ghen ghét bắt họ phải chia xa.

34

Thƣơng bạn cầu chắc đuổi thân rà

Sloong mừ vại nặm tha tẻ dú

Vỉ hác tách thân dàn mỉnh

Giờ nẩy boóc lởi nhị tả mèng

Dịch nghĩa:

Ai biết ta nhớ luôn tới bạn

Nƣớc mắt đầy hai má tay lau

Bởi tại số hai ta không hợp

Phần nhiều trách số khiếp tại anh

Mới nên nỗi hoa tàn bỏ bƣớm. [15]

Họ than trách duyên số, trách ông tơ bà nguyệt đi đâu để dây tơ hồng đứt

mà không nối, trách trời cao ghen ghét với tình yêu này mà bắt họ phải xa

nhau, khiến họ mang nỗi buồn hàng đêm nước mắt lăn dài mong nhớ.

Nghị lai hác puồn nàn lạy lạy

Cừn nòn hác lặc hảy nƣa mon

Cừn tông là vằn puồn lọi lọi

Điếp bạn cầu chắc đuổi thân rà

Soong mừ chắng nặm tha tẻ dú.

Dịch nghĩa:

Nghĩ lại mà buồn đủ mọi điều

Khóc trên gối bao nhiêu giấc ngủ

Đêm mong với ngày nhớ mà buồn

Ai biết ta nhớ luôn tới bạn

Nƣớc mắt đầy hai má tay lau. [48]

Nỗi buồn khi phải chia tay trong tình yêu thật day dứt, xót xa nhưng nỗi đau

buồn ấy trong nhiều bức Phong slư lại thể hiện vẻ đẹp vị tha, dẫu đau lòng khi

không đến được với nhau họ vẫn mỉm cười chúc nhau hạnh phúc với duyên mới.

35

Buồn lai noọng hảy mỉnh khoăn

Chứ vỉ bấu chắc răng đuổi noọng

Cầu hử vỉ táng chốn mừa không

Giờ này giá khổn tông khuổn vọng

Noọng pjạc bấu hăn bổng hăn ngàu

Cảng nghị càng hăn sầu hợi vỉ

Phú quý tằng gia té mừa lăng

Mèng bjoóc pjạc cằn tàng giờ nảy

Dịch nghĩa:

Buồn quá em khóc mãi không thôi Làm sao anh biết đƣợc với em Chúc cho anh khác chốn nhàn thân Nỗi này còn mong gì hơn nữa Em đi chẳng thấy bóng thấy hồn Càng nghĩ lại càng buồn anh hỡi Về sau phú quý nhiều hơn nữa Nhƣ bƣớm nhƣ hoa bên đƣờng [13]

Khi yêu vạn vât xung quanh trở nên đẹp đẽ, nhưng khi tình yêu bị cách

trở mọi thứ xung quanh cũng mang dấu nỗi buồn chia li:

Boóc phung bjoóc lẻ táng pền ăn

Mèng cắp boóc chứ cằm nằng nặc

Bjoóc lởi mèng chắc chắp co tầu

Nghị mà há tốc châu puồn tọng

Dịch nghĩa:

Hoa nở hoa đã thành quả lớn

Bƣớm với hoa còn nhớ lời nhau

Hoa tàn bƣớm biết đâu cành đậu

Càng nghĩ lại càng buồn tấm lòng nhau [13]

Trong những bức Phong slư của người Tày trao đổi cho nhau thường

dùng một số phương thức để biểu đạt như từ chối tình yêu do nghèo, xấu nên

không xứng đáng, không môn đăng hộ đối. Lại có khi để thanh minh một sự

hiểu lầm hay là sự nghi ngờ người mình yêu không chung thủy, lại có khi nghe

36

lầm tin bạn đã hứa hôn... Tất cả những nội dung đó đều mang trong mình một

nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người gửi, tuy nhiên tất cả những yếu tố đó có

khi nhằm để giải quyết việc có thực thì ít mà mục đích là để kéo dài Phong slư.

Chính vì vậy có những bức Phong slư kéo dài hàng trăm câu, chủ yếu để bộc lộ

nỗi lòng của người gửi.

Qua những vần thơ được thể hiện trong Phong slư giúp ta thấy được rõ

hơn về tâm trạng, cảm xúc của những chàng trai cô gái Tày trong tình yêu. Đó

là nỗi lòng bâng khuâng, xao xuyến thủơ ban đầu với những lời tỏ tình chân

thành mộc mạc, những lời bày tỏ nỗi buồn khi tình yêu bị ngăn cách nhưng họ

vẫn khao khát vượt lên tất cả để được đến bên nhau. Tất cả những điều đó đều

được viết ra từ sâu thẳm trái tim của biết bao chàng trai cô gái Tày, chính điều

đó đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của những con người nơi đây.

2.2. Phong slƣ là những lời nhắn gửi, lời dặn dò.

Không chỉ dùng để diễn tả các cung bậc tình yêu Phong slư còn được

sử dụng như một bức thư để mời cưới. Những bức thư ấy được thanh niên

Tày ngày xưa gấp thành những cánh én để gửi đi. Trong những bức thư mời

cưới này thường mang tính chất thông báo và trong đó thường ghi rõ ngày

tháng, địa điểm tổ chức đám cưới và gửi đến người nhận với mong muốn,

dẫu đường xa vất vả, khó nhọc nhưng hãy cố gắng đến chung vui tới dự đám

cưới của mình.

Bƣơn slíp hoằn so pét lƣơng thằn

Thừa vỏ mẻ chọn đảy voằn hoàn thú

Xỉnh thâng bạn hoằn đú sƣơng lƣờng

Chứ căn hãy mà giƣờng tha nả

Họa căn chẻn nặm tả gụng đây

Níp xắc ám nửa nây cụng dử

Dẳng pền bạn hoằn đú siết sƣơng

Dùng keng kéo xiên mƣờng mà rọm

Nông Văn Mỗ bái thiếp

37

Dịch nghĩa:

Tháng mƣời ngày mồng tám ngày lành

Theo bố mẹ chọn đƣợc ngày làm lễ cƣới

Mời đến bạn ngày cũ thiết thƣơng

Nhớ nhau hãy về cho có mặt

Cùng nâng chén nƣớc lã gọi là

Gắp một miếng thịt quay cũng phải

Mới phải là bạn có ngãi thiết tha

Dù đèo dốc mƣờng xa cũng cố tới

Nông Văn Mỗ bái thiếp [2, tr.28]

Bên cạnh việc sử dụng Phong slư như một bức thiệp mời cưới thì Phong

slư còn là một bức thư nhắn gửi( được gọi là “thư slắng”), được dùng để nhắn

gửi người yêu hãy lập gia đình trước đừng chờ đợi mối tình này. Và người lấy

sau cũng có thư đáp trả gửi đến người lấy trước để giãi bày được nỗi buồn tâm

trạng khi tình yêu tan vỡ...

Đây là bức Phong slư người con gái mời chàng trai đến dự đám cưới của

mình, trong bức Phong slư ấy có ghi rõ địa đểm, ngày tháng tổ chức đám cưới.

Nhờ Slấy viết bâu chỉa thông thin

Phác cằm mừa nho sinh chắc kháo

Nhỡ vỉ nhằng mì thảo thƣơng mà

Thƣơng noọng vỉ cỏi mà ngòi nả

Bƣơn ết noọng hạ giả hết kin

Phác cằm khả nho sinh cỏi nghị

Hẹn thâng vằn slo nhỉ mà thâng

Chứ sử bạn Lƣơng Quân mì toọng

Dịch nghĩa:

Nhờ thầy viết bức giấy thông tin

Gửi lời đến nho sinh đƣợc biết

38

Nhỡ anh còn có lòng thƣơng hãy liệu

Thƣơng em anh hãy về nhìn mặt

Tháng một em lấy chồng

Gửi lời bảo nho sinh hãy nghĩ

Hẹn đến ngày mùng hai về đến

Mới phải bạn có lòng Lƣơng Quân [13]

Rồi cô gái như muốn giải thích việc mình lấy chồng là do chàng trai

không dứt khoát trong tình yêu, và đi lấy vợ trước bỏ lại cô gái nơi xa cô đơn:

Bấu chắc vỉ bất nhân pền nảy

Pác càng tọ lai slảy phuối pjầng

Vằn cón khả kết mang đuổi noọng

Vỉ cũng bấu mì toọng thƣơng thâng

Bợi toọng sị lại moong cần mấu

Tả noọng sle chổn cấu bấu slƣơng

Dịch nghĩa:

Ai mà biết chàng ra nhƣ vậy

Chàng nói rồi ngay đấy dối nhau

Anh còn bảo trƣớc sau cùng thề

Nhƣng lòng anh không hề nhớ đến

Lòng anh còn quyến luyến nơi xa

Bỏ em mối tình xƣa không tiếc [48]

Trong những bức Phong slư slắng của người đi lấy chồng, lấy vợ sau

dẫu có sự buồn bã trách cứ, dỗi hờn nhưng khi đi lấy chồng, lấy vợ rồi họ vẫn

mang niềm tin về mối tình duyên này chắc chắn sẽ còn mãi về sau, thậm chí họ

còn hẹn ước về sau hãy gả con cái cho nhau:

Sloong rà dá hẩu lởi chắng pền

Bân định bấu đảy căn là dá

Mì lục cỏi khai khá hẩu căn

39

Dịch nghĩa:

Cho tình ta mãi mãi không tan

Trời không cho thành đôi cũng đƣợc

Đời con sẽ bán gả cho nhau [15]

Và những bức Phong slư slắng này thường khuyên người nhận được lời

nhắn gửi đừng buồn, hãy tìm lấy người xứng đáng với mình để kết duyên,

đừng tiếc buồn cho chuyện tình dang dở đã qua:

Vỉ gỏi xa slắc gần kết bạn

Cốc nhằng mảy lai lắng thanh tân

Thiên hạ nhằng lai gần hơn noọng

Vỉ hợi dá puồn toọng lăng lai

Chúc hẩu sị nam giai thong thả

Dịch nghĩa:

Chàng hãy tìm cùng ai kết bạn

Rừng xanh còn ngàn vạn cành hay

Thiên hạ biết bao ngƣời xinh đẹp

Khuyên chàng đừng có tiếc mà buồn

Chúc cho chàng luôn luôn thong thả. [48]

Sau khi nhận được thư mời dự đám cưới, hay "slư slắng"chàng trai, cô

gái Tày cũng có thư gửi lại bộc lộ tâm trạng băn khoăn, buồn bã của mình

trước thông tin đó:

Toọng vỉ nhằng nghị thâng slảy soong

Ngộ khả đảy mà thâng cỏi nẳng

Xiên kì noọng dá thẳng hết lăng.

Dịch nghĩa:

Dạ anh nghĩ rối bời hai lối

Có khi anh đi tới sẽ ăn

Nhƣng em chớ để phần chớ đợi [13]

40

Bên cạnh đó họ còn gửi những lời dặn dò nhau sống thật tốt, biết giữ

phép tắc, lễ nghĩa khi bước vào một cuộc sống mới.

Rèo phua cọi kình thƣơng pú giả

Nả nƣa noọng dá quá pậu che

Mì lăng kin noọng chia hẩu khóp

Pú giả nhƣ mẻ oóc noọng slinh

Nâu khẳm cỏi cực thân noọng ạ

Nhƣợc cạ pú giả đá lắc cằm

Rầu cỏi cồ nhặn đăng hết việc

Vằn pây bƣơn quá huyết táng đay.

Dịch nghĩa:

Theo chồng hãy kính thƣơng ông bà

Phía trên chớ bƣớc qua thất lễ

Có cái ăn chia sẻ mọi ngƣời

Bố mẹ chồng coi bằng mẹ đẻ

Sớm tối hãy giữ lễ nghe em

Dẫu bố mẹ mắng lên đôi lời

Ta hãy nhịn đi thôi làm việc

Ngày tháng qua sẽ hết thành vui. [13]

Và cuối cùng là gửi lời chúc đến gia đình, đến người mình yêu mãi

hạnh phúc:

Vỉ xo chúc huynh đệ họ hàng

Them xo chúc họ hàng của nhỉ

Khảm pi mì xuân tthí va khai

Oóc pây sinh nam giai thiếu nự

Hết kin táng vui xú hơn cần

Noọng hỡi!

41

Dịch nghĩa:

Anh xin chúc anh em hàng xóm

Cùng xin chúc họ hàng của em

Sang năm có nhiều lộc mới

Ra đi sinh con trai con gái

Làm ăn luôn mãi hơn ngƣời

Em hỡi! [13]

Không chỉ là những lời nhắn gửi, mời cưới mà Phong slư ở vùng Hòa

An – Cao Bằng còn mang một hình thức đặc biệt khác hẳn so với Phong slư

của các vùng khác , Hạ (đă ̣c biê ̣t là các huyê ̣n miền Đông như Quảng Uyên

Lang…) trên đi ̣a bàn tỉnh . Phong slư còn là một bức thư nhắn gửi dặn dò của bố mẹ đối với con cái trong cuộc sống hàng ngày. Trong quá trình điều tra,

điền dã tại Hòa An - Cao Bằng chúng tôi đã sưu tầm được những bức Phong

slư của bố mẹ gửi cho con để dặn dò, răn dạy con cách ứng xử, cách sống

trước khi lập gia đình mới. Những bức Phong slư này thường được đọc trong

hôm tổ chức lễ cưới trước mặt mọi người, cũng có khi là đưa cho con (thường

là con gái) trước khi về nhà chồng.

Gần ké đã hăn mì lai khinh nghiệm

Phua mìa tầu hòa thuận là đây

Nhƣợc gần đông gần tây là sán

Hất kin nên tính toán từng phoăn

Dịch nghĩa:

Ngƣời già sống có nhiều kinh nghiệm

Vợ chồng hòa thuận đƣợc là tốt

Nếu ngƣời đông ngƣời tây là bỏ

Làm ăn nên tính toán thật kĩ. [15]

Trong cuộc sống phải chăm chỉ làm việc, biết giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ

người già, cố gắng làm việc, quan tâm đến cảm xúc của người khác để cuộc

sống được thoải mái hơn.

42

Hất kin nắm đảy dản quen sân

Hất công dá đẩy nình căn làm viểc

Dá ngảm dàm chi tiếc kì thhâng

Cần ón dá nình thâng gần ké

Vửa hất vửa vui vẻ dẳng pền

Dẳng xử tua gần kin dá

Dịch nghĩa:

Làm ăn đừng có lƣời quen thân

Làm đồng chớ nịnh căn làm việc

Đừng so sánh chi tiết mọi thứ

Ngƣời trẻ đừng so với ngƣời già

Vừa làm vừa vui vẻ mới nên

Mới phải con ngƣời có học. [15]

Trong Phong slư của bố mẹ gửi cho con còn răn dạy đừng nói những lời

cay nghiệt, thất đức, đừng biểu hiện bực tức, là con người hãy suy nghĩ thật kĩ

trước khi nói và làm.

Dá đảy phuối gằm đùa thất đức

Dá gộc găng bực tức nả khăm

Dá nhắn nhóc tăn gằm óc pác

Cáy tốc píc slam bát chử khăn

Tua gần sam quây nhằng gỏi phuối

Dịch nghĩa:

Đừng nói những lời đùa thất đức

Nếu bực tức đừng khó chịu ra mặt

Đừng lời không tốt nơi cửa miệng

Gà còn đập cánh ba lần trƣớc khi gáy

Là ngƣời nhìn xa rồi hãy nói. [15]

43

Phong slư có nhiều cách thể hiện đặc sắc khác nhau về nội dung. Có thể

đó là một bức thư gửi gắm về tình cảm lứa đôi nhưng cũng có thể đó là những

bức thư trao đổi thông tin, gửi lời mời cưới, hay đó là những lời răn dạy của

cha mẹ đối với con cái trong cuộc sống hàng ngày. Chính những nội dung này

đã tạo nên những nét đặc sắc đặc biệt trong văn hóa của người Tày.

2.3. Sự chuyển hóa đổi mới chức năng của Phong slƣ trong đời sống hiện đại

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân gian Tày loại hình

Phong slư bước đến một giai đoạn mới, Phong slư hiện đại đã có sự thay đổi rõ

rệt. Về hình thức, Phong slư hiện đại không còn là những bức thư trao đổi thông

tin tuy nhiên Phong slư hiện đại vẫn còn mang trong mình phần đọc ngâm và thể

thơ của Phong slư cổ, chính yếu tố sử dụng việc đọc ngâm và sử dụng kết cấu

thơ thất thất trường thiên chặt chẽ mà ngày nay những bài thơ mang nội dung

mới đều được người Tày ở Hòa An – Cao Bằng gọi là Phong slư. Đặc biệt về

nội dung, tiếp tục kế thừa nội dung của Phong slư cổ không chỉ đề cập đến tình

yêu lứa đôi mà Phong slư hiện đại còn có sự mở rộng về chủ đề, nổi bật nhất là

chủ đề về Đảng, Bác Hồ và tình yêu quê hương đất nước.

Sự chuyển đổi này củ a Phong slư trong đờ i sống hiê ̣n đa ̣i này có nhiều ý

kiến khác nhau. Có một bộ phận cho rằng đây là sự phát triển của loại hình nghệ thuâ ̣t này, có ý kiến lại khẳng định đây là giai đoạn thụt lùi của Phong slư . Tuy

nhiên qua quá trình điền dã thực đi ̣a ngườ i viết nhâ ̣n thấy rằng đây là mô ̣t hình thứ c phát triển củ a Phong slư bở i văn hóa dân gian ra đờ i từ trong cuộc sống lao đô ̣ng sản xuất, sinh hoa ̣t củ a nhân dân lao đô ̣ng, xã hội ngày càng phát triển nên loại hình Phong slư cũng có sự biến đổi phù hợp với thời đại mới nên chủ đề của

Phong slư cũng có sự chuyển biến thay đổi cho phù hợp.

2.3.1. Phong slƣ là những lời ca ngợi Đảng và Bác Hồ.

Đảng và Bác Hồ là chủ đề không bao giờ vơi cạn trong mạch nguồn cảm

hứng của thi ca. Đảng và Bác đã đem niềm vui lẽ sống cho toàn thể dân tộc

Việt Nam đưa cả dân tộc Việt Nam thoát khỏi cuộc sống lầm than đau khổ.

Trên miền đất này khắp nơi nơi đều vang tiếng ngợi ca ánh sáng soi đường của

44

Đảng, của Bác. Trong Phong slư cũng mang niềm vui, tâm trạng náo nức vui

tươi như vậy.

Vọm hạnh phúc dân rà thức thá

Khau phia vui moóc tỏa đua xuân

Bjoóc đua bjoóc hẹn gần rẳp sí

Cớ phông rƣờng mọi tỉ đao bân

Pác lai xuân hồi xuân đin nhả

Nƣớc rƣờn vui hí hạ mẩng khuô

Ơn Đảng ơn bác Hồ pế cải

Bjoóc đau phông choảng mại xuân xuân.

Dịch nghĩa:

Đƣờng hạnh phúc ta cầu đã tới

Rừng núi ơi phấn khởi cùng xuân

Hoa đua hoa vô ngần đƣợm sắc

Cờ tung bay từ Bắc chí Nam

Hơn trăm năm giang san mƣu lại

Nƣớc nhà nay mãi mãi hân hoan. [14, tr.52]

Hay những câu:

Tởi tởi chứ ơn Đảng tái tàng

Đảng hây vị đại rọ vinh quang

Đáp gằm Đảng rọọng si luồn lặp

Chƣớng hẩu giang sơn mại mắn kheng

Nông nghiệp tăng gia lai khẩu nặm

Luyện kim sản xuất thép thêm khang

Thần tiên tởi sổng Bác Hồ hẩu

Tởi tởi Việt Nam mại rủng roàng

45

Dịch nghĩa:

Muôn thủa nhớ ơn Đảng dẫn đƣờng

Đảng ta vĩ đại thật vinh quang

Đáp lời Đảng gọi cùng vun đắp

Xây dựng giang sơn mãi huy hoàng

Nông nghiệp nơi nơi nhiều thóc lúa

Luyện kim sản xuất thép thêm gang

Thần tiên cuộc sống ngƣời để lại

Mãi mãi Việt Nam vọng tiếng vang. [14, tr.61]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải

phóng nhưng miền Nam vẫn chịu áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Với niềm tin

vào sự lãnh đạo của Đảng những người con dân tộc Tày đã một lòng đoàn kết

giúp miền Nam ruột thịt. Và nhiều bài thơ Phong slư hiện đại đã thể hiện điều

đó thật sâu sắc.

Síp lai pi miền Nam thẹp Mĩ

Bấu lƣờn tầu lo hí góp xèn

Rƣờn lẻ góp khẩu tan phén phục

Rƣờn gióp xèng góp sức cơ qua

Rƣờn đảm đang hậu phƣơng mắm chắc

Cùng góp mà giải phóng miền nam

Dịch nghĩa:

Mấy chục năm Việt Nam đuổi Mĩ

Không nhà nào không lo góp tiền

Nhà thì góp gạo góp chiếu

Nhà góp tiền góp sức cơ quan

Nhà đảm đang hậu phƣơng vững chắc

Cùng góp về giải phóng miền Nam

[14, tr.70]

46

Với tấm lòng ơn Đảng dẫn đường các dân tộc anh em cùng nhau vững

bước đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững bước dưới cờ Đảng xây

dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.

Hất kin mừa nả mọi mòn đây

Nông thôn hợp tác thêm rèng khỉn

Rƣờn máy công trƣờng nhộn tẳng xây.

Dịch nghĩa:

Làm ăn tiến bƣớc vững bao thay

Nông thôn hợp tác thêm củng cố

nhà máy công trƣờng mạnh dựng xây

[14, tr. 68]

Bên cạnh những lời ca ơn Đảng trong những bài thơ Phong slư mới còn

có những lời ca ngợi Bác Hồ - vị lãnh tụ của dân tộc. Ngay từ những ngày đầu

Bác ra đi tìm đường cứu nước đã được Phong slư khắc họa rõ nét:

Bác Hồ khảm đại hải phƣơng Tây

Slam dục pi Bác pây mọi nƣớc

Pháp, Mị, Nga nguyện ƣớc Bác thâng

Bác rặp tẻn Lê Nin – Các Mác

Bặng kha hoẳn rủng khóp thế gian

Bác đã xếp khảu chang sim mốc

Hất địa bàn tức tốc cứ dân

Dịch nghĩa:

Bác Hồ vƣợt biển đến phƣơng Tây

Ba mƣơi năm Bác đi mọi nƣớc

Pháp, Mĩ, Nga nguyện ƣớc Bác đến

Bác gặp ngƣời Lê Nin – Các Mác

Nhấc chân lên đi khắp thế gian

Bác đã xếp vào trong bụng dạ

Xây địa bàn tức tốc cứu dân. [15]

47

Trên hành trình của mình Người nhận ra một điều dù ở đâu trên thế giới

này những người dân lao động vẫn là những người nghèo khổ nhất. Và người

trở về nước lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vẻ vang.

Hoằn so sloong đọng đính thủ đô

Nả Ba Đình Bác Hồ tuyên bố

Việt nam đã độc lập, tự do

Việt Nam đã tự do, độc lập

Dịch nghĩa:

Ngày mùng hai rực rỡ thủ đô

Trƣớc Ba Đình Bác Hồ tuyên bố

Việt Nam đã độc lập, tự do

Việt Nam đã tự do, độc lập [15]

Bác đã đặt nền móng vững chắc cho tổ quốc đánh đuổi mọi đế quốc xâm

lăng. Nhưng chưa kịp chứng kiến đất nước thống nhất người đã ra đi với niềm

tiếc thương vô hạn của cả dân tộc, Người đã đi xa nhưng trong tim cả dân tộc

vẫn nhớ mãi công lao to lớn của người:

Bác đạ pây lặm phia luôn móc

Tiếng của Bác nhằng vọng óc đuổi dân

Nƣớc Việt nam ơn nhân của Bác

Dịch nghĩa:

Bác đã đi qua sƣơng qua núi

Tiếng của Bác còn vọng mãi với dân

Nƣớc Việt Nam nhớ công ơn Bác

[14, tr. 98]

Trước lúc người đi xa miền Nam chưa thống nhất, trong tim người vẫn

một lòng mong mỏi đến ngày Bắc – Nam xum họp nước nhà hoàn toàn thống

nhất. Để không phụ công mong mỏi của Người hòa chung với không khí cả

nước vì miền Nam ruột thịt đồng bào dân tộc Tày cũng góp sức lực nhỏ bé của

mình vì miền Nam thân yêu.

48

Mảu táp mảu chăm nua thuốt jảo

Pất cáy rảo táp rảo vẻ viòng

Thanh niên hứa pây thuổnn việc nắc

Pây tòng quân tức sức tiền phƣơng

Nhình đảm mọi việc rƣờn công việc

Dịch nghĩa:

Vụ tiếp vụ làm ra hạt thóc

Chăn nuôi gà thêm vịt cho nhiều

Thanh niên hứa đi đầu sản xuất

Đi tòng quân đánh giặc miền Nam

Gái đảm đang sẵn sàng dốc sức [14, tr.8]

Hay những câu:

Chứ miền Nam sẩy rịu khát soong

Bắc Nam khoái wằn nngỏng thống nhất

Se chi viện miền Nam tức Ngụy

Khóp mọi mƣờng chiến sị gần dân

Nguyện sản xuất rèo gằm Bác sắng

Đáp gẳm bác khau phia viỏi viọm

Dịch nghĩa

Nhớ miền Nam tựa ruột đứt đôi

Bắc Nam mong từng hồi thống nhất

Khắp mọi nơi chiến sĩ nhân dân

Nguyện sản xuất góp phần Bác dặn

[14, tr. 85]

Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, trở về với

cuộc sống lao động thường ngày nhưng trong lòng những người con dân tộc

Tày vẫn không bao giờ quên được công ơn to lớn của Người

Chƣớng đin rƣờn mai hẩu phông hoa

khôn khó này Bác Hồ săm hẩu

49

Vui nƣớc rƣờn tồn quảng hạ châu

Từ nẩy pây boong sầu sung sƣớng

Xã hội nằm nảy pây mì đo

Ơn Đảng, ơn Bác Hồ tởi tởi.

Dịch nghĩa:

Vun nƣớc nhà nay đã nở hoa

Cay đắng này Bác Hồ xóa hết

Vui nƣớc nhà cùng kết năm châu

Từ nay mãi đƣợm mầu hƣơng sắc

Xã hội ta hạnh phúc ấm no

Ơn Đảng ơn Bác Hồ mãi mãi.

[14, tr.85]

Những lời Phong slư của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng nói riêng của

dân tộc Tày nói chung trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều chủ đề mới phù

hợp với xã hội đó là chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi các anh hùng dân

tộc. Do vậy Phong slư cũng mang trong mình những tư tưởng, tình cảm lớn

của thời đại.

2.3.2. Phong slƣ là những lời ca ngợi tình yêu quê hƣơng đất nƣớc.

Nói về tình yêu quê hương đất nước mỗi vùng miền dân tộc lại có cách

nói, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại đều là những câu hát đằm

thắm, thiết tha về cảnh đẹp thiên nhiên, cuộc sống lao động sản xuất, những

đặc sản quê hương... Trong những bài thơ Phong slư mang nội dung mới của

người Tày ở Hòa An - Cao Bằng, cũng đề cập tới vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc

sống đang ngày càng đi lên ở nơi đây. Đây là câu thơ miêu tả cánh đồng phì

nhiêu, màu mỡ của vùng đất Hòa An:

Anh đến quê em một buổi chiều

Cánh đồng xanh ngát màu phì nhiêu

Thửa trên thuốc lá lên phơi phới

Đám dƣới cây ngô thả cánh diều. [48]

50

Và thêm màu sắc của những cánh hoa mận, hoa đào cùng với những

tiếng chim ríu rít mỗi độ xuân về càng tô đẹp thêm vẻ đẹp quê hương nơi đây:

Cứ thâng độ đét ón bân mà

Vạn vật đều rặp nả soong mùa

Mặn tào bjoóc phông đua tềnh cáng

Vị mèng bân nả táng riếc căn

Dịch nghĩa:

Cứ mỗi độ nắng ấm xuân về

Hai mùa giao nhau trong vạn vật

Mận đào nở tung đua khoe sắc

Ong bƣớm trƣớc sau ới gọi nhau.

[48]

Bƣơn chiêng mà boóc mặn phông khao

Boóc lì cắp boóc tào rung chói

(Tháng riêng về hoa mận trắng tinh

Hoa lê cùng hoa đào sáng chói)

[15]

Tình yêu ấy còn được thể hiện qua việc trân trọng những ngọn núi, cánh

đồng, giọng hát quê hương:

Giá đảy chê đin noọng vàn ghềnh

Đin noọng đin rẩy tềng, nà quý

Hội xuân mì lai tỉ mà dồm

Tiếng lƣợn vọng lèo lồm lèo móc.

51

Dịch nghĩa:

Đừng chê quê em nhiều núi

Quê em quê rẫy bạc ruộng vàng

Ngày hội xuân nhiều nơi đến dự

Tiếng lƣợn vọng theo gió theo mây. [15]

Hay chỉ đơn giản là tự hào với cây thuốc lá của quê hương.

Quê noọng zú nam Tuấn lảo hom

Đạ hâng zá tiếng hom mọi tỉ

Lảo hƣa gần thức Mị vửa xƣa

Rèo bải chài tẩu nƣa tức trận

Tứ Cao Bằng khảu tận miền Nam

Lảo lƣơng khói rủng roàng ấc vỉ

Thâng chất hả thắng Mị là lăng

Lảo quê noọng vẫn lằng hom tỏa.

Dịch nghĩa:

Quê em ở Nam Tuấn thuốc thơm

Đã lâu rồi tiếng thơm mọi chỗ

Thuốc giúp ngƣời đánh Mĩ khi xƣa

Theo các anh vào Nam đánh trận

Từ Cao Bằng vào đến miền Nam

Khói thuốc vàng vòng vòng trƣớc ngực

Đến bẩy năm tháng Mĩ về sau.

Thuốc quê em vẫn còn thơm mãi.

[16, tr. 90]

52

Tình yêu quê hương của họ còn được thể hiện qua sự quan tâm đến quê

hương, nhìn thấy quê hương đang đổi mới từng ngày với hình ảnh chợ phiên

đông đúc nhiều hàng hóa:

Chang háng mì mọi tàng bấu thiếu

Cần pây là gần thẻo cần mà

Háng nầy háng khai tra khai nựa

Háng nầy háng lụa khai tơ

Háng nầy háng khai cƣa khai khẩu

Háng nầng háng khai lẩu khai gia

Mọi háng đều vinh hoa phú quý.

Dịch nghĩa:

Trong chợ nhiều mặt hàng không thiếu

Ngƣời đi ngƣời lại ngƣời về

Chợ này chợ bán thịt bán cá

Chợ này bán lụa bán tơ

Chợ này là chợ muối chợ gạo

Chợ này là chợ bán rƣợu bán thuốc

Mọi chợ đều vinh hoa phú quý [48]

Hay niềm vui với ánh điện thắp sáng, con đường nhựa kéo dài:

Ngày nay Nam Tuấn đổi thay rồi

Điện sáng nhƣ sao treo khắp nơi

Đƣờng cái dân sinh in nhựa bóng

Tƣơng lai phía trƣớc thật là vui. [14,tr.92]

Có thể nói, một bộ phận lời của Phong slư ở giai đoạn hiện đại đã phản

ánh một cách chân thực tâm tư, tình cảm của đồng bào dân tộc Tày trong sự

đổi mới của thời đại. Đặc biệt phản ánh được chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca

ngợi tình yêu quê hương đất nước đã như một việc làm thiết thực đóng góp

cho công cuộc bảo tồn, giữ gìn làn điệu Phong slư trong vốn dân ca của dân

tộc Tày.

53

TIỂU KẾT

Qua tìm hiểu về nội dung trong những lời thơ Phong slư chúng tôi nhận

thấy rằng người dân ở huyện Hòa An – Cao Bằng đã xây dựng cho mình một

kho tàng phong phú và đa dạng về những vần thơ tình yêu đôi lứa. Qua tìm

hiểu chúng tôi thấy được nhiều cung bậc cảm xúc tình cảm khác nhau đó là

tình yêu trong thủơ ban đầu gặp gỡ với những lời tỏ tình thiết tha chân thành

giản dị, với những khát vọng hạnh phúc lứa đôi sâu sắc, hay là nỗi buồn trong

tình yêu cách trở. Tất cả đã làm nên một làn điệu ghi sâu vào tâm trí mỗi người

dân nơi đây.

Bước sang giai đoạn hiện đại, Phong slư vẫn còn tồn tại và phản ánh các

khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên là những lời ca ngợi Đảng,

Bác Hồ và cuộc sống mới. Thể hiện tư tưởng, tình cảm mang tính thời đại của

lịch sử xã hội.

Từ đó ta nhận thấy rằng Phong slư có nội dung phong phú, đa dạng,

phản ánh được bức tranh chân thực và sinh động về tâm hồn con người trong

cuộc sống. Đặc biệt nhất vẫn là khía cạnh tình yêu đôi lứa.

Mỗi loại hình dân ca đều có những đặc điểm riêng bởi có sự khác nhau

về hoàn cảnh và môi trường sống chính điều đó đã tạo ra cái riêng cái độc đáo

của mỗi loại hình dân ca. Do vốn hiểu biết còn nhiều hạn chế cũng như thời

gian còn hạn hẹp nên trong đề tài này tôi chỉ mới tìm hiểu một cách khái quát

được vài nét tiêu biểu về nội dung trong loại hình Phong slư ở địa phương mà

chưa đi sâu vào việc so sánh với loại hình Phong slư ở các địa phương khác.

54

Chƣơng 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHONG SLƢ

Ở HÕA AN– CAO BẰNG

3.1. Kết cấu của Phong slƣ

Qua quá trình tìm hiểu về Phong slư chúng tôi nhận thấy ở Hòa An -

Cao Bằng nói riêng ở các địa phương khác nói chung Phong slư thường được

viết theo một cấu trúc có sẵn gồm ba phần chính:

Phần mở đầu: Thông thường phần mở đầu của một bức Phong slư

thường theo một khuôn mẫu có sẵn. Bức Phong slư được viết vào thời gian nào

thì mở đầu bài Phong slư sẽ bắt đầu từ đó. Thông thường bài Phong slư sẽ bắt

đầu bằng một mùa trong năm Phong slư viết vào mùa nào thì câu mở đầu sẽ

nhắc đến mùa đó:

Xuân thiên vằn dú buồn chứ bạn

Thêm tiếng mèng chang ngạn roọng Slƣơng.

Dịch nghĩa:

Trời xuân ngày buồn ngồi nhớ bạn

Cùng tiếng ve rừng hót gọi thƣơng

Hay

Thu Thiên vằn dú goẹng buồn lai

Căm bút chép phảng lài phác bạn

Dịch nghĩa:

Trời xuân ngày lặng buồn thêm

Cầm bút viết thƣ gửi bạn

Không chỉ bắt bầu bằng các mùa trong năm Phong slư còn có thể bắt

đầu thời gian, địa điểm bằng ngôi vua đang trị vì và ngày tháng viết thư.

Hoàng Triều nam Khải định ngụ niên

Bƣơn slam tiết thanh minh vận quả

55

Dịch nghĩa:

Triều đại năm Khải Định trrên ngôi

Tháng ba trời xuân cao quá.

Đây là trích đoạn mở đầu của một tờ Phong slư nói rõ ngày, tháng viết lá thư.

Bƣơn slam xo hả thanh minh

Voằn đay ví tín tin sai mả

Phúc đây rẫy noong á chang suôn

Noọng khả vỉ khẩu thƣờn lẩy cón

Gàm khiển khau ón ín vang đang

Dẻo mà rƣờn sim vuồn đắc dạy

Dịch nghĩa:

Mùng năm đúng dịp tiết thanh minh

Ngày lành đi sửa mộ

Qua cạnh nhà em ngỏ đôi lời

Mời anh lên nhà chơi ngoạn cảnh

Lòng bịn rịn nghe tiếng chồn chân

Đến mộ tổ lòng buồn man mác. [13]

Phần nội dung: Nội dung của bức Phong slư thường tập trung nói đến

vấn đề chủ thể muốn đề cập đến như tâm trạng rầu rĩ, nhớ thương trong tình

yêu hay hoàn cảnh, nỗi niềm người viết muốn nhắn gửi.

Gừn vằn noọng lo sƣớng phển lầng

Khảm bƣơn slí thẻo thâng bƣơn hả

Vằn pây thâng lốc chả đăm nà

Tậu nhiên ón pác tha pác nả

Chứ thâng Gằm pỉ gạ tƣơng tƣ

Dịch nghĩa:

Đêm ngày em lo lắng khôn nguôi

Qua tháng tƣ lại đến tháng năm

56

Ngày đi làm nhổ mạ cấy lúa

Tự nhiên mặt rầu rĩ âu sầu

Nhớ đến lời anh dặn tƣơng tƣ. [15]

Phần nội dung của một bức Phong slư rất đa dạng nhưng chủ yếu xoay

quanh đề tài về tình yêu đôi lứa, Phong slư thường được sử dụng để để tỏ tình,

bày tỏ tâm trạng nhớ nhung lúc đang yêu hay là nỗi đau buồn xót xa khi yêu

nhưng không thể đến được với nhau.

Viảc căn nẳm tha lác nhƣ phân

Viảc căn bấu chắc voằn hội ngộ

Khoăn vỉ chắp bƣởng nả nộng mừa

Khoăn nọong chắp vạng soa rỏe vỉ

Kin khẩu là đặt thú soong tôi

Riểc khoăn căn kin hôi đuổi nợ

Chủ mì nghĩa táng xa sƣơng lai

Vỉac sổng bặng vỉac thai nhạn ới

Dịch nghĩa:

Chia tay nhau nƣớc mắt nhƣ mƣa

Chia tay biết bao giờ hội ngộ

Hồn anh đậu trên chán em về

Hồn em đi theo anh sát gót

Ăn cơm đũa phải đặt hai đôi

Cụng gọi nhau ăn hội với nhé

Chia tay với bạn nghĩa đƣờng xa

Tạm biệt còn xót xa hơn chết. [15]

Bên cạnh đề cập đến tình yêu lứa đôi Phong slư còn mang nội dung

thông báo, trao đổi thông tin như mời cưới hay là lời nhắn gửi dặn dò.

Bƣơn síp hoằn xo pét lƣơng thằn

Thừa vỏ mẻ chọn đảy hoằn hoằn thú

Xỉnh thâng bạn voằn đú sƣơng lƣờng

Chứ căn hạy mà giƣờng tha nả.

57

Dịch nghĩa:

Tháng mƣời ngày mồng tám ngày lành

Theo bố mẹ chọn đƣợc ngày làm lễ cƣới

Mời đến bạn ngày cũ thiết thƣơng

Nhớ nhau cố về cho có mặt

Cùng nâng chén nƣớc lã cũng đành. [13]

Phần kết thúc: Kết thúc một bài Phong slư thường là lời khẳng định tình yêu

của mình, đồng thời qua đó muốn nhắn gửi tâm trạng cuối cùng tới người nhận.

Công én vƣợt tàng khó cố pây

Thƣ vỉ mì mòn lăng sai trái

Toọc dá cũng dá khảu phầy

Hảy nếp Sle hẩu đây hẩu kỉ

Dịch nghĩa

Công én vƣợt đƣờng khó cố đi

Thƣ anh có điều gì sai trái

Đọc xong cũng đừng ném vào lửa

Hãy cất đi cho đẹp cho kĩ. [13]

Với Phong slư hai bên trai gái cứ trao đổi thư qua lại đến khi tình cảm

mặn nồng, đến khi tiến tới hôn nhân thì những bức thư ấy mới dừng lại. Cũng

có khi trai gái Tày không đến được với nhau do gia đình, xã hội ngăn cản thì

bức Phong Slư cuối cùng là bức Phong slư giãi bày nỗi lòng đau xót khi phải

chia tay nhau.

Tuy nhiên, cùng với thời gian Phong slư cũng có sự vận động và biến

đổi mạnh mẽ. Nếu một bức Phong slư cổ có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ thì trong

kết cấu của Phong slư hiện đại đã có sự cách tân đáng kể, nó chỉ còn lại phần

nội dung mà Phong slư muốn đề cập đến như tình yêu quê hương đất nước, ca

ngợi Đảng, Bác hồ, ca ngợi cuộc sống quê hương giàu đẹp hay những này lễ

lớn của dân tộc.

58

3.2. Thể thơ thất ngôn trƣờng thiên.

Thể thơ thất ngôn trường thiên là thể thơ được dùng chủ yếu trong sáng

tác Phong slư. Thể thơ này còn được gọi là thể thơ "Thất thất lưu thủy" với

mỗi câu thơ có bảy âm tiết và sử dụng vần lưng, tiếng thứ bảy của câu trên

hiệp vần với tiếng thứ năm của câu dưới và cứ kéo dài như thế cho đến khi kết

thúc. Các câu thơ trong một bài cứ đều đặn lặp đi lặp lại với số lượng không

hạn định giống như dòng chảy của nước kéo dài vô tận nên thể thơ này còn

được gọi tắt là thể thơ "lưu thủy". Việc sử dụng thể loại này trong Phong slư đã

tạo nên sự linh hoạt trong việc kể, diễn tả, bộc lộ được tâm trạng nhân vật.

Đặc biệt trong thể thơ này mang nét đặc sắc trong việc sử dụng thanh

điệu. Thanh điệu của tiếng thứ 7 ở câu trên phải cùng thanh điệu với tiếng thứ

5 và trái thanh điệu với tiếng thứ 7 ở câu dưới, chính điều này đã tạo nên sự

ngắt nhịp ở tiếng thứ 5 tạo nên âm hưởng đặc biệt trong làn điệu Phong slư,

tuy nhiên cũng có khi một từ được đặt vào vị trí bắt buộc nhưng thanh điệu

hoặc vần lại không phù hợp theo nguyên tắc có sẵn.

Ví dụ trong đoạn thơ sau thanh điệu cuối các câu phù hợp với nguyên

tắc tiếng thứ 7 của câu đầu là thanh trắc, câu tiếp là thanh bằng, câu ba là thanh

trắc, câu bốn là thanh bằng và các thanh điệu cứ có sự sắp xếp như vậy cho đến

khi kết thúc bài thơ.

Xây kết đuổi bạn mải bấu tả (T)

Nghịa soong rà đạ gạ nhất tâm (B)

Vỉ bấu phuối gằm lồm quá kéo (T)

Luồm quá kéo nhằng tẻo vặt mà (B)

Soong rà nghĩa giao ca khôn tả (T)

Đan thân hác dú buồn bả tơ lƣơng (B)

Lùm thuổn tằng tu rƣờn bấu lị (T)

59

Dịch nghĩa:

Sĩ đà kết nghĩa bạn mai

Nhất tâm đã nói một lòng mang theo

Lời không nhƣ gió qua đèo

Gió còn có lúc vòng vèo quay sang

Hai ta định kết cao sang

Một mình buồn bã nhớ thƣơng một mình

Bỏ quên cả việc gia đình [15]

Bên cạnh đó một bài Phong slư thường có cấu trúc hiệp vần và thanh

đồng nhất, cấu trúc đó được lặp đi lặp lại trong cả bài thơ. Đáng chú ý là vị trí

thứ 5 và thứ 7 của một câu thường trái thanh điệu. Thanh điệu của tiếng thứ 7

ở câu trên cùng thanh với tiếng thứ 5 ở câu dưới và có vần lưng giống nhau,

chính nhờ cách tổ chức về vần và thanh điệu như vậy mà các câu thơ trong

Phong slư cứ nối tiếp nhau tạo thành một dòng chảy vô tận, tạo nên nhịp điệu

cho mỗi câu thơ và cả đoạn thơ khiến cho Phong slư trở nên dễ nhớ.

Sƣ mình rừ chắc tảy tới già

Mì sƣơng vỉ tả mà hất rẩy

Rƣờn ỉ mà tấy rƣờn luông

Tân noọng tồng vặc nuông khoen rúy

Thân vỉ bằng kim quý chang suôn

Kim quý mì cần vuồn au vẻ

Tả sle nhả phắt ké thai mươi

Dịch nghĩa:

Số phận này làm sao biết trƣớc đƣợc

Có thƣơng anh hãy bỏ rẫy

Nhà nhỏ về với nhà lớn

Thân em nhƣ quả bầu trên giàn

Thân anh nhƣ hoa quý trong vƣờn

Hoa quý còn có ngƣời chăm lấy giống

Còn bầu chỉ để phơi sƣơng giá. [13]

60

Nhìn chung cách gieo vần và cách sử dụng thanh điệu trong Phong slư

giống với cấu trúc của một số thể thơ trong các loại dân ca khác như: Then,

Lượn slương, Lượn cọi, Lượn nàng hai, hát quan lang...

Bên cạnh đó cách ngắt nhịp trong Phong slư thông thường là 1/2/2/2.

Tuy nhiên đây không phải là một quy tắc bắt buộc trong cách ngắt nhịp mà có

thể linh hoạt, biến đổi các nhịp như 3/4; 2/3/2; 3/2/2... ví dụ như cách ngắt nhịp

trong đoạn thơ sau:

Vửa đú / khả thành thân / chi mỵ

Vỉ / nhất tâm / noọng đảy / reo mừa

Rừ chắc / nội hàn / có đuổi noọng

Vửa đú / phuối thuổn toọng / cón lăng

Do / vỉ pây thỉnh / gằm thiên hạ

Chốn cao sang / noọng đã bấu mì

Nà chang / vỉ hồ nghi / hẩu noọng

Dá phuối gằm / chếp toọng hẩu mài.

Dịch nghĩa:

Ngày trƣớc nói kết thân mãi mãi

Anh một lòng em đã đƣợc theo

Làm sao biết tâm trạng của em

Ngày trƣớc nói hết lòng trƣớc sau

Do anh đi nghe lời thiên hạ

Chốn cao sang em không hề có

Mà sao anh nỡ nghi ngờ em

Để nói lời đau lòng với em [48]

Thể thơ thất ngôn trường thiên có tính chất miêu tả, giãi bày tâm trạng

làm cho những lời ngâm Phong slư trở nên sâu sắc và dễ làm cho người nghe

hiểu được nỗi buồn của nhân vật trữ tình:

61

Xuân thiên bjóoc phông tốc đuổi lồm

Bách thức mèng đông pá thảm thƣơng

Xuân pây bjoóc phông tốc tả tàng

Mật mèng dú đâu pá táng bấu roọng

Bjoóc theo xuân tẻ táng lởi lòng

Đát mà toọng hiền thân buồn thấu

Tƣơng tƣ bấu tƣơn khẩu pjầu ngài

Nghị mà hác buồn lai đuổi thởi

Dịch nghĩa:

Trời xuân hoa rơi theo gió

Tiếng ve kêu trong rừng thảm thiết

Xuân đi hoa nở rơi đầy dƣờng

Ong bƣớm đâu hết không gọi

Hoa theo xuân đi cho ta buồn lòng

Trong lòng nỗi buồn không thấu

Tƣơng tƣ không nhớ cơm sáng tối

Nghĩ lại tự buồn hết đời này [15]

Có thể khẳng định rằng, với thể thơ thất ngôn, người Tày đã tạo cho

mình một nét riêng trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca của dân tộc. Thể thơ này

vừa có thể dung nạp được ngôn ngữ đời thường, mộc mạc, dung dị, chân thực,

vừa có thể diễn tả được mọi tư tưởng, tình cảm với nhiều cung bậc tâm trạng

khác nhau bằng hình ảnh, nhạc điệu của cuộc sống. Việc sử dụng thể thơ này

như một mạch nguồn cảm xúc cứ nối tiếp nhau như một dòng chảy nhằm thể

hiện rõ hơn mạch nguồn cảm xúc trong tình yêu đôi lứa.

3.3. Ngôn ngữ lời thơ Phong Slƣ

Ngôn ngữ là yếu tố giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống cũng như

trong văn học. Vì vậy khi nghiên cứu văn học nói chung và văn học dân gian

nói riêng ta cần đi sâu tìm hiểu ngôn ngữ để thấy được những nét tinh tế, đặc

sắc đã được các nghệ nhân dân gian gửi gắm trong đó.

62

3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh

Đồng bào người Tày với lối sống mộc mạc gắn bó với thiên nhiên nên tư

duy ngôn ngữ của họ cũng mang tính mộc mạc, giản dị như chính tâm hồn họ.

Nhìn chung cách diễn đạt của người Tày thường mang tính cụ thể, giàu hình

ảnh, giàu chất thơ của thiên nhiên núi rừng. Tính chất dân gian của các hình

tượng trong lời thơ Phong slư không phải mang tính dân gian nói chung mà nó

mang tính đặc trưng của vùng dân tộc miền núi. Có thể nhận thấy hình ảnh

thiên nhiên, cuộc sống lao động thường ngày đầy ắp trong những vần thơ

Phong slư:

Noọng rầu mà phát rẩy phìa nhả

Vỉ nhằng tả rẩy nà pác vẻ

Bát bai mì kỉ nghé mằn phƣớc

Bát cuốc mì kỉ ăn phƣớc bủng

Gần rầu từng hăn đảy vận nẩy

Hất rừ mà tả rẩy hất nà.

Dịch nghĩa:

Em nào về phát rẫy cỏ

Anh còn bỏ thửa ruộng trăm giống

Nhát bƣớm cuốc mấy củ sắn

Nhát cuốc có mấy củ lang

Đã có ai thấy thế này

Làm sao bỏ đƣợc nƣơng làm ruộng [45, tr.157]

Bằng những hình ảnh dung dị, đời thường: ruộng rẫy, khoai sọ, khoai

lang cho người đọc thấy khung cảnh làm việc vui nhộn, sinh động của đồng

bào dân tộc Tày. Trong Phong slư nói riêng và trong tất cả những làn điệu dân

ca khác nói chung thường sử dụng các hình ảnh ví von gần gũi với cuộc sống

thường ngày như: Hình ảnh hoa, hình ảnh én nhạn...

63

* Hình ảnh hoa:

Nói đến hoa là nói đến cái đẹp, hoa là biểu trưng cho vẻ đẹp của con

người, đặc biệt là người phụ nữ. Từ cuộc sống hoa đi vào văn học với những

biểu trưng thẩm mĩ, tín ngưỡng và triết lí. Hình ảnh biểu tượng hoa trong văn

học dân gian thường là sự hiện thân cho những giá trị thiêng liêng cao đẹp của

người con gái. Trong ca dao dân ca của dân tộc Kinh hình ảnh hoa được thể

hiện là nét đẹp cao sang của người con gái:

Thân em nhƣ cánh hoa sen

Chúng anh nhƣ bèo, nhƣ bọt chẳng chen đƣợc vào.

[36, tr.162]

Nếu biểu tượng hoa sen như một nét đặc trưng của người con gái dân

tộc Kinh thì đến với cao dao dân ca miền núi hình ảnh hoa cũng được thể

hiện đặc sắc mang nét đặc trưng riêng. Theo quan niệm dân gian của người

Tày hoa có ở mọi nơi, có hoa ở mường trời, có hoa ở mường người, đặc biệt

là loại hoa tiên rực rỡ, hoa "Phặc Phiền" một loài hoa đẹp chỉ sống ở nơi vách

đá cao, loài hoa này trở thành biểu tượng đẹp và hay được nhắc đến trong văn

học dân gian Tày:

Thân noọng nhƣ fặc fiền đang nở

Vỉ hác điếp vật vở duổi lồm

Điếp bạn pây bấu thâng hăn nả

Queng quỷ roọng ngản lạ tiểng thƣơng

Dịch nghĩa:

Thân em nhƣ hoa fặc fiền đang nở

Nỗi nhớ thƣơng anh gửi theo gió

Thƣơng em nhƣng đến không thấy mặt

Chỉ nghe tiếng chim queng quý gọi thƣơng.[13]

64

Bên cạnh hình ảnh loài hoa tiên đẹp ấy, còn có những loài hoa bình dị, gần

gũi trong cuộc sống của đồng bào Tày, đó là những hoa đào, hoa lê, hoa mận..

Boóc vải phông cáng vạc nâu khao

Boóc tào phông cáng tào mận đáo

Bân đin tắt slao báo vui lai

Dịch nghĩa:

Hoa vải rực rỡ màu nâu trắng

Hoa đào hoa mận nở xen lẫn

Đất trời vui với gái trai [15]

* Hình ảnh chim

Người Tày sống giữa thiên nhiên với "hàng trăm thứ chim" với ngàn

giọng hót, hình ảnh những chim và giọng hót ấy đã im đậm trong tâm trí của

họ. Hình ảnh những chú chim đã đi vào trong ca dao dân ca Tày như một hình

ảnh biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, khát vọng tuổi trẻ.

Trong văn học cổ của người Tày hình ảnh én nhạn tượng trưng cho tình

yêu đôi lứa. Chính vì thế hình ảnh én nhạn trong Phong slư đã được nhân hóa

để mang những nỗi niềm tâm trạng gửi gắm đến người thương:

Én hỡi mà cung các vỉ vàn

Nhờ én pác thƣ mừa thâng nhị

Nhắn khả noọng định tỉ bấu thƣơng.

Dịch nghĩa:

Én hỡi về đến đây anh nhờ

Nhờ én gửi thƣ đến cho em

Nhớ nói dẫu thế nào vẫn thƣơng [48]

Bên cạnh hình ảnh én nhạn trong Phong slư còn có các hình ảnh loan –

phượng; công – phượng hoàng; bướm – hoa... còn là những hình ảnh quen

thuộc được các tác giả dân gian sử dụng để miêu tả tình yêu.

65

Boóc tàn mèng nhằng tổ co tầu

Vỉ pjạc noọng kết hầu đảy điếp

(Hoa tàn ong biết đâu mà đậu

Anh xa em biết yêu ai) [48]

3.3.2. Lời thơ Phong slư là sự kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ

bác học

Phong slư là sản phẩm của nhân dân lao động trong cuộc sống thường

ngày. Với nhu cầu giao lưu trao đổi tình cảm Phong slư ra đời như một chiếc

cầu nối giúp trai gái Tày có thể diễn tả được tâm tư, tình cảm của mình.Trong

xã hội xưa khi trình độ văn hóa của người dân còn thấp số người biết chữ

không nhiều nên khi muốn gửi một bức thư cho người mình yêu thì các chàng

trai cô gái Tày thường phải nhờ đến những "slấy sli" người tri thức bình dân

viết hộ. Những người trí thức bình dân này họ sống gần gũi với nhân dân, trân

trọng sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động, chính họ đã đồng sáng tạo,

sáng tác ra Phong slư. Có thể nói những người sáng tác ra Phong slư là những

người thợ sáng tác thơ. Bởi những nhà thơ này đã vận dụng những câu dân ca

có sẵn trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, họ chọn lọc những câu hay nhất, cải

biên đi chút ít rồi lắp ghép nó lại, chỉnh sửa sao cho gần với tâm trạng cảnh

ngộ khung cảnh địa phương... của từng người cụ thể. Vì vậy ngôn ngữ được

thể hiện trong Phong slư vừa mang tính nôm na trong cuộc sống giao tiếp

thường ngày vừa có tính uyên bác của người có tri thức. Điều đó đã tạo cho

ngôn ngữ Phong slư vừa mang tính bình dân, vừa mang tính bác học rõ nét.

Ngôn ngữ bình dân là lớp ngôn ngữ có khả năng tái hiện đời sống một

cách trực tiếp nhất, nó gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao

động.

Qua tìm hiểu lời thơ Phong slư chúng tôi nhận thấy có rất nhiều câu nói

trong cuộc sống hàng ngày, những lời nói nôm na tự nhiên đời thường. Chính

điều này đã tạo cho nội dung Phong slư trở nên gần gũi, thân thuộc với nhân

dân lao động.

66

- Rối bân! hất lăng sle thảm thiết

Dịch nghĩa

Trời ơi! sao lại thảm thiết vậy

Hay cách nói gần gũi trong cuộc sống lao động sản xuất thường ngày:

- Thây rẩy bấu mì mò bai bác

Bấu hử vỉ thai giác là thôi

Dịch nghĩa:

Làm rẫy không có bò dùng cuốc

Không để anh bị đói là thôi

- Cừn vằn cũng bấu sƣởng oóc tu

Giá tỷ giá pây từ cuốn giẳng

Dịch nghĩa:

Sáng tối cũng không muốn ra cửa

Đi lại ngồi xuống cũng không yên. [15]

Và những câu ca dao trong cuộc sống thường ngày của người đồng bào

Tày được các "nhà thơ" cải biên và đưa vào Phong slư một cách tinh tế. Dưới

đây là một đoạn Phong slư diễn tả tâm trạng lo lắng của cô gái trước tình yêu

xa cách:

Lo quân tử lại mỏng chốn cao sang

Cảng chốn càng thanh tao lịch sự

Thân noọng tẻ ngôn ngự tàng lăng

Chim chích bạn chim công rừ đảy

Chim công là mì bạn chim công

Nghị mà buồn đâng thân xam xiết

Dịch nghĩa:

Lo chàng tham cao sang mà bỏ

Ngƣời trên đời càng chỗ càng xinh

Thân em còn sánh bằng ai nữa

67

Chim chích thấy xấu hổ bạn công

Chim công thì bạn công mới xứng

Càng nghĩ càng thấy bận trong lòng [48]

Qua một số thống kê, chúng tôi nhận thấy cao dao dân ca Tày được sử

dụng nhuần nhuyễn, hài hòa trong Phong slư. Qua những câu thơ chứa đựng

những câu ca dao, tục ngữ người nghe thấy được cái hay, cái đẹp trong chiều

sâu của tâm hồn người Tày từ xa xưa. Cái hay, cái đẹp hàng ngàn năm đó giờ

đây hòa vào Phong slư trở thành bất biến và bền vững hơn bao giờ hết.

Ta có thể thấy Phong slư của dân tộc Tày đã sử dụng một cách triệt để

vốn ngôn ngữ dân tộc đã được đúc kết thành những câu ca dao, tục ngữ hay

những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, chính điều đó cho chúng ta

thấy được mối liên hệ giữa thể loại Phong slư và ca dao dân ca.

Mặt khác, ngôn ngữ trong Phong slư có tính bác học, ngôn ngữ bác học

là ngôn ngữ có tính chất cổ điển, với cách sử dụng từ ngữ trau chuốt, điêu luyện.

Trong Phong slư các tác giả dân gian đã sử dụng nhiều điển tích, sử dụng các từ

Hán – Việt nên Phong slư thể hiện tính bác học sâu sắc. Có thể thấy các điển

tích điển cố xuất hiện trong Phong slư rất nhiều như các tích như: Tích Ngưu

Lang – Chức Nữ, Thục Đế - Hằng Nga, Lưu Đài – Hán Xuân... các tích này đã

được đưa vào Phong slư như một hình ảnh quen thuộc để nói về khát vọng tình

yêu đôi lứa, dẫu bao khó khăn vất vả nhưng nhất định sẽ chờ nhau:

Ỷ nhƣ tuyện Ngƣu Lang, Chức Nự

Ngƣu Lang lạc mừa xử Hà Đông

Chức Nữ nhằng chứ thâng mọi thỏi

Cừn vằn noọng puồn đuổi vỉ quan

Nguyệt lão xe hồng nhan ớn bái

Dịch nghĩa:

Giống nhƣ truyện Ngƣu Lang, Chức Nữ

Ngƣu Lang lạc đến xứ Hà Đông

68

Chức Nữ vẫn còn mong ngóng đợi

Đêm ngày em nhớ tới chàng

Mong ông tơ xe luôn ơn nghĩa. [48]

Bên cạnh việc sử dụng những điển tích, điển cố để nói lên khát vọng tình

yêu của những chàng trai cô gái Tày, trong Phong slư còn sử dụng dày đặc

những từ ngữ Hán Việt đã được các nghệ nhân dân gian vận dụng một cách tài

tình khéo léo làm cho lời thơ trở nên trang trọng hơn. Ngay mở dầu bài Phong

slư ta đã bắt gặp các từ Hán – Việt xuất hiện với tần số cao.

Xuân thiên Bjoóc phung ón đuổi lồm

Bách thức mèng sơn lâm than vọng

Hua xuân bjoóc phông ón tả lẳm

Mật mèng dú sơn lâm bấu roọng

Bjoóc theo xuân tẻ táng tởi lòng

Đát mà toọng liền thân puồn thấu

Tƣơng tƣ bấu tƣơn khẩu pjầu ngài

Nghị mà hác buồn lai đuổi thởi.

Dịch nghĩa:

Ngày xuân hoa phất phơ trƣớc gió

Ve kêu trong núi vang vọng

Hoa xuân nở trên cành non tơ

Côn trùng đâu nỡ bỏ hoa rừng

Hoa theo cùng mùa xuân tự rũa

Xót lòng ngƣời buồn bã tấm thân

Tƣơng tƣ bỏ cả ăn sớm tối

Nghĩ mà tự buồn suốt cuộc đời. [15]

Và ngôn ngữ trau chuốt điêu luyện, thể hiện nét tài hoa của những nghệ

nhân sáng tác:

69

Co đeo bấu pền phà đông luông

Cần đeo bấu pền rƣờn bản cải

Dú ọa căn mại mại giẳng vần

Dịch nghĩa:

Một cây không làm nên rừng lớn

Một ngƣời không làm thành một nhà

Ở với nhau mãi mãi mới nên. [13]

Tỉ lệ điển tích, những từ Hán Việt, lời thơ điêu luyện xuất hiện nhiều

trong Phong slư với những câu thơ sâu sắc, thâm thúy nhưng vẫn dễ hiểu, gần

gũi như hơi thở, tâm hồn thuần khiết của người Tày. Những yếu tố trên được

sử dụng khá nhiều trong Phong slư khiến ngôn ngữ trong Phong slư vừa giản

dị, vừa tao nhã, mộc mạc mà sâu sắc. Đó chính là lời văn của một loại hình văn

học dân gian đang trên con đường tiếp cận với văn học viết.

Về phương diện ngôn ngữ, Phong slư đã vượt qua giai đoạn ứng tác của

ca dao dân ca mà đã được các nghệ sĩ dân gian ghi chép thành văn, chính vì

vậy mà bên cạnh ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của

nhân dân, các tác giả dân gian đã có công trau chuốt lời văn, dùng những điển

tích để biểu đạt được ý tứ sâu sắc hơn ý tưởng của tác giả, tạo nên chiều sâu

cho câu thơ, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn. Qua đó người nhận Phong slư hiểu

được sâu sắc hơn tình cảm của người nhắn gửi. Có thể nói ngôn ngữ trong

Phong slư là một đề tài rất thú vị, có thể khai thác và tìm hiểu dưới nhiều

phương diện khác nhau. Tuy nhiên do điều kiện khách quan mà người viết

chưa thể đi sâu nghiên cứu vấn đề này một cách cụ thể và rõ ràng nhất.

3.4. Nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ

Phong slư hấp dẫn người nghe không chỉ bởi âm thanh trầm bổng,

ngâm nga qua cách ngâm, cách đọc mà nó còn hấp dẫn bởi nét nghệ thuật độc

đáo trong ngôn ngữ lời thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học

và ngôn ngữ cuộc sống giao tiếp hàng ngày đã làm cho Phong slư trở nên độc

đáo hơn.

70

Để sáng tạo nên những vần thơ độc đáo giàu tính bác học như vậy, trong

quá trình sáng tác, tác giả dân gian đã biết cách vận dụng khéo léo những biện

pháp tu từ để biểu hiện. Qua việc khảo sát ngôn ngữ Phong slư chúng tôi nhận

thấy rõ việc sử dụng biện pháp tu từ có tần số khá lớn và đem lại hiệu quả

thẩm mĩ cao.

3.4.1. Biện pháp tu từ so sánh

Theo giáo sư Đinh Trọng Lạc "So sánh là một biện pháp tu từ ngữ

nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế

khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống

nhau nào đó nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối

tượng"[28,tr. 154]

Trong lời thơ Phong slư, so sánh là thủ pháp nghệ thuật quan trọng tạo

nên những giá trị thẩm mĩ đặc sắc, với những cách so sánh phong phú đa dạng.

Cấu trúc so sánh trong Phong slư cũng mang những nét chung của ca

dao dân ca người Việt. Nếu trong ca dao dân ca người Việt "Thân em" trở

thành một mô típ quen thuộc để nói lên số phận hẩm hiu, không có quyền

quyết định số phận của người phụ nữ thì trong Phong slư cũng vậy, hình ảnh

“Thân Noọng” cũng phản ánh số phận hẩm hiu của người phụ nữ, “Thân

noọng” chỉ được ví như bông hoa cỏ may giữa đồng:

Thân noọng nhƣ nhả hán chang nà

Nhả hán bấu thác tha vài nhẳm

Nhả nhọn dú tốc tằm vài chê

Thân vỉ nhƣ co sle slíp pẻng

Thân noọng nhƣ nỏ rẻng tầu già

Nỏ rẻng là vận xƣa tẳng thởi.

Dịch nghĩa:

Thân em nhƣ cỏ ngứa ngoài ruộng

Cỏ ngứa trâu không ăn chỉ đạp đổ

71

Cỏ ngứa thấp trâu thấy trâu chê

Thân anh nhƣ cây cao quá

Thân em nhƣ hạt bụi xa chân

Hạt bụi bay mãi ngàn đời. [15]

Người con gái tự so sánh mình như quả bầu, quả bí trên giàn chỉ để phơi

gió, phơi sương mà thôi:

Thân noọng tồng vặc mong khoen ri

Thân vỉ bặng kim quý chang suôn

Kim quý mì cần vuồn au vẻ

Tả sle nhả phắt ké thai mƣơi

Dịch nghĩa:

Thân em giống hoa dại bên bờ rào

Thân anh giống hoa quý trong vƣờn

Hoa quý còn vun lấy giống

Hoa dại chỉ phơi sƣơng phơi gió. [13]

Trong Phong slư ta cũng bắt gặp lối so sánh ví von đối lập qua lời thư

gửi từ chàng trai cô gái tự ví thân mình tầm thường như " nộc chích", làm sao

xứng với được "nộc công" đẹp đẽ.

Chim chích bạn chim công rừ đảy

Chim công là mì bạn chim công

Dịch nghĩa:

Chim chích bạn chim công sao đƣợc

Chim công có bạn chim công [15]

Hay cô gái chỉ coi mình là "Cáy đông" làm sao có thể xứng với "phượng

hoàng" kia

Cáy đông rừ cảm bạn phƣợng hoàng

Thiếu răng bjoóc mậu đàn vỉ sặp

72

Dịch nghĩa:

Gà rừng sao sánh với bạn công

Thiếu gì hoa mẫu đơn anh gặp [13]

Bên cạnh đó ta còn gặp sự so sánh nỗi nhớ trong tình yêu của nhân vật

trữ tình như việc mong nhớ ánh trăng rằm mười năm:

Chứ vỉ tồng chứ hai slíp hả

Chứ vỉ mà hăn nả khào bang

Cổm thua lồng giƣờng chang là dú

Lọi mọi tồng tôi thú thiểu kha.

Dịch nghĩa:

Nhớ anh nhƣ nhớ trăng giữa tháng

Nhớ anh về thấy mặt làm sao

Cúi mặt xuống giữa giƣờng

Trơ trọi nhƣ chiếc đũa thiếu đôi. [15]

Hay nỗi nhớ ấy đơn giản chỉ được so sánh bằng nhớ làn gió mát trong

ngày hè oi bức:

Chứ vỉ bằng chứ goát bƣơn on

Tả goát hết rừ nòn đắc đảy

(Nhớ anh nhƣ nhớ gió mát ngày nóng

Không gió làm sao ngủ ngon đƣợc) [15]

Rất nhiều hình ảnh so sánh được hiện lên trong lời thơ Phong slư, dù là

chim, là trăng, là cây... tất cả đều được đặt trong sự đối lập, chính sự so sánh này đã

phản ánh được những sắc thái tình cảm, tâm trạng của các cô gái, chàng trai Tày đa

dạng, phong phú mà chân thực gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thường.

3.4.2. Biện pháp tu từ điệp ngữ.

Điệp ngữ (còn gọi là lặp): là sự lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm

mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm

xúc trong lòng người đọc, người nghe." [28, tr.93]

73

Nghệ thuật điệp được sử dụng rất nhiều trong ca dao dân ca trữ tình nói

chung và trong Phong slư của người Tày nói riêng. Trong lời thơ Phong slư

nghệ thuật này được thể hiện khá rõ nét và có vai trò quan trọng trong việc thể

hiện nội dung một bức Phong slư. Trong đoạn lời nhắn gửi của chàng trai tới

cô gái những từ "Khoăn", "Sloong khoăn", "Pjạc" được lặp đi lặp lại thể hiện

sự cách trở trong tình yêu càng rõ nét hơn:

Từ nẩy sloong khoăn rà pít pjạc

Khoăn noọng pây định các rƣờng chƣơng

Khoăn vỉ pjạc mừa rƣờn đuổi vỉ

Sloong khoăn pjạc cần tỉ mên thƣơng

Sloong khoăn pjạc rƣờn chƣơng đuổi chủa

Sloong khoăn táng tách rẻo mình khoăn.

Dịch nghĩa:

Từ nay hai hồn chia tay

Hồn em theo em về bản

Hồn anh về nhà với anh

Hai hồn chia tay nhau mến thƣơng

Hai hồn chia tay nhau chốn cũ

Hai hồn tự tách biệt khỏi nhau.[48]

Những từ "Khoăn" (hồn), "Pjạc"(chia tay) cứ lặp đi lặp lại trong lời thơ

của những lời chia tay, chứa đựng nỗi buồn thương sâu sắc khi phải xa nhau.

Lối trùng điệp một cách dày đặc như vậy như thể trở thành một phương tiện

hiệu quả nhất trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình. Sự lặp lại như

vậy có tác dụng nhấn mạnh ý, gây ấn tượng sâu sắc và làm tăng sắc thái diễn

đạt của người viết.

Sloong bƣởng rầu lảm khoăn tẻ pjạc

Khoăn bạn pjạc định rƣờn chƣơng

Khoăn vỉ pjạc mừa rƣờn đuổi mẻ

Là chắc khoăn noọng mừa hôn nhân

74

Tem mjẩu khẩu tởi gần sloong ám

khoăn vỉ cáp khoăn bạn nẳng lồng

Sloong khoăn lìn sắc phông khỏi Pjạc

Cất tiểng rầu sắng pác đuổi căn

Dịch nghĩa:

Hai bên buồn làm hồn chia cắt

Hồn bạn chia tay về nhà cũ

Hồn anh chia tay về với mẹ

Xin lìa hồn em ngƣời cũ

Tiêm trầu vào cơi hai miếng

Hồn anh và hồn em ngồi lại

Ăn miếng trầu rồi hãy chia tay

Cất tiếng chào nhau rồi bƣớc.[48]

Qua việc tìm hiểu có thể thấy điệp từ xuất hiện nhiều trong Phong slư.

như đoạn thơ nói về sự xa nhau trong tình yêu cách trở của của chàng trai và

cô gái, từ "Pjạc căn", "lìa căn" được lặp đi lặp lại như một sự nhấn mạnh tình

yêu cách trở:

Pjạc căn mẻn mủa lệnh soong mà

Lìa căn nƣớc lục va chắng tắm

Pjạc căn ná mon khắm dƣờng loàn

Pít xe bấu khoăn dàn rào nả

Nẩu cằm nghị bạn khỏa cỏi thƣơng

Lìa căn ná tủi hƣơng mầu khóa

Pjạc nghịa bản khỏa sloong rà

Từ này rầu pây mà tơ hống

Pjạc căn ná đạo rủng sloong khoăn.

Dịch nghĩa:

Xa nhau nhƣ ngày hạn hán

Xa nhau lúc vải hoa vừa dệt

Xa nhau chẳng gối xếp giƣờng hoa

75

Thiếu cả chiếc khăn rửa mặt

Xa nhau không có túi quả thơm

Xa đi tình bạn của hai ta

Từ nay ta phải xa tơ hồng

Xa nhau làm hồn ta hãi hùng. [13]

Có thể thấy được rằng, thủ pháp nghệ thuật trùng điệp đã tạo nên tính

nhịp điệu cho những khúc ngâm. Nó tạo ra những điệp khúc với những âm

thanh du dương trầm trầm, bổng bổng, lắng đọng dàn trải mênh mông để diễn

tả phong phú đa dạng các cung bậc tình cảm khác nhau, làm cho những vần

thơ Phong slư có sức sống bền bỉ, mãnh liệt trong tâm hồn những người yêu

thơ văn dân tộc.

3.5. Không gian và thời gian nghệ thuật trong Phong slƣ

Không gian, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ

dùng để biểu hiện tâm tư tình cảm của con nguời. Không gian, thời gian nghệ

thuật chính là sự mô phỏng một phần không gian, thời gian trong thế giới thực

tại. Tìm hiểu không gian, thời gian trong Phong slư sẽ giúp chúng ta thấy được

một phần suy nghĩ, tâm hồn của đồng bào Tày đồng thời qua đó thấy được

những giá trị nghệ thuật đặc sắc qua những lời thơ bình dị, giản đơn ấy. Đúng

như nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Xuân Kính đã nhận xét: "Thời gian và

không gian nghệ thuật là những mặt của hiện tượng khách quan được phản ánh

trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật trong tác phẩm" [24,tr.287].

3.5.1. Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuât là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,

không có hình tượng nghệ thuật nào có thể tồn tại ngoài không gian. Mỗi

không gian nghệ thuật đều có những nét đặc trưng riêng và mang tính chủ quan

của người sáng tác. Người ta có thể chia không gian thành nhiều dạng khác

nhau như: Không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian thiên nhiên,

không gian sinh hoạt, không gian địa lý, không gian tâm tưởng....

76

Không gian nghệ thuật trong Phong slư cũng rất đa dạng và phong phú,

không gian ấy là không gian bao la của vũ trụ, không gian của sinh hoạt đời

thường hay không gian thiên nhiên đa sắc màu phản ánh tâm trạng của con

người trong cuộc sống.

3.5.1.1. Không gian thiên nhiên

Cuộc sống của đồng bào dân tộc Tày gắn liền với thiên nhiên với không

gian của cảnh vật bờ suối, con đường, núi đồi rộng lớn đến không gian của sự

sống tự nhiên như ong bướm, chim, hoa. Không gian đa dạng và phong phú ấy

trở thành đối tượng để con người bộc lộ tâm trạng của mình trong những bài

thơ Phong slư.

Không gian thiên nhiên trong Phong slư thường được miêu tả bằng

những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc gần gũi, đó là những hình ảnh hoa nở

khi trời vào xuân với dập dìu những đàn bướm, đàn ong.

Xuân thiên bjoóc phông ón đuổi lồm

Bách thức mèng sơn lâm than vọng

Xuân pây bjoóc phông ón tả lẳm

Mật mèng dú sơn lâm bấu roọng

Dịch nghĩa:

Ngày xuân hoa phất phơ trƣớc gió

Côn trùng kêu vật vờ rừng xanh

Hoa xuân nở trên cành non nhị

Côn trùng đâu nỡ bỏ hoa rừng. [15]

Phong slư mang trong mình vẻ đẹp đặc sắc của thiên nhiên núi rừng, vẻ

đẹp thiên nhiên ấy hiện lên với đủ đường nét màu sắc chân thật như nó vốn có.

Song đằng sau việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên ấy thường là nơi gửi gắm,

chứa đựng tâm trạng của con người, đặc biệt là tình cảm lứa đôi. Trong Phong

slư tình yêu, nỗi nhớ, nỗi buồn được những chàng trai cô gái Tày gửi gắm vào

không gian rộng lớn theo ánh mặt trời, ánh trăng đêm rằm:

77

Thƣơng căn cỏi ngòi đét pửa ngài

Điếp căn cỏi ngòi hai slíp hả

Tha vằn tẻ pây quá mừa tây

Nghị mà hết rừ đảy hỡi bạn

Dịch nghĩa:

Thƣơng nhau hãy nhìn nắng ban trƣa

Yêu nhau thì thấy trăng thay mặt

Mặt trời vội vã về tây

Nghĩ mà không biết làm sao bạn hỡi [15]

Nỗi nhớ của chàng trai, cô gái kéo dài theo không gian, rộng lớn của bầu

trời trong xanh, cao vời vợi buổi ban trưa hay là không gian vời vợi của đêm

trăng rằm. Cái không gian bao la rộng lớn ấy vừa mang sự tĩnh tại, vừa vận

động như dòng chảy cảm xúc của chàng trai cô gái trong tình yêu.

Tha vằn tẻ vận quá mừa tây

Slíp hả hai lộn mây bấu rủng

Hất rừ đảy pền rùng dảo nảy

Bân đăm bấu sắc nạy rủng vằn

Hất rừ đảy pền cần rảo đảy

Duyên răng bạn sloong rà phít pjạc.

Dịch nghĩa:

Trời chiều khuất dần phía tây

Trăng rằm mây che không sáng

Điều ấy không thể nào làm khác đƣợc

Trời mù mịt không còn vệt sáng

Làm thế nào cho đáng thân ngƣời

Vì sao ta cứ phải xa nhau. [48]

Câu thơ vừa nói được cả không gian và thời gian yêu nhau, nỗi nhớ lòng

thương của cô gái hòa vào thiên nhiên nhìn mọi cảnh vật xung quanh đều trở

nên u buồn bởi "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Ngƣời buồn cảnh có vui đâu

78

bao giờ"(Truyện Kiều). Cái khung cảnh vốn quen thuộc hàng ngày mà sao giờ

đây lại mang nặng nỗi sầu đến vậy. Không chỉ vậy hình ảnh ánh trăng thề

nguyền kia giờ đây cũng bị che khuất chỉ còn lại một màn đêm u tịch như

chính lòng người vậy:

Một mình nòn bấu đắc buồn lai

Cừn buồn oóc nhgòi hai thẻ nả

Mong hai hai khảu phả lộn mây

Dịch nghĩa:

Đêm ngủ không say vì nhớ với buồn

Đứng dậy để mà xem trăng tỏ

Trông trăng mây lại xóa mất trăng. [13]

Tuy nhiên có những lúc phụ thuộc vào tâm trạng háo hức, vui tươi với

niềm hi vọng gửi cánh thư đến người yêu thương thiên nhiên lúc này dưới con

mắt người đang yêu lại trở nên vô cùng đẹp đẽ với nhiều màu sắc của những

cánh hoa, với hình ảnh cánh én lượn bay trong không gian bao la của rừng núi:

Đông quá xuân mà tẻo mà vày mấu

Boóc rủng rƣờng quây xẩu vui lai

Hoàn én mừa gƣơng chài sắc hối

Mặc khỉn khau lồng khuổi én bân

Thiên lý én rèo bân dồm tỉ

Khang pích bân lắt li tin đông.

Dịch nghĩa:

Đông đi xuân lại về lần nữa

Khắp gần xa sặc sỡ hoa đầy

Muốn thăm bạn én bay nhờ với

Dù lên non xuống suối én đi

Dù đƣờng xa én nhƣ xem cảnh

Giƣơng cánh vỗ mạnh qua đại ngàn

Đƣa thƣ tới giang san anh cả.[13]

79

Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con người thể hiện những nỗi nhớ,

niềm thương tha thiết:

Đêm ngày nhớ một mình em đấy

Hoa rụng hoa bỏ mặc gió qua

Ong buồn không thấy thì kêu thảm

Mỗi lúc nghĩ tới bạn nỗi mong

Thấy ong hoa, ngƣời thân không thấy

Canh khuya ngắm trăng mãi không rời

Trông trăng trăng trên trời xa lắc

Trông gió, gió vƣợt núi mà đi

Mong em em lại về chồng mới

Một thân anh nghĩ ngời lại buồn

Giống nhƣ sao chuyển rời trời rộng.[48]

Ta thấy, con người đứng trong thiên nhiên nhìn ngắm, gửi gắm tâm

trạng của mình vào trong đó. Với lối miêu tả cảnh vật ta cảm nhận được sự

giao cảm giữa thiên nhiên và con người, con người như đang đối thoại với

thiên nhiên với chính mình:

Bƣơn chiêng thâng bách hoa phung ón

Mật mèng kẻo mà roọng hội xuân

Bƣơn Slam hăn cốc phung nở nhị

Boóc mển phung thả pỉ thân đàn

Hăn boóc vỉ chang tàng dá nhẳm

Điếp bạn khỏa vỉ nẳng vọng than.

Dịch nghĩa:

Trăm hoa tháng giêng thoe mùa nở

Bƣớm ong đến hội ngộ mừng xuân

Tháng ba mọi gốc cùng khoe sắc

80

Vẫn còn hoa thành thật đợi anh

Thấy hoa giữa đƣờng xin đừng nhẫm

Vì yêu bạn anh vẫn ngồi chờ.[48]

Như vậy, có thể thấy khung cảnh thiên nhiên trong Phong slư như một

tấm gương phản chiếu đời sống nội tâm của nhân vật. Với những cảnh vật

thiên nhiên đa dạng, phong phú các tác giả dân gian xưa đã vô cùng tài giỏi khi

mượn hình ảnh thiên nhiên để diễn đạt lòng người.

3.5.1.2. Không gian tâm tƣởng

Không gian tâm tưởng là thế giới nội tâm, là suy tư, ước mơ của con

người. Trong Phong slư không gian tâm tưởng được tác giả dân gian miêu tả

khá rõ nét, được thể hiện trong sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Tình

yêu của những chàng trai cô gái Tày gửi gắm trong những bức Phong slư vượt

lên cả không gian, thời gian với khát vọng được bên nhau mãi mãi. Dẫu xa xôi,

cách trở người thực không đến được bên nhau nhưng phần hồn luôn theo người

thương trong lao động thường ngày:

Nhƣợc bạn mì thƣơng lai cỏi siết

Vằn quẹng pây hất việc nông trang

Mảy tắc chúng chang dá hẳm

Khoăn vỉ liệu mà nẳng đuổi lồm.

Dịch nghĩa:

Còn thƣơng còn nhớ về anh nhé

Ngày vắng đi làm việc ruộng đồng

Gió bẻ cây chắn đƣờng chớ chặt

Là hồn anh theo gió về đây. [15]

Theo mạch cảm xúc ấy người nơi xa còn tưởng tượng ra cả không gian

sinh hoạt trong cuộc sống thường ngày của người yêu. Qua không gian tâm

tưởng ấy như bộc lộ rõ nét tình cảm mộc mạc trong tình yêu của những chàng

trai cô gái dân tộc Tày.

81

Khoăn vỉ chắp khoắc đay rƣờn noọng

Gừi voằn thỉnh tiểng roọng noọng nàng

Noọng ơi noọng tắc tọn bôm bản

Xong dá óc thang ràn riệc vỉ

Khoăn vỉ xảy hôn hí khảu bôm.

Dịch nghĩa:

Hồn ta bám cầu thang nhà em

Để thỏa lòng ngày đêm đƣợc ngắm

Nghe tiếng em ngày đêm rạo rực

Đến bữa em cất giọng mâm bàn

Sau đó em ra sàn gọi anh

Vía anh sẽ vui vẻ bên em. [46,tr. 1089]

Sự vận động trong mạch cảm xúc của những người đang yêu, tiếng ve

vang rội khiến con người còn tưởng tượng ra mình được nói chuyện với người

thương hàng ngày, ước mơ được thành vợ, thành chồng sống chung cùng một

gia đình, nhưng khi bừng tỉnh thực tại ấy thật phũ phàng.

Mật mèng lại thâng sli lội thƣơng

Cừn vằn nòn rƣờn chƣơng mơ mảng

Phăn hăn khoăn mà cảng đuổi căn

Bặng cạ định rƣờn kin đoạn dá

Rụ slức xa cằm cạ bấu hăn

Mửa mền nặm tha lồng liền hảy.

Dịch nghĩa:

Tiếng ve kêu chạnh tới lòng anh

Đêm ngày nằm ở nhà mơ mộng

Mơ thấy anh đƣợc nói cùng em

Nhƣ thành đôi liên kết vợ chồng

Bừng dậy tìm lời đã không còn

Khi buồn nƣớc mắt rơi lã chã. [48]

82

Nếu không gian hiện thực, không gian vật lí miêu tả mọi sự vật hiện lên

rõ nét thì không gian tâm tưởng chủ yếu miêu sự vận động trong tâm trạng của

nhân vật trữ tình chính điều đó đã tạo cho những bức Phong slư trở nên sâu

lắng và diễn tả rõ nét hơn tâm trạng của những người đang yêu khao khát được

bên nhau. Họ ước mơ được bên nhau sang tận thế giới bên kia vẫn tìm kết

duyên thành vợ thành chồng.

Vằn thai khửn mừa nƣa nhằng tím

Sloong khoăn khửn thƣợng đính cỏi xa

Quá cẩu cọi chung mừ mừa hội

Mừa thâng nƣa cỏi au căn

Mửa mển định sloong khoăn phu phụ

Dịch nghĩa:

Ngày chết dẫu lên trời vẫn gặp

Hồn lên chốn trời phật hãy tìm

Dắt tay qua cầu lên tới hội

Lên tới trời ta lại yêu nhau

Thành vợ chồng trƣớc sau vẫn thế. [48]

Trong Phong slư không gian tâm tưởng chủ yếu thể hiện nỗi nhớ, khát

vọng, ước mơ trong tình yêu được bên nhau của những chàng trai cô gái dân

tộc Tày. Không gian đó vận động theo sự vận động tâm trạng của nhân vật trữ

tình. Chính không gian tâm tưởng này đã tạo nên chiều sâu trong mỗi bức

Phong slư.

Qua tìm hiểu không gian nghệ thuật trong Phong slư ta thấy luôn có sự

đan xen giữa không gian thiên nhiên với không gian tâm tưởng. Nói cách khác

nó chính là sự đan xen của không gian vật lý với không gian tâm trạng. Qua

không gian nghệ thuật này ta thấy được tâm trạng của những người đang yêu

được bộc lộ rõ nét.

83

3.5.2. Thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện

phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Theo giáo sư Trần

Đình Sử thì: "Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được

trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh

hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay tương lai". Và do đó:

"Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý, thông qua

chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới

nghệ thuật".

Đặc điểm nổi bật của thời gian nghệ thuật là luôn mang tính cảm xúc, ý

nghĩa dân sinh, do đó nó mang tính chủ quan. Tính chất chủ quan đó giúp ta

phát hiện được mối quan hệ giữa thực tại và con người. Nói thời gian nghệ

thuật là hình tượng nghệ thuật, bởi vì đó là sản phẩm sáng tạo khách quan

trong chất liệu làm nên nghệ thuật của tác giả.

Thời gian nghệ thuật trong phong Slư rất đa dạng và phong phú được

biểu hiện dưới nhiều hình thức đó là sự vận động của vũ trụ, có khi đó là sự

biến đổi của thiên nhiên, con người. Dù biểu hiện muôn hình muôn vẻ nhưng

thời gian trong Phong Slư đều tập trung biểu hiện tâm tư, tình cảm của trai gái

dân tộc Tày.

3.5.2.1. Thời gian hiện thực.

Phong slư là những tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Tày ở Hòa

An và được hát lên trong những buổi sinh hoạt cộng đồng. Trong Phong slư

thời gian hiện thực được thể hiện khá rõ nét. Ngay từ mở đầu những bài Phong

slư đều xác định được rõ thời gian viết, bức "slư" viết vào mùa nào thì sẽ bắt

đầu bằng mùa ấy:

Xuân thiên vằn dú quẹng quảng lai

Căm bút chép phải lài phác bạn

(Trời xuân thanh vắng êm ả thay

Cầm bút chép vài câu gửi bạn) [13]

84

Cũng có khi xác định được cụ thể ngày tháng năm viết ra:

Bƣơn slam xo hả tiết thanh minh

Voằn đay ví tín tin sải mả

(Mùng năm đúng dịp tiết thanh minh

Ngày lành đi sửa mộ)[48]

Hay

Bƣơn Slam tiết xuân thiên vận quá

Mật mèng roọng đông pá thảm thƣơng

(Tháng ba trời xuân xanh quá

Ong bƣớm ríu rít gọi nhau)[15]

Giáp thìn dựa bƣơn slí hả thiên

Ong điệp kẻo sơn xuyên tìm bạn

Khảm khắc roọng đại ngàn một thân

Bách điểu roọng xa căn rặp liểu

(Giáp thìn vào tháng tƣ ngày hè

Bƣớm ong rừng kéo về tìm bạn

Khẳm khắc kêu trên ngàn độc thân

Trăm chin kêu xa gần nái nhiệt).[13]

Thông qua thời gian người tiếp nhận sẽ hiểu hơn về nội dung bài Phong

slư từ đó sẽ cảm nhận rõ hơn về tâm trạng tình cảm của người gửi. Nếu trong

bài Phong slư tỏ tình thì thời gian thường tiếp diễn bắt đầu từ quá khứ ngày hai

người gặp nhau để lại nhớ thương da diết trong lòng chàng trai nên đã viết bài

Phong slư gửi lời làm quen, nhắn gửi yêu thương đến cô gái khác bản.

Điếp thƣơng bạn nâu boóc vằn xƣa

Vuồn lai vỉ chép slƣ thăm bạn

Tự vằn én nhạn ngộ căn

Mèng pjạc boóc mùa xuân hâng mự

Kết căn xe đảy dú quén căn

85

Dịch nghĩa:

Nhớ thƣơng em nụ hoa thắm thủa xƣa

Buồn quá anh viết thƣ tới

Kể từ ngày én nhạn gặp nhau

Ong đã lìa hoa xuân lâu lắc

Yêu nhau để cùng nhớ cùng quen. [13]

Nhưng đôi khi thời gian qua khứ thể hiện trong Phong slư như một lời

trách để nhắc lại những tháng ngày mới quen, nói với nhau biết bao điều

thương nhớ, hứa hẹn với nhau sẽ thành duyên vậy mà sao giờ đây lại nghi ngờ

lòng nhau.

Giờ nẩy noọng cuổn phuối pần gằm

Vứa đú gạ thành thân chi mỵ

Vỉ nhất tâm noọng đảy rèo mừa

Rừ chắc nội hàn có đuổi noọng

Vửa đú phuối thuổn toọng cón lăng

Do vỉ pây thỉnh gằm thiên hạ

Chổn cao tay noọng đạ bấu mì

Nà chang vỉ hồ nghi hẩu noọng.

Dịch nghĩa:

Giờ này em nói hết lời trƣớc sau

Ngày trƣớc bảo kết duyên cùng nhau

Anh một lòng em đã đồng ý

Làm sao biết tâm trạng của em

Ngày trƣớc nói với nhau hết lời

Do anh đi nghe lời thiên hạ

Chốn cao sang em làm sao có

Mà sao anh lại nghi ngờ cho em. [13]

86

Có thể thấy thời gian trong Phong slư là thời gian thực tại, thời gian viết

nên bài Phong slư. Dẫu có đề cập đến thời gian là quá khứ nhưng thời gian ấy

luôn có sự đối xứng với thời gian hiện tại và lấy hiện tại làm thước đo làm tâm

điểm để hướng tới. Chính vì vậy thời gian nghệ thuật là phương tiện để diễn

đạt những nội tâm tâm trạng của nhân vật.

3.5.2.2. Thời gian tâm lý.

Phong slư ở gian đoạn phát triển hoàn thiện khi có chữ viết là một bức

thư hoàn chỉnh về nội dung và hình thức, đã bước đầu diễn tả được sự vận

động trong trạng thái tình cảm của những chàng trai, cô gái trong tình yêu. Vì

vậy thời gian trong Phong slư còn mang thời gian tâm lý thể hiện rõ sự vận

động của thời gian:

Mật mèng roỏng đông pá thảm thƣơng

Táng tủa nhằng chứ sƣơng nghịa cổ

Mọi tủa nhằng ái mộ boóc phông

Xui hẩu gần dƣơng đông đạo lảng

Nhình dài gỏi xa tháng kết duyên

Thoảng chứ thâng thiếu niên voằn cón.

Dịch nghĩa:

Tiếng ve gọi nhau rộn ràng

Làm nhớ lại tình nghĩa năm xƣa

Nhƣ ong tìm đến hoa nở

Vẻ đẹp khiến lòng ngƣời phơi phới

Trai gái gặp nhau giao duyên

Chợt nhớ lại tuổi thiếu niên ngày trƣớc. [48]

Cô gái quan sát cảnh vật thiên nhiên, sự vận động của sự vật, hoạt động

của con người làm cô gái hồi tưởng lại tuổi xuân đã qua của mình, để rồi đêm

về đối diện với chiếc bóng của chính mình với nỗi cô đơn trong lòng. Cũng

87

giống với ca dao dân ca của dân tộc Kinh tâm trạng nỗi nhớ nhung của những

chàng trai cô gái Tày trong Phong slư cũng được thể hiện qua mô tuýp "đêm

ngày", "đêm đêm". Khoảng thời gian đêm là khoảng thời gian thổn thức, suy tư

của con người, con người lúc này đối diện với thực tại, đối diện với lòng mình

nên nỗi nhớ ấy, nước mắt lăn dài trên gối mà không thể gãi bày cùng ai.

Nghị lai hác vuồn nàn lạy lạy

Gừn vằn hác lặc hảy tềnh mon

Gừn tông là vằn vuồn lại thuổi

Chứ bạn gần chắc đuổi thân rà

(Nghĩ lắm cũng đến thế buồn tênh

Đêm ngày nằm khóc thầm bên gối

Đêm mong hết cả tối ngày buồn

Nhớ bạn trong lòng không ai biết)[15]

Hay câu:

Đêm ngày nằm không sao trọn giấc

Buồn bã trông mây vẫn quay về

Em gửi lời để cho chàng biết

Hai ta ở cách biệt mong nhau [13]

Thời gian sống trong chờ đợi, nỗi nhớ đằng đẵng xa vời. Nhân vật trữ

tình cảm nhận thấy những tháng ngày tươi đẹp qua nhanh như một giấc mơ:

Bấu lo boóc pền mác sơn lâm

Slinh thể nhƣ đua phăn mơ mảng

(Quả chƣa ra thì hoa vẫn còn

Đời ngƣời nhƣ một giấc mơ thoảng đến) [15]

Trong Phong slư mọi cảm xúc của con người thông qua thời gian thể

hiện được rõ nét tâm trạng, cảm xúc, nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Nhân vật

trữ tình luôn đứng ở thời điểm hiện tại để diễn đạt cảm xúc nảy sinh từ trái

tim mình.

88

TIỂU KẾT

Phong slư mang những nét đặc trưng chung của dân ca trữ tình cả về

nội dung và hình thức nghhệ thuật. Qua nghiên cứu một số phương diện như:

Kết cấu, thể thơ, ngôn ngữ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, không gian – thời

gian nghệ thuật.. giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về giá trị của Phong slư

ở Hòa An - Cao Bằng, cũng như đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của một loại hình

dân ca dân tộc Tày.

Thể thơ trong Phong slư là thể thơ thất ngôn trường thiên với những quy

tắc và khuôn phép nhất định, điều này đã tạo cho Phong Slư có thể diễn đạt

một cách sinh động và phong phú đời sống tình cảm của đồng bào dân Tày.

Hơn nữa trong những lời thơ Phong slư có sự đan xen, thâm nhập của âm điệu

vào lời thơ nên gây được sự chú ý đối với người nghe. Ai đã từng nghe Phong

slư một lần sẽ nhớ mãi âm điệu ngâm nga ngân vang ấy, sẽ chìm đắm vào lời

ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm bắt được tình ý được thể hiện qua những ngôn

từ trau chuốt mà mộc mạc giản dị. Qua nghiên cứu một số phương diện nghệ

thuật như: các biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ, ngôn ngữ bình dân bác học

được thể hiện trong Phong slư giúp ta có cái nhìn khái quát, toàn diện hơn về

giá trị của làn điệu dân ca này.

89

KẾT LUẬN

1. Người Tày là tộc người có truyền thống, lịch sử văn hóa gắn bó lâu

đời ở Hòa An - Cao Bằng. Bên cạnh việc xây dựng nên những bản làng trù phú

người Tày ở Hòa An còn tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần có giá trị nhân

văn sâu sắc trong đó có thể loại Phong slư. Trải qua biết bao thăng trầm của

lịch sử, Phong slư vẫn tồn tại trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An

- Cao Bằng như một minh chứng cho văn hóa nơi đây. Qua việc tìm hiểu

Phong slư ở Hòa An - Cao Bằng trên phương diện nội dung và nghệ thuật,

chúng tôi thấy rằng người Tày ở huyện Hòa An của tỉnh Cao Bằng có một đời

sống tinh thần phong phú. Việc nghiên cứu Phong slư là việc làm có ý nghĩa

như là một sự chứng minh cho giá trị của loại hình này trong đời sống đương

đại hiện nay.

Trong kho tàng văn học dân gian của người Tày, ca dao dân ca Tày luôn

chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc, đó là tiếng nói ca ngợi tình

yêu quê hương đất nước, con người, nhất là tình yêu lứa đôi. Các làn điệu dân

ca thường được thể hiện trong các lễ hội như: Lồng Tồng, Lễ hội rằm tháng

giêng, rằm tháng bảy... các lễ hội này là dịp để trai gái dân tộc Tày giao lưu,

kết bạn và gửi gắm những lời hẹn ước. Họ gặp nhau với nỗi nhớ nhung da diết

khi trở về họ gửi cho nhau những bức Phong slư chứa đựng tình cảm tha thiết

của mình.

2. Phong slư mang nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, đó là là tình yêu

mãnh liệt cháy bỏng, những lời giao ước kết duyên hứa hẹn về một tương lai

tươi sáng và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng hay là nỗi đau đớn xót xa khi phải

chia tay người mình yêu thương. Cũng như các dân tộc khác Phong slư còn là

lời bày tỏ, là tiếng hát ca ngợi cuộc sống, ca ngợi Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Đồng thời ngày nay Phong slư còn là hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật

hấp dẫn đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của đồng bào Tày nơi đây.

90

3. Nghiên cứu về một số đặc điểm nghệ thuật trong Phong slư chúng tôi

nhận thấy đây là một loại hình thơ ca dân gian độc đáo của dân tộc Tày. Cũng

giống như dân ca của các dân tộc khác Phong slư cũng mang những nét tương

đồng và khác biệt trong hình thức kết cấu, thể thơ, các biện pháp tu từ hay

ngôn ngữ nghệ thuật... Tuy nhiên, trong lời ca Phong slư mang lời văn trau

chuốt, giàu hình tượng hấp dẫn, dễ đọc, dễ rung động lòng người. Nghiên cứu

các yếu tố nghệ thuật thuộc phương diện nghệ thuật được thể hiện trong Phong

slư giúp ta hiểu hơn khả năng tư duy, khái quát của người Tày ở một giai đoạn

nhất định.

, tinh tế và 4. Phong slư là loa ̣i hình thơ ca dân gian phản ánh sinh đô ̣ng

. Tuy nhiên , theo dò ng chân thực tâm tư tình cảm củ a những đôi lứ a đang yêu chảy của thời gian , những loa ̣i hình thơ ca dân gian nói chung và Phong slư nó i riêng đã bi ̣ mai mô ̣t đi nhiều . Ngày nay, khi cuô ̣c sống củ a ngườ i Tà y đang dần thay đổi, đờ i sống tinh thần ngày càng đa da ̣ng và phong phú ngày càng đươ ̣c

nhưng với

đặt ra nâng cao thì thư tình viết bằng Phong slư không còn tồn ta ̣i nữa những giá trị về nội dung và nghệ thuật qua viê ̣c nghiên cứ u về Phong slư và viê ̣c phát triển về mă ̣t chủ đề củ a Phong slư trong giai đoa ̣n hiê ̣n đa ̣i đã

vấn đề phải bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc, để những lời ca ngọt ngào, đằm thắm, đậm triết lý của Phong slư được tồn

tại, lưu truyền mãi…

Qua luâ ̣n văn này , chúng tôi mạn phép đưa ra một số ý kiến đề xuất góp t huâ ̣t đă ̣c sắc củ a loa ̣i

phần vào viê ̣c bảo tồn và phát huy những giá tri ̣ nghê ̣ hình dân ca này trong đời sống văn hóa ở giai đoạn hiện n ay như sau : Cần phổ

biến sau rô ̣ng hơn nữa loa ̣i hình thơ ca này trong những buổi sinh hoa ̣t cô ̣ng đồng củ a nhân dân ; thành lập những câu lạc bộ sáng tác , ngâm Phong slư ở các

xóm, xã trên địa bàn huyện thu hút những người yêu lo ại hình thơ ca này tham

gia để làn điê ̣u này ngày mô ̣t lan tỏa trong đờ i sống cô ̣ng đồng ; bên ca ̣nh đó rất

cần có sự phối hơ ̣p vớ i ngành giáo du ̣c và đào ta ̣o đưa loa ̣i hình dân ca này và

91

giảng dạy trong các buổi sinh hoạt ngo ại khóa tại các trường học cấp học . Và

rất cần có sự quan tâm củ a các cấp chính quyền đưa ra những giải pháp thiết thực nhất để làn điê ̣u Phong slư củ a dân tô ̣c Tày ở Hòa An – Cao Bằng nó i riêng và các vù ng khác nói chu ng sẽ đươ ̣c bảo tồn, phát huy và ngày càng lan

tỏa sâu rống trong đời sống cộng đồng .

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ - Tục ngữ dân tộc Tày,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

2. Triều Ân (2008), Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

3. Triều Ân (2010), Văn học yêu nƣớc và cách mạng ở Cao Bằng trƣớc năm

1945, Nxb Văn hóa dân tộc.

4. Triều Ân (2014), Thành ngữ - tực ngữ - cao dao dân tộc Tày, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

5. Phương Bằng (1976), Phong Slƣ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

6. Chi Hội Nam Tuấn (2010), Thơ đƣờng, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cao

Bằng.

7. Hoàng Tuấn Cư, Hoàng Hạc, Nguyễn Thanh Tuyền (2010), Then Tày,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

8. Lâm Thị Diệp (2010), "Hệ thống đề tài trong Phong Slƣ của ngƣời Tày ở

Lạng Sơn". Báo cáo khoa học

9. Vũ Cao Đàm (1999), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa

học xã hội.

10. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Nguyễn Xuân Đức (2010), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian Việt

Nam, Nxb thanh niên.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên ) (1999), Từ

điển thuật ngữ văn học,Xb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Ma Văn Hàn (2000), Chọn lọc, sƣu tầm những làn điệu dân ca. Tài liệu

sưu tầm tại Xã Nam Tuấn, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng .

93

14. Ma Văn Hàn ( 1986), Vọng Tiểng Ca, Tài liệu sưu tầm tại xã Nam Tuấn ,

huyê ̣n Hòa An, Tỉnh Cao Bằng .

15. Hoàng Ngọc Hồi (1995), Một số làn điệu dân ca, tài liệu sưu tầm tại xã

Nam Tuấn, huyê ̣n Hòa An, Tỉnh Cao Bằng .

16. Hội thơ Đường luật Cao Bằng, Chân dung hội viên, chi hội Nam Tuấn

mừng xuân Ất Mùi – 2015.

17. Vi Hồng (1976), Vài suy nghĩ về hát Quan lang, lƣợn, Phong Slƣ, Tạp

chí văn học số 3.

18. Vi Hồng (1979), Sli, lƣợn dân ca trữ tình Tày Nùng, Nxb văn hóa.

19. Hoàng Hựu (2008) "Về bức Phong Slƣ (Thƣ tình) viết trên nền vải của

ngƣời Tày", Tạp chí Hán Nôm số 2(87).

20. Huyện Ủy – UBND huyện Hòa An (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Hòa

An, Nxb chính trị quốc gia.

21. Nguyễn Chí Huyên (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời vùng biên giới

phía bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Đàm Kha (2011), Miền non nƣớc, Nxb văn hóa thông tin.

23. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002)

Văn học dân gian Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Xuân Kính (1995), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hôi, Hà Nội.

25. Nguyễn Xuân kính (2011) Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong

sự so sánh với văn học viết, Tạp chí văn hóa dân gian số 5.

26. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002) Văn hóa dân

gian Tày, Nxb Văn hóa thông tin Thái Nguyên.

27. Đinh Trọng Lạc (1995), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

28. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phƣơng tiện và biện pháp tu từ, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

29. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, Nxb văn hóa, Hà Nội.

30. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian , Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội. (Tr. 437)

94

31. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

32. Nhiều tác giả (1974), Từ điển Tày Nùng – Việt, Nxb Khoa học xã hội.

33. Nhiều tác giả (1990) Văn hóa dân gian những phƣơng pháp nghiên cứu,

Nxb Khoa học xã hội, H.

34. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở việt Nam, Nxb Văn hóa

dân tộc.

35. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa dân gian Cao Bằng, kỉ yếu hội thảo hội

văn nghệ Cao Bằng.

36. Nhiều tác giả (1995), Kho tàng ca dao ngƣời Việt tập 2 , Nxb Văn hóa.

37. Nhiều tác giả (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb giáo dục.

38. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng –

Dao Lạng Sơn, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội. (Tr. 54)

39. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp văn học dân gian, Nxb giáo dục.

40. Hoàng phê (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng trung tâm từ điển

học, Hà Nội – Đà Nẵng.

41. Nguyễn Hằng Phương (2009), Sự chuyển đổi thi Pháp ca dao cổ truyền

đến thi pháp ca dao hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.

42. Ngô Thị Thanh Quý (2014), Truyện thơ tiễn dặn ngƣời yêu góc nhìn thi

pháp, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

43. Hoàng Quyết, Triều Ân (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày.

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

44. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Khắc Lược

(1998), Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, Nxb văn hóa dân tộc.

45. Dương Sách (2009), Lượn Rọi, Nxb Văn hóa dân tộc,

46. Dương Sách (2010), Phuỗi Rọi tập 6, Tài liệu chưa xuất bản. Sưu tầm ta ̣i

xã Đức Long, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

47. Lưu Đình Tăng (2010), Về Bài Phong Slƣ gửi gắm tình yêu ngày xuân,

Thông báo Hán Nôm 2008.

95

48. Nông Trường Tập (2007), Ca dao, dân ca. tài liệu sưu tầm tại xã Dân

Chủ, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

49. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb giáo dục, H.

50. Tỉnh Ủy – UBND tỉnh Cao Bằng (2007), Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng,

Nxb Chính trị quốc gia.

51. Tỉnh Ủy – UBND tỉnh Cao Bằng (2010), Địa chí Cao Bằng, Nxb Chính

trị quốc gia.

52. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp văn học dân gian, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

53. Nguyễn Thiên Tứ (2011), Dƣ địa chí truyền thống huyện Hòa An, tỉnh

Cao Bằng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

54. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, qua trình phát triển và

thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

55. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm

Đặng Xuân Hương (2014) Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội.

56. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản Nxb Giáo

dục.

96

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ ĐOẠN PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY

Ở HÕA AN – CAO BẰNG.

1. Đoạn trong bức Phong slư cổ từ năm 1920 do ông Ma Văn Hàn, xã Nan

Tuấn, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng cung cấp .

Hoàng triều nam Khải Định ngụ niên

Bươn sam tiết xuân thiên vận quá .

Mẩt mèng roọng đông pá thảm thương

Táng tua nhằng chứ sương nghịa cổ

Mọi tua nhằng ái mộ bióoc phông

Xui hẩư gần dương đông đạo lảng

Nhình giài gỏi xa tháng kết duyên

Thoảng chứ thâng thiếu niên wằn cón

Giú vuồn óoc lẩy chổn gằn nà

Đảy hăn nhạn bân mà tó nả

Củ pác noọng khan gạ nhạn loan

Nhạn gạ : Sư vỉ quan mà hẩư

Wàn nhạn mà thông sự thành công

Soong mừng rẳp sư phong đuổi nhạn

Mừng rẳp au sư cấn vỉ nưa

Nhạn ới ! tẻ khảu mừa đuổi noọng

Bố mì cúa quý trọng oóc nai

Gọi là ám miầu đai thiết nhạn

Tức sí nhạn lểu bản hồi quê

Liện xa sấy mà se tỏoc hẩư

Toỏc oóc gằm phu phụ nhất gia

Mẻ nhình viểc sư tha bấu chắc

Gừn vằn vuồn moị khúc tư lương

Đan thân giú rườn chương vất vả

Tứ vằn sư vỉ cá mà thâng

Hăn sư bấu hăn gần mà đuổi

Mốc sẩy thêm bối rối tương tư

Bản noọng bấu chắc sư sắc cá !

Dẳng pây wàn táng xạ bạn gần

Nhở sấy chép phong văn hẩư khỏi

Căm bút noọng liện phuối thuổn gằm

Sấy liện viểt rèo lăng bối rối

Bâư sư vỉ nhịnh phuối gằm xâm

Noọng phuối wạ nhằng giăng rụ bấu

Se noọng xo dồm mảu sắc khi

Kết căn đảy soong pi liện tả

Mủng hăn gần noong wả là viàng

Thân sậy rụ nhằng tham chổn quý

Loóc gạ mà nàn nị hất lăng

Nhịnh mà phuối gằm xâm vỉ ới

Giờ nẩy noọng khổn phuối vần gằm

Vửa đú gạ thành thân chi mỵ

Vỉ nhất tâm noọng đảy rèo lừa

Rừ chắc nội hàn cơ đuổi noọng

Vửa đú phuối thuổn toọng cón lăng

Lo vỉ pây tỉnh gằm thiên hạ

Chổn cao tay noọng đạ bấu mì

Nà Chang vỉ hồ nghi hẩư noọng

Giá phuối gằm chếp toọng hẩư mài

Chỉ kết đuổi nam giai bấu sấu

Vửa đú pôm vận t’ẩu đi vầy

Giở nẩy cắt vận nây bươn lảp

Đảy miầu tẻ uýt mác lồng tâm

Chắc gạ toọng lương quân rừ dưởng

Ăn mắc phá gần bưởng bấu sai

Sậy là tham chổn đai hất trọng

Giờ nẩy noọng dồm bóng dồm đai

Bố chắc toọng vỏ giài quân tử

Thiệt phận se nự tú mẻ nhình

Bấu chắc ăn tầư khinh tầư trọng

Ất mà cụng chứ boỏng sậy lai

Wằn cón gạ bố sai hẩư chính

Sậy nhằng gạ nhất định au se

Sắng căn hưa pác vè thâng chổn

Gần ké sắp soong bưởng cón lăng

Chắc sậy nhằng chứ thâng rụ bấu.

2. Đoa ̣n Phong Slư do ông Hoàng Ngo ̣c Hồi , xã Nam Tuấn cung cấp

Hả hoằn ngoòng thâng háng mà xa Bố rổp noọng tẻo mà toọng sấu Tả se vỉ vọng piấu xiết lai Kin khẩu như kin rài lồng toọng Kin phiắc bặng kin nguộn lồng gò Chứ noọng chứ tấng giờ hại đát Tón kin căm thâng pát chứ thâng Ngoảc mà kin khẩu mồm hoẻng tả Rụ gạ khoăn buồn bạ mừa rèo Mừa thâng chắp co pheo nả táng Khỉn lồng them lồng lảng đảy dồm Khoăn vỉ piến mèng vần chắp pát Tón kin noọng giá vảt mìn thai Tón viầu them tón ngài roọng đuổi

Giá đảy hẩư lằn lọi gằn bôm Dẳng dử bạn nhất tâm đuổi vỉ Đảy noọng vỉ bấu ngậy sắc tàng Gụng như pya ước hoằng nặm lẩc Gụng bặng pya ước giẳc nặm sâư Gừn hoằn ngậy khát châư đuổi noọng Xiên kỳ giá tả goẹng lìa căn.

3.

Rẩp căn nẩy noọng á mì sương Bấu giềm vỉ táng mường khỏ khát Đảy noọng tồng đảy mác đào tiên Đảy noọng vỉ thuổn phiền thuổn khỏ Bấu mì khẩu lồng mỏ gụng đây

4. Đoa ̣n Phong slư do ông Ma Văn Hàn cung cấp . Vỉ chứ noọng căm bút viểt sư Viết soong gằm phác mừa giương bạn Pi bươn bặng én nhạn bân pây Thì giờ bặng nặm lây lồng hát Ngẩn ngơ mốc sẩy khát tốc châư Vạ đăm chắc hoằn tầư đảy rủng?

5.

Đoa ̣n Phong slư do ông Triều Ân , xã Lam Sơn cung cấp . Giá giai căn thẳm cuổi khát giầư Thẳm mạy gỏi chứ bâư mìn đuổi Dù síp pi gằm phuối bấu lùm Hăn sư gỏi chứ thâng hoằn cón Kha gàm tàng đét ón khổn toan Khăn khẳn chứ gằm hoan mì ý Tha hăn mọn giú ký hoẻng bâư Đang lương pác gài giầư san quéng Ruyên túc mai chao hẹn tốc đai Khuyên gằm pây bạn mài sương đuổi.

Dịch nghĩa:

Triều đại năm Khải Định làm vua 1.

Tháng ba tiết trời xuân đẹp quá

Tiếng ve gọi nhua rộn ràng

Làm nhớ lại tình nghĩa năm xưa

Như ong luôn tìm đến hoa nở

Làm lòng người xao xuyến không thôi

Trai gái gặp nhau kết duyên

Chợt nhớ lại thời thiếu niên ngày trước

Ngồi buồn bước chân ra thăm ruộng

Nhìn thấy chim nhạn bay về trước mặt

Cất tiếng em gọi nhạn ơi

Nhạn bảo: Thư của anh gửi tới

Việc nhạn đến đây thành công

Hai tay đón lấy thư với nhạn

Tay nhận thư run cầm không nổi

Nhạn ơi! hãy về nhà nhà với em

Không có gì để tiếp đãi

Chỉ là có nắm gạo tiếp nhạn

Xong rồi nhạn liền trở về quê

Liền tìm thầy về đọc giúp

Đọc ra rằng: "Phu Phụ nhất gia"

Con gái cái chữ không biết

Đêm không ngủ được tương tư

Một thân con gái vất vả

Từ ngày nhận thư anh về tới

Thấy thư nhưng không thấy mặt

Ruột gan thêm bối rối tương tư

Bản em không một ai biết chữ

Mới đi đến tận bản người

Nhờ thầy chép Phong Slư tả lại

Cầm bút em liền nói hết lời

Thầy liền viết theo sau bối rối

Bức thư anh có nói điều gì

Em nói lại xem có đúng không

Để em nhắc lại chuyện ngày trước

Yêu nhau hai năm rồi bỏ

Nhìn anh em không nghĩ là vậy

Thân anh còn ham chốn cao sang

Sao lại trêu đùa làm gì

Em không biết nói sao

Giờ này em sẽ nói từng lời anh biết

Ngày trước bảo thành đôi tri kỉ

Anh một lòng em đã nghe theo

Nhưng anh không được nổi lòng của em

Ngày trước nói hết lòng trước sau

Do anh nghe lời thiên hạ

em không có chốn cao sang

Mà sao anh lại nghi ngờ cho em

Mà nỡ nói lời đau lòng cho nhau

Chỉ kết bạn với anh thôi không sai

Ngày trước lòng ấm áp như vậy

Giờ này lòng lạnh như rét tháng giêng

Được gạo liền vứt trấu đi ngay

Có phải lòng anh như vậy không

Một quả mỗi người một nửa không sai

Vậy mà bảo em đã tìm chốn khác

Giờ này em nhìn bóng nhìn không

Không thể hiểu hết được lòng anh

Thiệt thân con gái ngày trẻ

Không biết chỗ nào tốt xấu

Vậy mà vẫn nhớ đến anh nhiều

Ngày trước nói một lời không sai

Anh còn bảo nhất định sẽ lấy

Hẹn nhau hứa gửi về nơi chốn

Bố mẹ hai bên sẽ đến gặp nhau

Liệu anh còn nhớ đến điều ấy.

2.

Năm ngày phiên chợ tìm em Nào đâu thấy bóng buồn phiền quay ra Một mình thầm gọi thiết tha Cơm ăn xuống bụng như là cát rang Rau ăn lá ngón cầm bằng Rau ăn từng khắc thảm thương ngày dài Bữa ăn cầm bát nhớ ai Lại ăn cơm nóng cũng thôi bỏ về Hay hồn buồn bã về quê Như chim về đậu cành tre bên thềm Leo thang lên xuống thấy em? Hay anh biến hóa làm nên thân ruồi Bữa ăn em nhớ gọi mời Đừng đập nó chết bỏ rơi cạnh bàn? Vậy thì xứng bạn tâm can. Được em anh những muôn vàn thỏa thuê Như cá thèm vực được về Giương vây để huề giữa vực nước trong Đêm ngày anh ước anh mong Xin đừng bỏ vắng dứt lòng lìa xa.

3.

Gặp nhau em hỡi có thương Đừng chê anh nghèo khó khác mường mới nên Được em như hái đào tiên

Được em anh hết buồn phiền tấm thân Nồi không có gạo đâu cần.

4.

Nhớ ai thư viết gửi đi Hai lời thăm hỏi gửi về chiều nay Tháng ngày như én nhạn bay Thời gian như nước vần xoay xuống ghềnh Nỗi lòng bỗng thấy nhẹ tênh Như trời tối mịt bình minh khi nào?

5.

Chớ dối nhau chặt chuối đứt tơ lòng Cây đã chặt hãy nhớ từng đám lá Dù mười năm cũng khó quên lời Thấy thư hãy nhớ người ngày trước Đường dịu nắng chân bước khôn toan Đinh ninh nhớ lời vàng ngụ ý Thấy nong tằm trên giá thẫn thờ Minh vàng miệng nhả tơ đan kén Duyên trúc mai giao hẹn mất không Gửi lời tới bạn thương thương nhớ.

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ PHONG SLƢ Ở HÕA AN – CAO BẰNG

Ông Hoàng Triều Ân (85 tuổi), dân tộc Tày ở Lam Sơn, Hồng Việt,

Hòa An, Cao Bằng. Là người có vốn văn hóa Tày sâu sắc và có nhiều công

trình nghiên cứu về văn hóa dân gian của dân tộc Tày ở Cao Bằng. Khi được

hỏi về thể loại Phong slư ông cho biết; Phong slư là một thể loại dân ca đặc sắc

của người Tày, Phong slư cũng giống như Lượn, Sli đều được sử dụng để trao

đổi tình cảm, tình yêu đối lứa. Nhưng bên cạnh đó Phong slư còn là những bức

thư được trai gái Tày dùng để gửi gắm tâm tư tình cảm thầm kín. Loại hình

nghệ thuật độc đáo này xưa kia phát triển mạnh ở vùng đất Hòa An nhưng nay

đã không còn tồn tại. Chỉ còn lại làn điệu ngâm Phong slư viết về những vấn

đề mới của thời đại như: Ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi cuộc sống.

Ông Dƣơng Sách (85 tuổi), dân tộc Tày ở xã Đức Long, huyện Hòa

An, Cao Bằng. Hội viên hội văn học nghệ thuật Việt Nam, là người cần mẫn,

miệt mài với những giá trị văn hóa dân gian của tỉnh nhà. Tôi đến tìm gặp ông

trong một ngày đầu xuân, trong ngôi nhà gỗ đơn sơ, giản dị. Khi chúng tôi đến

ông đang miệt mài cần mẫn bên công trình nghiên cứu chuần bị gửi xuất bản.

Đề cập đến vấn đề Phong slư của người Tày ông nói: Phong Slư của người Tày

ra đời từ bao giờ không ai biết, chỉ biết rằng Phong slư đã được nhân dân Tày

sử dụng như một làn điệu quen những người thuộc trong cuộc sống lao động

sản xuất thường ngày. Trước đây Phong slư được dùng để ngâm những câu nói

rọi hàng ngày. Sau này khi chữ viết ra đời Phong slư được các nhà trí thức ghi

chép lại hoàn chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng của người nhờ viết,

và họ ngâm những bức thư ấy bằng làn điệu nhất định từ đó người dân quen

gọi là Phong slư. Nếu chỉ hiểu Phong slư là Phong thư thì là một cái nhìn

không thấu đáo về thể loại này. Ngày nay Phong slư vẫn còn tồn tại nhưng chủ

yếu là những bài hát để cập đến những vấn đề của cuộc sống mới, còn phong

slư hoàn chỉnh để gửi cho nhau trao đổi tình yêu hầu như không còn. Ông

dừng lại đôi hồi như tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa đã bị mai một.

Ông Hoàng Ngọc Hồi (90 tuổi) Xã Nam Tuấn, Hòa An, Cao Bằng là

một nghệ nhân dân gian biết nhiều làn điệu dân ca của dân tộc Tày. ông kể với

chúng tôi rằng ông còn nhớ khi ông còn bé, ông thường được đi xem những

buổi sinh hoạt cộng đồng tổ chức vào ngày mười năm âm hàng tháng để hát

những là điệu dân ca giao duyên, trong đó có hát Phong slư để kể lại những

câu chuyện tình yêu, hay hát những bức thư trai gái Tày gửi cho nhau.

Ông Ma Văn Hàn (85 tuổi) xã Nam Tuấn, Hòa An , Cao Bằng. Được

coi là kho lưu giữ văn hóa dân gian Tày ở vùng đất Hòa An. Tiếp xúc với ông

chúng tôi cảm nhận rõ bản chất của con người Tày mộc mạc và giản dị, ông

nói nghiên cứu Phong slư của người Tày phải am hiểu sâu sắc vốn văn hóa

dân tộc Tày mới có thể thấy được nét đẹp của loại hình nghệ thuật này. Phong

slư của người Tày xưa kia thường được các trai gái Tày gửi cho nhau để trao

đổi tình cảm, những bức Phong slư thường được gói cẩn thận và trao cho

người tin cậy gửi đến người nhận. Trong xã hội xưa kia không phải ai cũng

viết được Phong slư, người viết nên được bức Phong slư hoàn chỉnh là người

có vốn văn hóa dân gian sâu rộng mới có thể sáng tạo nên một công trình thơ

đồ sộ như vậy.

Ông Nông Trƣờng Tập (80 tuổi) xã Dân Chủ, Hòa An, Cao Bằng. Ông

là người có nhiều đóng góp cho việc lưu truyền những làn điệu dân ca ở địa

phương, là người chuyên đặt lời cho nhiều làn điệu dân ca. Ông cho biết Phong

slư là một loại hình dân ca đặc trưng của người Tày, đặc biệt là nguời Tày ở

vùng đất Hòa An. Với âm sắc đặc trưng trong lời nói đã tạo nên một làn điệu

Phong slư ngọt ngào khác biệt với Phong slư của huyện khác.

Phụ Lục 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LÀNG BẢN, ĐỒNG RUỘNG CỦA

NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN – CAO BẰNG

Một góc làng của người Tày ở xã Dân Chủ, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày 21/10/2015)

Một góc bản của người Tày ở xã Dân Chủ – Hòa An – Cao Bằng. (Nguồn: Tác giả chụp ngày 16/12/2015)

Bản của người Tày ở Xã Nam Tuấn, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày18/3/2016) Nhà sàn của người Tày ở xã Hà Trì, huyện Hòa An, Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày 28/1/2016)

Một số đoạn Phong Slư do cụ Ma Văn Hàn ở xã Nam Tuấn, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng cung cấp.

Lễ chúc khang ninh của người Tày (Nguồn: www.baocaobang.vn) Nghệ nhân truyền dạy dân ca cho người yêu thích. (Nguồn: www.baocaobang.vn)

Ảnh tác giả chụp cùng nhà nghiên cứu dân gian Triều Ân tại xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng