ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VI THỊ TIẾP
PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY
Ở HÕA AN - CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên – 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VI THỊ TIẾP
PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY
Ở HÕA AN - CAO BẰNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS VŨ ANH TUẤN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi , các tài liệu
trong luâ ̣n văn là trung thực . Nô ̣i dung luâ ̣n văn chưa từ ng đươ ̣c công bố trong
bất cứ công trình nào .
Tôi xin chi ̣u trách nhiê ̣m về lờ i cam đoan này .
Thái nguyên , ngày 20 tháng 4 năm 2016
Ngườ i cam doan
Vi Thi ̣ Tiếp
XÁC NHẬN XÁC NHẬN
CỦA KHOA CHUYÊN MÔN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn i
GS.TS Vũ Anh Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô giáo, người thân và gia đình.
Qua đây, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Vũ Anh Tuấn, người
thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban Giám hiệu,
phòng Đào tạo, bộ phận Sau đại học và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Em xin gửi lời cảm ơn đến nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Triều Ân,
nhà nghiên cứu dân gian Dương Sách, các nghệ nhân dân gian, Phòng văn hóa
huyện Hòa An- Cao Bằng và các cán bộ thư viện tỉnh Cao Bằng ... đã cung cấp
tư liệu và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô gáo đã đọc và chỉ ra
những thành công và hạn chế của em trong luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn ii
Vi Thị Tiếp
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan .................................................................................................... i
Lời cảm ơn ....................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
NỘI DUNG ..................................................................................................... 7
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN –
CAO BẰNG VÀ THỂ LOẠI PHONG SLƢ ................................................. 7
1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Cao Bằng. .......................................... 7
1.1.1. Cộng đồng người Tày ở Cao Bằng. ........................................................ 7
1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Hòa An – Cao Bằng ......................................... 7
1.1.2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế của người Tày ở Hòa An – Cao bằng ......... 7
1.1.2.2. Đặc điểm xã hội – văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng ....... 9
1.2. Khái quát về Phong slư ........................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm Phong slư ............................................................................ 13
1.2.2. Nguồn gốc và bản chất diễn xướng của Phong slư ............................... 14
1.2.3. Phong slư trong quá trình lưu truyền và đổi mới. ................................. 16
1.3. Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng ............................................................. 17
1.3.1. Phong slư trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng.. 17
1.3.2. Các giai đoạn phát triển của thể loại Phong slư. ................................... 18
1.3.3. Hình thức diễn xướng của Phong slư .................................................... 19
Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHONG SLƢ Ở HÕA
AN – CAO BẰNG ........................................................................................ 22
2.1. Phong slư là những lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. ....................................... 22
2.1.1. Phong slư là những lời tỏ tình chân thành, giản dị. ............................... 22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iii
2.1.2. Phong slư là những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi. ............ 28
2.1.3. Phong slư là những lời bày tỏ nỗi buồn trong tình yêu cách trở ............ 33
2.2. Phong slư là những lời nhắn gửi, lời dặn dò. ........................................... 37
2.3. Sự chuyển hóa đổi mới chức năng của Phong slư trong đời sống hiện đại ..... 44
2.3.1. Phong slư là những lời ca ngợi Đảng và Bác Hồ. ................................. 44
2.3.2. Phong slư là những lời ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. .............. 50
Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHONG SLƢ Ở
HÕA AN– CAO BẰNG ............................................................................... 55
3.1. Kết cấu của Phong slư ............................................................................. 55
3.2. Thể thơ thất ngôn trường thiên. ............................................................... 59
3.3. Ngôn ngữ lời thơ Phong Slư .................................................................... 62
3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh .......................................... 63
3.3.2. Lời thơ Phong slư là sự kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ
bác học........................................................................................................... 66
3.4. Nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ .................................................. 70
3.4.1. Biện pháp tu từ so sánh ........................................................................ 71
3.4.2. Biện pháp tu từ điệp ngữ ...................................................................... 73
3.5. Không gian và thời gian nghệ thuật trong Phong slư ............................... 76
3.5.1. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 76
3.5.1.1. Không gian thiên nhiên ..................................................................... 77
3.5.1.2. Không gian tâm tưởng ....................................................................... 81
3.5.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 84
3.5.2.1. Thời gian hiện thực. .......................................................................... 84
3.5.2.2. Thời gian tâm lý. ............................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 93
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Cao Bằng – mảnh đất văn hóa, từ xa xưa là nơi hội tụ của nền văn hóa
các tộc người Tày, Nùng, Dao, Mông ... Trong quá trình vận động của lịch sử,
văn hóa các dân tộc luôn có sự hòa nhập, đan xen, bồi đắp lẫn nhau tạo nên
những nét văn hóa riêng biệt, mang nét đặc trưng của từng tộc người. Riêng
vùng đất Hòa An – Cao Bằng kinh đô thành nhà Mạc xưa nơi tập trung nhiều
nét đẹp văn hóa khác nhau của tỉnh Cao Bằng với những làn điệu dân ca mượt
mà say đắm lòng người như Sli, Lượn, Phong slư, hay những câu ca dao, thành
ngữ, tục ngữ... Diễn tả nhận thức, tâm lý, tình cảm của con người về thiên
nhiên vũ trụ, về cuộc sống xã hội, đời sống tình cảm cha con, vợ chồng, nhất là
tình yêu nam nữ… Trong kho tàng văn học dân gian của người Tày ở Hòa An -
Cao Bằng, Phong slư hiện nay vẫn còn tồn tại nhưng cũng đang dần bị mai
một, số người biết Phong slư hiện nay không còn nhiều, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Do vậy, việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị Phong slư
là sự trăn trở của những người có tâm huyết muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc.
Thực tế từ trước tới nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về
Phong slư nhưng với số lượng còn rất hạn chế. Vì vậy việc nghiên cứu về
Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng vẫn là một đề tài mở cho những ai yêu thích
loại hình văn học dân gian này.
1.2. Về phương diện thực tế.
Phong slư là thơ tình, thư tình của người Tày có kết cấu và luật thơ cố
định, có cách ngâm riêng biệt mang đậm bản sắc văn hóa của người Tày. Khi
chữ Nôm Tày xuất hiện và phát triển mạnh mẽ trong văn chương cũng là thời
kỳ Phong slư phát triển rực rỡ, tuy nhiên, khi chữ quốc ngữ xuất hiện, chữ
Nôm Tày dần bị mai một làm cho nền văn học chữ Nôm rơi vào suy thoái và
1
có nguy cơ mất hẳn. Theo đó các làn điệu dân ca Tày được viết theo thể thơ
thất ngôn truyền thống của người Tày (trong đó có Phong slư) cũng tàn lụi dần.
Do vậy, việc nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật
của Phong slư sẽ giúp chúng ta phần nào hiểu được về đời sống văn hóa, tinh
thần của người Tày, đồng thời góp phần gìn giữ, bảo lưu và phát huy những
nét đẹp đó trong văn hóa truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Hòa An – Cao
Bằng nói riêng của cộng đồng dân tộc Tày nói chung.
Xuất phát từ phương diện khoa học và thực tiễn nêu trên chúng tôi chọn
"Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình. Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của tôi, người
con của vùng đất Hòa An với mong muốn được khám phá, tìm hiểu, tôn vinh
những giá trị văn hóa của quê hương mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Dân Tộc Tày có nền văn hóa lâu đời, đã góp cho nền văn hóa nghệ thuật
chung của dân tộc Việt Nam nhiều thể loại phong phú, đặc sắc và đa dạng như:
Then, lượn, câu đố, thành ngữ, tục ngữ... Tuy nhiên cũng như nhiều dân tộc
khác khi chưa có chữ viết, chưa có kho lưu trữ và chủ yếu được truyền miệng
nên việc nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Tày cũng còn gặp nhiều khó
khăn. Nhưng cũng do ưu thế truyền miệng nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác trong sinh hoạt cộng đồng, trong những lễ hội mà những giá trị văn hóa
đó vẫn còn tồn tại.
Phong slư là một thể loại văn học dân gian của người Tày, được lưu
truyền trong dân gian. Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu quy mô lớn
nào về Phong slư của người Tày, các tài liệu nghiên cứu về Phong slư mà
chúng tôi có được mới chỉ dừng lại ở mức khái quát sơ bộ, chưa đi sâu vào tìm
hiểu, phân tích nội dung, nghệ thuật của Phong slư. Dưới đây là một số bài
viết, đề tài nghiên cứu đã từng quan tâm đến Phong slư của người Tày:
2
- Tạp chí văn học số 3 (1976) có bài viết: "Vài suy nghĩ về hát Quan
Lang, Phong slƣ, lƣợn" của tác giả Vi Hồng. Trong bài viết này tác giả giới
thiệu về những nội dung tổ chức, hình thức cơ bản, khái quát về các loại hình
dân ca phổ biến của dân tộc Tày, Nùng. Tuy nhiên tác giả mới chỉ giới thiệu
khát quát về các thể loại này.
- Trong tài liệu "Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày – Nùng" (1979) của tác giả
Vi Hồng có giới thiệu đến đời sống văn hóa, tinh thần của hai dân tộc Tày-
Nùng qua làn điệu dân ca Sli, Lượn. Trong đó tác giả cũng đề cập tới nhóm
dân ca đặc thù Tày được gọi là Phong slư. Tác giả có viết "Phong slư là những
bức thư viết bằng thơ về tình yêu được trai gái Tày dùng để trao đổi, bày tỏ
tình cảm lứa đôi. Phong slư là những khúc hát diễm tình hô hào, kêu gọi, thiết
tha cho những mối tình chung thủy". [18, tr. 231]
- Trong tài liệu" Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam" của tác giả
Đặng Văn Lung xuất bản năm 1997 có đề cập đến khái niệm, hình thức diễn
xướng của Phong slư dân tộc Tày.
- Trong tài liệu "Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng
Sơn" (2000)của tác giả Nông Thị Nhình, nhà xuất bản văn hóa dân tộc đã đề
cập tới các loại hình dân ca của các dân tộc Tày – Nùng – Dao, trong đó có
nhắc tới thể loại dân ca Phong slư của dân tộc Tày. Tác giả cho rằng Phong slư
là một làn điệu hát thơ, làn điệu này dùng để diễn tả những bài thơ, đúng hơn
là những bức thư về tình yêu đôi lứa.
- Tác giả Hoàng Hựu nhà nghiên cứu văn hóa trong bài viết "Về bức
Phong slƣ (Thƣ tình) viết trên nền vải của ngƣời Tày" đăng trên tạp chí Hán
Nôm, số 2(87) năm 2008 đã đề cập nội dung của bức Phong slư cổ, trong đó có
đề cập tới khái niệm, thể loại, hình thức, nội dung của một bức Phong slư.
- Năm 1994 Phương Bằng cho xuất bản công trình sưu tầm, nghiên cứu
"Phong slƣ", trong công trình này tác giả đã sưu tầm, phiên dịch chữ Nôm của
những bức Phong slư tình yêu cổ ở các tỉnh miền núi Phía Bắc.
3
- Đề tài nghiên cứu khoa học "Hệ thống đề tài trong Phong slƣ của
ngƣời Tày ở Lạng Sơn" của tác giả Lâm Thị Diệp đã nghiên cứu về thể loại
Phong slư trên phương diện hệ thống đề tài chung của Phong slư trong giai
đoạn xưa và hiện đại.
Nhìn chung việc nghiên cứu về Phong slư còn rất ít so với bề dày của
thể loại này trong nền văn hóa dân tộc Tày.
Các bài viết, các công trình nghiên cứu đề cập tới Phong slư chỉ dừng lại
ở một góc độ nhỏ mà chưa đi sâu tìm hiểu cặn kẽ thể loại này. Từ thực tế trên,
đề tài "Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" sẽ hướng tới nghiên
cứu về thể loại văn học này một cách cụ thể hơn và góp phần giữ gìn, bảo tồn,
phát huy những giá trị về nội dung và nghệ thuật của Phong slư trong đời sống
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu "Phong slƣ của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng" để
tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật của thể loại văn học này.
- Tìm hiểu đời sống tư tưởng tình cảm của người Tày ở Hòa An, Cao
Bằng.
- Góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Tày
ở Hòa An, Cao Bằng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp các tài liệu liên quan đến Phong slư.
- Sưu tầm, tìm hiểu thêm các văn bản về Phong slư tồn tại trong đời
sống dân gian dưới hình thức diễn xướng từ đó tiếp cận nghiên cứu, đưa ra
những phân tích, đánh giá về nội dung và nghệ thuật.
- Bước đầu đưa ra ý kiến gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa, nghệ thuật của Phong slư trong cuộc sống hiện tại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát những lời bài hát Phong slư đã
được các nhà nghiên cứu sưu tầm và xuất bản thành sách.
- Những tư liệu sưu tầm, điền dã tại Hòa An- Cao Bằng của tác giả
đề tài.
4.2. Phạm vi gnhiên cứu
* Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
- Phương Bằng, (1976), Phong slƣ, Nxb văn hóa dân tộc, Hà nội.
- Những tư liệu chưa xuất bản:
+ Văn bản của chính tác giả sưu tầm qua các nghệ nhân dân gian.
* Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số đặc
điểm nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Phong slư ở Hòa An – Cao Bằng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả có sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau cụ thể:
- Phương pháp điền dã văn học.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu Phong slư trong đời sống văn hóa dân gian của người Tày ở
Hòa An – Cao Bằng góp phần giới thiệu một thể loại ca dao, dân ca trong kho
tàng văn học dân gian người Tày đến người đọc. Đồng thời giúp cho người đọc
hiểu rõ hơn về nội dung, nghệ thuật của Phong slư và đời sống tư tưởng, tình
cảm của đồng bào dân tộc Tày nói chung, đồng bào dân tộc Tày ở Hòa An –
Cao Bằng nói riêng.
5
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1 : Khái quát về cộng đồng người Tày ở Hòa An – Cao Bằng và
thể loại Phong slư.
Chương 2 : Những nội dung cơ bản của Phong slư ở Hòa An – Cao
Bằng.
Chương 3 : Một số đặc điểm nghệ thuật của Phong slư ở Hòa An – Cao
Bằng.
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN – CAO BẰNG
VÀ THỂ LOẠI PHONG SLƢ
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng.
1.1.1. Cộng đồng người Tày ở Cao Bằng.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tổ quốc. Nơi
đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc như: Tày, Nùng, Dao, Mông, Kinh...
Nhưng người Tày có số lượng lớn nhất chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh.
Theo một số nghiên cứu, người Tày ở Cao Bằng được hình thành từ ba nhánh:
- Nhánh người Tày gốc: Còn gọi là Thổ, nghĩa là thổ dân, là những
người đã sinh sống ở địa phương từ lâu đời, nhánh này là con cháu của người
Tày cổ.
- Nhánh người Ngạn có nguồn gốc từ Quý Châu, Trung Quốc, theo "Sơ
khảo lịch sử Cao Bằng" ghi chép: Trong các cuộc giao tranh giữa các tộc
người, người Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, hòa nhập vào cư dân địa
phương và trở thành người Tày.
- Nhánh người Kinh hóa Tày: Là con cháu các quan lại và binh lính
người Kinh từ dưới xuôi lên cai quản và bảo vệ biên giới, họ lấy vợ người Tày,
sinh sống và lập nghiệp tại đây lâu dần trở thành người Tày. Sách cũ còn ghi
chép lại: Khi triều đình nhà Mạc bị Lê Trịnh đánh đuổi đã chạy lên trấn giữ
vùng đất Cao Bằng trong gần một thế kỉ. Sau khi nhà Mạc diệt vong, con cháu
và quan quân sống hòa vào cùng nhân dân địa phương, đồng hóa với người
Tày. Chính sự giao lưu Kinh - Tày này đã tạo nên một nét văn hóa đặc sắc
riêng biệt của người Tày ở nơi đây.
1.1.2. Cộng đồng ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng
1.1.2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao bằng
Hòa An là một huyện trung tâm nằm xung quanh, bao bọc lấy thành phố
Cao Bằng. Có các đầu mối giao thông từ đường 3, 4 tỏa đi các huyện và đi cả
biên giới Trung Quốc. Có tọa độ địa lý:
7
Từ 20039'49 vĩ độ Bắc từ Khuổi Săng xã Hồng Nam đến núi Bản Chang
xã Dân Chủ.
Từ 106000'49 đến 100024'18 Kinh độ Đông từ Lũng Ong xã Công Trũng
đến Khuổi Săng xã Hồng Nam.
Phía Bắc giáp huyện Hà Quảng, phía Đông giáp huyện Trà Lĩnh –
Quảng Uyên, phía Nam giáp huyện Thạch An, phía Tây giáp huyện Nguyên
Bình và Thông Nông. Với tổng diện tích 60.952,08 ha, Hòa An là địa bàn cư
trú của nhiều dân tộc như: Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh.... Trong số những
dân tộc đó người Tày chiếm đa số, Với sự quy tụ này đã tạo nên một đời sống
văn hóa tinh thần đa sắc màu của con người vùng đất Hòa An.
Đặc điểm địa hình huyện Hòa An tương đối bằng phẳng với những cánh
đồng rộng lớn nằm cạnh những dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho
việc tưới tiêu phát triển nông nghiệp lúa nước. Khí hậu vùng đất này chia
thành bốn mùa rõ rệt, mùa xuân còn rét, mùa hè mưa nhiều, mùa thu rất nóng,
mùa đông rất lạnh. Với khí hậu ẩm nhiệt đới đã tạo điều kiện thuận lợi cho cư
dân canh tác và trồng trọt theo mùa. Ngay từ xa xưa người dân nơi đây đã biết
tận dụng những ưu thế của thiên nhiên để lao động phục vụ cuộc sống, sinh
hoạt hàng ngày.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, huyện Hòa An được đánh giá là một
huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh. Huyện có những cánh đồng rộng,
phì nhiêu là vựa lúa lớn nhất của tỉnh, trong dân gian vẫn còn lưu truyền các
câu thơ thể hiện sự giàu có của mảnh đất này:
"Cao Bằng gạo trắng nƣớc trong
Bát ngát ruộng đồng
Giàu nhất Hòa An"
Là huyện nông nghiệp nên nguồn lực chủ yếu của Hòa An là đất đai,
mặt nước và nguồn lao động khá dồi dào tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế của huyện, cụ thể:
8
Về cơ cấu nền kinh tế hiện nay của huyện Hòa An chủ yếu là nền kinh tế
nhiều thành phần nông lâm kết hợp chăn nuôi, kinh doanh, thương nghiệp và
dịch vụ. Tiềm năng khai thác chủ yếu vẫn là nông nghiệp, tuy nhiên Hòa An
đang từng bước chuyển dịch sang cơ cấu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp
dụng chuyển giao công nghệ, khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp đã dần làm
tăng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, môi trường tự nhiên cũng
gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống. Chế độ mưa theo mùa gây
nên tình trạng lũ lụt gây mất mùa. Cùng với việc chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc trong mùa đông với các hiện tượng thời tiết như sương muối, sương
giá gây nhiều ảnh hưởng xấu đến sản xuất.
Địa hình huyện Hòa An như một dải đồng bằng với những cánh đồng
bằng phẳng trải dài dọc theo những sườn đồi, những dòng suối, con sông như
những dải lụa dài vô tận. Khung cảnh sơn thủy hữu tình này dường như đã
khơi nguồn cảm hứng thơ ca cho con người nơi đây. Ai đã từng đặt chân đến
mảnh đất này đều sẽ không bao giờ quên được khung cảnh yên bình với những
cánh đồng rộng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những câu lượn vút cao theo
gió, những câu Phong slư tình yêu thấm đẫm hương vị của cánh đồng, bờ
ruộng của núi rừng Hòa An.
Chính điều kiện tự nhiên, kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, mang đặc trưng riêng biệt của vùng
đất này. Phải chăng những làn điệu Then, Lượn, Phong slư ra đời và tồn tại để
đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát vọng tinh thần,
tình yêu của họ với mảnh đất nơi đây.
1.1.2.2. Đặc điểm xã hội – văn hóa của ngƣời Tày ở Hòa An – Cao Bằng
Hòa An là huyện có nhiều dân tộc sinh sống và định cư lâu đời. Trong
đó đông nhất là dân tộc Tày, cộng đồng người Tày ở Hòa An chủ yếu sống tập
trung thành các làng, bản có từ 40 – 60 nóc nhà trở lên, sống đoàn kết quy tụ
9
với nhau. Một gia đình thường có từ 2 – 3 thế hệ cùng chung sống với nhau
trong một mái nhà. Tất cả các gia đình người Tày đều được xây dựng theo chế
độ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính phụ hệ. Người phụ nữ Tày trong gia
đình trước đây không được xã hội đối xử bình đẳng như nam giới nhưng họ
vẫn được coi trọng trong gia đình bởi họ có vai trò là người quan trọng trong
lao động sản xuất, quản lí kinh tế gia đình và chính họ còn là người nuôi
dưỡng và làm giàu thêm những điệu hát dân ca từ thế hệ này sang thế hệ khác,
cứ như thế ngọn lửa văn hóa cứ hồng mãi trong mỗi nếp nhà sàn và thấm
đượm trong mỗi tâm hồn của những con người nơi đây.
Hòa An có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được quy tụ và thể
hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của cộng đồng mỗi
dân tộc, biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo ở
lễ hội truyền thống.
- Về Văn hóa vật thể.
Về văn hóa ẩm thực: người Tày ở Hòa An, Cao Bằng có đời sống văn
hóa ẩm thực rất phong phú đa dạng mang bản sắc văn hóa dân tộc, miền núi.
Trong bữa ăn người Tày luôn thể hiện sự kính trên, nhường dưới trong nội tộc,
gia quyến và thành tâm, hào hiệp mến khách. Hiện thực sinh động ấy cũng đã
đi vào dân ca Tày cùng năm, tháng.
Về trang phục, người Tày, nói chính xác hơn là phụ nữ Tày có truyền
thống quanh năm, trồng bông, kéo sợi, dệt vải rất khéo léo. Họ nhuộm vải
trắng dệt xong bằng thứ thuốc nhuộm tinh chế từ cây chàm, để có được màu
xanh tím óng. Từ đó làm ra trang phục nam và nữ của người Tày. Tất cả từ
quần, áo, váy, thắt lưng đến khăn đội đầu, khăn trùm đều nhuộm chàm. Trong
tang lễ, hay thời gian để tang họ vận đồ trắng may vội, khăn tang trắng, giày
vải má trắng, khuy áo thay bằng tua vải trắng khâu vào áo, buộc lại. Họ quan
niệm rằng, màu trắng là màu trong tang lễ. Trang phục của người Tày cũng
được phản ánh rất rõ qua các bài ca dao, dân ca Tày.
10
Về nhà ở, từ lâu, người Tày sống quần tụ thành xóm, làng từ 8 đến 15
nhà, cũng có nơi tới 20, 30 nhà san sát nhau, hoặc nhiều hơn. Tùy từng nơi,
hoàn cảnh khác nhau mà bà con làm nhà có khác khác nhau. Vùng đồi núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới người Tày thường làm nhà sàn thưng ván, cót,
buộc cây, trát vách xung quanh hoặc tường trình hay xây đá. Vùng đồng bằng,
ven thị trấn thường làm nhà trệt. Nhưng nhà truyền thống của người Tày, nét
kiến trúc văn hóa độc đáo, đặc trưng điển hình chính là ngôi nhà sàn.
- Văn hóa phi vật thể.
Quá trình lịch sử và hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt đã tạo cho người Tày
ở Hòa An một kho tàng văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc, với sự
phong phú, sinh động về phong tục tập quán, tín ngưỡng và giàu có về văn học
nghệ thuật...
Về phong tục tập quán, Phong tục tập quán của người Tày ở Hòa An rất
đặc sắc. Phong tục cưới xin của người Tày thể hiện đầy đủ sự thiêng liêng, sự
vui vẻ ấm nồng tình cha mẹ và họ hàng, bạn bè, là ngày vui của cộng đồng.
Theo các cụ già kể lại qua những làn điệu dân ca, đặc biệt là làn điệu Phong
slư có thể thấy được sự bình đẳng tự do trong việc lựa chon bạn đời trăm năm
cho mình. Họ tự tìm hiểu nhau để xây dựng một cuộc đời chung. Theo phong
tục thì việc định ngày cưới rất quan trọng nên gia đình nhà trai phải đến nhờ
những người thông hiểu Nho giáo để xem ngày lành tháng tốt rồi mới tổ chức
đám cưới.
Phong tục đám ma của người Tày cũng có nhiều nét đặc sắc. Trong đám
tang dù xót thương nhưng không ai được khóc khi chưa nhập quan, đây là một
tục lệ phải tuân thủ nghiêm túc. Khi có người thân qua đời người trong nhà
phải đi nhờ thầy tào về thực hiện các thủ tục đám ma. Quan tài người chết
được đặt ở giữa nhà trên hai cây chuối chắc nịch bên trên có úp nhà táng. Quần
áo đám tang đều do người nhà tự khâu bằng vải trắng. Sau khi mọi thủ tục đã
11
xong thầy tào sẽ làm lễ tế cúng người chết về cõi tiên, một đám ma của người
Tày thường diễn ra từ 3 đến 7 ngày.
Bên cạnh đó còn có lễ chúc phúc, chúc thọ, lễ chúc khang ninh cũng là
một phong tục đặc sắc của người Tày tại Hòa An – Cao Bằng, nhằm báo hiếu
cha mẹ những người sinh thành. Các lễ này thường mời thầy tào hoặc bà bụt
đến góp vui, hát những bài hát ca ngợi công đức của cha mẹ
Về Tết và lễ hội: người Tày quanh năm có nhiều tết và lễ hội mang đặc
trưng của nền sản xuất nông nghiệp, lúa nước như: Tết nguyên đán, Tết Đắp
nọi, Tết Thanh Minh, Rằm Tháng bẩy... Lễ hội Lồng Tồng, Lễ hội đền, chùa
(Hội chùa: Đống Lân, đền Kỳ Sầm, đền Vua Lê...)
Về Tín ngưỡng, tôn giáo: Người Tày ở Hòa An rất coi trọng thờ cúng tổ
tiên. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và không thể thiếu trong đời sống
tâm linh của người Tày và là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa
của người Tày.
Về Văn học dân gian, Văn học dân gian của người Tày ở Hòa An cũng
giống như dân tộc Tày các vùng khác có sự phong phú và đa dạng về nhiều thể
loại như: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện thơ
Nôm, lời ăn tiếng nói của nhân dân (thành ngữ, tục ngữ, vè, phuối pác, phuối
rọi...). Văn học dân gian Tày đi sâu phán ánh cuộc sống lao động sản xuất,
chiến đấu, phản ánh khát vọng của nhân dân. Bên cạnh đó các làn điệu dân ca
trữ tình mượt mà phản ánh đời sống tâm hồn tình cảm của người Tày sâu sắc
như: Lượn, Then, hát Quan Lang, Mo, Pựt.... Trong đó Phong slư là một hình
thức thơ ca đặc biệt của người Tày, Phong slư là những bức thư tình yêu, một
thể thơ đặc sắc của trai gái Tày dùng để trao đổi tình cảm, tình yêu lứa đôi.
Những bức thư tình yêu này được viết bằng chữ nôm Tày được các trí thức
bình dân viết và ghi lại những tâm tư tình cảm thầm kín của trai gái Tày, được
đọc ngâm với giai điệu rất thiết tha, vì vậy những bức Phong slư đó trở thành
một loại dân ca mang tính cộng đồng như những loại hình dân ca khác.
12
Về ngôn ngữ, người Tày chủ yếu sử dụng hệ ngôn ngữ Tày – Thái, là
nhóm ngôn ngữ rất gần với tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và thanh âm. Tuy
nhiên chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, sự vật hiện tượng trong sinh hoạt là
sáng tạo của người Tày còn lại là vay mượn từ Tiếng Hán, tiếng Hán Việt và
tiếng Việt. Về chữ viết, người Tày không có chữ viết riêng nên lịch sử thành
văn của dân tộc Tày gần như không có. Ngày xưa khi chữ viết chưa ra đời
người Tày giao tiếp chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Chữ Nôm ra đời
trong khoảng thế kỉ từ XIII – XV. Đến khi nhà Mạc chuyển triều đình lên Cao
Bằng đã để lại dấu ấn chữ Nôm Tày trên vùng đất bản địa vào khoảng thế kỉ
XVI – XVII. Vì vậy có thể khẳng định chữ Nôm Tày ra đời không muộn hơn
so với chữ Nôm Việt. Chữ Nôm Tày do chịu ảnh hưởng của chữ Nôm Việt mà
ra nên có cấu tạo như chữ Nôm Việt. Đến giai đoạn sau này người Tày vừa sử
dụng chữ viết theo lối Quốc Ngữ bằng chữ cái Latinh, do vốn từ của dân tộc
còn nghèo nàn, và việc vay mượn chữ Nôm và chữ Hán làm cho chữ viết của
dân tộc Tày gặp nhiều khó khăn. Có thể thấy việc chữ viết ra đời là một trong
những điều kiện vô cùng quan trọng trong việc lưu giữ nền văn hóa văn học
của các dân tộc nói chung của dân tộc Tày nói riêng.
Tiếng nói Tày rất sinh động về âm thanh, giàu có về từ ngữ và đặc biệt là
rất sinh động về sắc thái biểu cảm. Việc ra đời của chữ viết tiếng Tày trở thành
một phương tiện đắc dụng cho việc ghi chép, sáng tác thơ ca. Trong đó Phong
slư là một loại hình tiêu biểu.
Tất cả những điều kiện trên đã tạo cho dân tộc Tày ở Hòa An sáng tạo ra
nhiều hình thức sinh hoạt văn học nghệ thuật giàu bản sắc được lưu truyền
trong dân gian.
1.2. Khái quát về Phong slƣ
1.2.1. Khái niệm Phong slư
Trong quá trình sáng tạo văn hoá nghệ thuật dân gian của dân tộc mình,
người Tày đã có nhiều điệu lượn, hát phong phú, đa dạng và làn điệu Phong slư
13
với chất liệu đậm đà trữ tình, yêu thương da diết của đôi lứa đã được xuất hiện
từ lâu, đó là các câu hát theo lối tự sự hoặc là những lá thư của những người
đang yêu gửi cho nhau. Phong slư khác với các loại hình dân ca khác như: Then,
Sli, Lượn, Phong slư vừa mang tính cá nhân vừa mang tính quần chúng. Cho
đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về loại hình nghệ thuật này.
Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân dân
gian và qua quá trình tiếp xúc tìm hiểu chúng tôi lấy khái niệm về Phong slư
của nhà văn, nhà nghiên cứu Vi Hồng làm định hướng cho việc nghiên cứu của
mình trong luận văn này:
Phong slƣ là những bức thƣ viết bằng thơ về tình yêu đƣợc trai gái Tày
dùng để trao đổi, bày tỏ tình cảm lứa đôi. [18, tr. 222]
1.2.2. Nguồn gốc và bản chất diễn xướng của Phong slư
Văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của đời sống xã hội, do con
người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và phục vụ cho chính nhu
cầu của họ. Phong slư cũng giống như các loại hình nghệ thuật dân gian khác
đều bắt nguồn từ trong hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt đời sống của
nhân dân nên khó có thể xác định được rõ ràng thời điểm ra đời. Từ xa xưa
Phong slư đã tồn tại và lưu truyền ở Hòa An và nhiều địa phương khác đã có
sức sống lâu bền cùng sự phát triển của người Tày ở Hòa An.
Phong slư ra đời từ nhu cầu trao đổi tâm tư, tình cảm của các chàng trai,
cô gái Tày trong tình yêu, phản ánh các cung bậc tình cảm và những khát vọng
của người đang yêu. Trong giai đoạn chữ viết hình thành và phát triển, khi hát
sli, lượn giao duyên trực tiếp không diễn đạt được hết mọi nỗi nhớ, niềm
thương chất chứa trong lòng những chàng trai cô gái Tày, họ đã nhờ đến các
"slấy sli" những trí thức bình dân viết nên những bức Phong slư để gửi gắm
đến người mình yêu thương. Các "Ssấy sli" này đã dựa trên những câu ca có
sẵn trong dân gian sáng tác thành một bức Phong slư hoàn chỉnh phù hợp với
tâm trạng của người nhờ viết.
14
Xuân thiên vằn dú quẹng giƣờng ngần
Slíp hốc vọng hai mần tỏng táng
Sĩ từ dú lặm mản hác than
Vằng quẹng dú giƣờng chang lo xót
Điếp thâng bạn nâu boóc voằn xƣa
Phuồn lai vỉ viết slƣ thăm bạn.
Dịch nghĩa:
Ngày xuân vắng vẻ ngự giƣờng hoa
Mƣời sáu nhìn trăng vọng cửa sổ
Mình thân trai than thở sau màn
Ngày vắng đơn côi lòng lo lắng
Nhớ em nụ hoa trắng ngày xƣa
Buồn quá anh viết thƣ thăm bạn
Hầu hết trong các bức Phong slư đều miêu tả, giãi bày tâm trạng của
mình với bạn tình với những cung bậc tình cảm khác nhau. Đến khi họ có được
nhau thì những bức Phong slư trở thành kỉ vật lưu giữ kỉ niệm được trân trọng
giữ gìn của hai người, còn những cặp không đến được với nhau Phong slư trở
thành kỉ niệm mãi mãi không bao giờ quên của họ.
Trong quá trình phát triển của mình, loại hình Phong slư với tư cách là
một thể loại văn học dân gian có kết cấu hoàn chỉnh, với cách ngâm đọc riêng
biệt được cả xã hội đón nhận. Khi nhận được Phong slư gửi đến nếu biết chữ
thông thường những chàng trai cô gái họ tự đọc, nhưng cũng có lúc bức "Slư"
đó được đọc cho cả làng, cả bản cùng nghe. Nhưng trong xã hội trước đây số
người biết chữ không nhiều nên khi nhận được Phong slư họ phải đến nhờ các
"slấy sli" những người tri thức bình dân đọc hộ, bằng việc ngâm ngợi, diễn
xướng những bức Phong slư những “slấy sli” này đã biến những con chữ riêng
tư, cụ thể thành một sinh hoạt dân ca không thể thiếu trong đời sống của dân
tộc Tày.
15
1.2.3. Phong slư trong quá trình lưu truyền và đổi mới.
Văn học dân gian chủ yếu là những sáng tác truyền miệng của nhân dân
lao động, tuy nhiên bên cạnh việc truyền miệng văn học dân gian còn có cả
những sáng tác bằng văn bản. Trải qua lịch sử lâu dài khi đã có chữ viết thì văn
học dân gian được lưu truyền bằng cả hai phương diện. Trong đó Phong slư
của người Tày là loại hình thơ ca dân gian được lưu truyền bằng cả hai phương
diện truyền miệng và chữ viết.
Phong slư là những bức thư tình yêu của những chàng trai cô gái Tày
gửi cho nhau để trao đổi tình cảm, tình yêu đôi lứa. Trong xã hội xưa kia khi
những người biết chữ không nhiều, những chàng trai cô gái muốn viết Phong
slư phải đến nhờ những "sấy sli" những người trí thức bình dân viết hộ. Họ là
những người sáng tác Phong slư thay những chàng trai cô gái đang yêu, đồng
thời là người đọc những bức Phong slư được gửi đến. Thông thường những
bức Phong slư được gửi đến sẽ được "Sấy sli" đọc cho một mình người nhận
nghe nhưng cũng có khi bức Phong slư ấy được đọc cho cả nhà, cả bản để mọi
người cùng nghe. Chính yếu tố này đã tạo cho Phong slư vừa mang tính cá
nhân vừa mang tính cộng đồng. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi được các cụ
trên 80 tuổi cho biết, trước đây những bức Phong slư rất nhiều nhưng ngày nay
để tìm được một bức Phong slư hoàn chỉnh là rất hiếm, nếu còn chỉ là những
đoạn, những câu lưu trong trí nhớ, những đoạn được ghi chép trong những
quyển sách của các cụ.
Tuy nhiên cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, những chàng
trai cô gái Tày dần dần không còn viết Phong slư gửi cho nhau nữa, vì vậy
Phong slư không còn là những bức thư tình yêu mà Phong slư có sự đổi mới,
chuyển hóa phù hợp với tiến trình của văn học thời đại mới. Phong slư ngày
nay là sự sáng tạo nghệ thuật của một tác giả cụ thể, các bài Phong slư mới vẫn
tuân thủ theo cách diễn đạt của Phong slư cổ về luật thơ, cách ngâm, đọc
16
nhưng kết cấu, lời thơ, nội dung thơ đã có sự thay đổi cho phù hợp với đặc
điểm của xã hội ngày nay. Nếu như trước đây Phong slư chỉ là những bức thư
sử dụng để trao đổi về tình yêu đôi lứa thì hiện nay Phong slư là tiếng nói ca
ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi quê hương đất nước và cuộc sống mới... Có thể
thấy đề tài trong Phong slư hiện nay đã trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp các bài Phong slư mới này tại các Cuộc thi, Hội
diễn văn nghệ quần chúng ở Hòa An - Cao Bằng.
1.3. Phong slƣ ở Hòa An – Cao Bằng
1.3.1. Phong slư trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng
Phong slư là thư tình của người Tày, khi chữ Nôm Tày ra đời và phát
triển mạnh mẽ Phong slư được viết bởi những người trí thức bình dân sống gần
gũi và trân trọng những sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động. Chính
những trí thức bình dân này đồng sáng tạo, cải biên tạo nên những bức Phong
slư mang đậm sắc thái tình cảm cá nhân cụ thể. Những bài Phong slư đã in sâu
trong tâm hồn tình cảm của biết bao người và những giai điệu ấy vẫn còn
được lưu truyền tới các thế hệ con cháu hôm nay. Thông qua những bài Phong
slư trai gái Tày có thể bày tỏ những nỗi niềm từ đáy sâu lòng mình để bạn tình
có thể cảm nhận được, bởi trước kia trai gái Tày rất ngại ngùng trong việc thổ
lộ tình yêu, mặc dù cả hai bên đều biết mình có tình cảm với nhau nhưng
không thể nói thành lời, họ chỉ gặp nhau, chào nhau ở đám cưới, ngày chợ,
ngày hội... chỉ nói với nhau vài lời ngắn ngủi nên không thể diễn tả hết được
lòng mình. Khi trở về, với nỗi nhớ nhung da diết ấy họ viết lên (hoặc nhờ sấy
sli viết hộ) gửi cho nhau để có thể đọc, hát bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào trong
bản, ngoài đồng, ngoài rẫy... Những người nghe Phong slư có thể thức cả đêm
để nghe Phong slư, để ngẫm nghĩ về cái tình, cái nghĩa được gửi gắm trong đó.
Mỗi lần nghe như vậy mọi người cảm tưởng tình yêu, tình vợ chồng của mình
được củng cố thêm, cao đẹp hơn.
17
Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi được các cụ cao tuổi ở địa phương
cho biết: Ngày xưa ở các làng, bản tồn tại hình thức sinh hoạt cộng đồng hàng
tháng vào buổi tối của một ngày nhất định (thường là ngày 15 âm lịch), đó là
dịp để mọi người giao lưu, gặp gỡ và hát Sli, Lượn cùng nhau. Trong các tối
sinh hoạt cộng đồng ấy, các bức Phong slư được trai gái Tày mang tới và nhờ
những người biết chữ hát cho mọi người cùng nghe. Đây là một hình thức diễn
xướng đặc trưng của Phong slư khác biệt so với các thể loại dân ca khác của
dan tô ̣c.
g
Qua viê ̣c điền dã ta ̣i 5 xã của huyệ n Hòa An chú ng tôi thu đươ ̣c 76 bài, đoa ̣n Phong slư từ các cu ̣ cao tuổi và các nghệ nhân dân gian . Chính số lượng bài như vậy cho chú ng tôi nhâ ̣n thấy Phong slư vẫn có mô ̣t vi ̣ trí quan tro ̣n trong đờ i sống văn hóa củ a ngườ i Tày nơi đây. Tuy ngày nay các thanh niên nam nữ Tày không còn viết những bứ c Phong slư để gử i cho nhau nữa mà giờ đây những bài Phong slư hiê ̣n đa ̣i là những bài thơ tình và là những lời ca ca
ngợi tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi cuộc sống lao động sản xuất và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Chính viê ̣c lưu truyền và sự chuyển đổi đó cho thấy Phong slư vẫn còn tồn tại, lưu truyền và phát triển cùng sự phát triển củ a cô ̣ng đồng ngườ i Tày vù ng đất nơi đây .
1.3.2. Các giai đoạn phát triển của thể loại Phong slư.
Cùng với sự vận động của lịch sử văn học Phong slư cũng có những
bước phát triển mạnh mẽ trải qua các giai đoạn cụ thể như sau:
- Giai đoạn đầu tiên:
Ở giai đoạn này Phong slư chủ yếu được sử dụng để trao đổi tâm tư
tình cảm của trai gái Tày, có kết cấu và luật thơ cố định, với cách ngâm vịnh
riêng biệt. Cùng với sự ra đời của chữ Nôm nền văn học viết (Văn học chữ
Nôm) của dân tộc Tày có những bước phát triển rực rỡ, đặc biệt là Thơ Nôm
Tày. Đây là giai đoạn Phong slư có sự phát triển nhất. Xuất phát từ nhu cầu
18
giao lưu tình cảm của những chàng trai cô gái khi những lời hát giao duyên
Sli Lượn không nói hết được những tâm tư tình cảm của họ, khi họ không có
đủ điều kiện để ngày ngày hát giao duyên với nhau, dẫu đang yêu say đắm
bao nhiêu, nhưng ngoảnh sang bên cạnh thì thấy ngổn ngang những công việc
ruộng nương, nên họ đã đến nhờ những "Slấy sli" (người trí thức bình dân)
viết hộ những tình cảm của mình để gửi đến người yêu thương. Trong giai
đoạn này, gửi Phong slư cho nhau trở thành một phong trào của những chàng
trai, cô gái đang yêu.
Bên cạnh đó ở giai đoạn này Phong slư còn được vận dụng để trao đổi
thông tin như vận dụng trong thiệp cưới, để ghi chép lại những câu chuyện đã
qua. Có thể thấy đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao nhất của Phong slư và trở
thành điểm nối giữa văn học dân gian và văn học viết.
- Giai đoạn hiện nay:
Theo thời gian Phong slư có sự vận động và biến đổi mạnh mẽ. Phong
slư giai đoạn này chủ yếu đề cập đến đề tài Đảng, Bác Hồ, tình yêu quê hương
đất nước. Ở giai đoạn này Phong Slư vẫn sử dụng thể thơ, cách sáng tác, cách
đọc ngâm của Phong slư xưa tuy nhiên không còn mang kết cấu chặt chẽ của
một bức thư nữa mà chỉ còn lại phần nội dung mà bài thơ muốn đề cập đến.
1.3.3. Hình thức diễn xướng của Phong slư
Cũng là hình thức dân ca nhưng mỗi dân tộc lại mang một đặc điểm
khác nhau. Nếu Ở dân ca Quan họ Bắc Ninh không thể tách khỏi môi trường
sông nước, Sli của người Nùng chủ yếu gắn với quang cảnh hội xuân, phiên
chợ, trên các gò đồi ven suối thì người Tày hát dân ca chủ yếu hát trong môi
trường tương đối ổn định là trong nhà. Trong không gian làng bản tĩnh mịch,
xung quanh phủ màn đêm, bên bếp lửa bập bùng những tiếng lượn, tiếng ngâm
cất lên phá tan đi quang cảnh tĩnh lặng, buồn tẻ, u tịch của núi rừng. Chính
trong không gian này những lời ca lại có một sức hút mãnh liệt.
19
Qua quá trình tìm hiểu thực tế một số xã trên địa bàn huyện và theo nhận
xét của các nghệ nhân dân gian đều cho rằng: Hát Phong slư của vùng được
chia ra làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn nguyên sơ:
Phong slư gửi cho các chàng trai cô gái Tày thông thường thì họ nhờ các
Sấy sli đọc hộ, hoặc tự đọc nếu họ biết chữ. Tuy nhiên trước đây số người biết
đọc biết viết ở Hòa An Cao Bằng không nhiều vì vậy các Sấy sli mới là những
người sáng tác Phong slư thực sự thay cho những chàng trai cô gái đang yêu,
đồng thời đọc những Phong slư từ nơi khác gửi tới. “Các sấy sli” có thể đọc,
ngâm Phong slư tại nhà của mình, hoặc tại nhà của các chàng trai cô gái.
Người nghe có thể chỉ có một mình chàng trai cô gái hoặc cả gia đình và bạn
bè người thân. Việc ngâm này thường diễn ra khi mọi công việc đồng áng đã
kết thúc và quây quần bên ánh lửa bập bùng. Hình thức diễn xướng diễn ra đơn
lẻ này là dạng thức nguyên hợp tồn tại phổ biến ở nhiều thể loại dân ca của các
dân tộc khác.
- Giai đoạn có tổ chức lề lối:
Hình thức này đã dần dần tách khỏi không gian sinh hoạt đời thường . Ở
giai đoạn này hình thức diễn xướng đã có sự tổ chức bài bản, thứ tự trước sau.
Hình thức tổ chức này cũng giống như các cuộc hát Quan họ ở Kinh Bắc, hát
Ví dặm của người Kinh ở Xứ Nghệ. Trong các dịp lễ hội, các cuộc thi, giao lưu
văn hóa văn nghệ... Phong slư đã được diễn xướng trên sân khấu giống như các
làn điệu dân ca khác. Đây là một hình thức mới phát triển của Phong slư ở giai
đoạn hiện đại.
Phong slư là những bức thư tình của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng,
qua những lời thơ chân thành, giản dị cho chúng ta thấy được nét đẹp tâm hồn,
tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc Tày nơi đây.
20
TIỂU KẾT
Qua những nội dung được trình bày trên đây, chúng tôi thấy người Tày
ở Hòa An - Cao Bằng cũng như người Tày ở các địa phương khác trên cả nước
đều có truyền thống lịch sử, nền văn hóa phong phú và đa dạng, mang những
nét đặc trưng riêng về phong tục, tập quán và lối sống. Trong kho tàng văn
hóa nghệ thuật dân gian của người Tày ở Hòa An - Cao Bằng, Phong slư giữ
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, phản ánh sinh động tâm hồn, tình
cảm, phong tục, tập quán của cư dân bản địa.
Với những nét giới thiệu mang tính sơ lược và khái quát về dân tộc Tày
và một vài đặc điểm về Phong slư của người Tày ở Hòa An - Cao Bằng đã
giúp chúng ta phần nào hiểu được nền văn hóa, văn học của người Tày và thể
loại Phong slư. Để qua đó làm nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn về nội
dung và nghệ thuật của thể loại văn học dân gian này ở các chương sau.
21
Chƣơng 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHONG SLƢ
Ở HÕA AN – CAO BẰNG
2.1. Phong slƣ là những lời bày tỏ tình yêu đôi lứa.
Tình yêu là đề tài muôn thủa không bao giờ vơi cạn của văn học nghệ
thuật từ xưa tới nay. Với người Tày ở Hòa An - Cao Bằng đề tài về tình yêu
cũng được thể hiện một cách ý nhị, uyển chuyển, chân thành, mộc mạc qua
những khúc hát dân ca trữ tình mượt mà như làn điệu Then, Sli, Lượn, Phong
slư... Tất cả tạo nên nét đặc sắc riêng biệt của thơ ca dân tộc Tày. Trong đề tài
này chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu tìm hiểu một số nội dung của Phong slư ở
Hòa An - Cao Bằng.
Phong slư cũng có những nét giống vớ i các loa ̣i hình dân ca khác củ a
. Tuy nhiên loa ̣i hình khác đặc b iê ̣t là
ngườ i Tày đều là những lờ i bô ̣c lô ̣ bày tỏ tình cảm lứ a đôi Phong slư cũng có những nét khác biê ̣t so loa ̣i hình dân ca Lươ ̣n của người Tày ở chỗ Phong slư là những bức thư trao đổi tình cảm của hai ngườ i ba ̣n tri kỉ vớ i hình thứ c trao đổi mô ̣t cách gián tiếp để diễn tả tình cảm lứa đôi , còn Lượn chỉ là những lời hát diễn tả tìn h cảm cá nhân , tình yêu quê hương đất nướ c mà không có văn bản cu ̣ thể . Nội dung cơ bản của Phong slư là nói về tình yêu, đề tài về tình yêu đôi
lứa trong Phong slư được thể hiện một cách sâu sắc nhất với nhiều cung bậc,
sắc thái tình cảm khác nhau, chủ yếu là mượn hình ảnh cỏ cây, hoa lá, chim
muông, nước non, trời đất... để bày tỏ tâm trạng, tình cảm sâu xa với bạn tình.
2.1.1. Phong slư là những lời tỏ tình chân thành, giản dị.
Cũng giống như nhiều thể loại văn học dân gian khác Phong slư phản
ánh được tất cả những cung bậc của tình yêu. Ngay từ những ngày đầu làm
quen cho đến hôn nhân không thể thiếu được những lời tỏ tình, nó chính là
chiếc chìa khóa mở cửa trái tim đang còn đóng chặt. Với bản tính đặc trưng
của người Tày "Cái bụng nghĩ sao, cái miệng nói vậy" họ không nói bóng gió,
xa xôi mà thẳng thắn bộc lộ tình cảm của mình. Chàng trai với lối tỏ tình diễn
đa ̣t thẳng thắn chàng nhắc la ̣i từ ngày gă ̣p cô gái hình bóng cô gái như in sâu
22
vào trong tâm trí chàng trai và chà ng muốn kết ba ̣n để dược làm quen với cô gái, lối tỏ tình đầy thẳng thắn những vẫn mang trong mình sự e dè ướ m hỏi “không biết em còn nhớ tớ i ngày đôi ta gă ̣p nhau” gă ̣p em anh mang theo nỗi nhớ trở về, ngày tháng qua đi số ng trong nỗi nhớ cô đơn không biết em có lòng thương anh không.
Từ vằn én sặp nhạn ngộ căn
Mèng pjạc bjoóc mùa xuân hâng mử
Kết căn sle đảy rú quén căn
Bấu chắc noọng nhằng chứ dú đai
Điếp bạn tồng thiên thai là dá
Pi bƣơn vằn tốc mạ dú đai
Chắc noọng nhằng diếp quan nảy rá
Rụ là chê táng xá vô duyên
Dịch nghĩa:
Từ ngày én nhạn gặp nhau
Ong đã rời hoa xuân lâu lắm
Kết bạn để đƣợc quen nhau
Không biết em còn nhớ tới ngày đó
Nhớ em ngẩng nhìn trời càng nhớ
Ngày tháng năm qua anh ở cô đơn
Không biết em có thƣơng không đã
Hay là chê anh khác xã vô duyên [13]
Nhận được bức Phong slư của chàng trai gửi đến lòng cô gái bồi hồi xao
xuyến nhưng vẫn tỏ ý nghi ngờ, không biết những lời nói trong thư kia có thật
lòng không hay đó chỉ là những lời trêu đùa khi mới gặp.
Noọng phác căm mừa chổn vỉ quan
Táng cần dú táng mƣờng cách biệt
Niên quá nguyệt khổn tiết lai lai
Bấu chắc vỉ nam giai đâu toọng
23
Ké khả bấu cảm vội bạn cằn
cừn văn hác tƣơng tƣ đâu toọng
Lắp kết đuổi vỉ cá táng mƣờng
Dịch nghĩa:
Em gửi lời về chốn quan anh
Khác ngƣời ở khác bản cách biệt
Năm qua trăng đến nhanh nhanh
Không biết lòng anh thế nào
Ngƣời già bảo đừng vội tin
Tối ngày hãy suy nghĩ trong lòng
Nếu kết với bạn khác mƣờng [48]
Kết thúc những lễ hội mùa xuân, sau những cuộc lượn hát giao duyên
gặp gỡ, những chàng trai cô gái mang tình cảm của mình trở về với những
công việc thường ngày nhưng vẫn mang trong mình một nỗi nhớ về người đã
gặp, chính những cuộc gặp gỡ lượn giao duyên đó là vườn ươm cho những mối
tình tuổi trẻ, và đã yêu thì phải có thư tình, những lá thư tình đó được gửi đi,
trao lại mang trong đó những lời tỏ tình làm quen chân thành nồng thắm, thiết
tha đến người mình yêu thương. Nhận được những lá thư bày tỏ tình cảm ấy
những cô gái có trao lòng đáp lại sẽ có những bức thư trả lời đáp lại tình cảm
đó. Mới đầu có thể là sự hồ nghi, lo lắng đó chỉ là lời trêu đùa nhưng cũng có
khi đó là sự đáp lại tình cảm ấy một cách thẳng thắn.
Phong slƣ én tốc lồng bƣởng nả
Én cỏi thẻo mừa khả Lƣơng quân
Thân noọng nhằng nhất tâm đuổi vỉ
Dịch nghĩa:
Mang thƣ én tới luôn trƣớc mặt
Én hãy về kể thật cùng anh
24
Em sẽ một lòng thƣơng anh [15]
Tình yêu xuất phát từ tình cảm chân thành và sâu lắng nên nỗi nhớ
nhung càng da diết mặn nồng. Có ai yêu mà không nhớ, có lẽ nỗi nhớ đã trở
thành một đặc trưng bất biến của tình yêu. Với người Tày cũng vậy nỗi nhớ
hàng đêm khóc thầm trên gối được gửi gắm theo gió, theo mây đến người
thương. Để thể hiện tình yêu của mình chàng trai Tày đã dùng các tấm gương
người đời, nhất là gương trong lịch sử, trong các chuyện cổ tích mượn những
tích như Lưu Đài – Hán Xuân, Nam Kim – Thị Đan, Ngưu Lang – Chức Nữ,
Thục Đế - Hằng Nga... để bày tỏ tình cảm của mình, để khéo léo gợi cho người
yêu noi theo:
Ngƣu Lang xo ăn cầu pây mà
Thục Đế vọng Hằng Nga nhằng đảy
Buồn lai vỉ lặc hảy tềnh mon
Điếp bạn bấu đảy nòn cừn rủng
Dịch nghĩa
Ngƣu Lang xin cái cầu đi lại
Thục Đế thƣơng Hằng Nga còn đƣợc
Buồn quá anh khóc thầm trên gối
Yêu em không đƣợc thao thức đến sáng. [15]
Chàng trai nhận được lá thư lúc này bằng một giọng điệu vừa gần vừa
xa, một phần chàng lấy những câu chuyện tình yêu để làm minh chứng, dẫu có
khoảng cách xa xôi nhưng nhất định sẽ đến được với nhau, phần nữa chàng
mong khi nhận được bức thư này sẽ cùng em được kết duyên.
Ngộ răng ngộc cắp rà sinh thẻ
Hết cần noọng cỏi nghỉ hẩu thông
Xƣa Minh Nga cầm cung thƣợng đáng
Khúy mả lồng đạo lảng tu đin
Nhằng kết bạn Vƣơng Sinh đảy mả
25
Nàng tiên dú tềnh phả nhằng thông
Cần thển cắp cần bân nhằng hợp
Hiền sị vỉ xo kết đuổi nàng
Tiểng là bức thƣ mà tham khảo
Dịch nghĩa:
Gặp gỡ nhau mang tiếng yêu thƣơng
Mong em hãy suy nghĩ nông sâu
Nàng Minh Nga bị cấm cung
Còn cƣỡi ngựa xuống chốn trần gian
Và kết bạn với Vƣơng Sinh còn đƣợc
Nàng tiên ở trên trời còn nghĩ
Ngƣời tiên ở với ngƣời trần còn hợp
Nên anh xin kết duyên cùng em
Nay có bức thƣ đến để thăm hỏi. [15]
Và để ướm hỏi thêm tình cảm của cô gái, trong bức thư chàng trai đã
mạnh dạn xin chiếc túi để làm tin, để được mơ màng tơ tưởng tới em để cho
thỏa nỗi nhớ.
Phác Slƣ xo tủi nỏi đuổi nàng
Sli hẩu căn phải tèn cọng toọng
Đảy thảy mà tung phóng pjàng khoăn
Đua nòn khỏi mền phăn mơ mảng
Dịch nghĩa:
Gửi thƣ xin túi với nàng
Em cho anh cái túi xoàng cũng đƣợc
Đƣợc túi về anh để ôm ấp
Đi khỏi ngỏi mơ màng tơ tƣởng. [13]
Trong những bức Phong slư ta luôn bắt gặp hình ảnh những chàng trai,
cô gái diễn tả nỗi nhớ bằng sự mất ăn, mất ngủ nhớ đến người thương nơi xa
làm lòng nhũn mềm . Nhìn xa xa bướm ong đủ đôi vậy mà nhìn lại bản thân
mình lẻ loi đơn chiếc .
26
Chứ siết căn gằm nòn bấu đắc
Gần dú nam, dú bắc vuồn sim
Đang lểu ón vận đin thảo dƣợc
Mèng đo tôi khua khƣớc đuổi hoa
Táng ngậy đang thân rà mình lế.
Dịch nghĩa:
Nhớ nhau lòng bồi hồi chẳng ngủ
Ngƣời ở nam, ở bắc sầu lòng
Ngƣời nhũn mềm nhƣ chi đúc chảy
Bƣớm đủ đôi vui nhảy cùng hoa
Day dứt thân phận ta đơn chiếc.
[46, Tr. 1087]
Buồn vì nỗi cô đơn thường trực lại thêm nỗi nhớ người phương xa
không thể kể hết, chàng trai trở về cầm giấy bút viết gửi tâm trạng của mình
đến người mình yêu thương.
Vỉ chứ noọng căm bút viểt slƣ
Viết soong cằm phác mừa giƣơng bạn
Pi bƣơn bặng én nhạn bân pây
Thì giờ bặng nặm lây lồng hát
Ngẩn ngơ mốc sẩy khát tốc châu
Vạ đăm choắc voằn tầu đảy rủng
Dịch nghĩa:
Anh nhớ em cầm bút viết thƣ
Viết đôi lời đến với bạn
Năm tháng qua nhanh nhƣ én lƣợn
Thời gian qua nhanh nhƣ tiếng hát
Ngẩn ngơ bối rối trong lòng
Trời tối biết ngày nào mới sáng. [13]
27
Không chỉ trong Phong slư mà trong những làn điệu hát giao duyên thể
hiện tình yêu trong buổi chớm nở của các dân tộc khác cũng thật đặc sắc và
phong phú. Đây là lời tỏ tình đầy bóng bẩy, hoa mĩ của chàng trai dân tộc Kinh
bày tỏ niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu:
Ƣớc gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ƣớc gì anh hóa ra khăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm
[36, tr. 581]
Cũng là cách bày tỏ tình yêu nhưng chàng trai cô gái Tày có phần bày tỏ
thẳng thắn hơn, điều đó cũng thật dễ hiểu bởi bản chất con người lao động
miền núi so với miền xuôi có phần bộc trực, thật thà. Còn những chàng trai
Kinh lại sử dụng cách nói chuyện tầm phào bâng quơ trên mây, dưới gió mượn
những yếu tố gián tiếp để dẫn dắt đến tình cảm của mình.
Sông cách sông, thủy cách thủy
Em xe sợi chỉ, em bắc cây cầu
Để cho anh sang mà giảm mối sầu tƣơng tƣ
[36, tr.490]
Vớ i những lối tỏ tình của những chàng trai cô gái buổi đầu mới yêu chứa đựng sự hồn nhiên trong sáng, chân thật của tâm hồn tuổi trẻ. Những lời thơ tỏ
tình thuở ban đầu e ấp đó đầy ắp niềm vui, sự hứa hẹn đến với nhau để thành
vợ thành chồng. Hơn hết vần thơ đó càng tô đẹp thêm cho cuộc sống tâm hồn
của người Tày tinh thần lạc quan, yêu đời yêu cuộc sống thiết tha.
2.1.2. Phong slƣ là những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi.
Trong Phong slư không chỉ chứa đựng những cảm xúc say sưa buổi ban
đầu gặp gỡ của những chàng trai, cô gái Tày dành cho nhau mà trong đó còn là
những lời bày tỏ khát vọng về hạnh phúc lứa đôi cháy bỏng:
Vằn cón rầu kết khỏa tận tâm
Kết căn nhất đẩy căn chắng sử
28
Dịch nghĩa:
Ngày trƣớc ta cùng nhau cam kết
Yêu nhau nhất định lấy đƣợc nhau [13]
Và để rồi họ có nhau, nhìn thấy nhau sớm tối, cùng nhau đi qua bao
ngày tháng:
Thƣơng căn cụng ngòi nả căn đai
Sloong khăn cỏi ngòi đét cón ngài
(Thƣơng nhau chỉ cần nhìn thấy nhau
Nắng trƣa đến cùng nhau ta ngắm) [48]
Nỗi khát khao tự do hạnh phúc ấy dâng trào, họ hẹn ước mãi mãi bên
nhau không rời xa đến khi nào con hươu bỏ rừng lớn, con trâu bỏ không ăn cỏ
và khi nào múc nước được đầy giỏ mới biết tình yêu của họ sâu nặng đến
nhường nào:
Slƣơng căn sƣơng hẩu nắc hẩu hâng
Vửa tầu nạn lìa đông gỏi dá
Vửa tầu oài lìa nhả gỏi thôi
Tắc nẳm đảy têm cuôi gỏi viạc.
Dịch nghĩa:
Thƣơng nhau thƣơng cho nặng cho lâu
Khi nào hoẵng lìa rừng sẽ bỏ
Khi nào trâu bỏ cỏ mới thôi
Múc nƣớc đƣợc đầy giỏ mới biết. [48]
Họ yêu nhau thề nguyện hẹn ước dẫu bao gặp khó khăn vất vả nhưng họ
vẫn lạc quan vượt qua, cùng nhau vươn tới một cuộc sống gia đình ấm no đầy
đủ, họ chỉ có ước mơ giản đơn được về cùng chung một nhà với nhau.
Vỉ đảy noọng bấu nghị lăng tàng
Cần bấu định soong khoăn hác định
Chỉ kết đuổi mỉnh kỉn đing rƣờn
29
Đảy noọng vỉ bấu ngại lăng khỏ
Bấu mì khẩu lồng mỏ gỏi xa
Tắm tò đảy lƣơng gia định các
Dịch nghĩa:
Anh có em không còn lo nghĩ
Ngƣời không đƣợc tình để cho hồn
Chỉ một lấy em thƣơng cho đƣợc
Đƣợc em anh sẽ hết buồn
Không có gạo thổi cơm sẽ kiếm
Chỉ mong cho đƣợc đến chung nhà. [13]
Khát vọng yêu thương, hạnh phúc của những chàng trai cô gái Tày đôi
khi là những lời trái lôgic thực tế để cam đoan rằng vì người mình yêu mà họ
sẽ làm được những công việc trái với thực tế đời thường như: Thả lá tre xuống
ao để thành cá, vãi trấu để thành gà, cấy cỏ thành lúa.
Đảy vỉ noọng bấu ngại lăng tàng
Thả mảy peo lồng thôm pền tra
Vãn cóc cụng pền cáy têm lằng
Đăm nhả lồng làng pền khẩu
Dịch nghĩa:
Đƣợc anh em không ngại gian lao
Thả lá tre xuống ao thành cá
Vãi trấu cũng nên gà đầy chuồng
Cấy cỏ tranh xuống đồng thành thóc [15]
Khát vọng hạnh phúc ấy còn được thể hiện qua lời của cô gái dẫu cuộc
sống đầy vất vả khó khăn đói rét nhưng đã yêu thì quyết cùng nhau vượt qua:
Tậu vỉ lăng mong bấu ngại
Gẳm bấu fà sứt vải cũng khua
Tón bấu đảy kin đay cụng dú
30
Au căn đảy vần dảu bấu thân
Tháp nẳm bấu mì càn mừ thỉu
Kin lảo bấu mì điếu noọng xo
Thây rẩu bấu mì mò bai bác
Bấu hử vỉ thai rác là thôi
Pản tắc đảy pền tôi vỉ ới.
Dịch nghĩa:
Thành đôi khó khăn không ngại
Đêm ngủ không chăn màn vẫn cƣời
Bữa không đƣợc ăn ngon vẫn ở
Lấy đƣợc nhau dẫu khó vẫn bên nhau
Gánh nƣớc không đòn thì xách tay
Hút thuốc không điếu em sẽ tìm
Bừa rẫy không trâu làm bằng cuốc
Không để nhau đói rét là thôi
Làm sao đƣợc thành đôi hạnh phúc. [13]
Khát vọng tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của trai gái Tày cho ta
nhớ đến khát vọng tình yêu của những chàng trai cô gái dân tộc Thái trong
truyện thơ "Tiễn dặn người yêu" họ muốn vượt lên mọi lễ giáo phong kiến kìm
kẹp để được bên nhau hạnh phúc. Khát vọng ấy khiến người con trai Thái thốt
lên như một lời thề hẹn trong tình yêu.
Yêu em anh quyết đƣợc
Đã thƣơng nhau quyết lấy.
[42, tr. 222]
Trong tình yêu ấy những chàng trai cô gái Thái họ chỉ mang trong mình
ước mơ được sống bên nhau hạnh phúc, trọn đời trọn kiếp đến già.
31
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già
Ta yêu nhau, tàn đời gió, không rung không chuyển
[42, tr. 225]
Sức mạnh tình yêu đang đốt cháy trong lòng những người đang yêu,
khiến họ nói lên được những ý nghĩ táo bạo, kiên quyết vượt lên trên tất cả mọi
khó khăn gian khổ phía trước nhưng các chàng trai, cô gái Tày phải bất lực
trước thực tế cuộc sống. Họ không lấy được nhau, họ bị ngăn cách bởi gia
đình, xã hội, những lễ giáo cổ xưa khiến tình yêu của họ phải chia cắt, đau
đớn. Dẫu vậy, khát vọng được bên nhau khiến tình yêu trong họ vẫn mãi mạnh
mẽ, họ hẹn nhau thoát khỏi cuộc sống kìm kẹp đó đến một nơi mới, nơi chỉ có
hai người cùng nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc:
Giờ nẩy noọng vẫn nghị au căn
Tằng gần ké nắm hăn thúc toọng
Bấu chứ cạ một noọng hác thông
Nhƣợc vỉ nhằng nhất tâm đuổi noọng
Mì thƣơng dú keng kéo hất nà
Tọ rà khổn xa tháng đảy hăn
Bặng soong rà kết căn giừo nẩy
Kết bạn mong cạ đảy định rƣờn
Noọng kết bạn hết gƣơng thiên hạ
Khỏ khát dú chang đông tó ké.
Dịch nghĩa:
Đến nay em vẫn hẹn lấy anh
Dẫu cha mẹ song thân không vừa ý
Không phải em chỉ nghĩ vậy đâu
Nếu chàng còn nhớ nhau hãy liệu
Thƣơng nhau hẹn ở đỉnh núi cấy cày
32
Ta đi đâu kiếm tình hỡi chàng
Giống hai ta kết duyên chốn này
Yêu nhau định lấy ngay cho đƣợc
Lấy cho thiên hạ biết nêu gƣơng
Dẫu cùng nhau nghèo đói tới già. [48]
Cũng có khi đó là những lời tiễn dặn nhau cùng về nơi suối vàng để tình
yêu còn mãi:
Vằn thai khửn thƣợng nƣa cỏi tím
Slíp soong quản thƣợng đính cỏi xa
Mửa mển bạn thƣơng rà cỏi xiết.
Dịch nghĩa:
Chết đi ta sẽ gặp ở trời
Sẽ tìm ngƣời hai nơi cung quán
Khi ấy sẽ làm bạn vợ chồng. [15]
Đọc Phong slư ta thấy được sức mạnh tình yêu mãnh liệt của những
chàng trai, cô gái Tày được thể hiện qua khát vọng được đến bên nhau. Qua đó
ta cảm nhận được tâm hồn giản dị, chân thành, nồng thắm của họ.
2.1.3. Phong slƣ là những lời bày tỏ nỗi buồn trong tình yêu cách trở
Khát khao hạnh phúc là vậy, thậm chí họ còn nguyện sẽ chết cũng nhau.
Nhưng không phải đôi trai gái nào cũng đi hết con đường tình yêu ấy. Ta bắt
gặp trong Phong slư tình cảm của những đôi trai gái yêu nhau nhưng không
đến được với nhau qua những bức thư buồn nói lời chia tay:
Lìa căn ná tủi hƣơng mầu dá
Phjạc căn nghịa bạn khả soong tàng
Từ này rừ pây mà khổn cúng
Phjạc căn ná đạo rủng soong khoăn
33
Dịch nghĩa:
Chia tay nhau chẳng có túi trầu
Chia tay tình bạn chia hai ngả
Từ nay đƣờng ai nấy đi
Chia tay hồn chia làm hai ngả [15]
Lời chia tay của chàng trai đầy dứt khoát nhưng trong lòng vẫn đầy lưu
luyến, đau xót, day dứt không thôi, ngược lại cô gái cũng vậy:
Pjạc pỉ bặng thoản phải rặng đang
Chứ căn nẳm tha lồng ròi ròi
Pền lăng tẻ pây đuổi gàm tin
Lìa căn pây rừ kin rừ dú
Phầu ngài nhằng tói thú gằn buôm
Căm pát nặm tha loòng lít liệng
Nhằng chứ thâng xẩu tiểng táng tàng
Dịch nghĩa:
Chia tay anh nhƣ bỏ thắt lƣng
Nƣớc mắt tràn rơi đều chan chứa
Giá nhƣ đƣợc đi mãi bên nhau
Xa nhau thực bồn chồn khó nghĩ
Bữa ăn nhìn đôi đũa nhớ hình
Cầm bát tƣởng nhƣ hình tồn tại
Lại thân lẻ đồn đại càng buồn. [13]
Tình yêu với những lời hẹn ước của họ đang diễn ra tốt đẹp nhưng bởi lễ
giáo phong kiến, xã hội kiên quyết chia rẽ họ một cách nghiệt ngã trong khi họ
tự nguyện thiết tha gắn bó với nhau, thiết tha gặp nhau nhưng bị ngăn cấm. Có
thể thấy nỗi buồn trong Phong slư là cái buồn mang tính "căm ghét, nguyền
rủa" xã hội. Họ bị ngăn cách, không lấy được nhau họ chỉ biết than trách duyên
số không hợp, trách trời cao ghen ghét bắt họ phải chia xa.
34
Thƣơng bạn cầu chắc đuổi thân rà
Sloong mừ vại nặm tha tẻ dú
Vỉ hác tách thân dàn mỉnh
Giờ nẩy boóc lởi nhị tả mèng
Dịch nghĩa:
Ai biết ta nhớ luôn tới bạn
Nƣớc mắt đầy hai má tay lau
Bởi tại số hai ta không hợp
Phần nhiều trách số khiếp tại anh
Mới nên nỗi hoa tàn bỏ bƣớm. [15]
Họ than trách duyên số, trách ông tơ bà nguyệt đi đâu để dây tơ hồng đứt
mà không nối, trách trời cao ghen ghét với tình yêu này mà bắt họ phải xa
nhau, khiến họ mang nỗi buồn hàng đêm nước mắt lăn dài mong nhớ.
Nghị lai hác puồn nàn lạy lạy
Cừn nòn hác lặc hảy nƣa mon
Cừn tông là vằn puồn lọi lọi
Điếp bạn cầu chắc đuổi thân rà
Soong mừ chắng nặm tha tẻ dú.
Dịch nghĩa:
Nghĩ lại mà buồn đủ mọi điều
Khóc trên gối bao nhiêu giấc ngủ
Đêm mong với ngày nhớ mà buồn
Ai biết ta nhớ luôn tới bạn
Nƣớc mắt đầy hai má tay lau. [48]
Nỗi buồn khi phải chia tay trong tình yêu thật day dứt, xót xa nhưng nỗi đau
buồn ấy trong nhiều bức Phong slư lại thể hiện vẻ đẹp vị tha, dẫu đau lòng khi
không đến được với nhau họ vẫn mỉm cười chúc nhau hạnh phúc với duyên mới.
35
Buồn lai noọng hảy mỉnh khoăn
Chứ vỉ bấu chắc răng đuổi noọng
Cầu hử vỉ táng chốn mừa không
Giờ này giá khổn tông khuổn vọng
Noọng pjạc bấu hăn bổng hăn ngàu
Cảng nghị càng hăn sầu hợi vỉ
Phú quý tằng gia té mừa lăng
Mèng bjoóc pjạc cằn tàng giờ nảy
Dịch nghĩa:
Buồn quá em khóc mãi không thôi Làm sao anh biết đƣợc với em Chúc cho anh khác chốn nhàn thân Nỗi này còn mong gì hơn nữa Em đi chẳng thấy bóng thấy hồn Càng nghĩ lại càng buồn anh hỡi Về sau phú quý nhiều hơn nữa Nhƣ bƣớm nhƣ hoa bên đƣờng [13]
Khi yêu vạn vât xung quanh trở nên đẹp đẽ, nhưng khi tình yêu bị cách
trở mọi thứ xung quanh cũng mang dấu nỗi buồn chia li:
Boóc phung bjoóc lẻ táng pền ăn
Mèng cắp boóc chứ cằm nằng nặc
Bjoóc lởi mèng chắc chắp co tầu
Nghị mà há tốc châu puồn tọng
Dịch nghĩa:
Hoa nở hoa đã thành quả lớn
Bƣớm với hoa còn nhớ lời nhau
Hoa tàn bƣớm biết đâu cành đậu
Càng nghĩ lại càng buồn tấm lòng nhau [13]
Trong những bức Phong slư của người Tày trao đổi cho nhau thường
dùng một số phương thức để biểu đạt như từ chối tình yêu do nghèo, xấu nên
không xứng đáng, không môn đăng hộ đối. Lại có khi để thanh minh một sự
hiểu lầm hay là sự nghi ngờ người mình yêu không chung thủy, lại có khi nghe
36
lầm tin bạn đã hứa hôn... Tất cả những nội dung đó đều mang trong mình một
nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người gửi, tuy nhiên tất cả những yếu tố đó có
khi nhằm để giải quyết việc có thực thì ít mà mục đích là để kéo dài Phong slư.
Chính vì vậy có những bức Phong slư kéo dài hàng trăm câu, chủ yếu để bộc lộ
nỗi lòng của người gửi.
Qua những vần thơ được thể hiện trong Phong slư giúp ta thấy được rõ
hơn về tâm trạng, cảm xúc của những chàng trai cô gái Tày trong tình yêu. Đó
là nỗi lòng bâng khuâng, xao xuyến thủơ ban đầu với những lời tỏ tình chân
thành mộc mạc, những lời bày tỏ nỗi buồn khi tình yêu bị ngăn cách nhưng họ
vẫn khao khát vượt lên tất cả để được đến bên nhau. Tất cả những điều đó đều
được viết ra từ sâu thẳm trái tim của biết bao chàng trai cô gái Tày, chính điều
đó đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của những con người nơi đây.
2.2. Phong slƣ là những lời nhắn gửi, lời dặn dò.
Không chỉ dùng để diễn tả các cung bậc tình yêu Phong slư còn được
sử dụng như một bức thư để mời cưới. Những bức thư ấy được thanh niên
Tày ngày xưa gấp thành những cánh én để gửi đi. Trong những bức thư mời
cưới này thường mang tính chất thông báo và trong đó thường ghi rõ ngày
tháng, địa điểm tổ chức đám cưới và gửi đến người nhận với mong muốn,
dẫu đường xa vất vả, khó nhọc nhưng hãy cố gắng đến chung vui tới dự đám
cưới của mình.
Bƣơn slíp hoằn so pét lƣơng thằn
Thừa vỏ mẻ chọn đảy voằn hoàn thú
Xỉnh thâng bạn hoằn đú sƣơng lƣờng
Chứ căn hãy mà giƣờng tha nả
Họa căn chẻn nặm tả gụng đây
Níp xắc ám nửa nây cụng dử
Dẳng pền bạn hoằn đú siết sƣơng
Dùng keng kéo xiên mƣờng mà rọm
Nông Văn Mỗ bái thiếp
37
Dịch nghĩa:
Tháng mƣời ngày mồng tám ngày lành
Theo bố mẹ chọn đƣợc ngày làm lễ cƣới
Mời đến bạn ngày cũ thiết thƣơng
Nhớ nhau hãy về cho có mặt
Cùng nâng chén nƣớc lã gọi là
Gắp một miếng thịt quay cũng phải
Mới phải là bạn có ngãi thiết tha
Dù đèo dốc mƣờng xa cũng cố tới
Nông Văn Mỗ bái thiếp [2, tr.28]
Bên cạnh việc sử dụng Phong slư như một bức thiệp mời cưới thì Phong
slư còn là một bức thư nhắn gửi( được gọi là “thư slắng”), được dùng để nhắn
gửi người yêu hãy lập gia đình trước đừng chờ đợi mối tình này. Và người lấy
sau cũng có thư đáp trả gửi đến người lấy trước để giãi bày được nỗi buồn tâm
trạng khi tình yêu tan vỡ...
Đây là bức Phong slư người con gái mời chàng trai đến dự đám cưới của
mình, trong bức Phong slư ấy có ghi rõ địa đểm, ngày tháng tổ chức đám cưới.
Nhờ Slấy viết bâu chỉa thông thin
Phác cằm mừa nho sinh chắc kháo
Nhỡ vỉ nhằng mì thảo thƣơng mà
Thƣơng noọng vỉ cỏi mà ngòi nả
Bƣơn ết noọng hạ giả hết kin
Phác cằm khả nho sinh cỏi nghị
Hẹn thâng vằn slo nhỉ mà thâng
Chứ sử bạn Lƣơng Quân mì toọng
Dịch nghĩa:
Nhờ thầy viết bức giấy thông tin
Gửi lời đến nho sinh đƣợc biết
38
Nhỡ anh còn có lòng thƣơng hãy liệu
Thƣơng em anh hãy về nhìn mặt
Tháng một em lấy chồng
Gửi lời bảo nho sinh hãy nghĩ
Hẹn đến ngày mùng hai về đến
Mới phải bạn có lòng Lƣơng Quân [13]
Rồi cô gái như muốn giải thích việc mình lấy chồng là do chàng trai
không dứt khoát trong tình yêu, và đi lấy vợ trước bỏ lại cô gái nơi xa cô đơn:
Bấu chắc vỉ bất nhân pền nảy
Pác càng tọ lai slảy phuối pjầng
Vằn cón khả kết mang đuổi noọng
Vỉ cũng bấu mì toọng thƣơng thâng
Bợi toọng sị lại moong cần mấu
Tả noọng sle chổn cấu bấu slƣơng
Dịch nghĩa:
Ai mà biết chàng ra nhƣ vậy
Chàng nói rồi ngay đấy dối nhau
Anh còn bảo trƣớc sau cùng thề
Nhƣng lòng anh không hề nhớ đến
Lòng anh còn quyến luyến nơi xa
Bỏ em mối tình xƣa không tiếc [48]
Trong những bức Phong slư slắng của người đi lấy chồng, lấy vợ sau
dẫu có sự buồn bã trách cứ, dỗi hờn nhưng khi đi lấy chồng, lấy vợ rồi họ vẫn
mang niềm tin về mối tình duyên này chắc chắn sẽ còn mãi về sau, thậm chí họ
còn hẹn ước về sau hãy gả con cái cho nhau:
Sloong rà dá hẩu lởi chắng pền
Bân định bấu đảy căn là dá
Mì lục cỏi khai khá hẩu căn
39
Dịch nghĩa:
Cho tình ta mãi mãi không tan
Trời không cho thành đôi cũng đƣợc
Đời con sẽ bán gả cho nhau [15]
Và những bức Phong slư slắng này thường khuyên người nhận được lời
nhắn gửi đừng buồn, hãy tìm lấy người xứng đáng với mình để kết duyên,
đừng tiếc buồn cho chuyện tình dang dở đã qua:
Vỉ gỏi xa slắc gần kết bạn
Cốc nhằng mảy lai lắng thanh tân
Thiên hạ nhằng lai gần hơn noọng
Vỉ hợi dá puồn toọng lăng lai
Chúc hẩu sị nam giai thong thả
Dịch nghĩa:
Chàng hãy tìm cùng ai kết bạn
Rừng xanh còn ngàn vạn cành hay
Thiên hạ biết bao ngƣời xinh đẹp
Khuyên chàng đừng có tiếc mà buồn
Chúc cho chàng luôn luôn thong thả. [48]
Sau khi nhận được thư mời dự đám cưới, hay "slư slắng"chàng trai, cô
gái Tày cũng có thư gửi lại bộc lộ tâm trạng băn khoăn, buồn bã của mình
trước thông tin đó:
Toọng vỉ nhằng nghị thâng slảy soong
Ngộ khả đảy mà thâng cỏi nẳng
Xiên kì noọng dá thẳng hết lăng.
Dịch nghĩa:
Dạ anh nghĩ rối bời hai lối
Có khi anh đi tới sẽ ăn
Nhƣng em chớ để phần chớ đợi [13]
40
Bên cạnh đó họ còn gửi những lời dặn dò nhau sống thật tốt, biết giữ
phép tắc, lễ nghĩa khi bước vào một cuộc sống mới.
Rèo phua cọi kình thƣơng pú giả
Nả nƣa noọng dá quá pậu che
Mì lăng kin noọng chia hẩu khóp
Pú giả nhƣ mẻ oóc noọng slinh
Nâu khẳm cỏi cực thân noọng ạ
Nhƣợc cạ pú giả đá lắc cằm
Rầu cỏi cồ nhặn đăng hết việc
Vằn pây bƣơn quá huyết táng đay.
Dịch nghĩa:
Theo chồng hãy kính thƣơng ông bà
Phía trên chớ bƣớc qua thất lễ
Có cái ăn chia sẻ mọi ngƣời
Bố mẹ chồng coi bằng mẹ đẻ
Sớm tối hãy giữ lễ nghe em
Dẫu bố mẹ mắng lên đôi lời
Ta hãy nhịn đi thôi làm việc
Ngày tháng qua sẽ hết thành vui. [13]
Và cuối cùng là gửi lời chúc đến gia đình, đến người mình yêu mãi
hạnh phúc:
Vỉ xo chúc huynh đệ họ hàng
Them xo chúc họ hàng của nhỉ
Khảm pi mì xuân tthí va khai
Oóc pây sinh nam giai thiếu nự
Hết kin táng vui xú hơn cần
Noọng hỡi!
41
Dịch nghĩa:
Anh xin chúc anh em hàng xóm
Cùng xin chúc họ hàng của em
Sang năm có nhiều lộc mới
Ra đi sinh con trai con gái
Làm ăn luôn mãi hơn ngƣời
Em hỡi! [13]
Không chỉ là những lời nhắn gửi, mời cưới mà Phong slư ở vùng Hòa
An – Cao Bằng còn mang một hình thức đặc biệt khác hẳn so với Phong slư
của các vùng khác , Hạ (đă ̣c biê ̣t là các huyê ̣n miền Đông như Quảng Uyên
Lang…) trên đi ̣a bàn tỉnh . Phong slư còn là một bức thư nhắn gửi dặn dò của bố mẹ đối với con cái trong cuộc sống hàng ngày. Trong quá trình điều tra,
điền dã tại Hòa An - Cao Bằng chúng tôi đã sưu tầm được những bức Phong
slư của bố mẹ gửi cho con để dặn dò, răn dạy con cách ứng xử, cách sống
trước khi lập gia đình mới. Những bức Phong slư này thường được đọc trong
hôm tổ chức lễ cưới trước mặt mọi người, cũng có khi là đưa cho con (thường
là con gái) trước khi về nhà chồng.
Gần ké đã hăn mì lai khinh nghiệm
Phua mìa tầu hòa thuận là đây
Nhƣợc gần đông gần tây là sán
Hất kin nên tính toán từng phoăn
Dịch nghĩa:
Ngƣời già sống có nhiều kinh nghiệm
Vợ chồng hòa thuận đƣợc là tốt
Nếu ngƣời đông ngƣời tây là bỏ
Làm ăn nên tính toán thật kĩ. [15]
Trong cuộc sống phải chăm chỉ làm việc, biết giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ
người già, cố gắng làm việc, quan tâm đến cảm xúc của người khác để cuộc
sống được thoải mái hơn.
42
Hất kin nắm đảy dản quen sân
Hất công dá đẩy nình căn làm viểc
Dá ngảm dàm chi tiếc kì thhâng
Cần ón dá nình thâng gần ké
Vửa hất vửa vui vẻ dẳng pền
Dẳng xử tua gần kin dá
Dịch nghĩa:
Làm ăn đừng có lƣời quen thân
Làm đồng chớ nịnh căn làm việc
Đừng so sánh chi tiết mọi thứ
Ngƣời trẻ đừng so với ngƣời già
Vừa làm vừa vui vẻ mới nên
Mới phải con ngƣời có học. [15]
Trong Phong slư của bố mẹ gửi cho con còn răn dạy đừng nói những lời
cay nghiệt, thất đức, đừng biểu hiện bực tức, là con người hãy suy nghĩ thật kĩ
trước khi nói và làm.
Dá đảy phuối gằm đùa thất đức
Dá gộc găng bực tức nả khăm
Dá nhắn nhóc tăn gằm óc pác
Cáy tốc píc slam bát chử khăn
Tua gần sam quây nhằng gỏi phuối
Dịch nghĩa:
Đừng nói những lời đùa thất đức
Nếu bực tức đừng khó chịu ra mặt
Đừng lời không tốt nơi cửa miệng
Gà còn đập cánh ba lần trƣớc khi gáy
Là ngƣời nhìn xa rồi hãy nói. [15]
43
Phong slư có nhiều cách thể hiện đặc sắc khác nhau về nội dung. Có thể
đó là một bức thư gửi gắm về tình cảm lứa đôi nhưng cũng có thể đó là những
bức thư trao đổi thông tin, gửi lời mời cưới, hay đó là những lời răn dạy của
cha mẹ đối với con cái trong cuộc sống hàng ngày. Chính những nội dung này
đã tạo nên những nét đặc sắc đặc biệt trong văn hóa của người Tày.
2.3. Sự chuyển hóa đổi mới chức năng của Phong slƣ trong đời sống hiện đại
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân gian Tày loại hình
Phong slư bước đến một giai đoạn mới, Phong slư hiện đại đã có sự thay đổi rõ
rệt. Về hình thức, Phong slư hiện đại không còn là những bức thư trao đổi thông
tin tuy nhiên Phong slư hiện đại vẫn còn mang trong mình phần đọc ngâm và thể
thơ của Phong slư cổ, chính yếu tố sử dụng việc đọc ngâm và sử dụng kết cấu
thơ thất thất trường thiên chặt chẽ mà ngày nay những bài thơ mang nội dung
mới đều được người Tày ở Hòa An – Cao Bằng gọi là Phong slư. Đặc biệt về
nội dung, tiếp tục kế thừa nội dung của Phong slư cổ không chỉ đề cập đến tình
yêu lứa đôi mà Phong slư hiện đại còn có sự mở rộng về chủ đề, nổi bật nhất là
chủ đề về Đảng, Bác Hồ và tình yêu quê hương đất nước.
Sự chuyển đổi này củ a Phong slư trong đờ i sống hiê ̣n đa ̣i này có nhiều ý
kiến khác nhau. Có một bộ phận cho rằng đây là sự phát triển của loại hình nghệ thuâ ̣t này, có ý kiến lại khẳng định đây là giai đoạn thụt lùi của Phong slư . Tuy
nhiên qua quá trình điền dã thực đi ̣a ngườ i viết nhâ ̣n thấy rằng đây là mô ̣t hình thứ c phát triển củ a Phong slư bở i văn hóa dân gian ra đờ i từ trong cuộc sống lao đô ̣ng sản xuất, sinh hoa ̣t củ a nhân dân lao đô ̣ng, xã hội ngày càng phát triển nên loại hình Phong slư cũng có sự biến đổi phù hợp với thời đại mới nên chủ đề của
Phong slư cũng có sự chuyển biến thay đổi cho phù hợp.
2.3.1. Phong slƣ là những lời ca ngợi Đảng và Bác Hồ.
Đảng và Bác Hồ là chủ đề không bao giờ vơi cạn trong mạch nguồn cảm
hứng của thi ca. Đảng và Bác đã đem niềm vui lẽ sống cho toàn thể dân tộc
Việt Nam đưa cả dân tộc Việt Nam thoát khỏi cuộc sống lầm than đau khổ.
Trên miền đất này khắp nơi nơi đều vang tiếng ngợi ca ánh sáng soi đường của
44
Đảng, của Bác. Trong Phong slư cũng mang niềm vui, tâm trạng náo nức vui
tươi như vậy.
Vọm hạnh phúc dân rà thức thá
Khau phia vui moóc tỏa đua xuân
Bjoóc đua bjoóc hẹn gần rẳp sí
Cớ phông rƣờng mọi tỉ đao bân
Pác lai xuân hồi xuân đin nhả
Nƣớc rƣờn vui hí hạ mẩng khuô
Ơn Đảng ơn bác Hồ pế cải
Bjoóc đau phông choảng mại xuân xuân.
Dịch nghĩa:
Đƣờng hạnh phúc ta cầu đã tới
Rừng núi ơi phấn khởi cùng xuân
Hoa đua hoa vô ngần đƣợm sắc
Cờ tung bay từ Bắc chí Nam
Hơn trăm năm giang san mƣu lại
Nƣớc nhà nay mãi mãi hân hoan. [14, tr.52]
Hay những câu:
Tởi tởi chứ ơn Đảng tái tàng
Đảng hây vị đại rọ vinh quang
Đáp gằm Đảng rọọng si luồn lặp
Chƣớng hẩu giang sơn mại mắn kheng
Nông nghiệp tăng gia lai khẩu nặm
Luyện kim sản xuất thép thêm khang
Thần tiên tởi sổng Bác Hồ hẩu
Tởi tởi Việt Nam mại rủng roàng
45
Dịch nghĩa:
Muôn thủa nhớ ơn Đảng dẫn đƣờng
Đảng ta vĩ đại thật vinh quang
Đáp lời Đảng gọi cùng vun đắp
Xây dựng giang sơn mãi huy hoàng
Nông nghiệp nơi nơi nhiều thóc lúa
Luyện kim sản xuất thép thêm gang
Thần tiên cuộc sống ngƣời để lại
Mãi mãi Việt Nam vọng tiếng vang. [14, tr.61]
Dưới sự lãnh đạo của Đảng sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải
phóng nhưng miền Nam vẫn chịu áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Với niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng những người con dân tộc Tày đã một lòng đoàn kết
giúp miền Nam ruột thịt. Và nhiều bài thơ Phong slư hiện đại đã thể hiện điều
đó thật sâu sắc.
Síp lai pi miền Nam thẹp Mĩ
Bấu lƣờn tầu lo hí góp xèn
Rƣờn lẻ góp khẩu tan phén phục
Rƣờn gióp xèng góp sức cơ qua
Rƣờn đảm đang hậu phƣơng mắm chắc
Cùng góp mà giải phóng miền nam
Dịch nghĩa:
Mấy chục năm Việt Nam đuổi Mĩ
Không nhà nào không lo góp tiền
Nhà thì góp gạo góp chiếu
Nhà góp tiền góp sức cơ quan
Nhà đảm đang hậu phƣơng vững chắc
Cùng góp về giải phóng miền Nam
[14, tr.70]
46
Với tấm lòng ơn Đảng dẫn đường các dân tộc anh em cùng nhau vững
bước đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững bước dưới cờ Đảng xây
dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Hất kin mừa nả mọi mòn đây
Nông thôn hợp tác thêm rèng khỉn
Rƣờn máy công trƣờng nhộn tẳng xây.
Dịch nghĩa:
Làm ăn tiến bƣớc vững bao thay
Nông thôn hợp tác thêm củng cố
nhà máy công trƣờng mạnh dựng xây
[14, tr. 68]
Bên cạnh những lời ca ơn Đảng trong những bài thơ Phong slư mới còn
có những lời ca ngợi Bác Hồ - vị lãnh tụ của dân tộc. Ngay từ những ngày đầu
Bác ra đi tìm đường cứu nước đã được Phong slư khắc họa rõ nét:
Bác Hồ khảm đại hải phƣơng Tây
Slam dục pi Bác pây mọi nƣớc
Pháp, Mị, Nga nguyện ƣớc Bác thâng
Bác rặp tẻn Lê Nin – Các Mác
Bặng kha hoẳn rủng khóp thế gian
Bác đã xếp khảu chang sim mốc
Hất địa bàn tức tốc cứ dân
Dịch nghĩa:
Bác Hồ vƣợt biển đến phƣơng Tây
Ba mƣơi năm Bác đi mọi nƣớc
Pháp, Mĩ, Nga nguyện ƣớc Bác đến
Bác gặp ngƣời Lê Nin – Các Mác
Nhấc chân lên đi khắp thế gian
Bác đã xếp vào trong bụng dạ
Xây địa bàn tức tốc cứu dân. [15]
47
Trên hành trình của mình Người nhận ra một điều dù ở đâu trên thế giới
này những người dân lao động vẫn là những người nghèo khổ nhất. Và người
trở về nước lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vẻ vang.
Hoằn so sloong đọng đính thủ đô
Nả Ba Đình Bác Hồ tuyên bố
Việt nam đã độc lập, tự do
Việt Nam đã tự do, độc lập
Dịch nghĩa:
Ngày mùng hai rực rỡ thủ đô
Trƣớc Ba Đình Bác Hồ tuyên bố
Việt Nam đã độc lập, tự do
Việt Nam đã tự do, độc lập [15]
Bác đã đặt nền móng vững chắc cho tổ quốc đánh đuổi mọi đế quốc xâm
lăng. Nhưng chưa kịp chứng kiến đất nước thống nhất người đã ra đi với niềm
tiếc thương vô hạn của cả dân tộc, Người đã đi xa nhưng trong tim cả dân tộc
vẫn nhớ mãi công lao to lớn của người:
Bác đạ pây lặm phia luôn móc
Tiếng của Bác nhằng vọng óc đuổi dân
Nƣớc Việt nam ơn nhân của Bác
Dịch nghĩa:
Bác đã đi qua sƣơng qua núi
Tiếng của Bác còn vọng mãi với dân
Nƣớc Việt Nam nhớ công ơn Bác
[14, tr. 98]
Trước lúc người đi xa miền Nam chưa thống nhất, trong tim người vẫn
một lòng mong mỏi đến ngày Bắc – Nam xum họp nước nhà hoàn toàn thống
nhất. Để không phụ công mong mỏi của Người hòa chung với không khí cả
nước vì miền Nam ruột thịt đồng bào dân tộc Tày cũng góp sức lực nhỏ bé của
mình vì miền Nam thân yêu.
48
Mảu táp mảu chăm nua thuốt jảo
Pất cáy rảo táp rảo vẻ viòng
Thanh niên hứa pây thuổnn việc nắc
Pây tòng quân tức sức tiền phƣơng
Nhình đảm mọi việc rƣờn công việc
Dịch nghĩa:
Vụ tiếp vụ làm ra hạt thóc
Chăn nuôi gà thêm vịt cho nhiều
Thanh niên hứa đi đầu sản xuất
Đi tòng quân đánh giặc miền Nam
Gái đảm đang sẵn sàng dốc sức [14, tr.8]
Hay những câu:
Chứ miền Nam sẩy rịu khát soong
Bắc Nam khoái wằn nngỏng thống nhất
Se chi viện miền Nam tức Ngụy
Khóp mọi mƣờng chiến sị gần dân
Nguyện sản xuất rèo gằm Bác sắng
Đáp gẳm bác khau phia viỏi viọm
Dịch nghĩa
Nhớ miền Nam tựa ruột đứt đôi
Bắc Nam mong từng hồi thống nhất
Khắp mọi nơi chiến sĩ nhân dân
Nguyện sản xuất góp phần Bác dặn
[14, tr. 85]
Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, trở về với
cuộc sống lao động thường ngày nhưng trong lòng những người con dân tộc
Tày vẫn không bao giờ quên được công ơn to lớn của Người
Chƣớng đin rƣờn mai hẩu phông hoa
khôn khó này Bác Hồ săm hẩu
49
Vui nƣớc rƣờn tồn quảng hạ châu
Từ nẩy pây boong sầu sung sƣớng
Xã hội nằm nảy pây mì đo
Ơn Đảng, ơn Bác Hồ tởi tởi.
Dịch nghĩa:
Vun nƣớc nhà nay đã nở hoa
Cay đắng này Bác Hồ xóa hết
Vui nƣớc nhà cùng kết năm châu
Từ nay mãi đƣợm mầu hƣơng sắc
Xã hội ta hạnh phúc ấm no
Ơn Đảng ơn Bác Hồ mãi mãi.
[14, tr.85]
Những lời Phong slư của người Tày ở Hòa An – Cao Bằng nói riêng của
dân tộc Tày nói chung trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều chủ đề mới phù
hợp với xã hội đó là chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi các anh hùng dân
tộc. Do vậy Phong slư cũng mang trong mình những tư tưởng, tình cảm lớn
của thời đại.
2.3.2. Phong slƣ là những lời ca ngợi tình yêu quê hƣơng đất nƣớc.
Nói về tình yêu quê hương đất nước mỗi vùng miền dân tộc lại có cách
nói, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại đều là những câu hát đằm
thắm, thiết tha về cảnh đẹp thiên nhiên, cuộc sống lao động sản xuất, những
đặc sản quê hương... Trong những bài thơ Phong slư mang nội dung mới của
người Tày ở Hòa An - Cao Bằng, cũng đề cập tới vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc
sống đang ngày càng đi lên ở nơi đây. Đây là câu thơ miêu tả cánh đồng phì
nhiêu, màu mỡ của vùng đất Hòa An:
Anh đến quê em một buổi chiều
Cánh đồng xanh ngát màu phì nhiêu
Thửa trên thuốc lá lên phơi phới
Đám dƣới cây ngô thả cánh diều. [48]
50
Và thêm màu sắc của những cánh hoa mận, hoa đào cùng với những
tiếng chim ríu rít mỗi độ xuân về càng tô đẹp thêm vẻ đẹp quê hương nơi đây:
Cứ thâng độ đét ón bân mà
Vạn vật đều rặp nả soong mùa
Mặn tào bjoóc phông đua tềnh cáng
Vị mèng bân nả táng riếc căn
Dịch nghĩa:
Cứ mỗi độ nắng ấm xuân về
Hai mùa giao nhau trong vạn vật
Mận đào nở tung đua khoe sắc
Ong bƣớm trƣớc sau ới gọi nhau.
[48]
Bƣơn chiêng mà boóc mặn phông khao
Boóc lì cắp boóc tào rung chói
(Tháng riêng về hoa mận trắng tinh
Hoa lê cùng hoa đào sáng chói)
[15]
Tình yêu ấy còn được thể hiện qua việc trân trọng những ngọn núi, cánh
đồng, giọng hát quê hương:
Giá đảy chê đin noọng vàn ghềnh
Đin noọng đin rẩy tềng, nà quý
Hội xuân mì lai tỉ mà dồm
Tiếng lƣợn vọng lèo lồm lèo móc.
51
Dịch nghĩa:
Đừng chê quê em nhiều núi
Quê em quê rẫy bạc ruộng vàng
Ngày hội xuân nhiều nơi đến dự
Tiếng lƣợn vọng theo gió theo mây. [15]
Hay chỉ đơn giản là tự hào với cây thuốc lá của quê hương.
Quê noọng zú nam Tuấn lảo hom
Đạ hâng zá tiếng hom mọi tỉ
Lảo hƣa gần thức Mị vửa xƣa
Rèo bải chài tẩu nƣa tức trận
Tứ Cao Bằng khảu tận miền Nam
Lảo lƣơng khói rủng roàng ấc vỉ
Thâng chất hả thắng Mị là lăng
Lảo quê noọng vẫn lằng hom tỏa.
Dịch nghĩa:
Quê em ở Nam Tuấn thuốc thơm
Đã lâu rồi tiếng thơm mọi chỗ
Thuốc giúp ngƣời đánh Mĩ khi xƣa
Theo các anh vào Nam đánh trận
Từ Cao Bằng vào đến miền Nam
Khói thuốc vàng vòng vòng trƣớc ngực
Đến bẩy năm tháng Mĩ về sau.
Thuốc quê em vẫn còn thơm mãi.
[16, tr. 90]
52
Tình yêu quê hương của họ còn được thể hiện qua sự quan tâm đến quê
hương, nhìn thấy quê hương đang đổi mới từng ngày với hình ảnh chợ phiên
đông đúc nhiều hàng hóa:
Chang háng mì mọi tàng bấu thiếu
Cần pây là gần thẻo cần mà
Háng nầy háng khai tra khai nựa
Háng nầy háng lụa khai tơ
Háng nầy háng khai cƣa khai khẩu
Háng nầng háng khai lẩu khai gia
Mọi háng đều vinh hoa phú quý.
Dịch nghĩa:
Trong chợ nhiều mặt hàng không thiếu
Ngƣời đi ngƣời lại ngƣời về
Chợ này chợ bán thịt bán cá
Chợ này bán lụa bán tơ
Chợ này là chợ muối chợ gạo
Chợ này là chợ bán rƣợu bán thuốc
Mọi chợ đều vinh hoa phú quý [48]
Hay niềm vui với ánh điện thắp sáng, con đường nhựa kéo dài:
Ngày nay Nam Tuấn đổi thay rồi
Điện sáng nhƣ sao treo khắp nơi
Đƣờng cái dân sinh in nhựa bóng
Tƣơng lai phía trƣớc thật là vui. [14,tr.92]
Có thể nói, một bộ phận lời của Phong slư ở giai đoạn hiện đại đã phản
ánh một cách chân thực tâm tư, tình cảm của đồng bào dân tộc Tày trong sự
đổi mới của thời đại. Đặc biệt phản ánh được chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca
ngợi tình yêu quê hương đất nước đã như một việc làm thiết thực đóng góp
cho công cuộc bảo tồn, giữ gìn làn điệu Phong slư trong vốn dân ca của dân
tộc Tày.
53
TIỂU KẾT
Qua tìm hiểu về nội dung trong những lời thơ Phong slư chúng tôi nhận
thấy rằng người dân ở huyện Hòa An – Cao Bằng đã xây dựng cho mình một
kho tàng phong phú và đa dạng về những vần thơ tình yêu đôi lứa. Qua tìm
hiểu chúng tôi thấy được nhiều cung bậc cảm xúc tình cảm khác nhau đó là
tình yêu trong thủơ ban đầu gặp gỡ với những lời tỏ tình thiết tha chân thành
giản dị, với những khát vọng hạnh phúc lứa đôi sâu sắc, hay là nỗi buồn trong
tình yêu cách trở. Tất cả đã làm nên một làn điệu ghi sâu vào tâm trí mỗi người
dân nơi đây.
Bước sang giai đoạn hiện đại, Phong slư vẫn còn tồn tại và phản ánh các
khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên là những lời ca ngợi Đảng,
Bác Hồ và cuộc sống mới. Thể hiện tư tưởng, tình cảm mang tính thời đại của
lịch sử xã hội.
Từ đó ta nhận thấy rằng Phong slư có nội dung phong phú, đa dạng,
phản ánh được bức tranh chân thực và sinh động về tâm hồn con người trong
cuộc sống. Đặc biệt nhất vẫn là khía cạnh tình yêu đôi lứa.
Mỗi loại hình dân ca đều có những đặc điểm riêng bởi có sự khác nhau
về hoàn cảnh và môi trường sống chính điều đó đã tạo ra cái riêng cái độc đáo
của mỗi loại hình dân ca. Do vốn hiểu biết còn nhiều hạn chế cũng như thời
gian còn hạn hẹp nên trong đề tài này tôi chỉ mới tìm hiểu một cách khái quát
được vài nét tiêu biểu về nội dung trong loại hình Phong slư ở địa phương mà
chưa đi sâu vào việc so sánh với loại hình Phong slư ở các địa phương khác.
54
Chƣơng 3
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHONG SLƢ
Ở HÕA AN– CAO BẰNG
3.1. Kết cấu của Phong slƣ
Qua quá trình tìm hiểu về Phong slư chúng tôi nhận thấy ở Hòa An -
Cao Bằng nói riêng ở các địa phương khác nói chung Phong slư thường được
viết theo một cấu trúc có sẵn gồm ba phần chính:
Phần mở đầu: Thông thường phần mở đầu của một bức Phong slư
thường theo một khuôn mẫu có sẵn. Bức Phong slư được viết vào thời gian nào
thì mở đầu bài Phong slư sẽ bắt đầu từ đó. Thông thường bài Phong slư sẽ bắt
đầu bằng một mùa trong năm Phong slư viết vào mùa nào thì câu mở đầu sẽ
nhắc đến mùa đó:
Xuân thiên vằn dú buồn chứ bạn
Thêm tiếng mèng chang ngạn roọng Slƣơng.
Dịch nghĩa:
Trời xuân ngày buồn ngồi nhớ bạn
Cùng tiếng ve rừng hót gọi thƣơng
Hay
Thu Thiên vằn dú goẹng buồn lai
Căm bút chép phảng lài phác bạn
Dịch nghĩa:
Trời xuân ngày lặng buồn thêm
Cầm bút viết thƣ gửi bạn
Không chỉ bắt bầu bằng các mùa trong năm Phong slư còn có thể bắt
đầu thời gian, địa điểm bằng ngôi vua đang trị vì và ngày tháng viết thư.
Hoàng Triều nam Khải định ngụ niên
Bƣơn slam tiết thanh minh vận quả
55
Dịch nghĩa:
Triều đại năm Khải Định trrên ngôi
Tháng ba trời xuân cao quá.
Đây là trích đoạn mở đầu của một tờ Phong slư nói rõ ngày, tháng viết lá thư.
Bƣơn slam xo hả thanh minh
Voằn đay ví tín tin sai mả
Phúc đây rẫy noong á chang suôn
Noọng khả vỉ khẩu thƣờn lẩy cón
Gàm khiển khau ón ín vang đang
Dẻo mà rƣờn sim vuồn đắc dạy
Dịch nghĩa:
Mùng năm đúng dịp tiết thanh minh
Ngày lành đi sửa mộ
Qua cạnh nhà em ngỏ đôi lời
Mời anh lên nhà chơi ngoạn cảnh
Lòng bịn rịn nghe tiếng chồn chân
Đến mộ tổ lòng buồn man mác. [13]
Phần nội dung: Nội dung của bức Phong slư thường tập trung nói đến
vấn đề chủ thể muốn đề cập đến như tâm trạng rầu rĩ, nhớ thương trong tình
yêu hay hoàn cảnh, nỗi niềm người viết muốn nhắn gửi.
Gừn vằn noọng lo sƣớng phển lầng
Khảm bƣơn slí thẻo thâng bƣơn hả
Vằn pây thâng lốc chả đăm nà
Tậu nhiên ón pác tha pác nả
Chứ thâng Gằm pỉ gạ tƣơng tƣ
Dịch nghĩa:
Đêm ngày em lo lắng khôn nguôi
Qua tháng tƣ lại đến tháng năm
56
Ngày đi làm nhổ mạ cấy lúa
Tự nhiên mặt rầu rĩ âu sầu
Nhớ đến lời anh dặn tƣơng tƣ. [15]
Phần nội dung của một bức Phong slư rất đa dạng nhưng chủ yếu xoay
quanh đề tài về tình yêu đôi lứa, Phong slư thường được sử dụng để để tỏ tình,
bày tỏ tâm trạng nhớ nhung lúc đang yêu hay là nỗi đau buồn xót xa khi yêu
nhưng không thể đến được với nhau.
Viảc căn nẳm tha lác nhƣ phân
Viảc căn bấu chắc voằn hội ngộ
Khoăn vỉ chắp bƣởng nả nộng mừa
Khoăn nọong chắp vạng soa rỏe vỉ
Kin khẩu là đặt thú soong tôi
Riểc khoăn căn kin hôi đuổi nợ
Chủ mì nghĩa táng xa sƣơng lai
Vỉac sổng bặng vỉac thai nhạn ới
Dịch nghĩa:
Chia tay nhau nƣớc mắt nhƣ mƣa
Chia tay biết bao giờ hội ngộ
Hồn anh đậu trên chán em về
Hồn em đi theo anh sát gót
Ăn cơm đũa phải đặt hai đôi
Cụng gọi nhau ăn hội với nhé
Chia tay với bạn nghĩa đƣờng xa
Tạm biệt còn xót xa hơn chết. [15]
Bên cạnh đề cập đến tình yêu lứa đôi Phong slư còn mang nội dung
thông báo, trao đổi thông tin như mời cưới hay là lời nhắn gửi dặn dò.
Bƣơn síp hoằn xo pét lƣơng thằn
Thừa vỏ mẻ chọn đảy hoằn hoằn thú
Xỉnh thâng bạn voằn đú sƣơng lƣờng
Chứ căn hạy mà giƣờng tha nả.
57
Dịch nghĩa:
Tháng mƣời ngày mồng tám ngày lành
Theo bố mẹ chọn đƣợc ngày làm lễ cƣới
Mời đến bạn ngày cũ thiết thƣơng
Nhớ nhau cố về cho có mặt
Cùng nâng chén nƣớc lã cũng đành. [13]
Phần kết thúc: Kết thúc một bài Phong slư thường là lời khẳng định tình yêu
của mình, đồng thời qua đó muốn nhắn gửi tâm trạng cuối cùng tới người nhận.
Công én vƣợt tàng khó cố pây
Thƣ vỉ mì mòn lăng sai trái
Toọc dá cũng dá khảu phầy
Hảy nếp Sle hẩu đây hẩu kỉ
Dịch nghĩa
Công én vƣợt đƣờng khó cố đi
Thƣ anh có điều gì sai trái
Đọc xong cũng đừng ném vào lửa
Hãy cất đi cho đẹp cho kĩ. [13]
Với Phong slư hai bên trai gái cứ trao đổi thư qua lại đến khi tình cảm
mặn nồng, đến khi tiến tới hôn nhân thì những bức thư ấy mới dừng lại. Cũng
có khi trai gái Tày không đến được với nhau do gia đình, xã hội ngăn cản thì
bức Phong Slư cuối cùng là bức Phong slư giãi bày nỗi lòng đau xót khi phải
chia tay nhau.
Tuy nhiên, cùng với thời gian Phong slư cũng có sự vận động và biến
đổi mạnh mẽ. Nếu một bức Phong slư cổ có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ thì trong
kết cấu của Phong slư hiện đại đã có sự cách tân đáng kể, nó chỉ còn lại phần
nội dung mà Phong slư muốn đề cập đến như tình yêu quê hương đất nước, ca
ngợi Đảng, Bác hồ, ca ngợi cuộc sống quê hương giàu đẹp hay những này lễ
lớn của dân tộc.
58
3.2. Thể thơ thất ngôn trƣờng thiên.
Thể thơ thất ngôn trường thiên là thể thơ được dùng chủ yếu trong sáng
tác Phong slư. Thể thơ này còn được gọi là thể thơ "Thất thất lưu thủy" với
mỗi câu thơ có bảy âm tiết và sử dụng vần lưng, tiếng thứ bảy của câu trên
hiệp vần với tiếng thứ năm của câu dưới và cứ kéo dài như thế cho đến khi kết
thúc. Các câu thơ trong một bài cứ đều đặn lặp đi lặp lại với số lượng không
hạn định giống như dòng chảy của nước kéo dài vô tận nên thể thơ này còn
được gọi tắt là thể thơ "lưu thủy". Việc sử dụng thể loại này trong Phong slư đã
tạo nên sự linh hoạt trong việc kể, diễn tả, bộc lộ được tâm trạng nhân vật.
Đặc biệt trong thể thơ này mang nét đặc sắc trong việc sử dụng thanh
điệu. Thanh điệu của tiếng thứ 7 ở câu trên phải cùng thanh điệu với tiếng thứ
5 và trái thanh điệu với tiếng thứ 7 ở câu dưới, chính điều này đã tạo nên sự
ngắt nhịp ở tiếng thứ 5 tạo nên âm hưởng đặc biệt trong làn điệu Phong slư,
tuy nhiên cũng có khi một từ được đặt vào vị trí bắt buộc nhưng thanh điệu
hoặc vần lại không phù hợp theo nguyên tắc có sẵn.
Ví dụ trong đoạn thơ sau thanh điệu cuối các câu phù hợp với nguyên
tắc tiếng thứ 7 của câu đầu là thanh trắc, câu tiếp là thanh bằng, câu ba là thanh
trắc, câu bốn là thanh bằng và các thanh điệu cứ có sự sắp xếp như vậy cho đến
khi kết thúc bài thơ.
Xây kết đuổi bạn mải bấu tả (T)
Nghịa soong rà đạ gạ nhất tâm (B)
Vỉ bấu phuối gằm lồm quá kéo (T)
Luồm quá kéo nhằng tẻo vặt mà (B)
Soong rà nghĩa giao ca khôn tả (T)
Đan thân hác dú buồn bả tơ lƣơng (B)
Lùm thuổn tằng tu rƣờn bấu lị (T)
59
Dịch nghĩa:
Sĩ đà kết nghĩa bạn mai
Nhất tâm đã nói một lòng mang theo
Lời không nhƣ gió qua đèo
Gió còn có lúc vòng vèo quay sang
Hai ta định kết cao sang
Một mình buồn bã nhớ thƣơng một mình
Bỏ quên cả việc gia đình [15]
Bên cạnh đó một bài Phong slư thường có cấu trúc hiệp vần và thanh
đồng nhất, cấu trúc đó được lặp đi lặp lại trong cả bài thơ. Đáng chú ý là vị trí
thứ 5 và thứ 7 của một câu thường trái thanh điệu. Thanh điệu của tiếng thứ 7
ở câu trên cùng thanh với tiếng thứ 5 ở câu dưới và có vần lưng giống nhau,
chính nhờ cách tổ chức về vần và thanh điệu như vậy mà các câu thơ trong
Phong slư cứ nối tiếp nhau tạo thành một dòng chảy vô tận, tạo nên nhịp điệu
cho mỗi câu thơ và cả đoạn thơ khiến cho Phong slư trở nên dễ nhớ.
Sƣ mình rừ chắc tảy tới già
Mì sƣơng vỉ tả mà hất rẩy
Rƣờn ỉ mà tấy rƣờn luông
Tân noọng tồng vặc nuông khoen rúy
Thân vỉ bằng kim quý chang suôn
Kim quý mì cần vuồn au vẻ
Tả sle nhả phắt ké thai mươi
Dịch nghĩa:
Số phận này làm sao biết trƣớc đƣợc
Có thƣơng anh hãy bỏ rẫy
Nhà nhỏ về với nhà lớn
Thân em nhƣ quả bầu trên giàn
Thân anh nhƣ hoa quý trong vƣờn
Hoa quý còn có ngƣời chăm lấy giống
Còn bầu chỉ để phơi sƣơng giá. [13]
60
Nhìn chung cách gieo vần và cách sử dụng thanh điệu trong Phong slư
giống với cấu trúc của một số thể thơ trong các loại dân ca khác như: Then,
Lượn slương, Lượn cọi, Lượn nàng hai, hát quan lang...
Bên cạnh đó cách ngắt nhịp trong Phong slư thông thường là 1/2/2/2.
Tuy nhiên đây không phải là một quy tắc bắt buộc trong cách ngắt nhịp mà có
thể linh hoạt, biến đổi các nhịp như 3/4; 2/3/2; 3/2/2... ví dụ như cách ngắt nhịp
trong đoạn thơ sau:
Vửa đú / khả thành thân / chi mỵ
Vỉ / nhất tâm / noọng đảy / reo mừa
Rừ chắc / nội hàn / có đuổi noọng
Vửa đú / phuối thuổn toọng / cón lăng
Do / vỉ pây thỉnh / gằm thiên hạ
Chốn cao sang / noọng đã bấu mì
Nà chang / vỉ hồ nghi / hẩu noọng
Dá phuối gằm / chếp toọng hẩu mài.
Dịch nghĩa:
Ngày trƣớc nói kết thân mãi mãi
Anh một lòng em đã đƣợc theo
Làm sao biết tâm trạng của em
Ngày trƣớc nói hết lòng trƣớc sau
Do anh đi nghe lời thiên hạ
Chốn cao sang em không hề có
Mà sao anh nỡ nghi ngờ em
Để nói lời đau lòng với em [48]
Thể thơ thất ngôn trường thiên có tính chất miêu tả, giãi bày tâm trạng
làm cho những lời ngâm Phong slư trở nên sâu sắc và dễ làm cho người nghe
hiểu được nỗi buồn của nhân vật trữ tình:
61
Xuân thiên bjóoc phông tốc đuổi lồm
Bách thức mèng đông pá thảm thƣơng
Xuân pây bjoóc phông tốc tả tàng
Mật mèng dú đâu pá táng bấu roọng
Bjoóc theo xuân tẻ táng lởi lòng
Đát mà toọng hiền thân buồn thấu
Tƣơng tƣ bấu tƣơn khẩu pjầu ngài
Nghị mà hác buồn lai đuổi thởi
Dịch nghĩa:
Trời xuân hoa rơi theo gió
Tiếng ve kêu trong rừng thảm thiết
Xuân đi hoa nở rơi đầy dƣờng
Ong bƣớm đâu hết không gọi
Hoa theo xuân đi cho ta buồn lòng
Trong lòng nỗi buồn không thấu
Tƣơng tƣ không nhớ cơm sáng tối
Nghĩ lại tự buồn hết đời này [15]
Có thể khẳng định rằng, với thể thơ thất ngôn, người Tày đã tạo cho
mình một nét riêng trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca của dân tộc. Thể thơ này
vừa có thể dung nạp được ngôn ngữ đời thường, mộc mạc, dung dị, chân thực,
vừa có thể diễn tả được mọi tư tưởng, tình cảm với nhiều cung bậc tâm trạng
khác nhau bằng hình ảnh, nhạc điệu của cuộc sống. Việc sử dụng thể thơ này
như một mạch nguồn cảm xúc cứ nối tiếp nhau như một dòng chảy nhằm thể
hiện rõ hơn mạch nguồn cảm xúc trong tình yêu đôi lứa.
3.3. Ngôn ngữ lời thơ Phong Slƣ
Ngôn ngữ là yếu tố giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống cũng như
trong văn học. Vì vậy khi nghiên cứu văn học nói chung và văn học dân gian
nói riêng ta cần đi sâu tìm hiểu ngôn ngữ để thấy được những nét tinh tế, đặc
sắc đã được các nghệ nhân dân gian gửi gắm trong đó.
62
3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh
Đồng bào người Tày với lối sống mộc mạc gắn bó với thiên nhiên nên tư
duy ngôn ngữ của họ cũng mang tính mộc mạc, giản dị như chính tâm hồn họ.
Nhìn chung cách diễn đạt của người Tày thường mang tính cụ thể, giàu hình
ảnh, giàu chất thơ của thiên nhiên núi rừng. Tính chất dân gian của các hình
tượng trong lời thơ Phong slư không phải mang tính dân gian nói chung mà nó
mang tính đặc trưng của vùng dân tộc miền núi. Có thể nhận thấy hình ảnh
thiên nhiên, cuộc sống lao động thường ngày đầy ắp trong những vần thơ
Phong slư:
Noọng rầu mà phát rẩy phìa nhả
Vỉ nhằng tả rẩy nà pác vẻ
Bát bai mì kỉ nghé mằn phƣớc
Bát cuốc mì kỉ ăn phƣớc bủng
Gần rầu từng hăn đảy vận nẩy
Hất rừ mà tả rẩy hất nà.
Dịch nghĩa:
Em nào về phát rẫy cỏ
Anh còn bỏ thửa ruộng trăm giống
Nhát bƣớm cuốc mấy củ sắn
Nhát cuốc có mấy củ lang
Đã có ai thấy thế này
Làm sao bỏ đƣợc nƣơng làm ruộng [45, tr.157]
Bằng những hình ảnh dung dị, đời thường: ruộng rẫy, khoai sọ, khoai
lang cho người đọc thấy khung cảnh làm việc vui nhộn, sinh động của đồng
bào dân tộc Tày. Trong Phong slư nói riêng và trong tất cả những làn điệu dân
ca khác nói chung thường sử dụng các hình ảnh ví von gần gũi với cuộc sống
thường ngày như: Hình ảnh hoa, hình ảnh én nhạn...
63
* Hình ảnh hoa:
Nói đến hoa là nói đến cái đẹp, hoa là biểu trưng cho vẻ đẹp của con
người, đặc biệt là người phụ nữ. Từ cuộc sống hoa đi vào văn học với những
biểu trưng thẩm mĩ, tín ngưỡng và triết lí. Hình ảnh biểu tượng hoa trong văn
học dân gian thường là sự hiện thân cho những giá trị thiêng liêng cao đẹp của
người con gái. Trong ca dao dân ca của dân tộc Kinh hình ảnh hoa được thể
hiện là nét đẹp cao sang của người con gái:
Thân em nhƣ cánh hoa sen
Chúng anh nhƣ bèo, nhƣ bọt chẳng chen đƣợc vào.
[36, tr.162]
Nếu biểu tượng hoa sen như một nét đặc trưng của người con gái dân
tộc Kinh thì đến với cao dao dân ca miền núi hình ảnh hoa cũng được thể
hiện đặc sắc mang nét đặc trưng riêng. Theo quan niệm dân gian của người
Tày hoa có ở mọi nơi, có hoa ở mường trời, có hoa ở mường người, đặc biệt
là loại hoa tiên rực rỡ, hoa "Phặc Phiền" một loài hoa đẹp chỉ sống ở nơi vách
đá cao, loài hoa này trở thành biểu tượng đẹp và hay được nhắc đến trong văn
học dân gian Tày:
Thân noọng nhƣ fặc fiền đang nở
Vỉ hác điếp vật vở duổi lồm
Điếp bạn pây bấu thâng hăn nả
Queng quỷ roọng ngản lạ tiểng thƣơng
Dịch nghĩa:
Thân em nhƣ hoa fặc fiền đang nở
Nỗi nhớ thƣơng anh gửi theo gió
Thƣơng em nhƣng đến không thấy mặt
Chỉ nghe tiếng chim queng quý gọi thƣơng.[13]
64
Bên cạnh hình ảnh loài hoa tiên đẹp ấy, còn có những loài hoa bình dị, gần
gũi trong cuộc sống của đồng bào Tày, đó là những hoa đào, hoa lê, hoa mận..
Boóc vải phông cáng vạc nâu khao
Boóc tào phông cáng tào mận đáo
Bân đin tắt slao báo vui lai
Dịch nghĩa:
Hoa vải rực rỡ màu nâu trắng
Hoa đào hoa mận nở xen lẫn
Đất trời vui với gái trai [15]
* Hình ảnh chim
Người Tày sống giữa thiên nhiên với "hàng trăm thứ chim" với ngàn
giọng hót, hình ảnh những chim và giọng hót ấy đã im đậm trong tâm trí của
họ. Hình ảnh những chú chim đã đi vào trong ca dao dân ca Tày như một hình
ảnh biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, khát vọng tuổi trẻ.
Trong văn học cổ của người Tày hình ảnh én nhạn tượng trưng cho tình
yêu đôi lứa. Chính vì thế hình ảnh én nhạn trong Phong slư đã được nhân hóa
để mang những nỗi niềm tâm trạng gửi gắm đến người thương:
Én hỡi mà cung các vỉ vàn
Nhờ én pác thƣ mừa thâng nhị
Nhắn khả noọng định tỉ bấu thƣơng.
Dịch nghĩa:
Én hỡi về đến đây anh nhờ
Nhờ én gửi thƣ đến cho em
Nhớ nói dẫu thế nào vẫn thƣơng [48]
Bên cạnh hình ảnh én nhạn trong Phong slư còn có các hình ảnh loan –
phượng; công – phượng hoàng; bướm – hoa... còn là những hình ảnh quen
thuộc được các tác giả dân gian sử dụng để miêu tả tình yêu.
65
Boóc tàn mèng nhằng tổ co tầu
Vỉ pjạc noọng kết hầu đảy điếp
(Hoa tàn ong biết đâu mà đậu
Anh xa em biết yêu ai) [48]
3.3.2. Lời thơ Phong slư là sự kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ
bác học
Phong slư là sản phẩm của nhân dân lao động trong cuộc sống thường
ngày. Với nhu cầu giao lưu trao đổi tình cảm Phong slư ra đời như một chiếc
cầu nối giúp trai gái Tày có thể diễn tả được tâm tư, tình cảm của mình.Trong
xã hội xưa khi trình độ văn hóa của người dân còn thấp số người biết chữ
không nhiều nên khi muốn gửi một bức thư cho người mình yêu thì các chàng
trai cô gái Tày thường phải nhờ đến những "slấy sli" người tri thức bình dân
viết hộ. Những người trí thức bình dân này họ sống gần gũi với nhân dân, trân
trọng sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động, chính họ đã đồng sáng tạo,
sáng tác ra Phong slư. Có thể nói những người sáng tác ra Phong slư là những
người thợ sáng tác thơ. Bởi những nhà thơ này đã vận dụng những câu dân ca
có sẵn trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, họ chọn lọc những câu hay nhất, cải
biên đi chút ít rồi lắp ghép nó lại, chỉnh sửa sao cho gần với tâm trạng cảnh
ngộ khung cảnh địa phương... của từng người cụ thể. Vì vậy ngôn ngữ được
thể hiện trong Phong slư vừa mang tính nôm na trong cuộc sống giao tiếp
thường ngày vừa có tính uyên bác của người có tri thức. Điều đó đã tạo cho
ngôn ngữ Phong slư vừa mang tính bình dân, vừa mang tính bác học rõ nét.
Ngôn ngữ bình dân là lớp ngôn ngữ có khả năng tái hiện đời sống một
cách trực tiếp nhất, nó gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao
động.
Qua tìm hiểu lời thơ Phong slư chúng tôi nhận thấy có rất nhiều câu nói
trong cuộc sống hàng ngày, những lời nói nôm na tự nhiên đời thường. Chính
điều này đã tạo cho nội dung Phong slư trở nên gần gũi, thân thuộc với nhân
dân lao động.
66
- Rối bân! hất lăng sle thảm thiết
Dịch nghĩa
Trời ơi! sao lại thảm thiết vậy
Hay cách nói gần gũi trong cuộc sống lao động sản xuất thường ngày:
- Thây rẩy bấu mì mò bai bác
Bấu hử vỉ thai giác là thôi
Dịch nghĩa:
Làm rẫy không có bò dùng cuốc
Không để anh bị đói là thôi
- Cừn vằn cũng bấu sƣởng oóc tu
Giá tỷ giá pây từ cuốn giẳng
Dịch nghĩa:
Sáng tối cũng không muốn ra cửa
Đi lại ngồi xuống cũng không yên. [15]
Và những câu ca dao trong cuộc sống thường ngày của người đồng bào
Tày được các "nhà thơ" cải biên và đưa vào Phong slư một cách tinh tế. Dưới
đây là một đoạn Phong slư diễn tả tâm trạng lo lắng của cô gái trước tình yêu
xa cách:
Lo quân tử lại mỏng chốn cao sang
Cảng chốn càng thanh tao lịch sự
Thân noọng tẻ ngôn ngự tàng lăng
Chim chích bạn chim công rừ đảy
Chim công là mì bạn chim công
Nghị mà buồn đâng thân xam xiết
Dịch nghĩa:
Lo chàng tham cao sang mà bỏ
Ngƣời trên đời càng chỗ càng xinh
Thân em còn sánh bằng ai nữa
67
Chim chích thấy xấu hổ bạn công
Chim công thì bạn công mới xứng
Càng nghĩ càng thấy bận trong lòng [48]
Qua một số thống kê, chúng tôi nhận thấy cao dao dân ca Tày được sử
dụng nhuần nhuyễn, hài hòa trong Phong slư. Qua những câu thơ chứa đựng
những câu ca dao, tục ngữ người nghe thấy được cái hay, cái đẹp trong chiều
sâu của tâm hồn người Tày từ xa xưa. Cái hay, cái đẹp hàng ngàn năm đó giờ
đây hòa vào Phong slư trở thành bất biến và bền vững hơn bao giờ hết.
Ta có thể thấy Phong slư của dân tộc Tày đã sử dụng một cách triệt để
vốn ngôn ngữ dân tộc đã được đúc kết thành những câu ca dao, tục ngữ hay
những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, chính điều đó cho chúng ta
thấy được mối liên hệ giữa thể loại Phong slư và ca dao dân ca.
Mặt khác, ngôn ngữ trong Phong slư có tính bác học, ngôn ngữ bác học
là ngôn ngữ có tính chất cổ điển, với cách sử dụng từ ngữ trau chuốt, điêu luyện.
Trong Phong slư các tác giả dân gian đã sử dụng nhiều điển tích, sử dụng các từ
Hán – Việt nên Phong slư thể hiện tính bác học sâu sắc. Có thể thấy các điển
tích điển cố xuất hiện trong Phong slư rất nhiều như các tích như: Tích Ngưu
Lang – Chức Nữ, Thục Đế - Hằng Nga, Lưu Đài – Hán Xuân... các tích này đã
được đưa vào Phong slư như một hình ảnh quen thuộc để nói về khát vọng tình
yêu đôi lứa, dẫu bao khó khăn vất vả nhưng nhất định sẽ chờ nhau:
Ỷ nhƣ tuyện Ngƣu Lang, Chức Nự
Ngƣu Lang lạc mừa xử Hà Đông
Chức Nữ nhằng chứ thâng mọi thỏi
Cừn vằn noọng puồn đuổi vỉ quan
Nguyệt lão xe hồng nhan ớn bái
Dịch nghĩa:
Giống nhƣ truyện Ngƣu Lang, Chức Nữ
Ngƣu Lang lạc đến xứ Hà Đông
68
Chức Nữ vẫn còn mong ngóng đợi
Đêm ngày em nhớ tới chàng
Mong ông tơ xe luôn ơn nghĩa. [48]
Bên cạnh việc sử dụng những điển tích, điển cố để nói lên khát vọng tình
yêu của những chàng trai cô gái Tày, trong Phong slư còn sử dụng dày đặc
những từ ngữ Hán Việt đã được các nghệ nhân dân gian vận dụng một cách tài
tình khéo léo làm cho lời thơ trở nên trang trọng hơn. Ngay mở dầu bài Phong
slư ta đã bắt gặp các từ Hán – Việt xuất hiện với tần số cao.
Xuân thiên Bjoóc phung ón đuổi lồm
Bách thức mèng sơn lâm than vọng
Hua xuân bjoóc phông ón tả lẳm
Mật mèng dú sơn lâm bấu roọng
Bjoóc theo xuân tẻ táng tởi lòng
Đát mà toọng liền thân puồn thấu
Tƣơng tƣ bấu tƣơn khẩu pjầu ngài
Nghị mà hác buồn lai đuổi thởi.
Dịch nghĩa:
Ngày xuân hoa phất phơ trƣớc gió
Ve kêu trong núi vang vọng
Hoa xuân nở trên cành non tơ
Côn trùng đâu nỡ bỏ hoa rừng
Hoa theo cùng mùa xuân tự rũa
Xót lòng ngƣời buồn bã tấm thân
Tƣơng tƣ bỏ cả ăn sớm tối
Nghĩ mà tự buồn suốt cuộc đời. [15]
Và ngôn ngữ trau chuốt điêu luyện, thể hiện nét tài hoa của những nghệ
nhân sáng tác:
69
Co đeo bấu pền phà đông luông
Cần đeo bấu pền rƣờn bản cải
Dú ọa căn mại mại giẳng vần
Dịch nghĩa:
Một cây không làm nên rừng lớn
Một ngƣời không làm thành một nhà
Ở với nhau mãi mãi mới nên. [13]
Tỉ lệ điển tích, những từ Hán Việt, lời thơ điêu luyện xuất hiện nhiều
trong Phong slư với những câu thơ sâu sắc, thâm thúy nhưng vẫn dễ hiểu, gần
gũi như hơi thở, tâm hồn thuần khiết của người Tày. Những yếu tố trên được
sử dụng khá nhiều trong Phong slư khiến ngôn ngữ trong Phong slư vừa giản
dị, vừa tao nhã, mộc mạc mà sâu sắc. Đó chính là lời văn của một loại hình văn
học dân gian đang trên con đường tiếp cận với văn học viết.
Về phương diện ngôn ngữ, Phong slư đã vượt qua giai đoạn ứng tác của
ca dao dân ca mà đã được các nghệ sĩ dân gian ghi chép thành văn, chính vì
vậy mà bên cạnh ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của
nhân dân, các tác giả dân gian đã có công trau chuốt lời văn, dùng những điển
tích để biểu đạt được ý tứ sâu sắc hơn ý tưởng của tác giả, tạo nên chiều sâu
cho câu thơ, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn. Qua đó người nhận Phong slư hiểu
được sâu sắc hơn tình cảm của người nhắn gửi. Có thể nói ngôn ngữ trong
Phong slư là một đề tài rất thú vị, có thể khai thác và tìm hiểu dưới nhiều
phương diện khác nhau. Tuy nhiên do điều kiện khách quan mà người viết
chưa thể đi sâu nghiên cứu vấn đề này một cách cụ thể và rõ ràng nhất.
3.4. Nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ
Phong slư hấp dẫn người nghe không chỉ bởi âm thanh trầm bổng,
ngâm nga qua cách ngâm, cách đọc mà nó còn hấp dẫn bởi nét nghệ thuật độc
đáo trong ngôn ngữ lời thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học
và ngôn ngữ cuộc sống giao tiếp hàng ngày đã làm cho Phong slư trở nên độc
đáo hơn.
70
Để sáng tạo nên những vần thơ độc đáo giàu tính bác học như vậy, trong
quá trình sáng tác, tác giả dân gian đã biết cách vận dụng khéo léo những biện
pháp tu từ để biểu hiện. Qua việc khảo sát ngôn ngữ Phong slư chúng tôi nhận
thấy rõ việc sử dụng biện pháp tu từ có tần số khá lớn và đem lại hiệu quả
thẩm mĩ cao.
3.4.1. Biện pháp tu từ so sánh
Theo giáo sư Đinh Trọng Lạc "So sánh là một biện pháp tu từ ngữ
nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế
khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống
nhau nào đó nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối
tượng"[28,tr. 154]
Trong lời thơ Phong slư, so sánh là thủ pháp nghệ thuật quan trọng tạo
nên những giá trị thẩm mĩ đặc sắc, với những cách so sánh phong phú đa dạng.
Cấu trúc so sánh trong Phong slư cũng mang những nét chung của ca
dao dân ca người Việt. Nếu trong ca dao dân ca người Việt "Thân em" trở
thành một mô típ quen thuộc để nói lên số phận hẩm hiu, không có quyền
quyết định số phận của người phụ nữ thì trong Phong slư cũng vậy, hình ảnh
“Thân Noọng” cũng phản ánh số phận hẩm hiu của người phụ nữ, “Thân
noọng” chỉ được ví như bông hoa cỏ may giữa đồng:
Thân noọng nhƣ nhả hán chang nà
Nhả hán bấu thác tha vài nhẳm
Nhả nhọn dú tốc tằm vài chê
Thân vỉ nhƣ co sle slíp pẻng
Thân noọng nhƣ nỏ rẻng tầu già
Nỏ rẻng là vận xƣa tẳng thởi.
Dịch nghĩa:
Thân em nhƣ cỏ ngứa ngoài ruộng
Cỏ ngứa trâu không ăn chỉ đạp đổ
71
Cỏ ngứa thấp trâu thấy trâu chê
Thân anh nhƣ cây cao quá
Thân em nhƣ hạt bụi xa chân
Hạt bụi bay mãi ngàn đời. [15]
Người con gái tự so sánh mình như quả bầu, quả bí trên giàn chỉ để phơi
gió, phơi sương mà thôi:
Thân noọng tồng vặc mong khoen ri
Thân vỉ bặng kim quý chang suôn
Kim quý mì cần vuồn au vẻ
Tả sle nhả phắt ké thai mƣơi
Dịch nghĩa:
Thân em giống hoa dại bên bờ rào
Thân anh giống hoa quý trong vƣờn
Hoa quý còn vun lấy giống
Hoa dại chỉ phơi sƣơng phơi gió. [13]
Trong Phong slư ta cũng bắt gặp lối so sánh ví von đối lập qua lời thư
gửi từ chàng trai cô gái tự ví thân mình tầm thường như " nộc chích", làm sao
xứng với được "nộc công" đẹp đẽ.
Chim chích bạn chim công rừ đảy
Chim công là mì bạn chim công
Dịch nghĩa:
Chim chích bạn chim công sao đƣợc
Chim công có bạn chim công [15]
Hay cô gái chỉ coi mình là "Cáy đông" làm sao có thể xứng với "phượng
hoàng" kia
Cáy đông rừ cảm bạn phƣợng hoàng
Thiếu răng bjoóc mậu đàn vỉ sặp
72
Dịch nghĩa:
Gà rừng sao sánh với bạn công
Thiếu gì hoa mẫu đơn anh gặp [13]
Bên cạnh đó ta còn gặp sự so sánh nỗi nhớ trong tình yêu của nhân vật
trữ tình như việc mong nhớ ánh trăng rằm mười năm:
Chứ vỉ tồng chứ hai slíp hả
Chứ vỉ mà hăn nả khào bang
Cổm thua lồng giƣờng chang là dú
Lọi mọi tồng tôi thú thiểu kha.
Dịch nghĩa:
Nhớ anh nhƣ nhớ trăng giữa tháng
Nhớ anh về thấy mặt làm sao
Cúi mặt xuống giữa giƣờng
Trơ trọi nhƣ chiếc đũa thiếu đôi. [15]
Hay nỗi nhớ ấy đơn giản chỉ được so sánh bằng nhớ làn gió mát trong
ngày hè oi bức:
Chứ vỉ bằng chứ goát bƣơn on
Tả goát hết rừ nòn đắc đảy
(Nhớ anh nhƣ nhớ gió mát ngày nóng
Không gió làm sao ngủ ngon đƣợc) [15]
Rất nhiều hình ảnh so sánh được hiện lên trong lời thơ Phong slư, dù là
chim, là trăng, là cây... tất cả đều được đặt trong sự đối lập, chính sự so sánh này đã
phản ánh được những sắc thái tình cảm, tâm trạng của các cô gái, chàng trai Tày đa
dạng, phong phú mà chân thực gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thường.
3.4.2. Biện pháp tu từ điệp ngữ.
Điệp ngữ (còn gọi là lặp): là sự lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm
mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm
xúc trong lòng người đọc, người nghe." [28, tr.93]
73
Nghệ thuật điệp được sử dụng rất nhiều trong ca dao dân ca trữ tình nói
chung và trong Phong slư của người Tày nói riêng. Trong lời thơ Phong slư
nghệ thuật này được thể hiện khá rõ nét và có vai trò quan trọng trong việc thể
hiện nội dung một bức Phong slư. Trong đoạn lời nhắn gửi của chàng trai tới
cô gái những từ "Khoăn", "Sloong khoăn", "Pjạc" được lặp đi lặp lại thể hiện
sự cách trở trong tình yêu càng rõ nét hơn:
Từ nẩy sloong khoăn rà pít pjạc
Khoăn noọng pây định các rƣờng chƣơng
Khoăn vỉ pjạc mừa rƣờn đuổi vỉ
Sloong khoăn pjạc cần tỉ mên thƣơng
Sloong khoăn pjạc rƣờn chƣơng đuổi chủa
Sloong khoăn táng tách rẻo mình khoăn.
Dịch nghĩa:
Từ nay hai hồn chia tay
Hồn em theo em về bản
Hồn anh về nhà với anh
Hai hồn chia tay nhau mến thƣơng
Hai hồn chia tay nhau chốn cũ
Hai hồn tự tách biệt khỏi nhau.[48]
Những từ "Khoăn" (hồn), "Pjạc"(chia tay) cứ lặp đi lặp lại trong lời thơ
của những lời chia tay, chứa đựng nỗi buồn thương sâu sắc khi phải xa nhau.
Lối trùng điệp một cách dày đặc như vậy như thể trở thành một phương tiện
hiệu quả nhất trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình. Sự lặp lại như
vậy có tác dụng nhấn mạnh ý, gây ấn tượng sâu sắc và làm tăng sắc thái diễn
đạt của người viết.
Sloong bƣởng rầu lảm khoăn tẻ pjạc
Khoăn bạn pjạc định rƣờn chƣơng
Khoăn vỉ pjạc mừa rƣờn đuổi mẻ
Là chắc khoăn noọng mừa hôn nhân
74
Tem mjẩu khẩu tởi gần sloong ám
khoăn vỉ cáp khoăn bạn nẳng lồng
Sloong khoăn lìn sắc phông khỏi Pjạc
Cất tiểng rầu sắng pác đuổi căn
Dịch nghĩa:
Hai bên buồn làm hồn chia cắt
Hồn bạn chia tay về nhà cũ
Hồn anh chia tay về với mẹ
Xin lìa hồn em ngƣời cũ
Tiêm trầu vào cơi hai miếng
Hồn anh và hồn em ngồi lại
Ăn miếng trầu rồi hãy chia tay
Cất tiếng chào nhau rồi bƣớc.[48]
Qua việc tìm hiểu có thể thấy điệp từ xuất hiện nhiều trong Phong slư.
như đoạn thơ nói về sự xa nhau trong tình yêu cách trở của của chàng trai và
cô gái, từ "Pjạc căn", "lìa căn" được lặp đi lặp lại như một sự nhấn mạnh tình
yêu cách trở:
Pjạc căn mẻn mủa lệnh soong mà
Lìa căn nƣớc lục va chắng tắm
Pjạc căn ná mon khắm dƣờng loàn
Pít xe bấu khoăn dàn rào nả
Nẩu cằm nghị bạn khỏa cỏi thƣơng
Lìa căn ná tủi hƣơng mầu khóa
Pjạc nghịa bản khỏa sloong rà
Từ này rầu pây mà tơ hống
Pjạc căn ná đạo rủng sloong khoăn.
Dịch nghĩa:
Xa nhau nhƣ ngày hạn hán
Xa nhau lúc vải hoa vừa dệt
Xa nhau chẳng gối xếp giƣờng hoa
75
Thiếu cả chiếc khăn rửa mặt
Xa nhau không có túi quả thơm
Xa đi tình bạn của hai ta
Từ nay ta phải xa tơ hồng
Xa nhau làm hồn ta hãi hùng. [13]
Có thể thấy được rằng, thủ pháp nghệ thuật trùng điệp đã tạo nên tính
nhịp điệu cho những khúc ngâm. Nó tạo ra những điệp khúc với những âm
thanh du dương trầm trầm, bổng bổng, lắng đọng dàn trải mênh mông để diễn
tả phong phú đa dạng các cung bậc tình cảm khác nhau, làm cho những vần
thơ Phong slư có sức sống bền bỉ, mãnh liệt trong tâm hồn những người yêu
thơ văn dân tộc.
3.5. Không gian và thời gian nghệ thuật trong Phong slƣ
Không gian, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ
dùng để biểu hiện tâm tư tình cảm của con nguời. Không gian, thời gian nghệ
thuật chính là sự mô phỏng một phần không gian, thời gian trong thế giới thực
tại. Tìm hiểu không gian, thời gian trong Phong slư sẽ giúp chúng ta thấy được
một phần suy nghĩ, tâm hồn của đồng bào Tày đồng thời qua đó thấy được
những giá trị nghệ thuật đặc sắc qua những lời thơ bình dị, giản đơn ấy. Đúng
như nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Xuân Kính đã nhận xét: "Thời gian và
không gian nghệ thuật là những mặt của hiện tượng khách quan được phản ánh
trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật trong tác phẩm" [24,tr.287].
3.5.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuât là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,
không có hình tượng nghệ thuật nào có thể tồn tại ngoài không gian. Mỗi
không gian nghệ thuật đều có những nét đặc trưng riêng và mang tính chủ quan
của người sáng tác. Người ta có thể chia không gian thành nhiều dạng khác
nhau như: Không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian thiên nhiên,
không gian sinh hoạt, không gian địa lý, không gian tâm tưởng....
76
Không gian nghệ thuật trong Phong slư cũng rất đa dạng và phong phú,
không gian ấy là không gian bao la của vũ trụ, không gian của sinh hoạt đời
thường hay không gian thiên nhiên đa sắc màu phản ánh tâm trạng của con
người trong cuộc sống.
3.5.1.1. Không gian thiên nhiên
Cuộc sống của đồng bào dân tộc Tày gắn liền với thiên nhiên với không
gian của cảnh vật bờ suối, con đường, núi đồi rộng lớn đến không gian của sự
sống tự nhiên như ong bướm, chim, hoa. Không gian đa dạng và phong phú ấy
trở thành đối tượng để con người bộc lộ tâm trạng của mình trong những bài
thơ Phong slư.
Không gian thiên nhiên trong Phong slư thường được miêu tả bằng
những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc gần gũi, đó là những hình ảnh hoa nở
khi trời vào xuân với dập dìu những đàn bướm, đàn ong.
Xuân thiên bjoóc phông ón đuổi lồm
Bách thức mèng sơn lâm than vọng
Xuân pây bjoóc phông ón tả lẳm
Mật mèng dú sơn lâm bấu roọng
Dịch nghĩa:
Ngày xuân hoa phất phơ trƣớc gió
Côn trùng kêu vật vờ rừng xanh
Hoa xuân nở trên cành non nhị
Côn trùng đâu nỡ bỏ hoa rừng. [15]
Phong slư mang trong mình vẻ đẹp đặc sắc của thiên nhiên núi rừng, vẻ
đẹp thiên nhiên ấy hiện lên với đủ đường nét màu sắc chân thật như nó vốn có.
Song đằng sau việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên ấy thường là nơi gửi gắm,
chứa đựng tâm trạng của con người, đặc biệt là tình cảm lứa đôi. Trong Phong
slư tình yêu, nỗi nhớ, nỗi buồn được những chàng trai cô gái Tày gửi gắm vào
không gian rộng lớn theo ánh mặt trời, ánh trăng đêm rằm:
77
Thƣơng căn cỏi ngòi đét pửa ngài
Điếp căn cỏi ngòi hai slíp hả
Tha vằn tẻ pây quá mừa tây
Nghị mà hết rừ đảy hỡi bạn
Dịch nghĩa:
Thƣơng nhau hãy nhìn nắng ban trƣa
Yêu nhau thì thấy trăng thay mặt
Mặt trời vội vã về tây
Nghĩ mà không biết làm sao bạn hỡi [15]
Nỗi nhớ của chàng trai, cô gái kéo dài theo không gian, rộng lớn của bầu
trời trong xanh, cao vời vợi buổi ban trưa hay là không gian vời vợi của đêm
trăng rằm. Cái không gian bao la rộng lớn ấy vừa mang sự tĩnh tại, vừa vận
động như dòng chảy cảm xúc của chàng trai cô gái trong tình yêu.
Tha vằn tẻ vận quá mừa tây
Slíp hả hai lộn mây bấu rủng
Hất rừ đảy pền rùng dảo nảy
Bân đăm bấu sắc nạy rủng vằn
Hất rừ đảy pền cần rảo đảy
Duyên răng bạn sloong rà phít pjạc.
Dịch nghĩa:
Trời chiều khuất dần phía tây
Trăng rằm mây che không sáng
Điều ấy không thể nào làm khác đƣợc
Trời mù mịt không còn vệt sáng
Làm thế nào cho đáng thân ngƣời
Vì sao ta cứ phải xa nhau. [48]
Câu thơ vừa nói được cả không gian và thời gian yêu nhau, nỗi nhớ lòng
thương của cô gái hòa vào thiên nhiên nhìn mọi cảnh vật xung quanh đều trở
nên u buồn bởi "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Ngƣời buồn cảnh có vui đâu
78
bao giờ"(Truyện Kiều). Cái khung cảnh vốn quen thuộc hàng ngày mà sao giờ
đây lại mang nặng nỗi sầu đến vậy. Không chỉ vậy hình ảnh ánh trăng thề
nguyền kia giờ đây cũng bị che khuất chỉ còn lại một màn đêm u tịch như
chính lòng người vậy:
Một mình nòn bấu đắc buồn lai
Cừn buồn oóc nhgòi hai thẻ nả
Mong hai hai khảu phả lộn mây
Dịch nghĩa:
Đêm ngủ không say vì nhớ với buồn
Đứng dậy để mà xem trăng tỏ
Trông trăng mây lại xóa mất trăng. [13]
Tuy nhiên có những lúc phụ thuộc vào tâm trạng háo hức, vui tươi với
niềm hi vọng gửi cánh thư đến người yêu thương thiên nhiên lúc này dưới con
mắt người đang yêu lại trở nên vô cùng đẹp đẽ với nhiều màu sắc của những
cánh hoa, với hình ảnh cánh én lượn bay trong không gian bao la của rừng núi:
Đông quá xuân mà tẻo mà vày mấu
Boóc rủng rƣờng quây xẩu vui lai
Hoàn én mừa gƣơng chài sắc hối
Mặc khỉn khau lồng khuổi én bân
Thiên lý én rèo bân dồm tỉ
Khang pích bân lắt li tin đông.
Dịch nghĩa:
Đông đi xuân lại về lần nữa
Khắp gần xa sặc sỡ hoa đầy
Muốn thăm bạn én bay nhờ với
Dù lên non xuống suối én đi
Dù đƣờng xa én nhƣ xem cảnh
Giƣơng cánh vỗ mạnh qua đại ngàn
Đƣa thƣ tới giang san anh cả.[13]
79
Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con người thể hiện những nỗi nhớ,
niềm thương tha thiết:
Đêm ngày nhớ một mình em đấy
Hoa rụng hoa bỏ mặc gió qua
Ong buồn không thấy thì kêu thảm
Mỗi lúc nghĩ tới bạn nỗi mong
Thấy ong hoa, ngƣời thân không thấy
Canh khuya ngắm trăng mãi không rời
Trông trăng trăng trên trời xa lắc
Trông gió, gió vƣợt núi mà đi
Mong em em lại về chồng mới
Một thân anh nghĩ ngời lại buồn
Giống nhƣ sao chuyển rời trời rộng.[48]
Ta thấy, con người đứng trong thiên nhiên nhìn ngắm, gửi gắm tâm
trạng của mình vào trong đó. Với lối miêu tả cảnh vật ta cảm nhận được sự
giao cảm giữa thiên nhiên và con người, con người như đang đối thoại với
thiên nhiên với chính mình:
Bƣơn chiêng thâng bách hoa phung ón
Mật mèng kẻo mà roọng hội xuân
Bƣơn Slam hăn cốc phung nở nhị
Boóc mển phung thả pỉ thân đàn
Hăn boóc vỉ chang tàng dá nhẳm
Điếp bạn khỏa vỉ nẳng vọng than.
Dịch nghĩa:
Trăm hoa tháng giêng thoe mùa nở
Bƣớm ong đến hội ngộ mừng xuân
Tháng ba mọi gốc cùng khoe sắc
80
Vẫn còn hoa thành thật đợi anh
Thấy hoa giữa đƣờng xin đừng nhẫm
Vì yêu bạn anh vẫn ngồi chờ.[48]
Như vậy, có thể thấy khung cảnh thiên nhiên trong Phong slư như một
tấm gương phản chiếu đời sống nội tâm của nhân vật. Với những cảnh vật
thiên nhiên đa dạng, phong phú các tác giả dân gian xưa đã vô cùng tài giỏi khi
mượn hình ảnh thiên nhiên để diễn đạt lòng người.
3.5.1.2. Không gian tâm tƣởng
Không gian tâm tưởng là thế giới nội tâm, là suy tư, ước mơ của con
người. Trong Phong slư không gian tâm tưởng được tác giả dân gian miêu tả
khá rõ nét, được thể hiện trong sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Tình
yêu của những chàng trai cô gái Tày gửi gắm trong những bức Phong slư vượt
lên cả không gian, thời gian với khát vọng được bên nhau mãi mãi. Dẫu xa xôi,
cách trở người thực không đến được bên nhau nhưng phần hồn luôn theo người
thương trong lao động thường ngày:
Nhƣợc bạn mì thƣơng lai cỏi siết
Vằn quẹng pây hất việc nông trang
Mảy tắc chúng chang dá hẳm
Khoăn vỉ liệu mà nẳng đuổi lồm.
Dịch nghĩa:
Còn thƣơng còn nhớ về anh nhé
Ngày vắng đi làm việc ruộng đồng
Gió bẻ cây chắn đƣờng chớ chặt
Là hồn anh theo gió về đây. [15]
Theo mạch cảm xúc ấy người nơi xa còn tưởng tượng ra cả không gian
sinh hoạt trong cuộc sống thường ngày của người yêu. Qua không gian tâm
tưởng ấy như bộc lộ rõ nét tình cảm mộc mạc trong tình yêu của những chàng
trai cô gái dân tộc Tày.
81
Khoăn vỉ chắp khoắc đay rƣờn noọng
Gừi voằn thỉnh tiểng roọng noọng nàng
Noọng ơi noọng tắc tọn bôm bản
Xong dá óc thang ràn riệc vỉ
Khoăn vỉ xảy hôn hí khảu bôm.
Dịch nghĩa:
Hồn ta bám cầu thang nhà em
Để thỏa lòng ngày đêm đƣợc ngắm
Nghe tiếng em ngày đêm rạo rực
Đến bữa em cất giọng mâm bàn
Sau đó em ra sàn gọi anh
Vía anh sẽ vui vẻ bên em. [46,tr. 1089]
Sự vận động trong mạch cảm xúc của những người đang yêu, tiếng ve
vang rội khiến con người còn tưởng tượng ra mình được nói chuyện với người
thương hàng ngày, ước mơ được thành vợ, thành chồng sống chung cùng một
gia đình, nhưng khi bừng tỉnh thực tại ấy thật phũ phàng.
Mật mèng lại thâng sli lội thƣơng
Cừn vằn nòn rƣờn chƣơng mơ mảng
Phăn hăn khoăn mà cảng đuổi căn
Bặng cạ định rƣờn kin đoạn dá
Rụ slức xa cằm cạ bấu hăn
Mửa mền nặm tha lồng liền hảy.
Dịch nghĩa:
Tiếng ve kêu chạnh tới lòng anh
Đêm ngày nằm ở nhà mơ mộng
Mơ thấy anh đƣợc nói cùng em
Nhƣ thành đôi liên kết vợ chồng
Bừng dậy tìm lời đã không còn
Khi buồn nƣớc mắt rơi lã chã. [48]
82
Nếu không gian hiện thực, không gian vật lí miêu tả mọi sự vật hiện lên
rõ nét thì không gian tâm tưởng chủ yếu miêu sự vận động trong tâm trạng của
nhân vật trữ tình chính điều đó đã tạo cho những bức Phong slư trở nên sâu
lắng và diễn tả rõ nét hơn tâm trạng của những người đang yêu khao khát được
bên nhau. Họ ước mơ được bên nhau sang tận thế giới bên kia vẫn tìm kết
duyên thành vợ thành chồng.
Vằn thai khửn mừa nƣa nhằng tím
Sloong khoăn khửn thƣợng đính cỏi xa
Quá cẩu cọi chung mừ mừa hội
Mừa thâng nƣa cỏi au căn
Mửa mển định sloong khoăn phu phụ
Dịch nghĩa:
Ngày chết dẫu lên trời vẫn gặp
Hồn lên chốn trời phật hãy tìm
Dắt tay qua cầu lên tới hội
Lên tới trời ta lại yêu nhau
Thành vợ chồng trƣớc sau vẫn thế. [48]
Trong Phong slư không gian tâm tưởng chủ yếu thể hiện nỗi nhớ, khát
vọng, ước mơ trong tình yêu được bên nhau của những chàng trai cô gái dân
tộc Tày. Không gian đó vận động theo sự vận động tâm trạng của nhân vật trữ
tình. Chính không gian tâm tưởng này đã tạo nên chiều sâu trong mỗi bức
Phong slư.
Qua tìm hiểu không gian nghệ thuật trong Phong slư ta thấy luôn có sự
đan xen giữa không gian thiên nhiên với không gian tâm tưởng. Nói cách khác
nó chính là sự đan xen của không gian vật lý với không gian tâm trạng. Qua
không gian nghệ thuật này ta thấy được tâm trạng của những người đang yêu
được bộc lộ rõ nét.
83
3.5.2. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Theo giáo sư Trần
Đình Sử thì: "Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được
trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh
hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay tương lai". Và do đó:
"Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý, thông qua
chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới
nghệ thuật".
Đặc điểm nổi bật của thời gian nghệ thuật là luôn mang tính cảm xúc, ý
nghĩa dân sinh, do đó nó mang tính chủ quan. Tính chất chủ quan đó giúp ta
phát hiện được mối quan hệ giữa thực tại và con người. Nói thời gian nghệ
thuật là hình tượng nghệ thuật, bởi vì đó là sản phẩm sáng tạo khách quan
trong chất liệu làm nên nghệ thuật của tác giả.
Thời gian nghệ thuật trong phong Slư rất đa dạng và phong phú được
biểu hiện dưới nhiều hình thức đó là sự vận động của vũ trụ, có khi đó là sự
biến đổi của thiên nhiên, con người. Dù biểu hiện muôn hình muôn vẻ nhưng
thời gian trong Phong Slư đều tập trung biểu hiện tâm tư, tình cảm của trai gái
dân tộc Tày.
3.5.2.1. Thời gian hiện thực.
Phong slư là những tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Tày ở Hòa
An và được hát lên trong những buổi sinh hoạt cộng đồng. Trong Phong slư
thời gian hiện thực được thể hiện khá rõ nét. Ngay từ mở đầu những bài Phong
slư đều xác định được rõ thời gian viết, bức "slư" viết vào mùa nào thì sẽ bắt
đầu bằng mùa ấy:
Xuân thiên vằn dú quẹng quảng lai
Căm bút chép phải lài phác bạn
(Trời xuân thanh vắng êm ả thay
Cầm bút chép vài câu gửi bạn) [13]
84
Cũng có khi xác định được cụ thể ngày tháng năm viết ra:
Bƣơn slam xo hả tiết thanh minh
Voằn đay ví tín tin sải mả
(Mùng năm đúng dịp tiết thanh minh
Ngày lành đi sửa mộ)[48]
Hay
Bƣơn Slam tiết xuân thiên vận quá
Mật mèng roọng đông pá thảm thƣơng
(Tháng ba trời xuân xanh quá
Ong bƣớm ríu rít gọi nhau)[15]
Giáp thìn dựa bƣơn slí hả thiên
Ong điệp kẻo sơn xuyên tìm bạn
Khảm khắc roọng đại ngàn một thân
Bách điểu roọng xa căn rặp liểu
(Giáp thìn vào tháng tƣ ngày hè
Bƣớm ong rừng kéo về tìm bạn
Khẳm khắc kêu trên ngàn độc thân
Trăm chin kêu xa gần nái nhiệt).[13]
Thông qua thời gian người tiếp nhận sẽ hiểu hơn về nội dung bài Phong
slư từ đó sẽ cảm nhận rõ hơn về tâm trạng tình cảm của người gửi. Nếu trong
bài Phong slư tỏ tình thì thời gian thường tiếp diễn bắt đầu từ quá khứ ngày hai
người gặp nhau để lại nhớ thương da diết trong lòng chàng trai nên đã viết bài
Phong slư gửi lời làm quen, nhắn gửi yêu thương đến cô gái khác bản.
Điếp thƣơng bạn nâu boóc vằn xƣa
Vuồn lai vỉ chép slƣ thăm bạn
Tự vằn én nhạn ngộ căn
Mèng pjạc boóc mùa xuân hâng mự
Kết căn xe đảy dú quén căn
85
Dịch nghĩa:
Nhớ thƣơng em nụ hoa thắm thủa xƣa
Buồn quá anh viết thƣ tới
Kể từ ngày én nhạn gặp nhau
Ong đã lìa hoa xuân lâu lắc
Yêu nhau để cùng nhớ cùng quen. [13]
Nhưng đôi khi thời gian qua khứ thể hiện trong Phong slư như một lời
trách để nhắc lại những tháng ngày mới quen, nói với nhau biết bao điều
thương nhớ, hứa hẹn với nhau sẽ thành duyên vậy mà sao giờ đây lại nghi ngờ
lòng nhau.
Giờ nẩy noọng cuổn phuối pần gằm
Vứa đú gạ thành thân chi mỵ
Vỉ nhất tâm noọng đảy rèo mừa
Rừ chắc nội hàn có đuổi noọng
Vửa đú phuối thuổn toọng cón lăng
Do vỉ pây thỉnh gằm thiên hạ
Chổn cao tay noọng đạ bấu mì
Nà chang vỉ hồ nghi hẩu noọng.
Dịch nghĩa:
Giờ này em nói hết lời trƣớc sau
Ngày trƣớc bảo kết duyên cùng nhau
Anh một lòng em đã đồng ý
Làm sao biết tâm trạng của em
Ngày trƣớc nói với nhau hết lời
Do anh đi nghe lời thiên hạ
Chốn cao sang em làm sao có
Mà sao anh lại nghi ngờ cho em. [13]
86
Có thể thấy thời gian trong Phong slư là thời gian thực tại, thời gian viết
nên bài Phong slư. Dẫu có đề cập đến thời gian là quá khứ nhưng thời gian ấy
luôn có sự đối xứng với thời gian hiện tại và lấy hiện tại làm thước đo làm tâm
điểm để hướng tới. Chính vì vậy thời gian nghệ thuật là phương tiện để diễn
đạt những nội tâm tâm trạng của nhân vật.
3.5.2.2. Thời gian tâm lý.
Phong slư ở gian đoạn phát triển hoàn thiện khi có chữ viết là một bức
thư hoàn chỉnh về nội dung và hình thức, đã bước đầu diễn tả được sự vận
động trong trạng thái tình cảm của những chàng trai, cô gái trong tình yêu. Vì
vậy thời gian trong Phong slư còn mang thời gian tâm lý thể hiện rõ sự vận
động của thời gian:
Mật mèng roỏng đông pá thảm thƣơng
Táng tủa nhằng chứ sƣơng nghịa cổ
Mọi tủa nhằng ái mộ boóc phông
Xui hẩu gần dƣơng đông đạo lảng
Nhình dài gỏi xa tháng kết duyên
Thoảng chứ thâng thiếu niên voằn cón.
Dịch nghĩa:
Tiếng ve gọi nhau rộn ràng
Làm nhớ lại tình nghĩa năm xƣa
Nhƣ ong tìm đến hoa nở
Vẻ đẹp khiến lòng ngƣời phơi phới
Trai gái gặp nhau giao duyên
Chợt nhớ lại tuổi thiếu niên ngày trƣớc. [48]
Cô gái quan sát cảnh vật thiên nhiên, sự vận động của sự vật, hoạt động
của con người làm cô gái hồi tưởng lại tuổi xuân đã qua của mình, để rồi đêm
về đối diện với chiếc bóng của chính mình với nỗi cô đơn trong lòng. Cũng
87
giống với ca dao dân ca của dân tộc Kinh tâm trạng nỗi nhớ nhung của những
chàng trai cô gái Tày trong Phong slư cũng được thể hiện qua mô tuýp "đêm
ngày", "đêm đêm". Khoảng thời gian đêm là khoảng thời gian thổn thức, suy tư
của con người, con người lúc này đối diện với thực tại, đối diện với lòng mình
nên nỗi nhớ ấy, nước mắt lăn dài trên gối mà không thể gãi bày cùng ai.
Nghị lai hác vuồn nàn lạy lạy
Gừn vằn hác lặc hảy tềnh mon
Gừn tông là vằn vuồn lại thuổi
Chứ bạn gần chắc đuổi thân rà
(Nghĩ lắm cũng đến thế buồn tênh
Đêm ngày nằm khóc thầm bên gối
Đêm mong hết cả tối ngày buồn
Nhớ bạn trong lòng không ai biết)[15]
Hay câu:
Đêm ngày nằm không sao trọn giấc
Buồn bã trông mây vẫn quay về
Em gửi lời để cho chàng biết
Hai ta ở cách biệt mong nhau [13]
Thời gian sống trong chờ đợi, nỗi nhớ đằng đẵng xa vời. Nhân vật trữ
tình cảm nhận thấy những tháng ngày tươi đẹp qua nhanh như một giấc mơ:
Bấu lo boóc pền mác sơn lâm
Slinh thể nhƣ đua phăn mơ mảng
(Quả chƣa ra thì hoa vẫn còn
Đời ngƣời nhƣ một giấc mơ thoảng đến) [15]
Trong Phong slư mọi cảm xúc của con người thông qua thời gian thể
hiện được rõ nét tâm trạng, cảm xúc, nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Nhân vật
trữ tình luôn đứng ở thời điểm hiện tại để diễn đạt cảm xúc nảy sinh từ trái
tim mình.
88
TIỂU KẾT
Phong slư mang những nét đặc trưng chung của dân ca trữ tình cả về
nội dung và hình thức nghhệ thuật. Qua nghiên cứu một số phương diện như:
Kết cấu, thể thơ, ngôn ngữ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, không gian – thời
gian nghệ thuật.. giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về giá trị của Phong slư
ở Hòa An - Cao Bằng, cũng như đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của một loại hình
dân ca dân tộc Tày.
Thể thơ trong Phong slư là thể thơ thất ngôn trường thiên với những quy
tắc và khuôn phép nhất định, điều này đã tạo cho Phong Slư có thể diễn đạt
một cách sinh động và phong phú đời sống tình cảm của đồng bào dân Tày.
Hơn nữa trong những lời thơ Phong slư có sự đan xen, thâm nhập của âm điệu
vào lời thơ nên gây được sự chú ý đối với người nghe. Ai đã từng nghe Phong
slư một lần sẽ nhớ mãi âm điệu ngâm nga ngân vang ấy, sẽ chìm đắm vào lời
ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm bắt được tình ý được thể hiện qua những ngôn
từ trau chuốt mà mộc mạc giản dị. Qua nghiên cứu một số phương diện nghệ
thuật như: các biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ, ngôn ngữ bình dân bác học
được thể hiện trong Phong slư giúp ta có cái nhìn khái quát, toàn diện hơn về
giá trị của làn điệu dân ca này.
89
KẾT LUẬN
1. Người Tày là tộc người có truyền thống, lịch sử văn hóa gắn bó lâu
đời ở Hòa An - Cao Bằng. Bên cạnh việc xây dựng nên những bản làng trù phú
người Tày ở Hòa An còn tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần có giá trị nhân
văn sâu sắc trong đó có thể loại Phong slư. Trải qua biết bao thăng trầm của
lịch sử, Phong slư vẫn tồn tại trong đời sống văn hóa của người Tày ở Hòa An
- Cao Bằng như một minh chứng cho văn hóa nơi đây. Qua việc tìm hiểu
Phong slư ở Hòa An - Cao Bằng trên phương diện nội dung và nghệ thuật,
chúng tôi thấy rằng người Tày ở huyện Hòa An của tỉnh Cao Bằng có một đời
sống tinh thần phong phú. Việc nghiên cứu Phong slư là việc làm có ý nghĩa
như là một sự chứng minh cho giá trị của loại hình này trong đời sống đương
đại hiện nay.
Trong kho tàng văn học dân gian của người Tày, ca dao dân ca Tày luôn
chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc, đó là tiếng nói ca ngợi tình
yêu quê hương đất nước, con người, nhất là tình yêu lứa đôi. Các làn điệu dân
ca thường được thể hiện trong các lễ hội như: Lồng Tồng, Lễ hội rằm tháng
giêng, rằm tháng bảy... các lễ hội này là dịp để trai gái dân tộc Tày giao lưu,
kết bạn và gửi gắm những lời hẹn ước. Họ gặp nhau với nỗi nhớ nhung da diết
khi trở về họ gửi cho nhau những bức Phong slư chứa đựng tình cảm tha thiết
của mình.
2. Phong slư mang nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, đó là là tình yêu
mãnh liệt cháy bỏng, những lời giao ước kết duyên hứa hẹn về một tương lai
tươi sáng và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng hay là nỗi đau đớn xót xa khi phải
chia tay người mình yêu thương. Cũng như các dân tộc khác Phong slư còn là
lời bày tỏ, là tiếng hát ca ngợi cuộc sống, ca ngợi Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Đồng thời ngày nay Phong slư còn là hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật
hấp dẫn đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của đồng bào Tày nơi đây.
90
3. Nghiên cứu về một số đặc điểm nghệ thuật trong Phong slư chúng tôi
nhận thấy đây là một loại hình thơ ca dân gian độc đáo của dân tộc Tày. Cũng
giống như dân ca của các dân tộc khác Phong slư cũng mang những nét tương
đồng và khác biệt trong hình thức kết cấu, thể thơ, các biện pháp tu từ hay
ngôn ngữ nghệ thuật... Tuy nhiên, trong lời ca Phong slư mang lời văn trau
chuốt, giàu hình tượng hấp dẫn, dễ đọc, dễ rung động lòng người. Nghiên cứu
các yếu tố nghệ thuật thuộc phương diện nghệ thuật được thể hiện trong Phong
slư giúp ta hiểu hơn khả năng tư duy, khái quát của người Tày ở một giai đoạn
nhất định.
, tinh tế và 4. Phong slư là loa ̣i hình thơ ca dân gian phản ánh sinh đô ̣ng
. Tuy nhiên , theo dò ng chân thực tâm tư tình cảm củ a những đôi lứ a đang yêu chảy của thời gian , những loa ̣i hình thơ ca dân gian nói chung và Phong slư nó i riêng đã bi ̣ mai mô ̣t đi nhiều . Ngày nay, khi cuô ̣c sống củ a ngườ i Tà y đang dần thay đổi, đờ i sống tinh thần ngày càng đa da ̣ng và phong phú ngày càng đươ ̣c
nhưng với
đặt ra nâng cao thì thư tình viết bằng Phong slư không còn tồn ta ̣i nữa những giá trị về nội dung và nghệ thuật qua viê ̣c nghiên cứ u về Phong slư và viê ̣c phát triển về mă ̣t chủ đề củ a Phong slư trong giai đoa ̣n hiê ̣n đa ̣i đã
vấn đề phải bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc, để những lời ca ngọt ngào, đằm thắm, đậm triết lý của Phong slư được tồn
tại, lưu truyền mãi…
Qua luâ ̣n văn này , chúng tôi mạn phép đưa ra một số ý kiến đề xuất góp t huâ ̣t đă ̣c sắc củ a loa ̣i
phần vào viê ̣c bảo tồn và phát huy những giá tri ̣ nghê ̣ hình dân ca này trong đời sống văn hóa ở giai đoạn hiện n ay như sau : Cần phổ
biến sau rô ̣ng hơn nữa loa ̣i hình thơ ca này trong những buổi sinh hoa ̣t cô ̣ng đồng củ a nhân dân ; thành lập những câu lạc bộ sáng tác , ngâm Phong slư ở các
xóm, xã trên địa bàn huyện thu hút những người yêu lo ại hình thơ ca này tham
gia để làn điê ̣u này ngày mô ̣t lan tỏa trong đờ i sống cô ̣ng đồng ; bên ca ̣nh đó rất
cần có sự phối hơ ̣p vớ i ngành giáo du ̣c và đào ta ̣o đưa loa ̣i hình dân ca này và
91
giảng dạy trong các buổi sinh hoạt ngo ại khóa tại các trường học cấp học . Và
rất cần có sự quan tâm củ a các cấp chính quyền đưa ra những giải pháp thiết thực nhất để làn điê ̣u Phong slư củ a dân tô ̣c Tày ở Hòa An – Cao Bằng nó i riêng và các vù ng khác nói chu ng sẽ đươ ̣c bảo tồn, phát huy và ngày càng lan
tỏa sâu rống trong đời sống cộng đồng .
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ - Tục ngữ dân tộc Tày,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Triều Ân (2008), Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
3. Triều Ân (2010), Văn học yêu nƣớc và cách mạng ở Cao Bằng trƣớc năm
1945, Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Triều Ân (2014), Thành ngữ - tực ngữ - cao dao dân tộc Tày, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
5. Phương Bằng (1976), Phong Slƣ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
6. Chi Hội Nam Tuấn (2010), Thơ đƣờng, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cao
Bằng.
7. Hoàng Tuấn Cư, Hoàng Hạc, Nguyễn Thanh Tuyền (2010), Then Tày,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
8. Lâm Thị Diệp (2010), "Hệ thống đề tài trong Phong Slƣ của ngƣời Tày ở
Lạng Sơn". Báo cáo khoa học
9. Vũ Cao Đàm (1999), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa
học xã hội.
10. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Xuân Đức (2010), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian Việt
Nam, Nxb thanh niên.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên ) (1999), Từ
điển thuật ngữ văn học,Xb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Ma Văn Hàn (2000), Chọn lọc, sƣu tầm những làn điệu dân ca. Tài liệu
sưu tầm tại Xã Nam Tuấn, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng .
93
14. Ma Văn Hàn ( 1986), Vọng Tiểng Ca, Tài liệu sưu tầm tại xã Nam Tuấn ,
huyê ̣n Hòa An, Tỉnh Cao Bằng .
15. Hoàng Ngọc Hồi (1995), Một số làn điệu dân ca, tài liệu sưu tầm tại xã
Nam Tuấn, huyê ̣n Hòa An, Tỉnh Cao Bằng .
16. Hội thơ Đường luật Cao Bằng, Chân dung hội viên, chi hội Nam Tuấn
mừng xuân Ất Mùi – 2015.
17. Vi Hồng (1976), Vài suy nghĩ về hát Quan lang, lƣợn, Phong Slƣ, Tạp
chí văn học số 3.
18. Vi Hồng (1979), Sli, lƣợn dân ca trữ tình Tày Nùng, Nxb văn hóa.
19. Hoàng Hựu (2008) "Về bức Phong Slƣ (Thƣ tình) viết trên nền vải của
ngƣời Tày", Tạp chí Hán Nôm số 2(87).
20. Huyện Ủy – UBND huyện Hòa An (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Hòa
An, Nxb chính trị quốc gia.
21. Nguyễn Chí Huyên (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời vùng biên giới
phía bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
22. Đàm Kha (2011), Miền non nƣớc, Nxb văn hóa thông tin.
23. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002)
Văn học dân gian Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Xuân Kính (1995), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hôi, Hà Nội.
25. Nguyễn Xuân kính (2011) Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong
sự so sánh với văn học viết, Tạp chí văn hóa dân gian số 5.
26. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002) Văn hóa dân
gian Tày, Nxb Văn hóa thông tin Thái Nguyên.
27. Đinh Trọng Lạc (1995), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
28. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phƣơng tiện và biện pháp tu từ, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, Nxb văn hóa, Hà Nội.
30. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian , Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội. (Tr. 437)
94
31. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
32. Nhiều tác giả (1974), Từ điển Tày Nùng – Việt, Nxb Khoa học xã hội.
33. Nhiều tác giả (1990) Văn hóa dân gian những phƣơng pháp nghiên cứu,
Nxb Khoa học xã hội, H.
34. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở việt Nam, Nxb Văn hóa
dân tộc.
35. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa dân gian Cao Bằng, kỉ yếu hội thảo hội
văn nghệ Cao Bằng.
36. Nhiều tác giả (1995), Kho tàng ca dao ngƣời Việt tập 2 , Nxb Văn hóa.
37. Nhiều tác giả (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb giáo dục.
38. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng –
Dao Lạng Sơn, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội. (Tr. 54)
39. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp văn học dân gian, Nxb giáo dục.
40. Hoàng phê (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng trung tâm từ điển
học, Hà Nội – Đà Nẵng.
41. Nguyễn Hằng Phương (2009), Sự chuyển đổi thi Pháp ca dao cổ truyền
đến thi pháp ca dao hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
42. Ngô Thị Thanh Quý (2014), Truyện thơ tiễn dặn ngƣời yêu góc nhìn thi
pháp, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
43. Hoàng Quyết, Triều Ân (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày.
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
44. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Khắc Lược
(1998), Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, Nxb văn hóa dân tộc.
45. Dương Sách (2009), Lượn Rọi, Nxb Văn hóa dân tộc,
46. Dương Sách (2010), Phuỗi Rọi tập 6, Tài liệu chưa xuất bản. Sưu tầm ta ̣i
xã Đức Long, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
47. Lưu Đình Tăng (2010), Về Bài Phong Slƣ gửi gắm tình yêu ngày xuân,
Thông báo Hán Nôm 2008.
95
48. Nông Trường Tập (2007), Ca dao, dân ca. tài liệu sưu tầm tại xã Dân
Chủ, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
49. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb giáo dục, H.
50. Tỉnh Ủy – UBND tỉnh Cao Bằng (2007), Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng,
Nxb Chính trị quốc gia.
51. Tỉnh Ủy – UBND tỉnh Cao Bằng (2010), Địa chí Cao Bằng, Nxb Chính
trị quốc gia.
52. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp văn học dân gian, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Thiên Tứ (2011), Dƣ địa chí truyền thống huyện Hòa An, tỉnh
Cao Bằng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
54. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, qua trình phát triển và
thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
55. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm
Đặng Xuân Hương (2014) Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản Nxb Giáo
dục.
96
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ ĐOẠN PHONG SLƢ CỦA NGƢỜI TÀY
Ở HÕA AN – CAO BẰNG.
1. Đoạn trong bức Phong slư cổ từ năm 1920 do ông Ma Văn Hàn, xã Nan
Tuấn, huyê ̣n Hòa An, tỉnh Cao Bằng cung cấp .
Hoàng triều nam Khải Định ngụ niên
Bươn sam tiết xuân thiên vận quá .
Mẩt mèng roọng đông pá thảm thương
Táng tua nhằng chứ sương nghịa cổ
Mọi tua nhằng ái mộ bióoc phông
Xui hẩư gần dương đông đạo lảng
Nhình giài gỏi xa tháng kết duyên
Thoảng chứ thâng thiếu niên wằn cón
Giú vuồn óoc lẩy chổn gằn nà
Đảy hăn nhạn bân mà tó nả
Củ pác noọng khan gạ nhạn loan
Nhạn gạ : Sư vỉ quan mà hẩư
Wàn nhạn mà thông sự thành công
Soong mừng rẳp sư phong đuổi nhạn
Mừng rẳp au sư cấn vỉ nưa
Nhạn ới ! tẻ khảu mừa đuổi noọng
Bố mì cúa quý trọng oóc nai
Gọi là ám miầu đai thiết nhạn
Tức sí nhạn lểu bản hồi quê
Liện xa sấy mà se tỏoc hẩư
Toỏc oóc gằm phu phụ nhất gia
Mẻ nhình viểc sư tha bấu chắc
Gừn vằn vuồn moị khúc tư lương
Đan thân giú rườn chương vất vả
Tứ vằn sư vỉ cá mà thâng
Hăn sư bấu hăn gần mà đuổi
Mốc sẩy thêm bối rối tương tư
Bản noọng bấu chắc sư sắc cá !
Dẳng pây wàn táng xạ bạn gần
Nhở sấy chép phong văn hẩư khỏi
Căm bút noọng liện phuối thuổn gằm
Sấy liện viểt rèo lăng bối rối
Bâư sư vỉ nhịnh phuối gằm xâm
Noọng phuối wạ nhằng giăng rụ bấu
Se noọng xo dồm mảu sắc khi
Kết căn đảy soong pi liện tả
Mủng hăn gần noong wả là viàng
Thân sậy rụ nhằng tham chổn quý
Loóc gạ mà nàn nị hất lăng
Nhịnh mà phuối gằm xâm vỉ ới
Giờ nẩy noọng khổn phuối vần gằm
Vửa đú gạ thành thân chi mỵ
Vỉ nhất tâm noọng đảy rèo lừa
Rừ chắc nội hàn cơ đuổi noọng
Vửa đú phuối thuổn toọng cón lăng
Lo vỉ pây tỉnh gằm thiên hạ
Chổn cao tay noọng đạ bấu mì
Nà Chang vỉ hồ nghi hẩư noọng
Giá phuối gằm chếp toọng hẩư mài
Chỉ kết đuổi nam giai bấu sấu
Vửa đú pôm vận t’ẩu đi vầy
Giở nẩy cắt vận nây bươn lảp
Đảy miầu tẻ uýt mác lồng tâm
Chắc gạ toọng lương quân rừ dưởng
Ăn mắc phá gần bưởng bấu sai
Sậy là tham chổn đai hất trọng
Giờ nẩy noọng dồm bóng dồm đai
Bố chắc toọng vỏ giài quân tử
Thiệt phận se nự tú mẻ nhình
Bấu chắc ăn tầư khinh tầư trọng
Ất mà cụng chứ boỏng sậy lai
Wằn cón gạ bố sai hẩư chính
Sậy nhằng gạ nhất định au se
Sắng căn hưa pác vè thâng chổn
Gần ké sắp soong bưởng cón lăng
Chắc sậy nhằng chứ thâng rụ bấu.
2. Đoa ̣n Phong Slư do ông Hoàng Ngo ̣c Hồi , xã Nam Tuấn cung cấp
Hả hoằn ngoòng thâng háng mà xa Bố rổp noọng tẻo mà toọng sấu Tả se vỉ vọng piấu xiết lai Kin khẩu như kin rài lồng toọng Kin phiắc bặng kin nguộn lồng gò Chứ noọng chứ tấng giờ hại đát Tón kin căm thâng pát chứ thâng Ngoảc mà kin khẩu mồm hoẻng tả Rụ gạ khoăn buồn bạ mừa rèo Mừa thâng chắp co pheo nả táng Khỉn lồng them lồng lảng đảy dồm Khoăn vỉ piến mèng vần chắp pát Tón kin noọng giá vảt mìn thai Tón viầu them tón ngài roọng đuổi
Giá đảy hẩư lằn lọi gằn bôm Dẳng dử bạn nhất tâm đuổi vỉ Đảy noọng vỉ bấu ngậy sắc tàng Gụng như pya ước hoằng nặm lẩc Gụng bặng pya ước giẳc nặm sâư Gừn hoằn ngậy khát châư đuổi noọng Xiên kỳ giá tả goẹng lìa căn.
3.
Rẩp căn nẩy noọng á mì sương Bấu giềm vỉ táng mường khỏ khát Đảy noọng tồng đảy mác đào tiên Đảy noọng vỉ thuổn phiền thuổn khỏ Bấu mì khẩu lồng mỏ gụng đây
4. Đoa ̣n Phong slư do ông Ma Văn Hàn cung cấp . Vỉ chứ noọng căm bút viểt sư Viết soong gằm phác mừa giương bạn Pi bươn bặng én nhạn bân pây Thì giờ bặng nặm lây lồng hát Ngẩn ngơ mốc sẩy khát tốc châư Vạ đăm chắc hoằn tầư đảy rủng?
5.
Đoa ̣n Phong slư do ông Triều Ân , xã Lam Sơn cung cấp . Giá giai căn thẳm cuổi khát giầư Thẳm mạy gỏi chứ bâư mìn đuổi Dù síp pi gằm phuối bấu lùm Hăn sư gỏi chứ thâng hoằn cón Kha gàm tàng đét ón khổn toan Khăn khẳn chứ gằm hoan mì ý Tha hăn mọn giú ký hoẻng bâư Đang lương pác gài giầư san quéng Ruyên túc mai chao hẹn tốc đai Khuyên gằm pây bạn mài sương đuổi.
Dịch nghĩa:
Triều đại năm Khải Định làm vua 1.
Tháng ba tiết trời xuân đẹp quá
Tiếng ve gọi nhua rộn ràng
Làm nhớ lại tình nghĩa năm xưa
Như ong luôn tìm đến hoa nở
Làm lòng người xao xuyến không thôi
Trai gái gặp nhau kết duyên
Chợt nhớ lại thời thiếu niên ngày trước
Ngồi buồn bước chân ra thăm ruộng
Nhìn thấy chim nhạn bay về trước mặt
Cất tiếng em gọi nhạn ơi
Nhạn bảo: Thư của anh gửi tới
Việc nhạn đến đây thành công
Hai tay đón lấy thư với nhạn
Tay nhận thư run cầm không nổi
Nhạn ơi! hãy về nhà nhà với em
Không có gì để tiếp đãi
Chỉ là có nắm gạo tiếp nhạn
Xong rồi nhạn liền trở về quê
Liền tìm thầy về đọc giúp
Đọc ra rằng: "Phu Phụ nhất gia"
Con gái cái chữ không biết
Đêm không ngủ được tương tư
Một thân con gái vất vả
Từ ngày nhận thư anh về tới
Thấy thư nhưng không thấy mặt
Ruột gan thêm bối rối tương tư
Bản em không một ai biết chữ
Mới đi đến tận bản người
Nhờ thầy chép Phong Slư tả lại
Cầm bút em liền nói hết lời
Thầy liền viết theo sau bối rối
Bức thư anh có nói điều gì
Em nói lại xem có đúng không
Để em nhắc lại chuyện ngày trước
Yêu nhau hai năm rồi bỏ
Nhìn anh em không nghĩ là vậy
Thân anh còn ham chốn cao sang
Sao lại trêu đùa làm gì
Em không biết nói sao
Giờ này em sẽ nói từng lời anh biết
Ngày trước bảo thành đôi tri kỉ
Anh một lòng em đã nghe theo
Nhưng anh không được nổi lòng của em
Ngày trước nói hết lòng trước sau
Do anh nghe lời thiên hạ
em không có chốn cao sang
Mà sao anh lại nghi ngờ cho em
Mà nỡ nói lời đau lòng cho nhau
Chỉ kết bạn với anh thôi không sai
Ngày trước lòng ấm áp như vậy
Giờ này lòng lạnh như rét tháng giêng
Được gạo liền vứt trấu đi ngay
Có phải lòng anh như vậy không
Một quả mỗi người một nửa không sai
Vậy mà bảo em đã tìm chốn khác
Giờ này em nhìn bóng nhìn không
Không thể hiểu hết được lòng anh
Thiệt thân con gái ngày trẻ
Không biết chỗ nào tốt xấu
Vậy mà vẫn nhớ đến anh nhiều
Ngày trước nói một lời không sai
Anh còn bảo nhất định sẽ lấy
Hẹn nhau hứa gửi về nơi chốn
Bố mẹ hai bên sẽ đến gặp nhau
Liệu anh còn nhớ đến điều ấy.
2.
Năm ngày phiên chợ tìm em Nào đâu thấy bóng buồn phiền quay ra Một mình thầm gọi thiết tha Cơm ăn xuống bụng như là cát rang Rau ăn lá ngón cầm bằng Rau ăn từng khắc thảm thương ngày dài Bữa ăn cầm bát nhớ ai Lại ăn cơm nóng cũng thôi bỏ về Hay hồn buồn bã về quê Như chim về đậu cành tre bên thềm Leo thang lên xuống thấy em? Hay anh biến hóa làm nên thân ruồi Bữa ăn em nhớ gọi mời Đừng đập nó chết bỏ rơi cạnh bàn? Vậy thì xứng bạn tâm can. Được em anh những muôn vàn thỏa thuê Như cá thèm vực được về Giương vây để huề giữa vực nước trong Đêm ngày anh ước anh mong Xin đừng bỏ vắng dứt lòng lìa xa.
3.
Gặp nhau em hỡi có thương Đừng chê anh nghèo khó khác mường mới nên Được em như hái đào tiên
Được em anh hết buồn phiền tấm thân Nồi không có gạo đâu cần.
4.
Nhớ ai thư viết gửi đi Hai lời thăm hỏi gửi về chiều nay Tháng ngày như én nhạn bay Thời gian như nước vần xoay xuống ghềnh Nỗi lòng bỗng thấy nhẹ tênh Như trời tối mịt bình minh khi nào?
5.
Chớ dối nhau chặt chuối đứt tơ lòng Cây đã chặt hãy nhớ từng đám lá Dù mười năm cũng khó quên lời Thấy thư hãy nhớ người ngày trước Đường dịu nắng chân bước khôn toan Đinh ninh nhớ lời vàng ngụ ý Thấy nong tằm trên giá thẫn thờ Minh vàng miệng nhả tơ đan kén Duyên trúc mai giao hẹn mất không Gửi lời tới bạn thương thương nhớ.
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ PHONG SLƢ Ở HÕA AN – CAO BẰNG
Ông Hoàng Triều Ân (85 tuổi), dân tộc Tày ở Lam Sơn, Hồng Việt,
Hòa An, Cao Bằng. Là người có vốn văn hóa Tày sâu sắc và có nhiều công
trình nghiên cứu về văn hóa dân gian của dân tộc Tày ở Cao Bằng. Khi được
hỏi về thể loại Phong slư ông cho biết; Phong slư là một thể loại dân ca đặc sắc
của người Tày, Phong slư cũng giống như Lượn, Sli đều được sử dụng để trao
đổi tình cảm, tình yêu đối lứa. Nhưng bên cạnh đó Phong slư còn là những bức
thư được trai gái Tày dùng để gửi gắm tâm tư tình cảm thầm kín. Loại hình
nghệ thuật độc đáo này xưa kia phát triển mạnh ở vùng đất Hòa An nhưng nay
đã không còn tồn tại. Chỉ còn lại làn điệu ngâm Phong slư viết về những vấn
đề mới của thời đại như: Ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi cuộc sống.
Ông Dƣơng Sách (85 tuổi), dân tộc Tày ở xã Đức Long, huyện Hòa
An, Cao Bằng. Hội viên hội văn học nghệ thuật Việt Nam, là người cần mẫn,
miệt mài với những giá trị văn hóa dân gian của tỉnh nhà. Tôi đến tìm gặp ông
trong một ngày đầu xuân, trong ngôi nhà gỗ đơn sơ, giản dị. Khi chúng tôi đến
ông đang miệt mài cần mẫn bên công trình nghiên cứu chuần bị gửi xuất bản.
Đề cập đến vấn đề Phong slư của người Tày ông nói: Phong Slư của người Tày
ra đời từ bao giờ không ai biết, chỉ biết rằng Phong slư đã được nhân dân Tày
sử dụng như một làn điệu quen những người thuộc trong cuộc sống lao động
sản xuất thường ngày. Trước đây Phong slư được dùng để ngâm những câu nói
rọi hàng ngày. Sau này khi chữ viết ra đời Phong slư được các nhà trí thức ghi
chép lại hoàn chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng của người nhờ viết,
và họ ngâm những bức thư ấy bằng làn điệu nhất định từ đó người dân quen
gọi là Phong slư. Nếu chỉ hiểu Phong slư là Phong thư thì là một cái nhìn
không thấu đáo về thể loại này. Ngày nay Phong slư vẫn còn tồn tại nhưng chủ
yếu là những bài hát để cập đến những vấn đề của cuộc sống mới, còn phong
slư hoàn chỉnh để gửi cho nhau trao đổi tình yêu hầu như không còn. Ông
dừng lại đôi hồi như tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa đã bị mai một.
Ông Hoàng Ngọc Hồi (90 tuổi) Xã Nam Tuấn, Hòa An, Cao Bằng là
một nghệ nhân dân gian biết nhiều làn điệu dân ca của dân tộc Tày. ông kể với
chúng tôi rằng ông còn nhớ khi ông còn bé, ông thường được đi xem những
buổi sinh hoạt cộng đồng tổ chức vào ngày mười năm âm hàng tháng để hát
những là điệu dân ca giao duyên, trong đó có hát Phong slư để kể lại những
câu chuyện tình yêu, hay hát những bức thư trai gái Tày gửi cho nhau.
Ông Ma Văn Hàn (85 tuổi) xã Nam Tuấn, Hòa An , Cao Bằng. Được
coi là kho lưu giữ văn hóa dân gian Tày ở vùng đất Hòa An. Tiếp xúc với ông
chúng tôi cảm nhận rõ bản chất của con người Tày mộc mạc và giản dị, ông
nói nghiên cứu Phong slư của người Tày phải am hiểu sâu sắc vốn văn hóa
dân tộc Tày mới có thể thấy được nét đẹp của loại hình nghệ thuật này. Phong
slư của người Tày xưa kia thường được các trai gái Tày gửi cho nhau để trao
đổi tình cảm, những bức Phong slư thường được gói cẩn thận và trao cho
người tin cậy gửi đến người nhận. Trong xã hội xưa kia không phải ai cũng
viết được Phong slư, người viết nên được bức Phong slư hoàn chỉnh là người
có vốn văn hóa dân gian sâu rộng mới có thể sáng tạo nên một công trình thơ
đồ sộ như vậy.
Ông Nông Trƣờng Tập (80 tuổi) xã Dân Chủ, Hòa An, Cao Bằng. Ông
là người có nhiều đóng góp cho việc lưu truyền những làn điệu dân ca ở địa
phương, là người chuyên đặt lời cho nhiều làn điệu dân ca. Ông cho biết Phong
slư là một loại hình dân ca đặc trưng của người Tày, đặc biệt là nguời Tày ở
vùng đất Hòa An. Với âm sắc đặc trưng trong lời nói đã tạo nên một làn điệu
Phong slư ngọt ngào khác biệt với Phong slư của huyện khác.
Phụ Lục 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LÀNG BẢN, ĐỒNG RUỘNG CỦA
NGƢỜI TÀY Ở HÕA AN – CAO BẰNG
Một góc làng của người Tày ở xã Dân Chủ, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày 21/10/2015)
Một góc bản của người Tày ở xã Dân Chủ – Hòa An – Cao Bằng. (Nguồn: Tác giả chụp ngày 16/12/2015)
Bản của người Tày ở Xã Nam Tuấn, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày18/3/2016) Nhà sàn của người Tày ở xã Hà Trì, huyện Hòa An, Cao Bằng (Nguồn: Tác giả chụp ngày 28/1/2016)
Một số đoạn Phong Slư do cụ Ma Văn Hàn ở xã Nam Tuấn, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng cung cấp.
Lễ chúc khang ninh của người Tày (Nguồn: www.baocaobang.vn) Nghệ nhân truyền dạy dân ca cho người yêu thích. (Nguồn: www.baocaobang.vn)
Ảnh tác giả chụp cùng nhà nghiên cứu dân gian Triều Ân tại xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng