ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
LÒ VĂN DUY
NGHIÊN CỨU SỰ THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG TẠI HUYỆN NẬM NHÙN
TỈNH LAI CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
THÁI NGUYÊN - 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
LÒ VĂN DUY
NGHIÊN CỨU SỰ THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG TẠI HUYỆN NẬM NHÙN TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Bảo Dƣơng
THÁI NGUYÊN - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu khoa học, kết quả nghiên cứu của Luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lò Văn Duy
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường đại học Kinh tế và
Quản trị kinh doanh, Phòng Đào tạo trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh đã giúp tôi có kiến thức và hoàn thành tốt bản Luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Phạm Bảo Dương đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện và hoàn thành tốt Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của khoa sau đại học, các
thầy cô giáo trong trường đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm
quý báu trong suốt thời gian học tập và làm Luận văn tốt nghiệp tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã động viên
giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt Luận văn này.
Dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện song Luận văn sẽ không
tránh khỏi những hạn chế và sai sót, tôi rất mong nhận được nhiều sự góp ý
của các thầy cô và các bạn để những giải pháp, kiến nghị, đề xuất trong Luận
văn có thể được áp dụng ngoài thực tiễn đạt kết quả cao.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lò Văn Duy
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................. vi
DANH MỤC CÁC BẢNG.............................................................................. vii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HỘP .................................................................. viii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ....................................................................... 3
5. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 4
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GTNT ............................................. 5
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của GTNT ............................................................................... 8
1.1.3. Vai trò của giao thông trong phát triển nông thôn ................................ 10
1.1.4. Mối quan hệ giữa sự tham gia của người dân với phát triển GTNT ..... 11
1.1.5. Đặc điểm tham gia của cộng đồng trong phát triển đường GTNT ....... 12
1.1.6. Nghiên cứu sự tham gia của người dân trong phát triểnGTNT ............ 13
1.1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng GTNT 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 22
1.2.1. Kinh nghiệm nước ngoài ....................................................................... 22
1.2.2. Kinh nghiệm trong nước ....................................................................... 24
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn ................................................ 25
iv
Chƣơng 2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................. 27
2.1. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 27
2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ............................................................ 27
2.3. Chọn điểm nghiên cứu ............................................................................. 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 28
2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu ............................................... 28
2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................... 30
2.4.3. Phương pháp phân tích đánh giá ........................................................... 30
2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ................................................................... 31
2.5.1. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển GTNT ................................................... 31
2.5.2. Chỉ tiêu tham gia của cộng đồng trong phát triển GTNT ..................... 31
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN TRONG
PHÁT TRIỂN GTNT TẠI HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU ... 32
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ... 32
3.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 32
3.1.2. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 33
3.1.3. Những yếu tố về văn hóa, xã hội .......................................................... 35
3.1.4. Những yếu tố về kinh tế ........................................................................ 37
3.2. Thực trạng hệ thống GTNTtại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ............ 39
3.3. Thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng GTNT tại huyện
Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ............................................................................... 42
3.3.1. Thực trạng sự tham gia của người dân trong quyết định các vấn đề xây
dựng đường GTNT .......................................................................................... 42
3.3.2. Sự tham gia đóng góp nguồn lực cho xây dựng GTNT ........................ 53
3.3.3. Sự tham gia kiểm tra, giám sát công trình giao thông .......................... 60
3.3.4. Sự tham gia nghiệm thu, quản lý, khai thác sử dụng công trình .......... 64
3.4. Yếu tố ảnh hướng tới sự tham gia của cộng đồng người dân trong phát
triển GTNT tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ........................................... 70
v
3.5. Đánh giá kết quả đạt được, tồn tại hạn chế đối với sự tham gia của cộng
đồng trong phát triển GTNT ở huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ................... 77
3.5.1 Những kết quả đạt được ......................................................................... 77
3.5.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân ................................................. 79
Chƣơng 4 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA CỦA
NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG TẠI HUYỆN
NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU ................................................................. 83
4.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng nâng cao hiệu quả tham gia của
người dân phát triển trên địa bàn huyện Nậm Nhùn đến năm 2020 ............... 83
4.1.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển giao thông trên địa bàn huyện Nậm
Nhùn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ................................................ 83
4.1.2. Định hướngtăng cường tham gia người dân phát triển giao thông ....... 83
4.1.3. Mục tiêu, phương hướng tham gia người dân phát triển giao thông .... 84
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của người dân phát triển GTNT
trên địa bàn huyện Nậm Nhùn ........................................................................ 85
4.2.1. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả tham gia
của người dân phát triển GTNT ...................................................................... 85
4.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật
đến người dân về phát triển GTNT ................................................................. 87
4.2.3. Tạo cơ chế cho sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý
đường GTNT ................................................................................................... 88
4.2.4. Huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý
đường GTNT ................................................................................................... 89
4.2.5. Xây dựng các phong trào, thi đua, khen thưởng ................................... 90
4.2.6. Đa dạng hóa hình thức cộng đồng tham gia xây dựng GTNT .............. 91
4.2.7. Nâng cao nhận thức, trình độ, thu nhập, hiểu biết của người dân về xây
dựng GTNT ..................................................................................................... 92
4.3. Kiến nghị .................................................................................................. 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 100
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Cụm từ viết tắt
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Giao thông nông thôn GTNT
Hội đồng nhân dân HĐND
Nghị định - Chính phủ NĐ-CP
Nông thôn mới NTM
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA
QCXDVN Quy chuẩn xây dựng Việt Nam
Quyết định - Bộ xây dựng QĐ-BXD
Quyết định - Thủ tướng chính phủ QĐ-TTg
Quyết định- Ủy ban QĐ-UB
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
TCXDVN Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam
Thành phố Tp.
Thông tư - Bộ tài chính TT-BTC
Thông tư - Bộ xây dựng TT-BXD
Ủy ban nhân dân UBND
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng số lượng và đối tượng điều tra ........................................... 30
Bảng 3.1: Các tuyến đường trọng điểm của Huyện Nậm Nhùn .................. 39
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu của công trình GNTN bản Chang và bản Lai Hà .. 43
Bảng 3.3: Người dân được cung cấp thông tin về xây dựng đường GTNT 43
Bảng 3.4: Kênh cung cấp thông tin cho người dân về đường GTNT ......... 44
Bảng 3.5: Nội dung tham gia của người dân trong xây dựng đường GTNT .. 45
Bảng 3.6: So sánh sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn trước khi xây
dựng ở hai công trình .................................................................. 50
Bảng 3.7: Mức độ tham gia của người dân trong lập kế hoạch xây dựng ... 51
Bảng 3.8: Một số chỉ tiêu thực hiện của hai công trình xã Lê Lợi .............. 54
Bảng 3.9: Đóng góp của cộng đồng trong thi công xây dựng công trình ... 57
Bảng 3.10: Sự tham gia cộng đồng trong kiểm tra, giám sát công trình ....... 61
Bảng 3.11: Mức độ tham gia của cộng đồng trong việc kiểm tra,giám sát ... 62
Bảng 3.12: Số lượng công trình phân theo hình thức quản lý ....................... 64
Bảng 3.13: Tình hình quản lý sử dụng, duy tu, bảo dưỡng ở hai công trình ...... 67
Bảng 3.15: Thu nhập bình quân đầu người qua các năm .............................. 70
Bảng 3.16: Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của các chủ hộ ......... 71
Bảng 3.17: Tầm quan trọng của công tác tuyên truyền ................................. 77
Bảng 3.15: Tỷ lệ giá trị đóng góp của cộng đồng theo quy mô công trình ở
các bước công việc chủ yếu ........................................................ 79
viii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HỘP
Hộp 3.1: Phỏng vấn sâu: Ông Lò Văn Sinh - Chủ tịch UBND xã Lê Lợi . 63
Hộp 3.2: Phỏng vấn sâu:Bà Lò Thị Thắm -Cán bộ địa chính xã Lê Lợi ... 63
Hộp 3.3: Phỏng vấn sâu: Ông Lò Văn Then - Trưởng bản Chang, xã Lê Lợi ..... 72
Hộp 3.4: Phỏng vấn sâu: Ông Hỏ Văn Tâm- Người dân bản Chang, xã Lê Lợi ... 72
Hộp 3.5: Phỏng vấn sâu: Bà Lò Thị Thắm, cán bộ địa chính xã Lê Lợi ... 76
Hộp 3.6: Phỏng vấn sâu: Ông Mai Văn Thắng, cán bộ Phòng Kinh tế và
Hạ tầng Huyện Nậm Nhùn, phụ trách vấn đề GTNT.................. 76
Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức thực hiện trong giai đoạn trước khi xây dựng
trình đường GTNT xã Lê Lợi ...................................................... 49
Sơ đồ 3.2: Cây vấn đề về nội dung cộng đồng không tham giatrong giai
đoạn trước khi xây dựng công trình đường GTNT ..................... 82
Sơ đồ 3.3: Cây vấn đề thể hiện cơ sở sự tham gia của cộng đồng trong giai
đoạn trước khi xây dựng công trình đường GTNT ..................... 82
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế đổi mới và hội nhập, những năm qua đất nước ta đã tạo
được những xung lực mới cho quá trình phát triển, đã đạt được nhiều thành
tựu kinh tế - xã hội quan trọng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hằng năm cao, bảo
đảm an sinh xã hội. Năm 2010 đã đánh dấu một mốc quan trọng: Nước ta đã
vượt qua ngưỡng nước nghèo, bước vào nhóm nước có mức thu nhập trung
bình. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, trong
đó có vấn đề chênh lệch giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn. Vì vậy, nhiệm
vụ đặt ra là phát triển kinh tế nông thôn, trọng tâm phát triển hạng tầng nông
thôn làm cơ sở, lấy phát triển giao thông làm tiên phong.
Nậm Nhùn là một huyện của tỉnh Lai Châuđược thành lập ngày 02
tháng 11 năm 2012 theo Nghị định số 71/NQ-CP của Chính phủ trên cơ sở
một phần của huyện Mường Tè và một phần của huyện Sìn Hồ cũ. Xác định
xây dựng hệ thống giao thông để tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế -
xã hội, Đảng bộ, chính quyền huyện Nậm Nhùn đã tranh thủ các nguồn lực
phát động phong trào Nhà nước và nhân dân cùng tham gia xây dựng đường
GTNT, đặc biệt là giao thông.
Tuy nhiên, hệ thống giao thông huyện Nậm Nhùn còn chưa đồng bộ,
một số không nhỏ tuyến đường chưa đạt cấp kỹ thuật. Một thực tế là ở nhiều
nơi, công trình bị xuống cấp nghiêm trọng, quản lý trong xây dựng cũng như
khai thác sử dụng còn rất hạn chế. Sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng
đường giao thông chưa thực sự hiệu quả và thiếu tính đồng bộ. Cộng đồng
người dân chưa quan tâm đến việc xây dựng và quản lý đường giao thông.
Người dân chưa nắm được vai trò của mình trong việc tham gia trong các
bước của dự án, chưa phát huy hết quyền lợi của người dân trong phát triển
2
giao thông nôn thôn.Do đó, yêu cầu cần phải tăng cường sự tham gia của
cộng đồng trong xây dựng đường giao thông tại huyện Nậm Nhùn trong giai
đoạn hiện nay. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên cứu sự
tham gia của người dân trong phát triển giao thông tại huyện Nậm Nhùn,
tỉnh Lai Châu” để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của
người dân trong phát triển giao thông tại các xã, bản của huyện Nậm Nhùn
trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Lựa chọn, đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò tham gia của người
dân trong phát triển GTNT tại các địa phương có điều kiện tương đồng
với huyện Nậm Nhùn nói chung và huyện Nậm Nhùn nói riêng trong thời
gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của
người dân trong phát triển GTNT.
+ Đánh giá thực trạngsự tham gia của người dân trong phát triển GTNT
tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu, những kết quả đạt được và những yếu tố
tồn tại, khó khăn.
+ Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong
phát triển GTNT trên địa bàn huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
+ Đề xuất giải pháp để tăng cường và nâng cao hiệu quả tham gia của
người dân trong phát triển GTNTtại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Sự tham gia của người trong sự
phát triển GTNT tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài thể hiện phạm vi nội dung, phạm vi
không gian, phạm vi thời gian cụ thể như sau:
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng
và các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong phát triển
GTNTđể đề xuất các giải pháp.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp giai đoạn 2013 - 2015; số liệu sơ cấp
nghiên cứu trong năm 2016; các giải pháp được đề xuất cho tới năm 2025.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
Ý nghĩa khoa học của luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ
thống cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia như sự cần thiết của việc
người dân tham gia phát triển hệ thống giao thông, nội dung, hình thức
tham gia, các yếu tố ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân để có thể đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của người dân trong sự
phát triển GTNT nói chung.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài được thể hiện các mặt cụ thể như sau:
- Luận văn đóng góp một phần giúp chính quyền cũng như người dân địa
phương xác định vai trò của người dân trong phát triển GTNTtại địa phương.
- Từ đó giúp chính quyền địa phương vận dụng một số giải pháp như
tuyên truyền, giáo dục, giải pháp kỹ thuật, giải pháp cơ chế chính sách…để
người dân xác định đúng, nâng cao vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của mình
trong phát triển GTNT tại xã, bản.
- Tiếp tục nhân rộng mô hình, tăng cường trao đổi xác giữa các xã, bản,
nhằm hoàn thiện mạng lưới giao thông của toàn huyện Nậm Nhùn,cũng như
áp dụng các giải pháp cho các địa phương có điều kiện tương đồng.
4
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn có 4 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của người dân
trong phát triển GTNT.
+ Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
+ Chương 3: Thực trạng về sự tham gia của người dân trong phát triển
GTNTtại huyện huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
+ Chương 4: Giải pháp, đề xuất để nâng cao hiệu quả tham gia của
người dân trong sự phát triển GTNTtại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ THAM GIACỦA
NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GTNT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm
- Cộng đồng:Cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân
con người sống chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội
hoặc sinh học nào đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh
thần nào đấy [Nguồn: Tài liệu Trung tâm nghiên cứu và tập huấn phát triển
cộng đồng].
Cộng đồng là một tập thể người sống trong cùng một khu vực, một tỉnh
hoặc một quốc gia và được xem là một khối thống nhất. Cộng đồng là một
nhóm người có cùng tính ngưỡng, chủng tộc, cùng loại hình nghề nghiệp hoặc
cùng mối quan tâm. Cộng đồng là một tập thể cùng chia sẻ hoặc có cùng tài
nguyên chung hoặc có tình trạng tương tự nhau về một số khía cạnh chung
nào đó [Nguồn: Từ điển Đại học Oxfoxd].
Trong đề tài này, cộng đồng được hiểu là cộng đồng được hưởng lợi
từ các công trình giao thông, đó là tập hợp các cư dân nông thôn nằm trong
vùng phục vụ chủ yếu của công trình, sử dụng chung công trình đường giao
thông. Nói cách khác, đây chính là bộ phận dân cư nơi xây dựng công trình,
công trình này sẽ phục vụ nhu cầu đi lại, vận tải hàng ngày, thường xuyên,
liên tục của họ.
- Sự tham gia: Theo cách hiểu chung thì tham gia là góp phần hoạt
động của mình vào một hoạt động, một tổ chức chung nào đó. Quan điểm của
các nhà nghiên cứu phát triển, tham gia (Participation) là một triết lý đặc biệt
quan trọng trong nghiên cứu phát triển cộng đồng. Oakley P. (1989) cho rằng
tham gia là một quá trình tạo khả năng nhạy cảm của người dân và làm tăng
khả năng tiếp thu và năng lực của người dân nhằm đáp ứng các nhu cầu phát
6
triển cũng như khích lệ các sáng kiến địa phương. Quá trình này hướng tới sự
tăng cường năng lực tự kiểm soát các nguồn lực và tổ chức điều hành trong
những hoàn cảnh nhất định. Tham gia bao hàm việc ra quyết định, thực hiện,
phân chia lợi ích và đánh giá các hoạt động phát triển của người dân.
- GTNT là một hệ thống các con đường bao quanh làng bản, thôn
xóm. Nó bao gồm các tuyến đường từ trung tâm xã, đến các trục đường
quốc lộ, trung tâm hành chính huyện, đường liên xã, liên thôn, đường làng
ngõ xóm và đường chính ra ñồng ruộng xây dựng thành một hệ thống giao
thông liên hoàn.
Đường GTNT bao gồm các tuyến đường thuộc tỉnh, huyện, xã nối
liền tới các thị trường, các khu vực kinh tế phi nông nghiệp và các dịch vụ
xã hội khác. Đường GTNT chủ yếu là đường bộ,cầu cống, bến cảng phục vụ
cho nông nghiệp, nông thôn. Có thể nói đường giao thông nói chung, đường
GTNT nói riêng là huyết mạch sống còn của lưu thông hàng hoá.
Đường GTNT bao gồm: Đường huyện, đường xã, đường thôn xóm.
Hệ thống đường huyện là các đường nối từ trung tâm hành chính huyện tới
trung tâm hành chính của xã hoặc cụm các xã, các huyện lân cận. Uỷ ban
nhân dân cấp huyện quản lý đối với đường trong phạm vi huyện. Hệ thống
đường xã là các đường nối trung tâm hành chính xã đến các thôn xóm hoặc
các đường nối giữa các xã với nhau. Uỷ ban nhân dân xã quản lý đường
trong phạm vi xã, đường thôn xóm bao gồm các đường trong nội bộ khu
dâncư và các đường từ thôn ra đồng ruộng.
- Phát triển GTNT:Là quá trình bỏ vốn cùng các tài nguyên, lao động
và vật chất khác để tạo nên tài sản (đường giao thông thôn/bản), bao gồm
xây dựng mới, xây dựng lại, mở rộng, khôi phục các công trình đường giao
thông thôn/bản nhằm góp phần thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về đi lại,
vận chuyển hàng hóa, máy móc... để phục vụ đời sống và sản xuất nông
nghiệp; thực thi các chính sách do hội đồng quyết định và phối hợp các hoạt
7
động hàng ngày để đạt được mục đíchvà mục tiêu của cơ quan hay tổ chức
nhằm bảo đảm việc khai thác sử dụng giao thông thôn/bản bảo đảm hiệu
quả, đạt được mục đích đề ra. Nâng caođiều kiện sống cho người dân nông
thôn thông qua cải tạo các đường giao thông thôn/bản; tăng khả năng tiếp
cận cho các vùng nông thôn với các dịch vụ, thương mại; góp phần vào
chương trình xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Tăng cường năng lực quản
lý của các cơ quan trung ương và địa phương. Giảm tác động xấu do điều
kiện hệ thống đường GTNT kém gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông
thôn và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn.
Việc quản lý GTNT được phân cấp, phân quyền từ trung ương đến địa
phương. Đối với các tuyến đường huyện: Các tuyến đường huyện do UBND
huyện quản lý và chịu trách nhiệm về xây dựng, khai thác và duy tu sửa chữa
thường xuyên của các tuyến đường theo quy định của UBND tỉnh. Riêng vấn đề
quản lý, sử dụng đất trong và ngoài hành lang an toàn giao thông đối với các
tuyến đường trong huyện, UBND huyện có trách nhiệm phổ biến tới từng xã
trong huyện về tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ hành lang an toàn đường bộ
và những quy định của pháp luật về vấn đề này; đồng thời xử lý kịp thời các
trường hợp lấn chiếm hoặc sử dụng trái phép đất hành lang an toàn đường bộ.
Đối với các tuyến đường xã: UBND xã có trách nhiệm quản lý khai
thác và tổ chức bảo trì các tuyến đường bộ được giao trên địa bàn xã. Đồng
thời tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhân dân trong xã các quy định về phạm
vi đất dành cho đường bộ và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ song
song với việc sử dụng đất trong và ngoài hành lang an toàn đường bộ theo
quy định của pháp luật.
Đối với đường giao thông thôn/bản: Các tuyến đườngnày doUBNDxã
chịu trách nhiệm quản lý theo thẩm quyền.
Từ những phân tích như trên, có thể thấy sự tham gia của người dân
trong xây dựng đường GTNT là rất cần thiết. Các công trình giao thông này là
8
những công trình giao thông công ích, phục vụcác yêu cầu phát triển của xã
hội và lợi ích trực tiếpcủa người dân tại nơi mình sinh sống. Chính sự tham
gia này sẽ giúp cho các công trình giao thông được đảm bảo hơn và phù hợp
với yêu cầu sử dụng của người dân tại khu vực thi công. Người dân tại các
khu vực nông thôn có thể tham gia vào nhiều khâu từ thiết kế đến nghiệm thu
và quản lý... trong tất cả các các công trình giao thông công ích tại nơi mình
sinh sống, từ hệ thống đường giaothông liên thôn, xã đến các hệ thống đường
giao thông phục vụ cho sản xuất.... Do vậy, sự tham gia của người dân trong
xây dựng đường GTNT có ý nghĩa quan trọng và không thể thiếu.
Theo quan điểm của tác giả: Sự tham gia của người dân trong phát
triển GTNT là sự đóng góp của người dân trong tất cả các hạng mục công
việc của các công trình giao thông ở nông thôn, khu vực mà người dân sinh
sống. Sự tham gia này được thể hiện bằng nhiều cách như: đóng góp ý kiến về
thiết kế, giám sát, đóng góp vào quá trình kế hoạch thi công, nghiệm thu và
quản lý các hạng mục công trình GTNT.
1.1.2. Đặc điểm của GTNT
GTNT gắn liền với mọi hệ thống kinh tế, xã hội, là nhân tố thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, vừa phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã
hội của nông thôn. GTNT có những đặc điểm sau:
- Cấu trúc phức tạp
GTNT là một hệ thống cấu trúc phức tạp phân bố trên toàn lãnh thổ,
trong đó có những bộ phận có mức độ và phạm vi ảnh hưởng cao thấp khác
nhau tới sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nông thôn, của vùng và của
làng, xã. Tuy vậy, các bộ phận này có mối liên hệ gắn kết với nhau trong quá
trình hoạt động, khai thác và sử dụng.Do vậy, việc quy hoạch tổng thể phát
triển GTNT, phối hợp kết hợp ghĩa các bộ phận trong một hệ thống đồng bộ,
sẽ giảm tối đa chi phí và tăng tốiđa công dụng của hệ thống GTNT cả trong
xây dựng cũng như trong quá trình vận hành, sử dụng.
9
Tính chất đồng bộ, hợp lý trong việc phối, kết hợp các yếu tố trong giao
thông không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà còn có ý nghĩa về xã hội. Các công
trình giao thông thường là các công trình lớn, chiếm chỗ trong không gian.
Tính hợp lý của các công trình này đem lại sự thay đổi lớn trong cảnh quan và
có tác động tích cực đến các sinh hoạt của dân cư trong địa bàn.
- Tính đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài
GTNT đòi hỏi đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, mở đường cho các
hoạt động kinh tế, xã hội phát triển. Đặc điểm này đòi hỏi trong phát triển
GTNT phải chú trọng đến hạ tầng giao thông của toàn bộ nông thôn, của vùng
hay của làng, xã cần được hình thành và phát triển trước một bước và phù hợp
với các hoạt động kinh tế, xã hội. Dựa trên các quy hoạch phát triển kinh tế –
xã hội để quyết định việc xây dựng GTNT. Đến lượt mình, sự phát triển giao
thông về quy mô, chất lượng lại thể hiện định hướng phát triển kinh tế, xã hội
và tạo tiền đề vật chất cho tiến trình phát triển kinh tế – xã hội.
- Mang đặc trưng của vùng miền
Việc xây dựng và phát triển giao thông ở nông thôn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển … Do địa bàn nông
thôn rộng, dân cư phân bố không đều và điều kiện sản xuất nông nghiệp
vừa đa dạng, phức tạp lại vừa khác biệt lớn giữa các địa phương, các vùng
sinh thái. Vì thế, hệ thống GTNT mang tính vùng và địa phương rõ nét.
Điều này thể hiện cả trong quá trình tạo lập, xây dựng cũng như trong tổ
chức quản lý, sử dụng. Yêu cầu này đặt ra trong việc xác định phân bố hệ
thống GTNT, thiết kế, đầu tư và sử dụng nguyên vật liệu, vừa đặt trong hệ
thống chung của quốc gia, vừa phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng
địa phương, từng vùng lãnh thổ.
- Tính xã hội và công cộng cao
Tính xã hội và công cộng cao của các công trình giao thông ở nông
thôn thể hiện trong xây dựng và trong sử dụng. Trong sử dụng, hầu hết các
10
công trình đều được sử dụng nhằm phục vụ việc đi lại, buôn bán giao lưu của
tất cả người dân, tất cả các cơ sở kinh tế, dịch vụ.Trong xây dựng, mỗi loại
công trình khác nhau có những nguồn vốn khác nhau từ tất cả các thành phần,
các chủ thể ttrong nền kinh tế quốc dân. Để việc xây dựng, quản lý, sử dụng
các hề thống đường GTNT cần lưu ý:
+ Đảm bảo hài hoà giữa nghĩa vụ trong xây dựng và quyền lợi trong
sử dụng đối với các tuyến đường cụ thể. Nguyên tắc cơ bản là gắn quyền
lợi và nghĩa vụ.
+ Thực hiện tốt việc phân cấp trong xây dựng và quản lý sử dụng công
trình cho từng cấp chính quyền, từng đối tượng cụ thể để khuyến khích việc
phát triển và sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng.
1.1.3. Vai trò của giao thông trong phát triển nông thôn
Đứng trước yêu cầu phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước chủ trương
xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, lấy nông dân là
vị trí then chốt trong mọi sự thay đổi cần thiết, với ý nghĩa phát huy nhân tố
con người, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc
xây dựng nông thôn mới.
Hiện nay, hệ thống GTNT đã có bước phát triển căn bản và nhảy vọt,
làm thay đổi không chỉ về số lượng mà còn nâng cấp về chất lượng con đường
về tới tận thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi phát văn hóa, xã hội và thu hút các
lĩnh vực đầu tư về khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Phát triển GTNTgóp phần thay đổi cuộc sống
của người dân nơi vùng cao vốn chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện thời tiết,
thổ nhưỡng cũng như văn hóa xã hội.
GTNT giúp hộ nông dân, các trang trại đưa nông sản đến bán cho cơ sở
chế biến, đến các đô thị, đến các vùng dân cư trong cả nước, đảm bảo và nâng
11
cao chất lượng hàng hoá nông sản, nhất là các nông sản tươi sống phục vụ cho
tiêu dùng cũng như cho khu công nghiệp chế biến. Ngược lại, nó còn giúp cho
thị trường nông thôn phát triển, vì nông thôn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ
các hàng hoá các ngành công nghiệp, sản xuất khác. Đối với vùng núi, vùng
sâu, vùng xa, GTNT còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu cơ sở hạ tầng
giao thông không tốt sẽ là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng
chuyên môn hoá sản xuất tại từng khu vực về cả cây ngắn ngày và cây dài
ngày có tiềm năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được sản phẩm hoặc
không được cung cấp lương thực một cách ổn định. Như vậy, GTNT còn là
giải pháp tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn (cả nông
nghiệp và phi nông nghiệp) sang sản xuất hàng hoá.
1.1.4. Mối quan hệ giữa sự tham gia của người dân với phát triển GTNT
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển giao thông là sự đóng góp
một phần hoạt động của cộng đồng được hưởng lợi để tham gia quá trình xây
dựng giao thông, sự tham gia thường được chia làm 3 giai đoạn đó là tham gia
trong giai đoạn trước khi xây dựng; tham gia trong khi xây dựng và tham gia
quản lý sử dụng, duy tu bảo dưỡng đường. Việc tăng cường sự tham gia của
cộng đồng là rất cần thiết và mang lại các lợi ích thiết thực cho cộng đồng:
- Tăng cường phúc lợi xã hội: Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào
quá trình thực hiện chính sách chung một mục đích nhằm ngày càng làm tăng
phúc lợi chung cho xã hội. Khi chúng ta thúc đẩy sự tham gia vì lý do cơ bản
là nhằm nâng cao khả năng tự chủ của con người.
Sự hiểu biết của cộng đồng được tăng cường hơn nữa khi họ được khuyến
khích tham gia xây dựng một cách tích cực hơn. Trong quá trình tham gia xây
dựng GTNT, người dân có thể nâng cao hiểu biết của mình về cộng đồng, về
những thuận lợi, khó khăn khi xây dựng GTNT của các cấp chính quyền.
- Xây dựng chính sách tốt hơn: Sự tham gia của người dân làm cho
các chính sách trở nên gần gũi và hiệu quả hơn trong quá trình đi đến mục
12
tiêu. Sự tham gia của nhiều nhóm dân cư khác nhau sẽ góp phần bảo đảm
rằng mọi thông tin liên quan đều được tính đến trong khi thiết kế chính
sách. Như trong xác định chính sách xây dựng GTNT, người tham gia sẽ
cho ý kiến, thông tin về tình trạng giao thônghiện tại, những bất cập,
những mong muốn và khả năng tham gia trong xây dựng GTNT đồng thời
còn đưa ra được các giải pháp cho các nhà quản lý. Trong một môi trường
cởi mở mà người dân được bàn, được làm, được kiểm tra, giám sát sẽ dẫn
đến những ý tưởng chưa từng có trong đầu của bất cứ một cá nhân nào
cho đến khi nhóm bắt đầu cùng làm việc với nhau.
Có thể nói sự tham gia của cộng đồng trong chính sách, cho phép người
dân thể hiện tình trạng thực trạng, sự mong muốn, những nhu cầu cấp thiết
của họ, giúp họ thấu hiểu được những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thực
trạng. Từ đó họ bàn bạc, thảo luận để đưa ra các biện pháp phù hợp với họ.
Sau đó họ sẽ tích cực tham gia vào thực hiện chính sách, giúp chính sách
được triển khai có hiệu quả trong cuộc sống.
1.1.5.Đặc điểm tham gia của cộng đồng trong phát triển đường GTNT
Trong điều kiện hiện nay, khi mà sức ép tăng trưởng dân số cùng với
sức ép về nhu cầu đi lại của người dân ngày càng tăng thì sự tham gia của
cộng đồng lại đóng vai trò quan trọng trong xây dựng, quản lý và sử dụng các
công trình đường giao thông là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn.
Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển đường GTNT có một số
đặc điểm chủ yếu sau:
- Người tham gia là người hưởng lợi từ các công trình đường giao
thông, họ vừa xây dựng, vừa những người quản lý, vừa là người hương thụ
thành quả. Do đó, mọi người dân được tham gia họp hành, cùng nhau bàn bạc
và cùng nhau giám sát, nghiệm thu thành quả của mình.
13
- Người dân tham gia là người am hiểu thực tế nơi xây dựng đường
giao thông. Không ai có thể hiểu rõ hoàn cảnh thực tế và tích lũy kinh
nghiệm quý báu như người dân tại nơi xây dựng công trình. Những kinh
nghiệm ấy được sử dụng trong xây dựng và quản lý đường giao thông sẽ
đem lại nhiều lợi ích.
- Hầu hết các công trình đầu tư xây dựng và quản lý các công trình xây
dựng giao thông nói chung và đường GTNT nói riêng đều có nhu cầu sử dụng
vốn khá lớn, với điều kiện còn hạn chế về tài chính, cộng đồng hưởng lợi chủ
yếu tham gia trong các công trình quy mô nhỏ, chi phí thấp và đóng góp chủ
yếu vẫn là sức lao động.
- Cộng đồng thường muốn vai trò của họ trong các dự án đường được
nâng cao. Họ muốn rằng họ là người đầu tiên được hưởng lợi và là những
người có liên quan chặt chẽ đến chất lượng và sự bền vững của các con đường
giao thông này. Người dân muốn tham gia trực tiếp vào việc thiết kế và giám
sát thi công các con đường tại địa phương.
1.1.6. Nghiên cứu sự tham gia của người dân trong phát triểnGTNT
1.1.6.1. Các nội dung tham gia của người dân trong phát triển GTNT
Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng đường GTNT được coi
như nhân tố quan trọng, quyết định sự thành bại của phương pháp tiếp
cậnphát triển dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Xuất phát từ quan
điểm “lấy dân làm gốc”, vai trò của người dân được thể hiện: “Dân biết, dân
bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra giám sát, dân quản lý, dân hưởng
lợi”. Trong phát triển đường GTNT, sự tham gia của người dân được thể hiện
trên các phương diện sau:
a. Sự tham gia của người dân trong quyết định các vấn đề xây dựng
đường GTNT
Tham gia góp ý kiến về nhu cầu xây dựng đường GTNT, tham gia đóng
góp ý kiến lập quy hoạch các bản; … Sự tham gia của người dân trong quyết
14
định các vấn đềxây dựng GTNT được coi như nhân tố quan trọng, quyết định
sự thànhbại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa vào nội lực
và do cộng đồng làm chủ trong xây dựng. Sự hiểu biết của người nông dân về
những kiến thức bản địa có thể đóng góp vào quá trình quy hoạch nông thôn,
quá trình khảo sát thiết kế các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào các giai
đoạn sau của quá trình xây dựng công trình, người dân nắm được thông tin
đầy đủ về công trình mà họ tham gia như: mục đích xây dựng công trình, các
yêu cầu đóng góp từ cộng đồng, trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng
người dân được hưởng lợi. Bên cạnh đó, người dân được tham gia ý kiến liên
quan đến kế hoạch phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt
động của nông dân trên địa bàn như bàn luận mở ra một hướng sản xuất mới,
đầu tư xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các giải pháp thiết kế, phương
thức khai thác công trình, tổ chức quản lý công trình, các mức đóng góp và
các định mức chitiêu từ các nguồn thu, phương thức quản lý tài chính,…trong
nội bộ cộng đồng dân cư hưởng lợi.
Hơn ai hết người dân địa phương là những người có những hiểu biết về
rõ nhất về các điều kiện môi trường, nguồn nước, thiên tai, hạn hán, lũ lụt,
những khó khăn của những con đường như lụt lội, xuống cấp, hư hỏng và các
nhu cầu cần thiết phải mở rộng, nâng cấp, làm mới, quy mô, chất lượng công
trình…những vấn đề trên thể hiện được vai trò của người dân trong công tác
khảo sát, thiết kế, cũng như đóng góp các ý kiến để các cơ quan chức năng
tham khảo hoàn thiện các dự án một cách đầy đủ và hoàn thiện.
b. Sự tham gia đóng góp nguồn lực cho xây dựng GTNT
Được thể hiện dưới nhiều hình thức như: tiền mặt, hiện vật (vật liệu xây
dựng…), ngày công lao động,… để thực hiện các hoạt động xây dựng đường
GTNT. Dân đóng góp là một yếu tố không chỉ ở phạm trù vật chất, tiền bạc
mà còn ở cả phạm trù nhận thức về quyền sở hữu và tính trách nhiệm, tăng
15
tính tự giác của từng người dân trong cộng đồng. Hình thức đóng góp có thể
bằng tiền, sức lao động, vật tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ. Chính là sự
tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các hoạt động PTNT như: đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động của các nhóm khuyến nông, khuyến
lâm, nhóm tín dụng tiết kiệm và những công việc liên quan đến tổ chức tiếp
nhận, quản lý và sử dụng công trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá
trình cụ thể trong việc lập kế hoạch có sự tham gia cho từng hoạt động thi
công, quản lý, duy tu bảo dưỡng, từ những việc tham cho người dân có việc
làm, tăng thu nhập cho người dân.
Việc tham gia đóng góp của người dân là một yếu tố không chỉ ở
phạm trù vật chất, tiền bạc mà còn ở cả phạm trù nhận thức về quyền sở hữu
và tính trách nhiệm, tăng tính tự giác của từng người dân trong cộng đồng.
Khi người dân tham gia đóng góp nguồn lực thì việc duy trì, bảo dưỡng và
quản lý đường GTNT sẽ được người dân quan tâm hơn, tăng tính hiệu quả
của dự án. Hiện nay, có nhiều hình thức đóng góp có thể bằng tiền, công lao
động, vật tư tại chỗ, đất đai hoặc đóng góp bằng trí tuệ. Tuy nhiên, mức
đóng góp không bắt buộc mà chỉ dựa trên cơ sở tự nguyện, tùy theo khả
năng của các hộ gia đình và tình hình thực tế tại các khu vực khác nhau.
Khi các công trình GTNT được thi công trên địa bàn, người dân
sẵnsàng tham gia vào công việc của công trình không chỉ ở mức tham gia thi
công mà còn tham gia đóng góp vật liệu cho công trình. Sau khi bản thiết kế
hoàn thành, người dân được huy động triển khai công trình dưới dự chỉ đạo
và giám sát của ban thiết kế. Tư tưởng chủ đạo của dự án là huy động tối đa
sự đóng góp của người dân (kể cả công lao động và vật liệu xây dựng) cho
các hoạt động. Do được thảo luận dân chủ và quyết định tập thể nên người
dân hoàn toàn đồng ý với nguyên tắc này để có đủ vật liệu cho công trình
người dân đã tổ chức nhiều cuộc họp và phân chỉ tiêu cho từng thôn để khai
thác nguyên vật liệu nhằm phục vụ cho công tác xây dựng. Trưởng ban kiến
16
thiết có trách nhiệm điều hành chung. Với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng
như thế các thôn, các cá nhân đã ý thức rõ được trách nhiệm của mình nên
mặc dù trong điều kiện thời tiết không thuận lợi (mưa, rét, lụt) nhưng họ
phải có biện pháp khắc phục để hoàn thành công việc của mình đúng thời
gian qui định với chất lượng đảm bảo.
c. Sự tham gia trong kiểm tra, giám sát các công trình GTNT
Sự tham gia của người dân thể hiện bằng việc người dân trực tiếp hoặc
gián tiếp kiểm tra thực tế vào các công trình giao thông, ngoài ra còn có các
ban giám sát cộng đồng. Thông qua các chương trình, hoạt động có sự giám
sát và đánh giá cảu người dân, để thực hiện các quy chế dân chủ cơ sở của
Đảng và Nhà nước nói chung và nâng cao hiệu quả chất lượng công trình. Ở
những công trình có nhiều bên tham gia, sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng
hưởng lợi có tác động tích cực trực tiếp đến chất lượng công trình và tính
minh bạch trong việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và của người dân
vào xây dựng, quản lý và vận hành công trình. Việc kiểm tra có thể được tiến
hành ở tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư trên các khía cạnh kỹ thuật
cũng như tài chính.
d. Sự tham gia nghiệm thu, quản lý, khai thác sử dụng công trình GTNT
Nghiệm thu có nghiệm thu từng phần, từng giai đoạn và nghiệm thu
tổng thể; được thể hiện qua biên bản có sự ký kết của các thành phần tham
gia, trong đó có sự tham gia của người dân (ban thanh tra nhân dân). Số lần
nghiệm thu ở các hoạt động khác nhau cũng khác nhau, để tham gia nghiệm
thu được đòi hỏi cả quá trình tham gia lao động thực tế của người dân. Sau
nghiệm thu tổng thể, người dân tiếp nhận quản lý và khai thác sử dụng để
phục vụ cho chính nhu cầu của họ. Vừa khai thác vừa quản lý đồng thời nâng
cao vai trò của người dân, để họ thấy rằng mình thực sự rất quan trọng trong
các hoạt động phát triển của địa phương, từ đó tăng tính trách nhiệm của
người dân mà lại nâng cao tuổi thọ cho các công trình. Thành quả của các
17
hoạt động mà người dân tham gia: các công trình sau khi xây dựng xong cần
được quản lý trực tiếp của một tổ chức do nông dân hưởng lợi lập ra để tránh
tình trạng không rõ ràng về chủ sở hữu công trình. Việc tổ chức của người
dân tham gia duy tu, bảo dưỡng công trình nhằm nâng cao tuổi thọ và phát
huy tối đa hiệu quả trong việc sử dụng công trình.
1.1.6.2. Các hình thức tham gia của người dân trong phát triển GTNT
Người dân tham gia vào các chương trình dự án phát triển GTNT có
nghĩa làhọ đang thực thi dân chủ cơ sở qua một số các hình thức:
- Có quyền được biết một cách tường tận, rõ ràng những gì có liên quan
mật thiết và trực tiếp đến đời sống của họ.
- Được tham dự các buổi họp, tự do phát biểu, trình bày ý kiến,
quanđiểm và thảo luận các vấn đề của cộng đồng.
- Được cùng quyết định, chọn lựa các giải pháp hay xác định các vấn
đề ưu tiên của cộng đồng.
- Có trách nhiệm cùng mọi người đóng góp công sức, tiền của để thực
hiện các hoạt động mang tính lợi ích chung.
- Người dân tự lập kế hoạch dự án và quản lý điều hành, kiểm tra giám
sát, đánh giá các chương trình dự án phát triển cộngđồng.
Sự quyết định và tự quản của người dân được đánh giá ở mức độ cao
bởi lẽ nó thể hiện tăng năng lực, quyền lực của người dân. Mang tính bền
vững vì người dân thể hiện vai trò làm chủ với trách nhiệm cao của mình.
1.1.6.3. Các mức độ tham gia của người dân trong phát triển GTNT
Có nhiều mức độ để người dân tham gia như:
- Không có sự tham gia
+ Cán bộ điều khiển: người dân làm và thực hiện theo ý của cán bộ,
không được hiểu rõ như người dân bị gọi đi làm công ích, đóng góp tiền cho
một hoạt động nào đó mà không được biết, không được thảoluận.
+ Tham gia mang tính hình thức: cán bộ cũng có gọi dân đến, cho dân
phát biểu ý kiến nhưng chỉ có lệ, mọi việc cán bộ quyết theo ýmình.
18
- Tham gia ít
+ Người dân được thông báo và giao nhiệm vụ, hiểu rõ những việc
cánbộ muốn họ tham gia, sau đó người dân đóng góp công sức hay tiền của
theo khả năng của mình.
+ Người dân được hỏi ý kiến: kế hoạch công tác do cán bộ thiết kế và
quản lý, người dân được mời tham gia thảo luận, hỏi lấy ý kiến, cán bộ lắng
nghe nghiêm túc, sau đó cán bộ điều chỉnh kế hoạch (nếu cần thiết) cho phù
hợp với dân rồi cùng thực hiện.
- Tham gia thực sự
+ Cán bộ khởi xướng, người dân cùng tham gia lấy quyết định: cán bộ là
người khởi xướng, có ý tưởng. Người dân chủ động tham gia cùng cán bộ trong
các khâu lập kế hoạch, quyết định chọn các phương án và tổ chức thực hiện.
+ Người dân khởi xướng và cùng cán bộ ra quyết định: người dân khởi
xướng, lập kế hoạch, cán bộ cùng dân quyết định chọn các phương án và tổ
chức thực hiện.
+ Người dân khởi xướng quyết định chọn các phương án và có sự hỗ
trợcủa cán bộ: người dân khởi xướng, lập kế hoạch, quyết định chọn các
phương án và tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Cán bộ đóng vai trò khi
người dân cần.
+ Người dân tự lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, cán bộ hỗ trợ khi cần thiết.
Các mức độ tham gia này có thể minh họa phương thức “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” với các bước dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm,
dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi.
Các mức độ tham gia của người dân có thể được coi như một tiếntrình
liên tục và chia thành 5 cấp độ khác nhau:
+ Tham gia thụ động: người dân thụ động tham gia vào các hoạt động
phát triển làng, xã, bảo gì làm đấy, không tham dự vào quá trình ra quyết định.
19
+ Tham gia thông qua việc cung cấp thông tin: thông qua việc trả lời
các câu hỏi điều tra của các nhà nghiên cứu. Người dân không tham gia vào
quá trình phân tích và sử dụng thông tin.
+ Tham gia bởi nghĩa vụ hay bị bắt buộc: thông qua việc đóng góp lao
động, tiền hay một số nguồn lực khác. Người dân cho rằng đây là nghĩa vụ họ
phải đóng góp. Các hoạt động thường do các tổ chức quần chúng, cán bộ
dựán khởi xướng, định hướng và hướng dẫn.
+ Tham gia bởi định hướng từ bên ngoài: Người dân tự nguyện tham
gia vào các tổ, nhóm do dự án hoặc các chương trình khởi xướng. Bên ngoài
hỗ trợ và người dân tự chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định.
+ Tự nguyện: người dân tự khởi xướng về việc xác định, lập kế
hoạch, thực hiện và đánh giá các hoạt động phát triển không có sự định
hướng từ bên ngoài.
1.1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng trong xây
dựng GTNT
a. Nhóm yếu tố thuộc về cộng đồng, người dân nông thôn
- Về tiềm lực kinh tế:
Giao thông là ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có vai trò hết
sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và nâng cao đời sống
của nhân dân. Lợi ích mà ngành giao thông mang lại bao trùm mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Dù vậy, do hạn chế về nguồn lực (vốn, lao động, đất
đai...), mức sống của dân cư nông thôn nói chung còn thấp và tổng mức phí
mà họ phải đóng cho địa phương còn cao, tỷ lệ các hộ nghèo còn ở mức cao
cũng như nhận thức của người dân nông thôn còn thấp nên sự tham gia trong
xây dựng và quản lý các con đường giao thông phụ thuộc rất lớn đến điều
kiện kinh tế của cộng đồng, có thể thấy rất rõ ràng là nơi nào cộng đồng có
điều kiện kinh tế càng cao thì hệ thống đường giao thông càng đầy đủ, hoàn
thiện và đồng bộ. Bên cạnh việc hình thành một hệ thống chính sách nhất là
20
chính sách đầu tư của mọi thành phần kinh tế còn cần phải thực hiện tốt việc
nâng cao hiệu quả đầu tư, kết hợp với tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức của cộng đồng để họ từ chỗ thụ động trông chờ vào Nhà nước trở
nên tự giác tham gia tích cực vào các chương trình làm đường giao thông.
Người dân địa phương rất phấn khởi về các dự án làm đường giao
thông, bởi vì lợi ích to lớn mà đường giao thông sẽ mang lại cho họ. Có
nhiều hộ cho rằng cuộc sống sống của gia đình họ được cải thiện nhờ có
đường giao thông. Sức lao động trong nông thôn được giải phóng và họ
không phải gồng gánh trĩu nặng như trước đây nữa. Nhiều người dân đã
được chăm sóc sức khoẻ tại trạm y tế của xã nhất là những phụ nữ và trẻ em.
Việc đi đến bệnh viện, ra chợ hay đi đến trường học trở nên thuận tiện hơn
nhiều, giảm được nhiều thời gian và chí phí. Thị trường cũng như việc buôn
bán của người dân được cải thiện.
- Về trình độ, phong tục tạp quán văn hóa:
Tất cả các yếu tố về văn hóa - xã hội ở cộng đồng nơi xây dựng công
trình đường giao thông ảnh hưởng rất lớn đến sự tham gia của cộng đồng
trong xây dựng đường giao thông. Một cộng đồng với trình độ học vấn cao,
hoạt động y tế hiệu quả, sức khỏe nhân nhân được nâng cao, công tác thông
tin truyền thông tốt, các chính sách xã hội được quan tâm và phong tục tập
quán, truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo lành mạnh thì sự tham gia
của cộng đồng thuận lợi, phát triển và ngược lại.
- Về nhận thức xây dựng GTNT:
Xây dựng GTNT là vấn đề thiết thực nhằm nâng cao đời sống của nông
dân, nhưng hiện nay thiếu sự vào cuộc của người dân. Tuy nhiên, qua tìm
hiểu cho thấy một bộ phận người dân tại địa phương nhận thức về xây dựng
GTNT rất hạnchế, mơ hồ, thậm chí họ cho rằng xây dựng GTNT là làm cho
chính quyền nhà nước, là làm dự án chứ không phải làm cho chính mình, họ
sợ phải đóng góp công sức, tiền bạc,… để xây dựng các hạng mục công trình.
21
Hiện nay tại nhiều địa phương, huyện, xã hô hào xây dựng GTNT mới nhưng
người dân không biết NTM là gì. Trong khi đó, xây dựng GTNT ở một số
vùng có rất nhiều khó khăn mà không giải quyết một sớm một chiều
được…Như vậy thực tế đặt ra trước mắt đó là cần phải làm tốt công tác tuyên
truyền, vận động để người dân trong xã thấu hiểu và đồng lòng thống nhất
phát huy nội lực của mình, tự mình làm chủ, lúc đó mới gọi là thành công.
b. Nhóm các yếu tố thuộc về về cơ chế, chính sách:
Đặc thù của các công trình đường giao thông là phân tán và trải rộng
trên địa bàn. Cơ chế chính sách của Nhà nước quyết định chất lượng và hiệu
quả sự tham gia của cộng đồng. Cơ chế chưa thực sự rộng mở, rắp theo khuôn
khổ và không có tính năng động để điều chỉnh cho sát với thực tiễn và thực tế
yêu cầu sẽ làm cho sự tham gia của cộng đồng bị thui chột và mang tính hình
thức. Thực tế chúng ta mới chỉ huy động được sự đóng góp của các tổ chức và
phần nhỏ đóng góp của nhân dân mà chưa huy động được hầu khắp các thành
phần kinh tế, chưa đủ khả năng và điều kiện để 100% đường giao thông được
“cứng hóa”. Trong giai đoạn mới để bắt kịp theo sự phát triển của đất nước và
của thế giới cần phải đổi mới mạnh về cơ chế chính sách nhằm thu hút các
thành phần kinh tế có tiềm lực đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
c. Nhóm các yếu tố về quản lý, khả năng huy động sự tham gia cộng đồng
- Vềnhận thức của các cán bộ chính quyền các cấp
Chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương có vai trò đặc biệt
quan trọng ảnh hưởng tới sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng đường
giao thông. Chính quyền các cấp là trung tâm, là gốc rễ và là yếu tố quyết
định đến thành công khi triển khai áp dụng các giải pháp nhằm tăng cường sự
tham gia. Cơ chế, chính sách, cách thức tổ chức, quản lý, điều hành, hỗ trợ,
giám sát của các cơ quan công quyền một cách hợp lý, khoa học, phù hợp với
điều kiện từng vùng và sự hoạt động tốt bộ máy của chính quyền địa phương
sẽ là yếu tố không nhỏ để tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
22
- Về công tác tuyên truyền về xây dựng GTNT:
Công tác tuyên truyền giúp nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
vànhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng xây dựng GTNT,tạo sự thống nhất
trong nhận thức và hành động, sự đồng thuận trong xã hội,phát huy tính
năng động, sáng tạo, chủ động khắc phục khó khăn, thực hiệnthắng lợi
nhiệm vụ xây dựng. Xóa bỏ tư tưởng ỷ lại, trông chờvào Nhà nước. Trong
tuyên truyền, phải làm rõ được yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng GTNT
những đặc trưng,nguyên tắc xây dựng; phương pháp huy động vốn, các
cơchế chính sách trong xây dựng công trình giao thông...
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm nước ngoài
Trong xây dựng và quản lý bảo trì đường GTNT, với điều kiện nguồn
kinh phí được cấp không đầy đủ, vấn đề đặt ra là sử dụng nguồn vốn có hiệu
quả và tăng cường sử dụng các nguồn lực khác sao cho hiệu quả nhất. Điều này
cũng có nghĩa là cần thiết có một sự thay đổi, hiện đại hoá và xã hội hóa công
tác này. Các nước trên thế giới có sự nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác
xây dựng và quản lý đường GTNT và có những nỗ lực tập trung cho công tác
này theo hướng hiện đại và xã hội hoá. Các chính sách, kế hoạch xây dựng và
quản lý kết cấu hạ tầng đường giao thông hướng đến tăng cường công tác bảo
trì dự phòng có mục tiêu là tăng tuổi thọ công trình, giảm chi phí.
a. Trung Quốc
Phát triển GTNT được coi là động lực để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn
phát triển. Ở Trung Quốc, chính phủ luôn đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược
phát triển hệ thống giao thông nhưng nhân dân là bộ phận quan trọng trong việc
đóng góp sức lao động, cùng với sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội
chính sách đầu tư đa dạng. UBND cấp quận/huyện đóng vai trò chính cho xây
dựng, chịu trách nhiệm về tài chính, UBND cấp tỉnh, Trung ương hỗ trợ một phần
cho các dự án này. Quan điểm chủ đạo của Chính phủ Trung Quốc là “thà làm
nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp để liên hệ với những xóm làng hơn là đường tốt
mà nối được ít làng xóm. Bước đầu cứ đi tạm, sau đó nâng cấp cũng chưa muộn”.
23
Chính phủ, UBND cấp tỉnh căn cứ vào các tiêu chuẩn, các khoản hỗ trợ
Nhà nước và cấp tỉnh theo quy định căn cứ vào loại đường, loại dự án, từng
địa phương (ví dụ năm 2009 đường giao thông liên huyện, liên xã: Nhà nước
hỗ trợ 30 nghìn NDT/km, các dự án thông suốt: Nhà nước hỗ trợ 12 triệu
NDT/km đối với các thôn, làng; 10 triệu NDT/huyện; 5 triệu NDT/xã, các dự
án tiếp cận (nối các vùng miền khó khăn): tỉnh hỗ trợ 4 triệu NDT/km cho xã,
đối với các dự án đường bê tông xi măng hỗ trợ 1 triệu NDT/1km). Do nhu
cầu ngày càng tăng, ngân sách trung ương và của các tỉnh không thể đưa ra
mức hỗ trợ khung do vậy các địa phương cần cân đối ngân sách và đưa ra
những tính toán đề xuất đưa ra mức hỗ trợ cụ thể.
b. Hàn Quốc
Nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp công của, nhân dân tự quyết định loại
công trình nào cần ưu tiên xây dựng và chịu trách nhiệm, quyết định tất cả về thiết
kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình. Nhà nước bỏ ra 1 phần (chủ yếu là vật
tư, xi măng, sắt thép...) thì nhân dân bỏ ra 5 - 10 phần (công sức và tiền của). Sự
giúp đỡ đó của Nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ trọng cao, dần dần các năm sau
tỷ trọng hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa phương và nhân dân
tham gia tăng dần. Nhân dân thực hiện và bước đầu đã đạt được kết quả khả quan.
Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, Chính phủ Hàn Quốc
không có nhiều kinh phí, do đó Chính phủ đã khéo léo sử dụng chính sách kích
cầu đầu tư, huy động sức mạnh của nhân dân.
Chính phủ Hàn Quốc đưa ra thử nghiệm mở rộng và nắn thẳng đường
sá, xây dựng công trình công cộng v.v... Kinh phí để thực hiện các dự án này
phần lớn dựa vào quỹ của xã và sự tham gia của người dân, Chính phủ chỉ cấp
miễn phí cho mỗi xã trung bình 355 bao xi măng. Kế hoạch triển khai trên
quy mô toàn quốc và hơn 33.000 xã được nhận hỗ trợ. Kết quả 16.000 xã,
chiếm tỷ lệ 50% số xã ở nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Toàn bộ kế hoạch
đều do chính ủy ban xã đó quản lý.
24
Chính phủ đã chia tổng số 33.267 xã của cả nước thành 3 nhóm, trong
đó, nhóm làng tích cực chiếm 6,7 %, nhóm làng trung bình chiếm 40,2%, nhóm
làng cơ bản chiếm 53,1 %. Chính phủ quy định, những làng thăng hạng sẽ được
thưởng 2.000 USD. Chỉ sau 3 năm, tỷ lệ nhóm làng cơ bản chỉ còn 0,9 %.
Những làng làm tốt cảm thấy họ được Chính phủ đền ơn. Nhờ đó mà nông thôn
nước Hàn đã thay đổi mạnh mẽ. Nhờ khơi dậy nội lực của nông dân mà nông
thôn Hàn Quốc đã có những biến đổi to lớn, nông thôn Hàn Quốc đã có những
dấu hiệu của sự phát triển và đô thị hóa.
Ở hầu hết các nước đang phát triển, việc lập kế hoạch xây dựng và
quản lý đường nông thôn thường tập trung tại các cơ quan công trình công
cộng, họ không được uỷ quyền hay khuyến khích để mở rộng phạm vi phục
vụ ra xa hơn lựa chọn kỹ thuật. Tuy nhiên, người dân cần phải tham gia vào
việc lập kế hoạch đường giao thông nếu dự án đó nhằm giải quyết những nhu
cầu của người dân và muốn tạo ra ý thức về quyền sở hữu.
1.2.2. Kinh nghiệm trong nước
a.Huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
Kinh nghiệm được rút ra trong phong trào xây dựng GTNT ở huyện
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là trước hết cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ từ
cấp tỉnh đến các cấp huyện, xã, thị trấn. Có nghị quyết chuyên đề để định
hướng cho chính quyền cùng cấp chỉ đạo, điều hành. Tuyên truyền thường
xuyên, kiên trì, bền bỉ với nhiều hình thức phong phú đến các khu dân cư, các
tổ chức quần chúng để mọi người hiểu lợi ích và tích cực tham gia đóng góp
xây dựng, phát triển đường giao thông. Nâng cao ý thức cộng đồng với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhân dân làm là chính, Nhà
nước chỉ hỗ trợ một phần” và thực hiện xã hội hoá trong việc huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường giao thông.
Đồng thời cơ chế hỗ trợ vốn đầu tư của tỉnh, huyện, xã, thị trấn phù hợp để
giảm đóng góp, tăng đầu tư cho nông dân và nông thôn. Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, có khen thưởng vật chất, tinh thần cho các địa phương, tổ
chức, cá nhân để khích lệ và nhân rộng phong trào.
25
Những năm qua, việc phát triển mạng lưới giao thông, nhất là xây dựng
và phát triển GTNT trên địa bàn tỉnh đã tạo một dấu ấn đậm nét và bền vững,
là đòn bẩy thúc đẩy phát triển về mọi mặt đời sống, xã hội của các vùng,
miền, các vùng quê trong tỉnh. Năm 2011, tiếp tục huy động và sử dụng hiệu
quả các nguồn vốn và nguồn lực trong dân để xây dựng 5 km đường mới, cải
tạo, nâng cấp cứng hoá 250 km đường giao thông, 20 km đường cấp phối, 60
km rãnh thoát nước... xây dựng kết cấu hạ tầng GTNT nhằm từng bước hình
thành GTNTvăn minh, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
b. Thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái
Để tạo động lực thúc đẩy phát triển, đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, hệ thống GTNT Yên Bái có sự phát triển mạnh mẽ. Cùng các giải pháp
về huy động nguồn vốn, tỉnh đã có sự quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
GTNT phù hợp với điều kiện hiện nay để GTNT thực sự là tiền đề cho phát
triển kinh tế - xã hội. Trong đó, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội trong công tác phát
triển kết cấu hạ tầng GTNT. Đầu tư có hiệu quả, tập trung, dứt điểm, không
dàn trải, chồng chéo. Các tuyến đường giao thông trước khi lập dự án đầu tư
phải thống nhất về quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật theo đúng quy hoạch đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ theo yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu khai thác
để chọn kết cấu mặt đường cho hợp lý. Khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ, ưu tiên sử dụng vật liệu mới, tận dụng triệt để vật liệu hiện có
tại địa phương để giảm giá thành xây dựng và huy động được sức đóng góp
của nhân dân. Nghiên cứu áp dụng các kết cấu mặt đường quá độ vào xây
dựng đường giao thông như mặt đường gia cố vôi, đất gia cố với xi măng, cát
gia cố xi măng, đá dăm, vữa xi măng, vữa vôi v.v...
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn
Từ kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước, áp dụng đối với huyện
Nậm Nhùn, cần tập trung thực hiện:
26
Một là, xây dựng và quản lý đường GTNT được giao cho người hưởng
lợi diễn ra phổ biến ở hầu hết các nước. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhân
dân đóng góp sức lao động, cùng với sự tham gia rộng rãi của các lực lượng
xã hội chính sách đầu tư đa dạng. Tuy nhiên, hướng tới giảm dần vai trò của
trung ương và các khoản chi ngân sách cho việc quản lý và duy tu, bảo dưỡng
các công trình. Sự giúp đỡ của Nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ trọng cao,
dần dần các năm sau tỷ trọng hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa
phương và nhân dân tham gia tăng dần. Khuyến khích những địa phương có
sự tham gia tích cực của người dân để xem xét đầu tư, hỗ trợ.
Hai là, không đưa ra mức khung hỗ trợ mà tùy thuộc vào tình hình địa
phương, khả năng của người dân, cân đối với ngân sách nhà nước để thống
nhất cách làm. Nhân dân có thể tự quyết định loại công trình nào cần ưu tiên
xây dựng và chịu trách, quyết định tất cả về thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm
thu công trình. Người dân cần được tham gia vào việc lập kế hoạch đường
giao thông nếu dự án đó nhằm giải quyết những nhu cầu của người dân và
muốn tạo ra ý thức về quyền sở hữu.
Ba là, thực hiện xã hội hoá trong việc huy động và sử dụng vốn có hiệu
quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường giao thông. Cần có sự quan tâm
tập trung chỉ đạo một cách liên tục, đồng bộ và huy động được sự tham gia
của cả hệ thống chính trị trong việc huy động vốn, quản lý bảo trì, công tác
giám sát chất lượng và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông. Khuyến khích
người dân tham gia bảo quản, giữ gìn, vận hành, khai thác công trình giao
thông mới mang lại hiệu quả lâu dài.
Bốn là: Phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên,
các già làng trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, đặc biệt là
vai trò giám sát cộng đồng với phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra,
dân hưởng lợi” trong việc xây dựng và phát triển GTNT thông qua quy chế
dân chủ ở cơ sở. Tích cực học tập và nhân rộng các mô hình làm tốt phong
trào xây dựng GTNT để các địa phương tham khảo, rút kinh nghiệm...
27
Chƣơng 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài cần trả lời các câu hỏi sau:
- Các hoạt động phát triển GTNT trên địa bàn huyện Nậm Nhùn, tỉnh
Lai Châu triển khai như thế nào?
- Sự tham gia của người dân trong xây dựng GTNT nông thôn tại địa
bàn nghiên cứu được thể hiện như thế nào?
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong phát triển
GTNT nông thôn là gì và mức độ tác động ra sao?
- Khi phát triển GTNT nông thôn có sự tham gia của người dâncó
những thuận lợi, khó khăn gì?
- Làm thế nào để tăng cường hơn nữa sự tham gia tích cực của người
dân trong xây dựng GTNT nông thôn trong thời gian tới?
2.2. Phƣơng pháp tiếp cận nghiên cứu
Hướng tiếp cận nghiên cứu sẽ quyết định phương pháp và cách thức
nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, tôi tiếp cận theo 2 hướng: tiếp cận theo
quá trình và tiếp cận có sự tham gia.
- Tiếp cận theo quá trình: phát triển GTNT được coi là một quá trình từ
lập kế hoạch, tiến hành xây dựng, kiểm tra, giám sát, đưa vào khai thác, sử
dụng và bảo quản, duy tu. Đánh giá sự tham gia của người dân vào quá trình
này cần xem xét mức độ, cách thức, kết quả của sự tham gia vào mỗi hoạt
động trong cả tiến trình.
- Tiếp cận có sự tham gia: phát triển GTNT là kết quả của sự nỗ lực của
nhiều thành phần trong xã hội, trong đó phải kể đến sự đầu tư của các cấp
chính quyền cũng như sự đóng góp của người dân địa phương. Với cách tiếp
cận này, những đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển GTNT sẽ
được nghiên cứu cụ thể, chi tiết gồm người dân bản địa, chính quyền cấp
thôn, xã, huyện trong địa bàn nghiên cứu.
28
2.3. Chọn điểm nghiên cứu
Tôi chọn huyện Nậm Nhùn làm điểm nghiên cứu bởi đây được coi là
một trong cửa ngõ của tỉnh đi thành phố Lai Châu và tỉnh Điện Biên rất cần
được phát triển giao thông để trở thành đầu mối giao thương. Trên địa bàn
huyện có thủy điện Lai Châu (là công trình trọng điểm quốc gia Việt Nam) do
đó cần các công trình giao thông phụ trợ. Hơn nữa, Nậm Nhùn là địa bàn
nông thôn miền núi, việc phát triển giao thông tương đối khó khăn, rất cần sự
chung tay của người dân địa phương. Thêm vào đó tôi chọn điển hình hai bản
Lai Hà và bản Chang của xã Lê Lợi thực hiện đề tài bởi nguyên nhân xã Lê
Lợi là xã một trong hai xã của huyện đạt chuẩn xã Nông thôn mới. Hai bản đã
thực hiện hoàn thành chỉ tiêu về giao thông nông thôn tuy nhiên cách thức
thực hiện tại hai bản lại theo hai cách đặc trưng, một bản phụ thuộc hoàn toàn
ngân sách nhà nước, một bản có sự kết hợp nhà nước và cộng đồng dân cư.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
2.4.1.1. Số liệu thứ cấp
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả tiến hành thu thập và
sử dụng các loại số liệu thứ cấp thông qua các tài liệu đã được công bố như các
báo cáo thống kê về tình hình kinh tế - xã hội và giao thông trên địa bàn huyện,
các tài liệu của Phòng Tài chínhKế hoạch, Phòng Công thương, Phòng Nông
nghiệp huyện, các báo cáo của UBND huyện, sách báo, tạp chí, các công trình
nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà khoa học; thông tin trên các Website
của các đơn vị, tổ chức có liên quan đến GTNT và đường giao thông.
2.4.1.2. Số liệu sơ cấp
Số liệu mới được thu thập qua phương pháp “Đánh giá nông thôn có sự
tham gia của cộng đồng PRA”.Phương pháp PRA cơ bản được áp dụng để tạo
lập mối quan hệ với cộng đồng địa phương, làm việc theo nhóm và phỏng vấn
linh hoạt. Đây là một phương pháp dùng để giao lưu với người dân, hiểu được
29
họ, học hỏi từ họ. PRA sử dụng một loạt các phương pháp nhằm tạo điều kiện
cho người dân đưa ra, chia sẻ, tranh luận và phân tích các thông tin thông qua
việc sử dụng nhiều phương pháp nhãn quan do chính người tham gia tạo
nên.Thông qua UBND xã và tiến hành lựa chọn những người dân nhiệt tình,
ủng hộ, có khả năng cung cấp thông tin sâu rộng đồng thời thống nhất thời
gian địa điểm làm việc để tiến hành các công cụ PRA lựa chọn. Phương pháp
này được sử dụng thông qua các câu hỏi, biểu mẫu, phiếu điều tra theo định
hướng nội dung của đề tài.
Để thu thập số liệu sơ cấp, tác giả tiến hành điều tra các đối tượng:
người dân đang sinh sống trên địa bàn huyện Nậm Nhùn trong đó tập trung
điều tra khảo sát 02 công trình GTNT trọng điểm của huyện ở Bản Chang và
Bản Lai Hà thuộc xã Lê Lợi, điều tra, phỏng vấn sâu cán bộ thôn, xã, huyện
liên quan đến hoạt động xây dựng và quản lý đường giao thông của huyện.
Công thức xác định cỡ mẫu như sau:
N n= (1+ N.e2)
Trong đó:
N là tổng thể
n là cỡ mẫu
e: là sai số tối đa (e = 1 – độ tin cậy)
Trong nghiên cứu này, lấy độ tin cậy là 95%. Khi đó e = 0.05
Tổng thể là số dân cư của 2 xã Bản Chang và bản Lai Hà: N = 180
Khi đó, áp dụng công thức, ta tính được
180 n= = 124 (1+ 180. 0.052)
Số lượng và đối tượng điều tra cụ thể như sau:
30
Bảng 2.1. Bảng số lƣợng và đối tƣợng điều tra
Đối tƣợng Số lƣợng Nội dung điều tra điều tra ngƣời
- Trình độ học vấn, thu nhập bình quân
- Sự tham gia trong quá trình xây dựng
và quản lý được giao thông Người dân
(Bản Chang và Bản 120 hộ - Những khó khăn và thuận lợi cụ thể
Lai Hà) của các hộ điều tra, mức độ tham gia
đóng góp về xây dựng nông thôn mới
tại địa bàn xã thông qua phiếu điều tra
Trưởng thôn/xóm 5 người - Công tác tuyên truyền, động viên
người dân tham gia phát triển GTNT Cán bộ xã 3 người
- Công tác quản lý đối với hoạt động
Cán bộ huyện 2 người phát triển GTNT
2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu thu thập được sử dụng chương trình hỗ trợ Microsoft
Office Excel trên máy tính để tính toán tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu cần
thiết tổng hợp các phiếu điều tra.
2.4.3. Phương pháp phân tích đánh giá
- Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để phán ánh tình hình phát
triển kinh tế xã hội, đường GTNT, kết quả sự tham gia của người dân qua các
năm, phản ánh thực trạng, tình hình thực tế quản lý đường GTNT trên địa bàn
nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp thống kê so sánh để thấy được sự khác nhau về
mức độ tham gia, nội dung tham gia, kết quả giữa các công trình giao thông trên
địa bàn huyện, sự tiến triển trước và sau khi đường giao thông hoàn thành.
31
2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
2.5.1. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển GTNT
- Tổng thời gian chuẩn bị xây dựng
- Thời gian khảo sát, thiết kế
- Giá trị khảo sát, thiết kế
- Tỷ lệ công suất sử dụng
- Thời gian hoàn thành so với kế hoạch đề ra
- Giá trị dự toán ban đầu
- Giá trị quyết toán công trình
- Mức độ sửa chữa, bảo dưỡng
- Nguồn kinh phí
- Chi phí duy tu, bảo dưỡng/km/năm
- Số lượt phương tiện quá tải lưu thông trung bình/năm
2.5.2. Chỉ tiêu tham gia của cộng đồng trong phát triển GTNT
- Số người tham gia, tỷ lệ người tham gia phân công thực hiện xây
dựng đường GTNT
- Số người, tỷ lệ người tham gia đóng góp nguồn lực (tiền, hiện vật,...)
- Số ngày công tham gia lao động trực tiếp
- Tỷ lệ hộ tham gia các hoạt động
- Kinh phí cộng đồng đóng góp (lao động, tiền) quản lý, duy tu, bảo
dưỡng đường GTNT
- Số thành viên tham gia bàn bạc và quyết định về kế hoạch, biện pháp,
tổ chức quản lý, duy tu, bảo dưỡng đường.
- Chi phí duy tu = Chi phí duy tu, bảo dưỡng năm bảo dưỡng/km/năm
Chiều dài duy tu, bảo dưỡng.
- Tỷ lệ đóng góp = Tổng giá trị đóng góp (quy ra tiền) duy tu bảo
dưỡng/Tổng giá trị duy tu, bảo dưỡng
32
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN
GTNT TẠI HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
3.1.1. Vị trí địa lý
Nậm Nhùn là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lai Châu; cách thành
phố Lai Châu 130 km, theo tỉnh lộ 127, quốc lộ 12, 4D; cách Hà Nội khoảng
600 km theo quốc lộ 12. Phía Đông của huyện giáp huyện Sìn Hồ tỉnh Lai
Châu; phía Tây giáp xã Chà Tở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên; phía Nam
giáp Thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên; phía Bắc giáp huyện Mường Tè, tỉnh
Lai Châu và huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa. Tổng diện tích tự nhiên 138.808,4 ha, chiếm 15,3% diện tích của tỉnh
Lai Châu, đứng thứ 3/8 huyện, thành phố của tỉnh về diện tích, bao gồm 11
đơn vị hành chính gồm 10 xã và 01 thị trấn là Trung tâm kinh tế chính trị, văn
hóa của huyện, trong đó có 03 xã biên giới với tổng chiều dài đường biên giới
tiếp giáp với Trung Quốc là 24,671 km.
Một số thuận lợi từ vị trí địa lý: (i) Là một trong cửa ngõ của tỉnh đi
thành phố Lai Châu và tỉnh Điện Biên nên huyện có lợi thế trong cung cấp
các dịch vụ phục vụ hoạt động giao thương, du lịch giữa huyện với các huyện
lân cận trong và ngoài tỉnh Lai Châu; (ii) Trên địa bàn huyện có thủy điện Lai
Châu (là công trình trọng điểm quốc gia Việt Nam) sẽ đem lại những cơ hội
cho huyện trong phát triển các dịch vụ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thủy
điện (thương mại, lưu trú, ăn uống…); phát triển một số sản phẩm phục vụ
cho thủy điện Lai Châu (rau, quả...); nhất là cơ hội phát triển dịch vụ du lịch
tham quan thủy điện Lai Châu (khi hoàn thành).
Một số khó khăn, thách thức: (i) Diện tích rộng, giáp với huyện Nậm
Pồ, tỉnh Điện Biên và có đường biên giới với tỉnh Vân Nam Trung Quốc - vị
trí mà các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, điều
33
kiện sống còn nhiều khó khăn của đồng bào các dân tộc để tuyên truyền đạo
trái phép và tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông” nhằm lôi kéo, chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, di dịch cư tự do là thách thức cho huyện trong quản
lý, giữ gìn ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; (ii) Nằm ở vị trí xa các
trung tâm kinh tế lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh...) gây khó khăn và là
thách thức cho huyện trong tiếp cận các dịch vụ, chính sách, nguồn lực thị
trường (thị trường vốn, lao động, đất đai, khoa học kỹ thuật - công nghệ và thị
trường hàng hóa đầu vào, đầu ra...).
3.1.2. Điều kiện tự nhiên
a. Địa hình
Địa hình huyện Nậm Nhùn rất phức tạp, mức độ bị chia cắt sâu và
ngang rất mạnh bởi các dãy núi cao chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, trong đó phổ biến là kiểu địa hình núi cao và núi trung bình. Một số
kiểu địa hình chính của huyện:
- Địa hình núi cao và trung bình (>700m) có diện tích 99.942,04 ha
chiếm 72,1% diện tích tự nhiên. Dạng địa hình này tập trung chủ yếu ở các xã
Pú Đao, Nậm Manh, Hua Bum, Nậm Ban. Dạng địa hình núi cao sẽ được định
hướng đầu tư, khai thác để trồng cây sơn tra.
- Địa hình núi thấp (<700m) có diện tích 37.936,33 ha, chiếm 27,3% so
với tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu phía Nam và phía Tây Nam của
huyện. Dạng địa hình dạng này tập trung ở các xã Nậm Hàng, Mường Mô,
Nậm Pì và thị trấn Nhùn và được định hướng tập trung trồng cây cao su và
cây mắc ca.
- Địa hình thung lũng hẹp: diện tích 763,45 ha chiếm 0,6% diện tích tự
nhiên, phân bố dọc theo các sông và suối nhỏ. Phần lớn địa hình dạng này khá
bằng phẳng và đang được khai thác để trồng lúa nước và cây trồng ngắn ngày.
Dạng địa hình mang lại cơ hội của huyện phát triển thủy điện nhỏ và
vừa (địa hình dốc và nhiều sông, suối). Tuy nhiên, dạng địa hình của huyện
34
cũng gây ra một số khó khăn: (i) Làm tăng suất đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ
tầng (giao thông, thủy lợi…); (ii) Địa hình có độ dốc lớn, chia cắt gây khó
khăn cho huyện trong quy hoạch và phát triển vùng sản xuất nông nghiệp tập
trung quy mô vừa và lớn; (iii) Địa hình dốc với tỷ lệ cát lớn, xốp, dễ rửa trôi
khi mưa là thách thức cho huyện trong chống xói mòn đất.
b. Khí hậu
Khí hậu Nậm Nhùn mang đặc điểm của khí hậu vùng nhiệt đới núi cao
Tây Bắc, ít chịu ảnh hưởng của bão. Thời tiết trong năm chia thành 2 mùa rõ
rệt: mùa đông lạnh, mưa ít và mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều. Nậm Nhùn nằm
trong vùng có lượng mưa lớn của tỉnh Lai Châu, hàng năm mùa mưa bắt đầu
từ tháng 6 và kết thúc vào cuối tháng 9. Vùng núi cao lượng mưa có thể lên
tới trên 3.000 mm/năm; vùng núi trung bình dao động 2.000 - 2.500 mm/năm;
vùng núi thấp và thung lũng từ 1.500 - 1.800 mm/năm. Mùa khô bắt đầu từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa ít (316,4 mm/năm), trong thời gian
này thường có sương mù và xuất hiện sương muối vào một số ngày trong
tháng 1 và tháng 2. Lượng mưa trung bình là 2.531 mm/năm.
Độ ẩm phụ thuộc vào sự phân bố lượng mưa hàng năm, những tháng
mùa mưa độ ẩm tương đối đạt 85%. Các tháng mùa khô từ 75% - 80%, riêng
tháng 02 khô hạn, độ ẩm không khí dưới 50%.
Nhiệt độ ở huyện có sự phân biệt rõ rệt giữa các vùng, vùng núi cao có nhiệt độ bình quân 150C, vùng núi trung bình có nhiệt độ bình quân đạt 200C,
ở vùng thấp < 700m (thung lũng và máng trũng) nhiệt độ bình quân cao hơn 230C. Nhiệt độ bình quân năm 22,40C; nhiệt độ cao nhất 390C; nhiệt độ thấp nhất 10C. Bình quân số giờ nắng/năm là 1.881 giờ và khoảng 5,15 giờ/ngày. Tổng tích ôn cả năm trung bình là 8.1680C.
Đặc điểm khí hậu của huyện tạo lợi thế cho huyện trong : (i) Phát triển
du lịch sinh thái ở một số xã vùng cao có khí hậu khá mát mẻ như Hua Bum , Nậm Ban, Nậm Pì, Nậm Chà và nhất là xã Pú́ Đao (trung bình khoảng 15oC);
35
(ii) Phát triển các loại cây, con xứ lạnh có giá trị kinh tế cao như rau, quả; (iii)
Nhiệt độ vùng thấp huyện thích hợp cho phát triển cây cao su.
Đặc điểm khí hậu cũng tạo ra một số khó khăn cho huyện: (i) Mùa mưa
tập trung vào các tháng 7, 8 và tháng 9 hàng năm là thách thức cho huyện
trong đảm bảo tính mạng và tài sản và khắc phục hậu quả khi hiện tượng lũ
ống, lũ quét, sạt lở đất sẩy ra; (ii) Mùa mưa kéo dài (liên tục từ tháng 6 đến
tháng 9) là thách thức cho huyện trong kiểm soát kế hoạch trồng trọt và chăm
sóc mùa màng; đảm bảo chất lượng, tiến độ xây dựng các công trình, nhất là
hạ tầng giao thông, thủy lợi.
3.1.3. Những yếu tố về văn hóa, xã hội
a. Dân số, nguồn nhân lực, đặc điểm dân cư và các vấn đề xã hội
- Về dân số và mật độ dân số: Dân số Nậm Nhùn năm 2013 là 26.700
người, chiếm 6,1% dân số toàn tỉnh, trong đó nam là 14.380 người (chiếm
53,86% tổng dân số), nữ là 12.320 người. Mật độ dân số bình quân: 19,24
người/km2 thấp hơn mức bình quân của tỉnh (tỉnh 45,74 người/km2). Dân số
chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, chiếm 86,5%.
- Về thành phần dân tộc: Trên địa bàn huyện có 11 dân tộc anh em sinh
sống, dân tộc thiểu số chiếm trên 95%, trong đó có một số dân tộc chiếm tỷ lệ
lớn như Mông 8.641 khẩu (32,4%) tập trung tại các xã Nậm Chà, Nậm Manh,
Pú Đao, Nậm Pì; Thái 7.234 khẩu (27,1%) tập trung tại các xã Mường Mô,
Nậm Hàng, Lê Lợi; Mảng 3.064 khẩu (11,5%) tập trung tại các xã Nậm Pì,
Nậm Ban, Trung Chải, Hua Bum. Trong đó còn một số dân tộc đặc biệt khó
khăn như Cống (xã Nậm Chà), Mảng.
- Đặc điểm về dân số, mật độ dân số, tăng dân số và thành phần dân tộc
cho thấy:
+ Tốc độ tăng dân số của huyện cao là do tăng dân số cơ học từ địa
phương khác chuyển đến huyện công tác (do huyện mới thành lập) và đây là
cơ hội cho huyện trong thu hút nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội.
36
+ Mật độ dân số thấp, dân cư sống phân tán gây khó khăn cho công tác
quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu; làm tăng
suất đầu tư; gây khó khăn cung cấp các dịch vụ xã hội như bảo vệ chăm sóc
sức khỏe, giáo dục… Mặt khác, quy mô dân số nhỏ nên khả năng cung ứng
nguồn lao động tại chỗ thấp, sức tiêu dùng của thị trường hạn chế ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.
+ Nhân dân trên địa bàn huyện chủ yếu là dân tộc thiểu số, dân tộc ít
người. Trình độ chuyên môn, ý thức kỷ luật lao động, tính chăm chỉ và ý chí
vươn lên làm giàu của một bộ phận nhân dân, đặc biệt các hộ nghèo còn hạn
chế. Đây là thách thức và khó khăn cho huyện trong triển khai, áp dụng và
duy trì các mô hình, dự án có hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông
nghiệp. Thực tế cho thấy, một số chương trình, dự án chỉ triển khai được
trong giai đoạn đầu khi có hỗ trợ về tập huấn, vốn... bước đầu đánh giá là hiệu
quả, tuy nhiên khi hết hỗ trợ, các chương trình, dự án không được người dân
tiếp tục triển khai.
- Về chất lượng nguồn nhân lực: Trong những năm qua chất lượng
nguồn nhân lực trên địa bàn huyện đã được cải thiện, tuy nhiên còn chậm và
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Lao động phân bố
không đều, chủ yếu là lao động ở nông thôn và trong ngành nông, lâm thủy
sản (chiếm 79,1% tổng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế; tỉnh
chiếm 85%). Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của LLLĐ còn thấp, lao động
qua đào tạo chiếm 27,8% nhưng chủ yếu là qua đào tạo nghề ngắn hạn, các
lớp tập huấn và hội thảo đầu bờ tại hiện trường thông qua các mô hình trình
diễn trong sản xuất nông nghiệp.
- Trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác của đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở cấp xã còn thấp so với tiêu chuẩn. Toàn huyện có 351 cán bộ, công
chức, viên chức cấp xã, trong đó: (i) Về trình độ chuyên môn: Số cán bộ cấp xã
có́ trình độ học cao đẳng và đại học chiếm 37,6%; số cán bộ chưa qua đào tạo
37
chiếm tỷ trọng khá lớn, chiếm 50,1%; (ii) Về trình độ học vấn: Số cán bộ xã có
trình độ THPT chiếm tỷ lệ 28,5%, có trình độ THCS chiếm tỷ lệ 52,1%.
- Một số khó khăn, hạn chế về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Việc đào tạo nghề chưa gắn với nhu cầu sản xuất và xu hướng phát triển một
số ngành nghề trong những năm tới (chế biến nông sản). Lực lượng lao động
(LLLĐ) tăng nhanh (chủ yếu tăng cơ học), tuy nhiên phần lớn LLLĐ chưa
qua đào tạo, trình độ chuyên môn còn thấp. Kết quả phổ cập giáo dục chưa
bền vững. Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn hạn chế (19,4% có
trình độ văn hóa cấp tiểu học).
b. Văn hóa, xã hội
- Nậm Nhùn là huyện khá phong phú về bản sắc văn hóa, truyền thống
lịch sử, di sản văn hóa. Huyện có 11 dân tộc anh em sinh sống, dân tộc thiểu
số chiếm trên 95%, bao gồm các dân tộc Thái, Mông, Dao, Mảng, Tày, Khơ
Mú, Hà Nhì, Mường, Cống… Mỗi dân tộc đều có phong tục, lễ hội văn hóa,
các điệu múa, các làn điệu hát dân ca đặc sắc riêng. Bên cạnh đó còn có
nghệ thuật tạo hình được thể hiện rất độc đáo trên các bộ trang phục đa sắc
màu, nhiều kiểu dáng hoa văn như: trang phục của đồng bào Thái, Mông,
Dao...; nghệ thuật kiến trúc và các đường nét hoa văn trang trí trong các ngôi
nhà truyền thống; các sản phẩm thủ công như dệt thổ cẩm, đan lát... Đây là
tiềm năng để huyện phát triển du lịch cộng đồng trong những năm tới.
3.1.4. Những yếu tố về kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2013 đạt 225 tỷ đồng (giá
hiện hành), chiếm 3,6% GRDP của cả tỉnh. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình
quân đầu người năm 2013 đạt 8,1 triệu đồng (giá hiện hành), bằng 58% so với
mức bình quân của tỉnh (tỉnh 14,45 triệu).
Cơ cấu kinh tế huyện năm 2013: Tỷ trọng ngành nông, lâm thủy sản
chiếm 41%, cao hơn 12,1% so với cơ cấu nông, lâm thủy sản của tỉnh (tỉnh
27,9%); tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 31,3%, thấp hơn so với
38
cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng của tỉnh 7,84% (tỉnh 39,14%); tỷ trọng
các ngành dịch vụ chiếm 27,6%, thấp hơn cơ cấu các ngành dịch vụ của tỉnh là
5,36% (tỉnh 32,96%). Cơ cấu kinh tế của huyện phản ánh thực trạng trình độ
phát triển của huyện còn ở mức thấp với lĩnh vực nông, lâm thủy sản chiếm tỷ
trọng lớn và trình độ phát triển còn thấp so với mặt bằng trung của tỉnh.
Năng suất lao động chung của nền kinh tế huyện còn thấp:NSLĐ
chung nền kinh tế huyện năm 2013 đạt 14,1 triệu đồng/lao động/năm, bằng
74% mức NSLĐ bình quân của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng NSLĐ khá thấp,
khoảng 2,4%/năm, bằng mức tăng NSLĐ bình quân của tỉnh.
Thu ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2013 đạt 221.531 triệu đồng,
trong đó thu trên địa bàn đạt 35.841,6 triệu đồng, chủ yếu là thu từ khu vực
công thương nghiệp ngoài quốc doanh (thuế GTGT) là 35.006 triệu đồng,
chiếm 97,7%. Nguồn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn không bền vững phụ
thuộc lớn vào nguồn thu thuế GTGT từ các hoạt động XDCB tập trung trên địa
bàn, đặc biệt là Công trình Thủy điện Lai Châu. Nguồn thu từ thuế tài nguyên,
môi trường, các khoản thu nhà ở và khoáng sản... hầu như không đáng kể.
Về lao động, việc làm và mức sống dân cư: Năm 2013, Nậm Nhùn có
12.330 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, chiếm 46% dân số và
chiếm 5% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế của tỉnh.
Lao động trong nông, lâm và thủy sản là 9.753 người, chiếm 79,1%tổng lao
động đang làm trong các ngành kinh tế;lao động công nghiệp - xây dựng
là555 người, chiếm 4,5%; lao động trong các ngành dịch vụ là 2.022 người,
chiếm 16,4% trong tổng số lao động đang làm trong các ngành kinh tế của
huyện. Cơ cấu lao động của huyện có xu thế chuyển dịch mạnh từ lĩnh vực
nông nghiệp sang lĩnh vực xây dựng, công nghiệp và dịch vụ do quá trình đô
thị hóa và xây dựng trên địa bàn huyện, có một lượng lớn lao động trong
ngành nông nghiệp lúc nông nhàn tham gia lao động trong ngành xây dựng và
dịch vụ. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người 8,1 triệu đồng/
người/năm (tỉnh: 14,45 triệu đồng), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ
lệ hộ nghèo cao 42,8% (tỉnh: 27,82%).
39
3.2. Thực trạng hệ thống GTNTtại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
Trên địa bàn huyện có đường quốc lộ QL12 đi tỉnh Điện Biên và một
số tỉnh Tây Bắc; tỉnh lộ 127 dài 65 km, điểm đầu từ Lai Hà, điểm cuối xã
Mường Mô là tuyến giao thôngnối tỉnh lỵ và các huyện với khu trung tâm
huyện Nậm Nhùn; đường tỉnh lộ Pa Tần - Mường Tè chạy qua huyện đã được
đầu tư chất lượng tương đối tốt kết nối giao lưu giữa huyện Nậm Nhùn và
huyện Mường Tè.
Việc đi lại hết sức khó khăn, phương tiện cơ giới chưa đi lại được;
đường vành đai biên giới dài 54 km (đường Pa Tần - Mường Tè đoạn Pa Tần
- Hua Bum) đường cấp cấp phối.
Bảng 3.1: Các tuyến đƣờng trọng điểm của Huyện Nậm Nhùn
Chiều dài Cấp STT Tên tuyến đƣờng Điểm đầu Điểm cuối (km) đƣờng
Tuyến đường Pa Về Pa Vệ Sử, Xã Hua 1 14,4 D Sử - Hua Bum Mường Tè Bum
Tuyến đường Hua
2 Bum - Nậm Ban - Hua Bum Trung Chải 25,0 D
Trung Chải
Đường Trung Chải - 3 Trung Chải Biên giới 9,7 D Pa Tần
Nguồn: Đề án phát triển giao thông giai đoạn 2016 - 2020, huyện Nậm Nhùn
Ngoài các tuyến đường tuần tra, mạng lưới đường giao thông trong
huyện còn có: Đường huyện, đường xã, đường dân sinh.
- Đường huyện, đường xã: Là các tuyến đường nối các trung tâm phát
triển hoặc thị trấn huyện, nối các xã, nối các khu dân cư/đến trung tâm xã và
các tuyến đường giao cắt qua các tuyến đường tỉnh. Các tuyến đường GTNT
từ trung tâm huyện đến trung tâm các xã, đường liên xã dài 71,4 km. Trong
đó, đường láng nhựa 25,5 km chiếm 37%, đường cấp phối 3,5 km, chiếm 5%,
40
còn lại là đường đất 40 km chiếm 58%. Một số xã có đường từ trung tâm
huyện đến xã còn xa như từ huyện đến xã Nậm Ban, Trung Trải, Hua Bum và
phải đi qua huyện khác.
- Đến năm 2015, toàn huyện có 10/11 xã, thị trấn có đường ô tô đến
trung tâm xã; 72% số(50/70 bản) có đường ô tô; 55%có đường xe máy đi lại
thuận tiện bốn mùa. Nhiềuvùng cao, biên giới trên địa bàn huyện chưa có
đường giao thông để khai thác phát triển.
- Mật độ Km đường GTNT/km2 và km/1.000 dân của Nậm Nhùn thấp
hơn nhiều so với mức bình quân của tỉnh. Đến năm 2013, tỷ lệ số Km chiều dài đường GTNT trên 01 km2 huyện Nậm Nhùn là 0,09 km/km2 (tỉnh là 0,4 km/km2). Số Km chiều dài đường GTNT trên 1.000 người dân là 6,0
km/1.000 dân (tỉnh 7,4 km/1000 dân).
Như vậy, mạng lưới đường GTNT từ khi thành lập huyện đã được quan
tâm đầu tư nhưng so với nhu cầu còn thiếu cả về số lượng, kém về chất lượng.
Do đặc thù địa hình miền núi chia cắt phức tạp, kết hợp với tập quán cư trú, sản
xuất của đồng bào các dân tộc nên mạng lưới giao thông phân bố không đều.
Các tuyến đường GTNT tuy đã được quan tâm đầu tư xây dựng, cải tạo
nâng cấp song chưa nhiều, số Km đường bộ có chất lượng kém, chưa đúng cấp kỹ
thuật chiếm tỷ trọng lớn. Hệ thống cầu, cống được xây dựng nhiều giai đoạn khác
nhau nên sức chịu tải cũng khác nhau và còn nhiều cầu trên một số tuyến có tải
trọng nhỏ (cầu dân sinh) không phù hợp với nhu cầu vận tải hiện nay. Đa số các
tuyến GTNT chưa được vào cấp, hệ thống thoát nước tạm, một số tuyến chưa có
cầu, ngầm tràn rất khó khăn cho các phương tiện đi lại trong mùa mưa lũ.
Có 41/70 thôn bản, có đường xe máy đi lại được thuận tiện chiếm 58%
còn lại cácđã có đường đến thôn bản, nhưng đi lại khó khăn nhất là vào mùa
mưa lũ. Từ những số liệu trên cho thấy mạng lưới giao thông đường bộ của
huyện, đặc biệt là GTNT tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng tốc độ còn
chậm, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế từng vùng miền. Số xã,có
đường ô tô, xe máy chỉ đi lại được mùa khô còn nhiều, do đó đã làm hạn chế
đến việc lưu thông và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, huyện, tỉnh.
41
* Đánh giá chung về đường giao thông trên địa bàn huyện
Hệ thống mạng lưới đường giao thông của huyện phân bổ tương đối
hợp lý, có những tuyến đường nối với đường tỉnh, đường huyện, đường tạo
điều kiện thuận lợi cho mối giao lưu giữa các trong huyện, giữa huyện với các
huyện khác của tỉnh Điện Biên nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện đời sống của người dân huyện.
+ Về quy hoạch: Mạng lưới giao thông huyện đã được quy hoạch bao
gồm các điểm dân cư, các vùng sản xuất chuyên canh phục vụ nhu cầu cho sự
đi lại người dân
+ Về tiêu chuẩn kỹ thuật: Chất lượng của các tuyến đường này còn
nhiều hạn chế, kết cấu bề mặt, hệ thống thoát nước mặt chưa đáp ứng được
yêu cầu vận tải và độ bền vững của tuyến. Mặt khác, đường cấp phối và
đường đất luôn bị bụi bẩn về mùa khô và lầy lội khi trời mưa, nhiều tuyến
đường nhanh chóng xuống cấp sau khi thi công hoàn thành. Người và phương
tiện giao thông đi lại trên tuyến còn gặp khó khăn.
+ Về quản lý khai thác: Trong những năm qua, huyệnđã có những văn
bản mang tính pháp quy nhằm bảo đảm việc khai thác bình thường của mạng
lưới như hành lang bảo vệ của các tuyến trục huyện, thôn, xóm. Cộng với các
văn bản mang tính pháp quy của Chính phủ về công tác bảo đảm an toàn giao
thông đường bộ, nên các tuyến đường thuộc mạng lưới các công trình trên
tuyến được bảo vệ, không bị các cá nhân xâm hại gây cản trở giao thông.
Tuy nhiên, do một số nơi mặt đường, hệ thống thoát nước mặt không
được duy tu bảo dưỡng thường xuyên, việc duy tu bảo dưỡng không xử lý
triệt để, công tác quản lý chưa được quan tâm đúng mức, phân cấp trong quản
lý còn nhiều bất cập nên đã dẫn đến sự xuống cấp của nhiều tuyến đường, các
thôn/xóm/bản chưa có hương ước bảo vệ đường giao thông nên nhiều nơi mặt
đường bị xuống cấp nhanh chóng, nhất là trong mùa mưa lũ, gây nhiều khó
khăn cho việc giao thông vận tải dẫn đến việc mùa khô thì bỏ công sức ra để
duy tu bảo dưỡng, sửa chữa đường và đến mùa mưa lại bị phá hỏng.
42
Thêm vào đó nếu như không có hương ước về bảo vệ và sử dụng các
con đường, và do cơ sở hạ tầng ở các vùng nông thôn còn nhiều bất cập và
thiếu tính đồng bộ nên việc đào đường và thoát nước sinh hoạt, cấp nước cho
cây trồng của các hộ nông dân thường xẩy ra,nhất là đối với hệ thống đường
qua các khu vực canh tác thường bị phá huỷ hàng năm với khối lượng lớn
nhất trong hệ thống mạng lưới đường GTNT.
3.3. Thực trạng sự tham gia của ngƣời dân trong xây dựng GTNT tại
huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
3.3.1. Thực trạng sự tham gia của người dân trong quyết định các vấn đề
xây dựng đường GTNT
Thời gian qua, huyện Nậm Nhùn đã tích cực chủ động chuyển dần từ
hình thức Nhà nước đầu tư xây dựng đường GTNTsang hình thức nhà nước
và nhân dân cùng làm trong đó phần lớn chi phí đầu tư xây dựng và quản lý
do cộng đồng hưởng lợi đóng góp. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần (chủ yếu là
xi măng, cát, đá chở về tận nơi xây dựng) đã tạo cơ sở để người dân được
tham gia nhiều hơn trong xây dựng và quản lý công trình.
Quan điểm của chính quyền địa phương là khuyến khích “dân biết,
dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” trong mọi hoạt động của quá trình xây
dựng và quản lý đường giao thông. Ban Thường vụ tỉnh đã có Nghị quyết
về phát triển GTNT tỉnh đã tạo ra bước cải thiện ban đầu cho cơ sở hạ
tầng nông nghiệp, nông thôn, đồng thời khích lệ phong trào tham gia của
cộng đồng trong xây dựng đường giao thông ở Nậm Nhùn. Hai công trình
điển hình là công trình đường GTNT bản Chang và bản Lai Hà, xã Lê
Lợi. Thông tin chi tiết về hai công trình được thống kê ở bảng dưới đây:
43
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu của công trình GNTN bản Chang và bản Lai Hà
Đƣờng GTNT Đƣờng GTNT Chỉ tiêu Đơn vị bản Lai Hà bản Chang
Tổng thời gian chuẩn bị xây dựng tháng 2 5
Thời gian khảo sát, thiết kế ngày 30 90
Giá trị khảo sát, thiết kế triệu đồng 19,5 43,08
tấn 6 6 Sức chịu tải thiết kế
tấn 6 5 Sức chịu tải thực tế
% 100 83,33 Tỷ lệ công suất sử dụng
Nguồn: Báo cáo Nông thôn mới xã Lê Lợi năm 2015
Bảng 3.3: Ngƣời dân đƣợc cung cấp thông tin về xây dựng đƣờng GTNT
Đƣợc cung cấp thông tin Không đƣợc cung cấp thông tin Công trình Số mẫu
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Số lƣợng (ngƣời)
Công trình 60 5 8,33 55 91,77 bản Chang
Công trình 60 40 66,67 20 33,33 bản Lai Hà
Trung bình 37,5 62,55
Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2016
Để khuyến khích người dân tham gia tích cực vào phát triển GTNT,
trước hết họ cần được cung cấp đầy đủ thông tin từ giai đoạn chuẩn bị triển
khai các dự án đường GTNT.
Mặc dù khuyến khích người dân tham gia nhưng tỷ lệ người dân được
cung cấp thông tin chiếm tỷ lệ tương đối thấpvà có sự chênh lệch giữa các
bản, trung bình hai bản là37,5%, trong đó đối bản Chang là 8,33%, bản Lai
Hà là 66,67%.
44
Kênh cung cấp thông tin cũng rất đa dạng. Kết quả điều tra 60 hộ dân
thuộc bản Chang và 60 hộ dân bản Lai Hà cho thấy, thông tin chủ yếu được
truyền tải qua các cuộc họp bản, họp xóm, thông báo của già làng, trưởng bản,
qua kênh của bí thư chi bộ và các đồng chí Đảng viên trong bản.
Bảng 3.4: Kênh cung cấp thông tin cho ngƣời dân về đƣờng GTNT
Công trình bản Chang Công trình bản Lai Hà
Kênh cung cấp thông tin
Số lƣợng (ngƣời) Số lƣợng (ngƣời)
Tỷ lệ (%) so với số ngƣời đƣợc biết thông tin 0 Tỷ lệ (%) so với số ngƣời đƣợc biết thông tin 63,63 Họp dân 0 35
Đài phát thanh thôn, xã 0 0 32 58,18
Các tổ chức đoàn thể 5 100 36 64,4
Báo, đài, tivi 0 0 0 0
Họ hàng, hàng xóm 0 0 34 61,8
Khác 0 0 0 0
- Số người được biết thông tin Bản Chang: 05 người.
- Số người được biết thông tin Bản Lai Hà: 40 người.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2016
Như vậy, kênh cung cấp thông tin cho thấy đối bản Chang người dân
được biết thông tin là 5 (người)/60 phiếu điều tra chủ yếu là các lãnh đạo của
bản được biết thông tin 100% qua tổ chức. Đối với bản Lai Hà số người được
biết thông tin là 55/60 phiếu điều tra
Người dân có thể tham gia vào nhiều nội dung khác nhau để quyết định
tuyến đường nào cần được ưu tiên xây dựng, mức kinh phí, mức đóng góp
của dân, khả năng kiểm tra, giám sát, quản lý. Từ thực trạng các công trình
mà cộng đồng đang sử dụng, họ có thể đề xuất nhu cầu xây dựng công trình,
đề xuất quy mô xây dựng sao cho có thể đáp ứng nhu cầu đi lại thực tế của họ
hoặc có thể cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ công tác khảo sát, thiết
kế, tham gia đóng góp ý kiến để hoàn thiện hồ sơ khảo sát thiết kế.
45
Bảng 3.5: Nội dung tham gia của ngƣời dân trong xây dựng đƣờng GTNT
Công trình bản Chang Công trình bản Lai Hà
Nội dung tham gia của ngƣời dân
Số lƣợng (ngƣời) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) so với số ngƣời đƣợc biết thông tin
Tỷ lệ (%) so với số ngƣời đƣợc biết thông tin
Đề xuất nhu cầu xây dựng 5 100 25 62,50 công trình
Đề xuất quy mô công trình 3 60 21 52,50
Cung cấp các thông tin phục 0 0 22 55,00 vụ khảo sát, thiết kế
Đề xuất mức độ đóng góp 0 0 11 27,5 của nhân dân
- Số người được biết thông tin Bản Chang: 05 người.
- Số người được biết thông tin Bản Lai Hà: 40 người.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, 2016
Trong thời gian qua, hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm mặc dù
đã có những biến đổi tích cực trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng
trong giai đoạn trước khi xây dựng. Nhưng việc xác định nhu cầu đầu tư xây
dựng của không ít công trình vẫn do UBND xã chỉ định từ trước. Trong quá
trình khảo sát, thiết kế, sự tham gia chủ yếu của cộng đồng cung cấp các
thông tin cho đơn vị tư vấn phục vụ khảo sát, thiết kế công trình. Nhưng chất
lượng còn thấp và mang nặng tính hình thức, thể hiện ở chỗ công trình sau khi
xây dựng xong không phù hợp với thực tế nơi xây dựng. Đối với quá trình lập
kế hoạch về nguồn lực và kế hoạch tổ chức thi công sự tham gia của cộng
đồng rất ít, chủ yếu là cán bộ của xã, thôn hay ban xây dựng công trình quyết
định. Một số công trình, người dân chỉ được thông báo mình phải đóng góp
bao nhiêu và phương thức đóng góp như thế nào?
46
a. Đối với đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi
Năm 2013, UBND xã Lê Lợi báo cáo UBND huyện Nậm Nhùn về tình
trạng xuống cấp của tuyến đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi, nhân dân đi lại
rất khó khăn và đề nghị UBND huyện cho phép nâng cấp cải tạo tuyến đường
này. Sau khi xem xét đề nghị của UBND xã Lê Lợi và ý kiến tham mưu của
phòng Công thươngvà phòng Tài chính - Kế hoạch, UBND huyện Nậm Nhùn
đã đồng ý cho đầu tư xây dựng tuyến đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi với
nguồn vốn 100% là Ngân sách Nhà nước, đồng thời giao cho Phòng Công
thương của huyện làm chủ đầu tư. Các trình tự về đầu tư xây dựng tuyến đường
này do chủ đầu tư thực hiện theo trình tự thủ tục xây dựng cơ bản.
Trong quá trình triển khai khảo sát, thiết kế đơn vị tư vấn thực hiện
chậm, không có sự tham gia của cộng đồng, công việc tiến hành độc lập theo
hợp đồng đã ký. Khi tiến hành khảo sát, đo đạc thực tế đơn vị tư vấn chỉ làm
việc với lãnh đạo và cán bộ địa chính, xây dựng của xã. Hoàn tất quá trình khảo
sát thiết kế Công ty đã giao nộp sản phẩm cho Phòng Công thương. Sau khi
được các cơ quan chuyên môn thẩm định, UBND phê duyệt Báo cáo kinh tế -
kỹ thuật xây dựng công trình đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi. Công việc
tiếp theo là lựa chọn và ký hợp đồng với đơn vị thi công xây dựng và giám sát
thi công do Phòng Công thương thực hiện theo quy định của Nhà nước.
Với cách thức này, quá trình chuẩn bị xây dựng của công trình phải
tuân theo trình tự về đầu tư xây dựng cơ bản và các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây
dựng của Nhà nước từ đó chất lượng giai đoạn này sẽ được bảo đảm. Một
trong những ưu điểm của hình thức đầu tư này là hồ sơ thiết kế thiết kế phải
được cơ quan chuyên môn của UBND huyện Nậm Nhùn thẩm định trên cơ sở
tuân thủ các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch giao thông vận
tải của huyện và phù hợp với các quy hoạch khác của địa phương.
47
Như vậy, qua quá trình xác định sự cần thiết phải đầu tư, khảo sát,
thiết kế, phê duyệt Báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng đường GTNT bản
Chang, xã Lê Lợi cho thấy hầu như không có sự tham gia của cộng đồng
địa phương. Việc xác định nhu cầu hay sự cần thiết phải đầu tư ở đây là cơ
chế “xin - cho” mà không có sự tham vấn của cộng đồng, không có sự tìm
hiểu khảo sát xem thực tế nhân dân đi lại khó khăn như thế nào? Mùa mưa
như thế nào? Mùa khô ra sao? Các loại phương tiện thường lưu thông trên
tuyến, lưu lượng nhiều hay ít?...
Mức độ tham gia của người dân quá ít trong giai đoạn này, người
được biết, được bàn, được đóng chủ yếu là cán bộ thôn. Hơn nữa, trong
công tác khảo sát thiết kế hoàn toàn do đơn vị tư vấn được Phòng Công
thương lựa chọn thực hiện, cộng đồng - đối tượng được phục vụ không
được chia sẻ kết quả khảo sát, thiết kế có liên quan đến chính bản thân
mình. Thậm chí, cả UBND xã cũng chỉ được tham gia cung cấp một vài
thông tin trong quá trình khảo sát, thiết kế, còn sản phẩm của công việc
này như thế nào thì lại do Phòng Công thương đảm nhận.
Có thể nói, gần như cơ quan chức năng thực hiện huy động sự tham gia
của cộng đồng, chủ đầu tư chưa thực hiện một cách nghiêm chỉnh quy chế
thực hiện dân chủ ở xã. Nguyên nhân của thực trạng này được thảo luận và
phân tích như sau:
Vai trò của cộng đồng chưa được đánh giá cao, các đơn vị chuyên
môn như tư vấn khảo sát, thiết kế, thẩm định, phê duyệt thường xem nhẹ
và bỏ qua ý kiến tham khảo của cộng đồng nơi chuẩn bị xây dựng. Quan
điểm phổ biến cho rằng trình độ về kỹ thuật xây dựng của người dân còn
thấp nên không có khả năng tham gia trong quá trình khảo sát, thiết kế,
thẩm định và phê duyệt thiết kế công trình.
48
Vì cộng đồng không được tham gia, không phải đóng góp và quan niệm
công trình là của Nhà nước, tiền của Nhà nước bỏ ra nên không có trách
nhiệm tham gia.
Chưa có cơ chế cho cộng đồng tham gia, quá trình thực hiện hoàn toàn
do các cơ quan của Nhà nước hoặc do Nhà nước thuê tiến hành và được tuân
theo những trình tự, thủ tục hành chính quy định, phải qua nhiều khâu, nhiều
bước kéo dài thời gian chuẩn bị xây dựng.
b. Đối với đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi
Tuyến đường này quy mô nhỏ hẹp, mặt đường đất cấp phối, mặt đường đã
bị xuống cấp nghiêm trọng, mùa khô thì bụi bẩn, vào mùa mưa thì trơn trượt lầy
lội, các phương tiện đi lại rất khó khăn, nhiều vị trí cục bộ bị tê liệt không thể đi
lại do nước ngập. Trước tình hình đó, tháng 3/2014, thông qua họp thôn, nhân
dân bản Lai Hà, xã Lê Lợi thống nhất báo cáo với UBND xã đề nghị cho phép
nâng cấp tuyến đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi với hình thức Nhà nước và
nhân dân cùng làm. Theo kế hoạch hỗ trợ xi măng hàng năm của huyện, UBND
xã đã cho phép đầu tư nâng cấp tuyến đường trên, giao cho bản Lai Hà, xã Lê
Lợi trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo và giám sát
của UBND xã. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần kinh phí là hiện vật bằng xi măng,
phần chi phí còn lại do nhân dân đóng góp. Trước đó để cụ thể hóa Nghị quyết,
UBND huyện Nậm Nhùn đã tổ chức lớp tập huấn ngắn hạn về bê tông hóa
đường GTNT theo hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm cho lãnh đạo và
cán bộ chuyên môn của tất cả các xã trong huyện, trong đó đặc biệt chú trọng
đến kỹ thuật tổ chức thi công xây dựng và quản lý đường giao thông.
Qua Sơ đồ cho thấy, cộng đồng địa phương là chủ thể của quá trình
chuẩn bị xây dựng đường GTNT ở xã Lê Lợi. Có thể khái quát quá trình trên
như sơ đồ sau:
49
Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức thực hiện trong giai đoạn trước khi
xây dựng trình đường GTNT xã Lê Lợi
Được UBND xã đồng ý về chủ trương, bản Lai Hà, xã Lê Lợi tiến hành
ngay các bước tiếp theo, như bầu ra Ban Xây dựng, lập và thông qua kế hoạch
triển khai thực hiện. Đơn vị tư vấn được UBND xã lựa chọn để khảo sát thiết
kinh phí thực hiện hợp đồng được huy động hoàn toàn từ đóng góp của cộng
đồng. Trong suốt quá trình khảo sát, thiết kế cán bộ của UBND xã và những
người trong thôn có năng lực cộng đồng phối hợp cung cấp các thông tin cần
thiết như điều kiện về thủy văn, nơi thường xuyên bị ngập nước, nguồn cung
cấp vật liệu, cự ly vận chuyển, điều kiện về thổ nhưỡng... Thiết kế và dự toán,
mức đóng góp được thông qua UBND xã và thông báo cho bản Lai Hà, xã Lê
Lợi thông qua hội nghị họp thôn.
c. So sánh sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
So sánh sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn trước khi xây dựng
ở hai công trình nghiên cứu được thể hiện ở bảng 3.7.
50
Bảng 3.6: So sánh sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn
trƣớc khi xây dựng ở hai công trình
STT Nội dung
1 Xác định cần thiết phải đầu tư xây dựng
Đƣờng giao thông bản Lai Hà Xác định sự cần thiết phải đầu tư do UBND xã, huyện thực hiện. Cộng đồng không tham gia mà chỉ cung cấp thông tin về tình trạng của đường nếu được hỏi
2 Lập kế hoạch triển khai thực hiện Cộng đồng không tham gia. Ban QLDA thực hiện theo các thủ tục hành chính về xây dựng cơ bản mất nhiều thời gian
Đƣờng giao thông bản Chang Xuất phát từ tình hình thực tế, cộng đồng tự xác định sự cần thiết phải đầu tư xây dựng công trình và đề nghị cho phép xây dựng Sau khi được đồng ý về chủ trương, cộng đồng tự bầu ra Ban Xây dựng, tự lập và thông qua kế hoạch Cộng đồng ký hợp đồng đơn vị khảo sát thiết kế
3 Lựa chọn đơn vị khảo sát, thiết kế
4 Khảo sát
5 Lập thiết kế,
dự toán Cộng đồng tham gia phối hợp, cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác khảo sát, thiết kế Cộng đồng được tham gia ý kiến bày tỏ quan điểm, mong muốn
6 Thẩm
Cộng đồng không tham gia. Việc lựa chọn và ký hợp đồng với đơn vị tư vấn khảo sát, thiết kế do Ban QLDA quyết định Cộng đồng không tham gia. Quá trình khảo sát sát do Ban QLDA phối hợp với đơn vị tư vấn và trực tiếp giám sát, nghiệm thu Cộng đồng không tham gia. Quá trình khảo thiết kế do đơn vị tư vấn thực hiện, Ban QLDA tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ và trình UBND huyện thẩm định, phê duyệt UBND huyện thẩm định và phê duyệt thiết kế, dự toán. Cộng đồng không tham gia, không có vai trò ảnh hưởng
định, phê duyệt thiết kế, dự toán và thức phương huy động vốn
Cộng đồng xem xét, đánh giá, góp ý kiến để hoàn thiện hồ sơ thiết kế, dự toán sát với thực tế và thông qua thiết kế, dự toán. Thảo luận phương thưc huy động vốn
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, năm 2015
51
Qua bảng cho thấy người dân đứng ngoài quá trình chuẩn bị xây dựng
đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi. Mọi hiểu biết của cộng đồng nơi xây
dựng công trình đều không được khai thác, người dân chỉ biết có đơn vị đến
khảo sát, thậm chí có người còn không biết đơn vị khảo sát đang khảo sát để
làm gì, mọi vấn đề do Phòng Công thương và UBND huyện thực hiện.
Bảng 3.7: Mức độ tham gia của ngƣời dân trong lập kế hoạch xây dựng
Mức độ tham gia của ngƣời dân
Số Công trình Không biết Biết và đƣợc tham gia mẫu
Biết và không đƣợc tham gia Tỷ lệ (%) Số lƣợng Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Công trình 60 55 91,67 3,33 3 5,0 2 bản Chang
Công trình 0 60 20 33,33 0 40 66,67 bàn Lai Hà
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, năm 2016
Qua bảng 3.8 cho thấy, đối với đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi,
giữ vai trò quyết định, phải đóng góp chi phí để thuê đơn vị khảo sát, thiết kế
nên cộng đồng ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình. Đồng thời
tinh thần phối hợp trong giai đoạn này của cộng đồng cũng khá tốt. Thể hiện
được ý tưởng, nhu cầu, hiểu biết của mình để phục vụ khảo sát, thiết kế. Qua
đó, khẳng định vị thế và lợi ích của cộng đồng, với vai trò là người làm chủ,
cộng đồng luôn đạt được lợi ích cao nhất.
Như vậy, có thể thấy sự tham gia của cộng đồng ở giai đoạn trước khi
xây dựng đối với công trình đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi:
- Chính quyền địa phương bước đầu đã có cơ chế đầu tư Nhà nước và
nhân dân cùng làm, qua đó khai thác được sức mạnh của nhân dân, cơ sở pháp
lý để triển khai đó là Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu về
phát triển GTNT của tỉnh. Cơ chế làm đường bê tông xi măng theo phương
52
châm: Nhà nước cấp xi măng đến tận nơi thôn xóm, nhân dân đóng góp vật
liệu, công xây dựng và hiến đất khi phải giải phóng mặt bằng để xây dựng đã
thực sự có hiệu quả cao, mang lại những kết quả thiết thực được đông đảo
nhân dân đồng tình hưởng ứng và huy động được các nguồn vốn. Quá trình
bắt đầu triển khai cho thấy dự án triển khai có công khai nhưng ít dân chủ.
Ngoài Nghị quyết, gần như không có quy định, hướng dẫn nào về đầu tư
đường giao thông theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Quá
trình triển khai cộng đồng phải tự vận động, xoay xở là chính, họ phải tự xác
định mình cần phải làm gì chứ không có quy định, hướng dẫn nào yêu cầu họ
phải/nên làm gì, làm như thế nào? Sự tham gia của cộng đồng mới chỉ dừng
lại ở mức tham gia phối hợp, cung cấp thông tin, quản lý, theo dõi công tác
khảo sát, thiết kế, chưa thực hiện quyền được lựa chọn đơn vị tư vấn và quyền
được giám sát, nghiệm thu đối với quá trình khảo sát của đơn vị tư vấn, việc
UBND xã lựa chọn đơn vị tư vấn khảo sát, thiết kế cho thấy việc phân cấp
chưa thực sự triệt để.
Vai trò, vị thế của cộng đồng phần nào đã được coi trọng và phát huy,
việc nâng cao kiến thức về năng lực quản lý, tổ chức điều hành, kỹ thuật thi
công đường GTNT cho đội ngũ cán bộ có liên quan ở xã đã được chính quyền
ở đây quan tâm triển khai ngay trong giai đoạn đầu triển khai Nghị quyết của
Tỉnh ủy. Tuy nhiên, việc tập huấn để nâng cao nhận thức về kỹ thuật tổ chức
thi công xây dựng và quản lý đường giao thông nói riêng mới chỉ hướng đến
đối tượng là lãnh đạo và cán bộ chuyên môn của xã. Trong khi đó, người trực
tiếp thực hiện quá trình xây dựng và quản lý đường giao thông chủ yếu là
cộng đồng hưởng lợi. Trong khi cán bộ xã chỉ theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn,
không tham gia trực tiếp, không thường xuyên, liên tục.
Đối với giai đoạn này, cộng đồng nhân dân bản Lai Hà, xã Lê Lợi
thông qua họp thôn để tự xác định nhu cầu xây dựng công trình cho thôn
mình, thành lập Ban xây dựng công trình, kế hoạch tổ chức triển khai, thông
qua thiết kế, dự toán. Đây là các công việc cần thiết trong giai đoạn đầu để
53
chuẩn bị xây dựng, các công việc này chủ yếu là xuất phát từ nhu cầu thực tế
và dựa vào quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Để thực hiện các công việc của giai đoạn trước khi xây dựng, cán bộ của
xã và thôn đã thông báo, tuyên truyền công bố các thông tin cần thiết cho nhân
dân trong thôn được biết, được bàn, được quyết định và được đóng góp. Mặc
dù vậy, vẫn còn một số hạn chế như việc thông tin tuyên truyền còn khá hình
thức, người dân thiếu thông tin, một số nội dung qua loa như lập kế hoạch tổ
chức, xác định nhu cầu vốn là do Ban Phát triển của bản đưa ra, không đưa ra
cuộc họp để thảo luận, góp ý mà trưởng thôn chỉ thông báo là kế hoạch tổ chức
như thế nào, mọi người phải tham gia như thế nào? Mức đóng góp ra sao?...
3.3.2. Sự tham gia đóng góp nguồn lực cho xây dựng GTNT
Cộng đồng là những người được hưởng lợi trực tiếp và họ cũng chính là
người bỏ ra công sức, tiền của, đất đai... nên họ có ý thức về sở hữu, có động cơ
tốt để thực hiện việc xây dựng và quản lý. Còn đối với công trình do Nhà nước
xây dựng và quản lý hoàn toàn, có thể chính người dân là thủ phạm phá hoại con
đường. Người dân trong cộng đồng thường xuyên đi lại hàng ngày trên đường và
đây cũng là nơi cộng đồng sinh sống nên việc quản lý đường giao thông được
thực hiện thường xuyên, liên tục hơn; giảm chi phí quản lý do không phải chịu
chi phí đi lại. Vì vậy, sự tham gia của họ vào việc xây dựng và quản lý đường
giao thông giúp tăng cường quyền làm chủ và trách nhiệm của cộng đồng, đồng
thời bảo đảm tính bền vững của các công trình giao thông.
Sự tham gia của cộng đồng vào các công việc của quá trình xây dựng
và quản lý đường giao thông không giống nhau tùy theo từng con đường.
Việc cùng chung một lợi ích, sẽ làm cho cộng đồng dân cư đoàn kết hơn đồng
thời người tham gia ở đây cũng chính là người được hưởng lợi. Do vậy, chất
lượng đường giao thông sẽ tốt hơn, giảm được chi phí xây dựng và quản lý.
Hơn nữa, nơi xây dựng đường giao thông chính là nơi người dân sinh sống,
do vậy không ai có thể am hiểu hơn họ về thực tế của địa phương như điều
kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng và phong tục tập quán.
54
Bảng 3.8: Một số chỉ tiêu thực hiện của hai công trình xã Lê Lợi
Đƣờng Đƣờng GTNT Chỉ tiêu Đơn vị GTNT bản Bản Chang Lai Hà
2 tháng/2 Thời gian hoàn thành so với 4 tháng/2 tháng tháng kế hoạch đề ra
triệu Giá trị dự toán ban đầu 620,08 895,411 đồng
triệu Giá trị quyết toán công trình 605,75 1.047,987 đồng
Nguồn:Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, năm 2015
Tham gia trong giai đoạn thi công xây dựng: Cộng đồng đóng góp tiền,
hiến đất và trực tiếp tham gia hoạt động thi công xây dựng, trong quá trình
xây dựng cộng đồng tham gia giám sát quá trình thi công nhằm bảo đảm chất
lượng công trình. Mức độ tham gia của cộng đồng trong giai đoạn thi công
xây dựng ở Nậm Nhùn là rõ nét và hiệu quả hơn cả.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này sự tham gia của cộng đồng còn nhiều
hạn chế như: Người dân vẫn thiếu thông tin về công trình, ít được bàn bạc, chỉ
biết đóng góp theo thông báo hoặc tham gia lao động một cách thụ động dưới
sự hướng dẫn của cán bộ xã hoặc thôn. Mặc dù có cơ chế giám sát cộng đồng
nhưng thường giao cho cán bộ thôn đảm nhiệm, việc giám sát còn mang tính
hình thức, thậm chí người được giám sát cũng có hiểu biết rất hạn chế về trình
tự đầu tư cũng như kỹ thuật xây dựng đường giao thông. Bên cạnh đó, cách
thức huy động sự tham gia còn nhiều hạn chế, chưa làm cho người dân cảm
thấy sự tham gia là quyền lợi chứ không chỉ là nghĩa vụ. Sự tham gia của các
tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương ở tất cả các cấp:, xã, huyện có uy tín
với cộng đồng (Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,
Hội Nông dân...) còn hạn chế về nhiều mặt. Phương pháp huy động chưa linh
55
hoạt, đối với một huyện nông nghiệp thì các khoản đóng góp xây dựng là một
gánh nặng về tài chính đối với các hộ nghèo và cận nghèo. Vì vậy, cần có sự
linh hoạt về phương thức đóng góp, có chính sách ưu tiên và tạo thêm việc
làm cho người nghèo.
a. Đối với đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi
Công trình đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi được đầu tư bằng
nguồn Ngân sách Nhà nước, nên quá thi công xây dựng tuân theo các quy
định về QLDA đầu tư xây dựng công trình tại Nghị định số 15/2013/NĐ-CP
ngày 06 tháng 2 năm 2013 của Chính phủ. Nó mang đặc trưng của quản lý
Nhà nước, đơn vị thi công, đơn vị giám sát đều do Phòng Công thương lựa
chọn và ký hợp đồng. Cộng đồng không có vai trò tham gia trong quá trình
xây dựng, cho dù chất lượng thi công xây dựng công trình không bảo đảm thì
cũng chưa có cơ chế để cộng đồng tham gia. Có thể rút ra mấy đặc điểm trong
giai đoạn thi công xây dựng của công trình này như sau:
Phương án thi công do đơn vị thi công đề ra theo hồ sơ thiết kế được duyệt;
Đơn vị giám sát do Phòng Công thương lựa chọn nên việc thông đồng
giữa thi công và giám sát rất có thể xảy ra, cũng là một nguyên nhân làm cho
chất lượng công trình kém;
Công tác nghiệm thu bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng và
quyết toán vốn đầu tư do Phòng Công thương, đơn vị thi công, giám sát, khảo
sát thiết kế và UBND xã thực hiện, công trình được bàn giao cho xã quản lý.
Quá trình thi công xây dựng phải tuân thủ trình tự thủ tục về đầu tư xây
dựng cơ bản, các quy định về quản lý chất lượng công trình phần nào chất lượng
công trình được bảo đảm. Đồng thời chi phí cho suốt quá trình thi công xây
dựng, kể cả chuẩn bị xây dựng do ngân sách Nhà nước thanh toán. Với điều kiện
kinh tế của một xã còn hạn hẹp, thì việc không phải đóng góp sẽ giảm bớt gánh
nặng về tài chính cho nhân dân địa phương nơi xây dựng công trình.
Nhận xét về sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn thi công xây
dựng đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi: Được Nhà nước đầu tư hoàn toàn,
56
do vậy sự tham gia của cộng đồng được áp dụng trong giai đoạn này chỉ đơn
thuần là tuyên truyền, vận động sự phối hợp, hợp tác, ủng hộ của UBND xã
và nhân dân địa phương trong quá trình giải phóng mặt bằng.
b. Đối với đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi
Trong giai đoạn thực hiện thi công xây dựng người dân tham gia từ góp
vốn, ký hợp đồng với đơn vị thi công, tổ chức phương án thi công, giám sát
quá trình thi công dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của UBND xã. Đơn vị thi công
được UBND xã lựa chọn để thực hiện một số hạng mục công việc quan trọng
mà cộng đồng không đủ điều kiện làm được như lu lèn, san gạt nền đường,
khai thác và vận chuyển đất đắp, thuê máy trộn bê tông... Trước và trong khi
thi công xây dựng, Ban Phát triển của bản đã phổ biến những công việc mà
cộng đồng ở đây cần phải làm, làm gì?... Đồng thời, tăng cường công tác
tuyên truyền, động viên để nhân dân trong thôn hoàn tất việc đóng góp để có
kinh phí triển khai thi công xây dựng.
Thôn tiến hành ký hợp đồng với đơn vị thi công, đối với công tác
giám sát do cộng đồng tự thực hiện bằng cách cử người có uy tín và kinh
nghiệm thực hiện.
Nguồn vốn: Vốn Nhà nước hỗ trợ một phần bằng xi măng và vốn góp
của cộng đồng. Số tiền đóng góp tính trung bình khoảng 540.000 đồng/khẩu,
nhân dân trong thôn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mình mà lựa chọn các
hình thức đóng góp là tiền mặt hoặc lao động hoặc cả hai hình thức. Đối với
đóng góp lao động thì bao gồm các công việc như quản lý tổ chức thi công,
phụ trách kỹ thuật thi công, giám sát, đào rãnh, đánh cấp, phát cây bụi, đổ bê
tông mặt đường xi măng, vận chuyển nguyên, vật liệu, phục vụ thi công
Tổ chức phương án thi công: Ban Phát triển của bản tiến hành xác định
nguồn cung cấp và nhu cầu vật liệu khác (cát, đá, sỏi), nhu cầu công lao động,
việc nào phải thuê, việc nào nhân dân trong thôn tự thực hiện, phân công
người giám sát, người hướng dẫn kỹ thuật trong quá trình thi công xây dựng,
giao nhiệm vụ quan trọng cho những người có uy tín. Do có sự chuẩn bị và
chủ động, công việc tiến hành rất thuận lợi, người dân phấn khởi tham gia xây
57
dựng vì sắp có đường bê tông. Quá trình thi công có sự hướng dẫn kỹ thuật
của cán bộ của xã, nên chất lượng thi công được bảo đảm, đúng theo hồ sơ
thiết kế đã được thông qua.
Giám sát: Quá trình này được thực hiện thường xuyên, liên tục và có
hiệu quả vì chất lượng công trình liên quan đến lợi ích thiết thân của cộng
đồng. Cơ sở của hoạt động này là ý thức về quyền sở hữu và trách nhiệm của
mỗi thành viên cộng đồng trong công việc chung.
Công tác nghiệm thu bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng
và quyết toán vốn đầu tư: Công trình được nghiệm thu bàn giao giữa đại diện
UBND xã, đại diện thôn và đơn vị thi công, sau đó bàn giao cho thôn trực tiếp
quản lý sử dụng.
Dưới sự hướng dẫn của UBND xã, bản Lai Hà, xã Lê Lợi tiến hành
thanh lý, quyết toán hợp đồng đã ký với đơn vị thi công, trên cơ sở đó quyết
toán toàn bộ công trình. Giá trị quyết toán được công khai và thông báo tới
toàn bộ nhân dân trong thôn.
c. So sánh sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn xây dựng công trình
Giá trị đóng góp và hình thức đóng góp của cộng đồng để xây dựng
tuyến đường GTNT bản Chang và bản Lai Hà cụ thể như Bảng 3.9 dưới đây.
Bảng 3.9: Đóng góp của cộng đồng trong thi công xây dựng công trình
Công trình bản Chang Công trình bản Lai Hà
Tỷ lệ so với Tỷ lệ so với giá Chỉ tiêu Số tiền Số tiền giá trị công trị công trình (trđ) (trđ) trình (%) (%)
Góp bằng tiền 0 20 120 0
Góp bằng ngày công 0 26,67 160 0 lao động
Tổng giá trị đóng 0 280 46,67 0 góp của cộng đồng
Nguồn: Báo cáo Nông thôn mới xã Lê Lợi năm 2015
58
Tiến độ thi công của đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi chậm so với
kế hoạch đề ra. Do công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước do vậy, quá
trình thi công xây dựng phải tuân thủ theo các thủ tục hành chính về xây dựng
cơ bản như vướng mắc về quá trình giám sát, nghiệm thu mất nhiều thủ tục,
cao độ thiết kế mặt đường không đủ để tránh ngập về mùa mưa, vị trí đặt cống
thoát nước không phù hợp, điều kiện địa chất không phù hợp với thực tế, do
vậy phải điều chỉnh thiết kế trong quá trình thi công.
Mặt khác, nguồn vốn bố trí cho công trình không đủ, tình trạng nợ đọng
(nợ công) trong xây dựng cơ bản trở thành hiện tượng phổ biến, công trình hoàn
thành năm 2014 nhưng đến tháng 12 năm 2015 Nhà nước mới trả hết nợ cho đơn
vị thi công. Một đặc điểm khá phổ biến của công trình xây dựng cơ bản do Nhà
nước đầu tư là thất thoát, lãng phí vốn đầu tư trong quá trình thi công, do đó
trong quá trình thi công đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi khó có thể tránh
khỏi sự nể nang hay thông đồng giữa cán bộ Nhà nước - đơn vị thi công - đơn vị
giám sát làm cho công trình không bảo đảm chất lượng theo thiết kế.
Nhận xét về sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn thi công xây
dựng đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi:
Việc thi công xây dựng tuyến đường được giao cho cộng đồng nhân
dân bản Lai Hà, xã Lê Lợi thực hiện, cộng đồng phải tự tổ chức triển khai
phần lớn các công việc để thi công xây dựng, qua đó đã phát huy tính tự lập
cao của cộng đồng ở đây.
Trong quá trình thi công xây dựng, UBND xã đã cử cán bộ kiểm tra,
hướng dẫn để cộng đồng có thể hiểu và tham gia thi công được tốt hơn và bảo
đảm các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, việc này là cần thiết và có tác dụng
nhất định của nó. Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao không thay việc thường xuyên
kiểm tra, hướng dẫn của cán bộ đối với quá trình thi công bằng việc UBND xã
chỉ cần một lần tổ chức hướng dẫn cho cộng đồng hưởng lợi những hiểu biết cơ
bản để có thể tham gia thi công xây dựng đường giao thông ? Bởi lẽ, vai trò của
59
cộng đồng chưa được đánh giá đúng mức, trình độ am hiểu về kỹ thuật xây
dựng của cộng đồng nhân dân trong thôn còn rất hạn chế, người dân ở đây đa
phần tham gia xây dựng bằng kinh nghiệm. Yếu tố này cũng phần nào ảnh
hưởng tới chất lượng của việc thi công cũng như giám sát thi công xây dựng.
Bên cạnh đó, như phân tích ở giai đoạn trước khi xây dựng thì cán bộ xã đã
được tập huấn để nâng cao hiểu biết về đường GTNT. Việc đào tạo này chưa
hướng tới đối tượng như trưởng thôn và cộng đồng thôn, điều đó cũng là một
minh chứng cho việc vai trò của cộng đồng chưa được đánh giá cao.
- Ban Phát triển của bản đã tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đề ra,
huy động được sức mạnh của nhân dân, bố trí các nguồn lực xây dựng cần
thiết để tiến hành tổ chức thi công xây dựng. Tổ chức cung cấp nguyên vật
liệu, vận chuyển, xây dựng các hạng mục công trình, tổ chức máy móc, lao
động khoa học, hợp lý. Công trình có thể hoàn thành đạt kết quả tốt phản ánh
việc cộng đồng trong thôn chấp hành khá tốt các quy định của Ban Xây dựng
đưa ra. Tuy nhiên, các quy định đó được đề ra hầu hết là xuất phát từ nhu cầu
thi công xây dựng. Chưa có quy định cụ thể nào của cơ quan có thẩm quyền
về quyền hạn, trách nhiệm của UBND xã và thôn đến đâu, như thế nào? Hay
hương ước, quy ước của làng, xã quy định những công việc cụ thể để thi
công, ví dụ đối với người được giao nhiệm vụ giám sát thi công xây dựng,
quyền và trách nhiệm của người giám sát chưa được làm rõ, chưa khơi dậy
trách nhiệm của cả cộng đồng trong việc giám sát thi công.
Đối với giai đoạn này thì công tác tuyên truyền được tăng cường,
nhưng mục đích chủ yếu của việc này là để cộng đồng tham lao động và đóng
góp tiền đầy đủ, kịp thời hơn. Chưa quan tâm việc làm sao để chất lượng
tham gia của cộng đồng cao hơn và tự giác hơn, chưa có kênh thông tin phản
hồi cho cơ quan quản lý, người dân và hoạch định chính sách từ thực tế cơ sở,
việc phối hợp thông tin giữa các cấp chưa được chú trọng.
60
Tuy nhiên vẫn còn một vài điểm tồn tại, phương án tổ chức thi công
của bản Lai Hà, xã Lê Lợi một vài điểm chưa khoa học, hợp lý, chưa phù hợp
với thực tế: Có tình trạng có ngày thiếu, có ngày thừa người tham gia xây
dựng, một phần do ý thức tổ chức của người dân còn kém, một phần do
phương án tổ chức thi công của thôn được Ban Phát triển của bản xây dựng
nhưng không tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, lấy ý kiến đóng góp của nhân
dân trong thôn để phù hợp với thực tế hơn. Mặc dù đã có sự tham gia tích cực
của cộng đồng, nhưng chủ yếu là của cộng đồng nhân dân trong thôn, chưa có
sự xuất hiện của các tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn
Thanh niên... Đây là các tổ chức xã hội hiện hữu tại cộng đồng, có ảnh hưởng
nhiều đến việc huy động sự tham gia của cộng đồng.
3.3.3. Sự tham gia kiểm tra, giám sát công trình giao thông
a. Về công tác kiểm tra, giám sát của các cấp chính quyền
Công tác kiểm tra, đôn đốc của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp được
thực hiện quy định hàng tháng, quý tiến hành giao ban với các xã trên địa bàn về
tiến độ và kết quả thực hiện, kịp thời khắc phục những hạn chế trong nhận thức
của cán bộ và nhân dân; nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các
cấp, các ngành, tạo sự nhất trí, đồng thuận cao trong cả hệ thống chính trị.
Thành viên Văn phòng Điều phối nông thôn mới, thành viên BCĐ
thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các địa phương việc triển khai thực
hiện các hạng mục công trình về tiến độ, chất lượng và việc huy động người
dân tham gia thực hiện xây dựng công trình giao thông. Trong huy động, luôn
tôn trọng phát huy dân công khai, tự nguyện, tuyệt đối không được ép buộc.
Việc kiểm tra định kỳ và đột xuất đã kịp thời phát hiện và tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc tại địa phương. Với một số công trình qua đề xuất của địa
phương và bằng kiểm tra thực tế xét thấy do nhu cầu của nhân dân cần điều
chuyển sang công trình khác hoặc điều chuyển nguồn vốn sang xã khác thì chỉ
61
đạo địa phương sớm có văn bản đề nghị điều chuyển nguồn vốn, đảm bảo
theo các văn bản quy định. Cách làm này đã được hưởng ứng, từ đó trong
công tác tuyên truyền vận động, nhân dân tự nguyện tháo dỡ tường rào, hiến
đất làm đường giao thông và thực hiện đóng góp ngày công lao động hoặc
tiền mặt để xây dựng các công trình hạ tầng tại địa phương. Cũng từ đó Văn
phòng Điều phối tỉnh đã kịp thời tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện rà
soát, điều chỉnh đảm bảo phù hợp với điều kiện địa phương trong phạm vi khả
năng ngân sách.
b. Công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng địa phương
UBND huyện Nậm Nhùn cũng khuyến khích các xã những cách làm
chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của xã, tránh rập
khuôn, máy móc. Tăng cường giao cho cộng đồng hưởng lợi tự thực hiện, tự
giám sát các hạng mục công trình quy mô nhỏ, kĩ thuật đơn giản nhằm giảm
chi phí trong thực hiện, tránh thất thoát, lãnh phí không đáng có.
Từ việc được bàn bạc, tự nguyện đóng góp và trực tiếp thi công
công trình, người dân thấy rõ hơn vai trò, trách nhiệm của mình từ đó có
quản lý công trình tốt hơn, khi có hỏng chủ động sửa chữa. Điều đó cho
thấy hiệu quả thể hiện không chỉ ở mặt kinh tế, còn thể hiện cả ý nghĩa
của cả Chương trình.
Bảng 3.10: Sự tham gia cộng đồng trong kiểm tra, giám sát công trình
Công trình bản Chang Công trình bản Lai Hà Chỉ tiêu Có Không Có Không
Chủ đầu tư giám sát X
Thuê đơn vị giám sát X X độc lập
Cộng đồng giám sát X X X
Nguồn: Điều tra của tác giả, năm 2015
62
Bảng 3.11: Mức độ tham gia của cộng đồng trong việc kiểm tra,giám sát
Mức độ tham gia của ngƣời dân
Biết và không Biết và đƣợc Số Không biết Công trình đƣợc tham gia tham gia mẫu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lƣợng (%) lƣợng (%) lƣợng (%)
Công trình bản Chang 60 55 91,67 3,33 3 5,0 2
Công trình bàn Lai Hà 60 20 33,33 0 40 66,67 0
Trung bình 37,5 62,5 1,66 21,5 35,8 1
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả, năm 2015
Ban công tác dân vận ở cơ sở, Ban thường trực ủy ban MTTQ các cấp
cùng với các tổ chức thành viên đã thường xuyên tiến hành giám sát các quy
định về hỗ trợ, đóng góp xây dựng nông thôn mới. Kết quả cho thấy việc phân
bổ được thực hiện công khai, dân chủ, có đầu tư trọng điểm vào công trình,
lĩnh vực và địa phương ưu tiên. Đồng thời cấp tỉnh, huyện, xã đã có ban hành
nghị quyết hỗ trợ như: Hỗ trợ làm đường giao thông, các công trình văn hóa...
Việc huy động sức dân được thực hiện theo quy chế dân chủ ở cơ sở, từ việc
lựa chọn công trình đến mức đóng góp, hình thức đóng góp.
Qua Bảng cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng được
khuyến khích tuy nhiên dừng lại ở văn bản chưa triển khai rộng lớn ra thực tế
thể hiện trung bình hai bản chỉ có 21,5 người tham gia tương đương 35,8%
trong đó bản Lai Hà 66,67% và bản Chang là 5%.
Tác giả thực hiện phỏng vấn chuyên sâu đối với ông Lò Văn sinh -
Chủ tịch UBND xã Lê Lợi và bà Lò Thị Thắm - Cán bộ địa chính xã Lê
Lợi về sự tham gia của cộng đồng người dân trong kiểm tra giám sát công
trình, cụ thể như sau:
63
Hộp 3.1. Phỏng vấn sâu: Ông Lò Văn Sinh - Chủ tịch UBND xã Lê Lợi
Xã rất khuyến khích hộ dân tham gia giám sát công trình giao thông nhưng
phần lớn người dân còn e ngại, họ cho rằng mình không đủ khả năng để
tham gia giám sát. Họ cho rằng việc giám sát công trình giao thông là
thuộc thẩm quyền của cán bộ xã chứ người dân thì biết gì mà giám sát.
Hộp 3.2. Phỏng vấn sâu:Bà Lò Thị Thắm -Cán bộ địa chính xã Lê Lợi
Dân ở đây toàn người dân tộc thiểu số, họ ít tiếp xúc với bên ngoài nên
còn e ngại lắm. Nếu muốn người dân tham gia giám sát công trình GTNT
thì phải tuyên truyền, tập huấn nhiều, mà nên bắt đầu từ trưởng bản. Nếu
không họ không tham gia đâu.
Kết quả nhận được cho thấy tỷ lệ người người dân tham gia kiểm tra, giám
sát không nhiều tùy thuộc từng bản. Đối với bản có sự đóng góp của người dân cả
kinh phí và ngày công lao động trong xây dựng công trình GTNT, do đó tỷ lệ
người dân tham gia cao hơn 60-85% và ngược lại đối với các bản nhà nước thực
hiện hỗ trợ 100% xây dựng công trình GTNT thì sự tham gia của người dân trong
kiểm tra giám sát công trình càng thấp chỉ chiếm khoảng 5-7%.
Công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng người dân không được tham
gia nhiều chủ yếu thực hiện bước thi công của dự án.Về nội dung kiểm tra, giát
sát của cộng đồng chưa thể hiện phong phú từ khâu thiết kế đến khi nghiệm thu
bàn hoàn thành, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. Tại các bản người dân
chủ yếu tham gia trong việc kiểm soát vật liệu, thiết bị đưa vào thi công dự án,
chất lượng bê tông khi thi công. Công tác giám sát chưa có nhiều thiết bị hỗ trợ
chuyên dụng mà chủ yếu đánh giá bằng trực quan mắt thường. Số lượng người
dân có trình độ được đào tạo chuyên môn từ trung cấp đến các bậc cao hơn tại
các bản của xã rất hạn chế, do vậy việc tham gia cộng đồng trong giám sát thực
hiện công trình chưa được sâu và chi tiết, chủ yếu ý kiến tham gia kiểm tra
giám sát là người dân đã từng làm thợ xây hoặc phụ hồ ý kiến đến trưởng bản,
UBND xã và các chủ đầu tư. Đặc biệt, tại các bản người dân chưa xác định đượ
64
vai trò của cộng đồng trong kiểm tra, giám sát công trình. Người dân chưa xác
định vai trò của mình chính là là người quản lý sử dụng công trình. Hơn nữa,
cơ chế hỗ trợ cộng đồng người dân trong kiểm tra, giám sát xây dựng công
trình giao thông tại các bản là không có. Tất cả lý do trên, cho thấy sự tham gia
của người dân trong kiểm tra, giám sát công trình GTNT chưa cao, cần phối
hợp nhiều giải pháp tằng cường hơn nữa sự tham gia này.
3.3.4. Sự tham gia nghiệm thu, quản lý, khai thác sử dụng công trình
Tham gia quản lý khai thác công trình: Cộng đồng tham gia quản lý
công trình nhằm duy trì chất lượng công trình, bảo đảm công trình được khai
thác sử dụng đúng năng lực được thiết kế.
Số lượng tuyến đường được giao cho nhân nhân quản lý vẫn còn khiêm
tốn, UBND xã vẫn còn quản lý một số không nhỏ các tuyến đường giao
thông, trong khi những tuyến đường này nên giao cho trực tiếp quản lý để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này. Cũng qua đây cho thấy sự phân
cấp quản lý chưa mạnh ở các tuyến đường, chưa có một cơ chế mạnh dạn giao
cho quản lý đường xã, xã quản lý đường huyện.
Bảng 3.12: Số lƣợng công trình phân theo hình thức quản lý
Trong đó Sốtuyến
Loại công trình đƣờng UBND xã quản lý Cộng đồng quản lý
(tuyến) Số lƣợng Tỉ lệ (%) Số lƣợng Tỉ lệ (%)
Đường huyện 14 0 0 0 0
Đường xã 16 16 100 0 0
Từ phân tích trên, cho thấy những kết quả đạt được vẫn chưa tương
xứng với giá trị đầu tư đã bỏ ra. Các tuyến đường giao thông xây dựng xong
bị xuống cấp nhanh chóng, trong quá trình khai thác sử dụng nảy sinh nhiều
bất cập, không phù hợp với thực tế do sai sót trong khảo sát thiết kế, việc
quản lý bị bỏ ngỏ, kinh phí duy tu, sửa chữa quá eo hẹp và phụ thuộc vào
ngân sách huyện, xã. Ý thức của người dân về bảo vệ đường giao thông còn
hạn chế, trình độ về kỹ thuật xây dựng đường giao thông còn thấp.
65
Từ thực trạng trên ở Nậm Nhùn, có thể thấy được mấy nhóm nguyên
nhân sau đây:
- Vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn quá eo hẹp và chưa huy
động được sự tham gia của cộng đồng hưởng lợi. Trong thời gian gần đây, cơ
cấu vốn cho đầu tư xây dựng, quản lý khai thác các công trình đường giao thông
có tính đến việc huy động thêm sự đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, phần huy
động thường đạt được kết quả không cao, phần vốn Nhà nước đầu tư thường
không đầy đủ và kịp thời, chủ yếu theo kế hoạch vốn được phân bổ cố định hàng
năm dẫn tới thời gian xây dựng kéo dài, chi phí xây dựng phát sinh, chất lượng
công trình không bảo đảm. Nguyên nhân chính của vấn đề này là sự tham gia
của cộng đồng chưa sâu, chưa thực chất, sự huy động đóng góp của cộng đồng
còn mang nặng tính hành chính, chưa chuẩn bị cho cộng đồng dân cư hưởng lợi
những hiểu biết cần thiết về công trình mà chính họ là người được hưởng lợi.
Việc huy động đóng góp của cộng đồng chưa hợp lý, chưa huy động được tính
tự giác của cộng đồng. Mặt khác Nhà nước còn bao cấp phần lớn chi phí đầu tư
cho loại công trình này trong khi khả năng thu xếp vốn còn gặp nhiều khó khăn.
- Chất lượng công tác khảo sát, thiết kế công trình đường giao thông
còn kém, quá trình quản lý, khai thác sử dụng còn nhiều bất cập, không phù
hợp với thực tế do không có sự tham gia của cộng đồng hưởng lợi. Các đơn vị
khảo sát, thiết kế thường coi nhẹ sự tham gia của cộng đồng trong việc tìm
hiểu các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, nhu cầu đi lại, phong
tục tập quán của nơi xây dựng đường giao thông. Họ thường chỉ ưu tiên giải
quyết các giải pháp về kỹ thuật thuần túy. Việc này, thường dẫn đến xây dựng
các tuyến đường không phù hợp với nhu cầu đi lại của cộng đồng, không có
tính đồng bộ, quá trình khai thác còn nhiều bất cập dẫn đến hậu quả phải điều
chỉnh, bổ sung thiết kế nhiều lần làm kéo dài thời gian và tăng chi phí xây
dựng công trình. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là sự tham gia của
cộng đồng trong quá trình khảo sát, thiết kế còn quá hạn chế, có thể nói gần
như là không có.
66
a. Đối với đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi
Sau khi được nghiệm thu theo quy định, công trình được bàn giao cho
UBND xã quản lý. Việc bàn giao để quản lý này mang nặng tính hình thức và
theo phân cấp quản lý của Nhà nước, hàng năm UBND xã báo cáo tình hình
sử dụng, hiện trạng của công trình lên cấp trên, việc duy tu sửa chữa chỉ được
thực hiện khi Nhà nước bố trí vốn hoặc chỉ tiến hành thực hiện theo yêu cầu
của UBND xã một số công việc đơn giản như phát bụi, vệ sinh, khơi thông
cống rãnh... thông qua đóng góp ngày công lao động của nhân dân trong thôn.
Thực tế, việc quản lý tuyến đường này gần như không có bởi xã không
có kinh phí để quản lý và cũng không có cơ chế để thực hiện. Các phương
tiện lưu thông trên đường đi lại tùy tiện, tải trọng xe quá sức chịu tải của
đường không có ai đứng ai kịp thời ngăn chặn xử lý. Sự tham gia của cộng
đồng rất ít, sự tham gia chủ yếu là thực hiện một số công tác bảo dưỡng nhỏ,
không tham gia công tác quản lý. Nếu UBND xã có kế hoạch duy tu, bảo
dưỡng thì thông báo cho cán bộ thôn biết, cần phải đóng góp lao động thì
trưởng thôn thông báo cho nhân dân tham gia lao động.
Nhận xét về sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn quản lý sử
dụng, duy tu bảo dưỡng đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi:
Từ phân tích ở trên cho thấy ở giai đoạn này cộng đồng hưởng lợi đã
tham gia quản lý, duy tu bảo dưỡng đường, nhưng mức độ này còn thấp và
trông chờ vào Nhà nước, chỉ khi nào có yêu cầu của cấp trên thì cộng đồng
thôn mới tham gia. Sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn quản lý sử
dụng, duy tu bảo dưỡng đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi còn nhiều hạn
chế. Chính quyền địa phương chưa có cơ chế giao hẳn cho cộng đồng hưởng
lợi quản lý, duy tu bảo dưỡng. Không có những quy định rõ ràng trách nhiệm
quản lý công trình của thôn như thế nào, trách nhiệm của UBND xã ra sao?...
Bên cạnh đó, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức trong nhân dân bảo vệ
công trình chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, nhân dân cũng thờ ơ với
việc này, tâm lý công trình là của Nhà nước, cha chung không ai khóc, cộng
67
đồng chỉ biết sử dụng con đường cho mục đích đi lại của mình. Không có ý
thức bảo vệ đường, một số người dân đào bới nền đường, mặt đường một
cách tùy tiện, đổ đất và rác thải lấp kín rãnh thoát nước... Người dân không có
vai trò trong quản lý công trình này, nội dung tham gia của cộng đồng chỉ
mang tính hình thức theo các quy định chung chung của Nhà nước.
b. Đối với đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi
Công trình được UBND xã giao cho thôn trực tiếp quản lý, duy tu bảo
dưỡng toàn bộ, nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp. Được tham gia suốt từ
quá trình chuẩn bị xây dựng, cộng đồng ý thức được đây là tài sản của họ, được
xây dựng từ một phần tiền của, công sức của họ nên họ có quyền được sử dụng
đồng thời có phải trách nhiệm quản lý. Người dân đã chuẩn bị cho việc quản lý
đường sau này ngay trong quá trình thi công xây dựng bằng cách làm cột ở bằng
bê tông hai bên đường, xà bằng tre để hạn chế về bề rộng và chiều cao nhằm
không cho xe có tải trọng quá sức chịu tải của đường đi vào. Cộng đồng ở đây
định kỳ tham gia vệ sinh, phát cây bụi, sửa chữa vá ổ gà, xử lý vị trí đọng nước,
khơi thông cống rãnh theo kế hoạch được phân công từng tổ, đội.
Bảng 3.13: Tình hình quản lý sử dụng, duy tu, bảo dƣỡng ở hai công trình
Chỉ tiêu
Mức độ sửa chữa, bảo dưỡng
Nguồn kinh phí Đƣờng GTNT bảnChang Khi bố trí được vốn Cộng đồng đóng góp và Ngân sách Nhànước
tu, bảo duy 4,6 triệu đồng/km/năm Đƣờng GTNT bảnLai Hà 3 tháng/lần Cộng đồng đóng góp 3,2 triệu đồng/km/năm
1,0 triệu/km/năm 3,2 triệu đồng/km/năm
tu, lý, 100,0 21,7
1 15 phí Chi dưỡng/km/năm Trong đó: Cộng đồng đóng góp quản lý, duy tu, bảo dưỡng/km/năm Tỷ lệ cộng đồng đóng góp bảo duy quản dưỡng/năm (%) Số lượt phương tiện quá tải lưu thông trung bình/năm
Nguồn: Điều tra của tác giả, năm 2015
68
Qua số liệu điều tra cho thấy tuy mức độ tham gia thấp hơn giai đoạn
thi công nhưng cộng đồng tham gia một cách tích cực và đạt kết quả tốt, công
tác quản lý được thực hiện thường xuyên bởi lẽ đây chính là nơi họ sinh sống,
đi lại hàng ngày, do vậy chất lượng của đường được bảo đảm, tuổi thọ đường
được nâng cao. Đối với chi phí để quản lý thì do nhân dân đóng góp bằng
công lao động là chủ yếu, tuy chi phí quản lý rất thấp nhưng lại có hiệu quả.
Đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi được quản lý, sửa chữa bảo dưỡng
thường xuyên hơn, chi phí thấp hơn do toàn bộ nhân dân đóng góp, ít có
phương tiện quá tải lưu thông. Việc lập kế hoạch, biện pháp tổ chức quản lý,
duy tu bảo dưỡng do cộng đồng hưởng lợi quyết định. Ngược lại, đường
GTNT bản Chang, xã Lê Lợi thực hiện không thường xuyên bị phụ thuộc vào
Nhà nước, khi nào được cấp vốn thì bảo dưỡng, sửa chữa, chi phí sửa chữa,
bảo dưỡng thì cao nhưng không thường xuyên và chỉ tiến hành khi nào đường
hỏng, do có phương tiện quá tải nên số vị trí bị hỏng nhiều. Việc lập kế hoạch
và tổ chức quản lý, duy tu, bảo dưỡng đường và mức đóng góp của cộng đồng
do UBND xã quyết định.
Đường GTNT bản Lai Hà được quản lý, sửa chữa bảo dưỡng thường
xuyên hơn, chi phí thấp hơn do toàn bộ nhân dân đóng góp, ít có phương tiện
quá tải lưu thông. Việc lập kế hoạch, biện pháp tổ chức quản lý, duy tu bảo
dưỡng do cộng đồng hưởng lợi quyết định. Ngược lại, đường GTNT bản
Chang thực hiện không thường xuyên bị phụ thuộc vào Nhà nước, khi nào
được cấp vốn thì bảo dưỡng, sửa chữa, chi phí sửa chữa, bảo dưỡng thì cao
nhưng không thường xuyên và chỉ tiến hành khi nào đường hỏng, do có
phương tiện quá tải nên số vị trí bị hỏng nhiều. Việc lập kế hoạch và tổ chức
quản lý, duy tu, bảo dưỡng đường và mức đóng góp của cộng đồng do UBND
xã quyết định.Nhận xét về sự tham gia của cộng đồng trong giai đoạn quản lý
sử dụng, duy tu bảo dưỡng đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi:
69
- Việc giao công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng đường GTNT bản Lai
Hà, xã Lê Lợi cho cộng đồng hưởng lợi cho thấy nhiều ưu điểm nổi trội. Cơ
quan chức năng đã tạo ra một cơ chế làm cho cộng đồng thấy rằng đó không
những là nghĩa vụ mà là quyền của họ được bảo vệ tài sản của mình. Tuy
nhiên, cần có sự hướng dẫn và tăng cường cán bộ giúp đỡ cho cộng đồng để
quá trình quản lý, duy tu bảo dưỡng được hiệu quả hơn. Đây là cách tốt nhất
để phát huy tính tự lập của cộng đồng.
Bên cạnh đó, hạn chế của việc quản lý đường GTNT bản Lai Hà, xã
Lê Lợi là chưa có kế hoạch tổ chức quản lý, chưa có quy định rõ ràng về
việc bảo vệ đường, không có biện pháp tuyên truyền, giáo dục để mỗi
thành viên trong thôn chưa hiểu được quyền sử dụng và trách nhiệm quản
lý đường của mình đến đâu. Chưa xây dựng quy chế (hương ước) quản lý
khác thác tuyến đường này, đồng thời chưa ban hành chế tài xử lý các vi
phạm trong quá trình khai thác sử dụng.
Sự đóng góp của cộng đồng thường được huy động theo phương pháp
hành chính, việc đóng góp của cộng đồng thường là tiền mặt và công lao động
nghĩa vụ. Hơn nữa, nếu việc huy động đóng góp của cộng đồng hưởng lợi được
thực hiện theo phương pháp hành chính thông thường thi cũng không đem lại kết
quả cao. Do vậy, cần có cơ chế tăng cường sự tham gia của cộng đồng hưởng lợi
thông qua tổ chức của họ do chính họ lập nên ở trong mà họ sinh sống.
Các công trình đường giao thông được thi công xây dựng hầu hết thiếu
sự tham gia của cộng đồng. Các đơn vị thi công xây dựng thường được các cơ
quan Nhà nước lựa chọn, một số không ít các đơn vị này chạy theo lợi nhuận,
không tuân thủ các quy trình, quy phạm kỹ thuật, ăn bớt nguyên vật liệu.
Người giám sát thường là cán bộ Nhà nước hoặc đơn vị tư vấn do cơ quan
Nhà nước thuê nên quá trình giám sát vẫn còn nhiều phát sinh tiêu cực, đôi
khi có hiện tượng thông đồng giữa người giám sát với người thi công. Hậu
quả là chất lượng công trình không bảo đảm, năng lực khai thác và tuổi thọ
công trình không cao như mặt đường bị võng lún, mặt đường xuất hiện ổ gà,
70
sức chịu tải của đường không đạt được như thiết kế... Sự tham gia của cộng
đồng trong xây dựng đường giao thông sẽ hạn chế được tình trạng này nếu sự
giao quyền cho họ được tiến hành theo đúng nghĩa của nó.
- Quản lý và khai thác công trình chưa được quan tâm đúng mức, cộng
đồng chưa được gắn quyền lợi và nghĩa vụ thực sự của mình trong quản lý
đường giao thông, vì lẽ đó họ chưa có ý thức bảo vệ công trình. Tình trạng
các tuyến đường giao thông không được quản lý thường xuyên xảy ra, xe quá
tải tự do đi lại trên đường mà không ai kịp thời ngăn chặn, xử lý, thậm chí
chính người dân là thủ phạm làm hư hỏng đường như đào phá nền đường, lấp
rác thải lên rãnh thoát nước làm ảnh hưởng chất lượng nền đường... Sau khi
xây dựng công trình, cộng đồng hưởng lợi đã có những biện pháp bảo vệ công
trình như làm rào chắn để hạn chế xe có tải trọng lớn. Tuy vậy, phần lớn việc
cộng đồng tham gia quản lý công trình còn chưa thực chất, người dân thờ ơ
với các hành vi phá hoại công trình, đặc biệt là những công trình do Nhà nước
bỏ vốn 100%. Hơn nữa, chính người dân hưởng lợi cũng là người phá hoại
công trình vì lị ích cá nhân. Ở địa phương chưa có cơ chế rõ ràng giao cho
cộng đồng hưởng lợi quản lý, duy tu bảo dưỡng công trình.
3.4. Yếu tố ảnh hƣớng tới sự tham gia của cộng đồng ngƣời dân trong
phát triển GTNT tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
a. Nhóm yếu tố do bản thân nội tại cộng đồng, người dân nông thôn
- Về tiềm lực kinh tế:
Bảng 3.15: Thu nhập bình quân đầu ngƣời qua các năm
Thu nhập bình quân đầu ngƣời Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 qua các năm(triệu đồng/năm)
Bản Chang 36 37 39
Bản Lai Hà 38 39 41
Trung bình của Huyện 34 38 39
Nguồn: Phòng Lao động - Thương Binh xãhội huyện, năm 2015
71
Đối với huyện Nậm Nhùn do hạn chế về nguồn lực (vốn, lao động, đất
đai...), mức sống của dân cư nông thôn nói chung còn thấp và tổng mức phí
mà họ phải đóng cho địa phương còn cao, tỷ lệ các hộ nghèo còn ở mức cao
cũng như nhận thức của người dân nông thôn còn thấp nên sự tham gia trong
xây dựng và quản lý các con đường giao thông phụ thuộc rất lớn đến điều
kiện kinh tế của cộng đồng.
- Về trình độ, phong tục tạp quán văn hóa
Bảng 3.16: Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của các chủ hộ
Bản Chang Bản Lai Hà
Chỉ tiêu Số lƣợng Tỷ lệ Số lƣợng Tỷ lệ
(ngƣời) (%) (ngƣời) (%)
Trình độ văn hóa
Cấp 1 40 66,67 15 25
Cấp 2 10 16,67 25 41,67
Cấp 3 10 16,67 10 16,67
Kinh nghiệm về xây dựng đƣờng giao thông
Không biết 15 25 10 16,67
Kinh nghiệm 1-3 năm 25 41,67 40 66,67
Kinh nghiệm trên 3 năm 10 16,67 10 16,67
Thành phần dân tộc
Kinh 0 0 0 0
Dân tộc Thái 60 100 60 100
Dân tộc khác 0 0 0 0
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của tác giả, 2016
Tất cả các yếu tố về văn hóa - xã hội ở cộng đồng nơi xây dựng công
trình đường giao thông ảnh hưởng rất lớn đến sự tham gia của cộng đồng
trong xây dựng đường giao thông. Đa phần cộng đồng với trình độ học vấn
chưa cao, là dân tộc thiểu số, công tác thông tin truyền thông chưa thực hiện
72
tốt, các chính sách xã hội được quan tâm và phong tục tập quán, truyền thống
văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo có lúc có nơi còn lạc hậu, kém phát triển ảnh
hưởng nhiều đến sự tham gia của cộng đồng trong phát triển xây dựng giao
thông của toàn huyện.
- Về nhận thức xây dựng GTNT:
Qua tìm hiểu cho thấy một bộ phận người dân tại địa phương nhận thức
về xây dựng GTNT rất hạn chế, mơ hồ, thậm chí họ cho rằng xây dựng GTNT là
làm cho chính quyền nhà nước, là làm dự án chứ không phải làm cho chính
mình, họ sợ phải đóng góp công sức, tiền bạc để xây dựng các hạng mục công
trình. Hiện nay tại nhiều địa phương, huyện, xã hô hào xây dựng GTNT mới
nhưng người dân không biết NTM là gì. Trong khi đó, xây dựng GTNT ở một số
vùng có rất nhiều khó khăn mà không giải quyết một sớm một chiều được…
Tác giả tiến hành phỏng vấn chuyên sâu đối với Ông Lò Văn Then là
Trưởng bản Chang, Ông Hỏ Văn Tâm là người dân bản Chang, Ông Hỏ Văn
Hận là người dân bản Lai Hà về Chương trình Nông thông thôn mới và sự
quan tâm tham gia xây dựng công trình GTNT với hộp phỏng vấn như sau:
Hộp 3.3: Phỏng vấn sâu: Ông Lò Văn Then - Trƣởng bản Chang, xã Lê Lợi
Trưởng bản thì phải quan tâm đến các vấn đề của bản chứ. Tôi cũng được
cán bộ giải thích về nông thôn mới. Giao thông thì cũng quan trọng nhưng
các cán bộ hướng dẫn thì chúng tôi mới làm được. Tự người dân thì khó lắm.
Hộp 3.4: Phỏng vấn sâu: Ông Hỏ Văn Tâm- Ngƣời dân bản Chang, xã Lê Lợi
Nhà tôi từ trước tới giờ chỉ làm trồng trọt, chăn nuôi nên bảo tham gia xây
dựng đường thôn, bản thì không biết làm đâu.
Kết quả các cuộc phỏng vấn chuyên sâu của tác giả cho thấy tại các bản
chỉ có Trưởng bản hiểu về đúng bản chất của công cuộc xây dựng Nông thôn
mới, sự tham gia của cộng đồng người dân trong xây dựng công trình giao
thông. Đối với người dân bản Chang khá thờ ơ về việc tham gia, xây dựng
73
đường giao thôn tại chính bản của mình và coi đó là việc của chính quyền
phải đầu tư. Người dân bản Lai Hà đã nhận thức tham gia người dân xây dựng
công trình giao thông tốt hơn một chút do được tuyên truyền xác định được
vai trò mình hưởng thụ lợi ích công trình, vai trò trách nhiệm mình trong tham
gia, xây dựng công trình nông thôn. Tuy nhiên sự tham gia đó dừng lại nhận
thức còn triển khai thành hành động cụ thể chưa được cao.
b. Nhóm các yếu tố thuộc về cơ chế, chính sách
Đặc thù địa hình của huyện Nậm Nhùn là các công trình đường giao
thông là phân tán và trải rộng trên địa bàn. Cơ chế chính sách của Nhà nước
quyết định chất lượng và hiệu quả sự tham gia của cộng đồng. Cơ chế chưa
thực sự rộng mở, rắp theo khuôn khổ và không có tính năng động để điều
chỉnh cho sát với thực tiễn và thực tế yêu cầu sẽ làm cho sự tham gia của cộng
đồng bị thui chột và mang tính hình thức.
Sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý đường giao
thông cần phải căn cứ vào các văn bản pháp lý sau:
- Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2010 của Chính
phủ Quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
- Các Thông tư của Bộ Giao thông vận tải: Thông tư số 10/2010/TT-
BGTVT ngày 19 tháng 4 năm 2010 Quy định về quản lý và bảo trì đường bộ
Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24
tháng 2 năm 2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ
tầng giao thông đường bộ.
Như vậy cho thấy thực trạng sự tham gia cho thấy quá trình thực hiện
xây dựng và quản lý đường giao thông cần phải căn cứ vào quy hoạch phát
triển GTNT và các quy hoạch khác như thủy lợi, dân cư, phân vùng kinh tế,
74
sử dụng đất đai và phải đề cập đến khả năng mở rộng để tránh phải di dân,
đền bù và giải toả sau này. Trong khi đó thì công tác quy hoạch chỉ dựng lại
quy hoạch đối khu trung tâm xã chưa chi tiết đến các điểm dân cư nông thôn.
Thêm vào đó chưacó các quy định cụ thể để cơ quan cũng như cộng đồng
người dân tham gia sâu kiểm soát được chất lượng của công trình cũng như
hồ sơ thiết kế của công trình.
Thực tế chúng ta mới chỉ huy động được sự đóng góp của các tổ chức
quốc tế và phần nhỏ đóng góp của nhân dân mà chưa huy động được hầu khắp
các thành phần kinh tế, chưa đủ khả năng và điều kiện để 100% đường giao
thông được “cứng hóa”. Để có nguồn lực thực hiện xây dựng và quản lý
đường giao thông, Nhà nước chưa thực sự giữ vai trò trung trung tâm để huy
động mọi nguồn lực từ nhân dân, từ các thành phần kinh tế và từ các nguồn
vốn khác. Các nguồn vốn này, đặc biệt là vốn góp của dân phải bảo đảm công
bằng, công khai, minh bạch và dân chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm và dân kiểm tra”.
Theo kết quả điều tra thể có tới 66,7% số người được hỏi ở công trình
đường GTNT bản Lai Hà số người cho rằng nên giao đường giao thông cho
cộng đồng đó trực tiếp quản lý. Do được đầu tư bằng vốn ngân sáchNhà nước,
còn tâm lý thụ động, ỷ lại nên mới có 30,8% số người được hỏi ở công trình
đường GTNT bản Chang cho rằng nên giao cho cộng đồng quản lý. Do vậy,
sau khi các công trình đường giao thông hoàn thành phải tổ chức chuyển
quyền sở hữu cho cộng đồng hưởng lợi quản lý, khai thác và duy tu bảo
dưỡng kể cả các công trình Nhà nước đầu tư vốn 100%. UBND xã chỉ theo
dõi, chỉ đạo và hướng dẫn, cộng đồng hưởng lợi sẽ trực tiếp tổ chức lập các
nhóm, tổ, đội và huy động nguồn lực nhằm quản lý, bảo trì công trình. Đây là
một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho công trình bền vững và đạt
hiệu quả đầu tư cao.
75
- Thực hiện chưa thực sự tốt và hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở chưa
cao mà dừng lại hình thức: Thực hiện chưa nghiêm chỉnh và hiệu quả quy chế
dân chủ ở cơ sở, tránh hình thức, cần tôn trọng các quyền được biết và được
bàn của cộng đồng. Cơ sở pháp lý để thực hiện là Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh này thay thế Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ). Pháp lệnh này
quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung
nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước
khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát;
trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán
bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân
dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở thực chất là tạo ra môi trường thuận
lợi để cộng đồng có thể ý thức được vai trò của mình trong quá trình phát
triển đường giao thông. Trong môi trường đó người dân hiểu rõ những quyền
lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với việc xây dựng và quản lý
đường giao thông không chỉ ở địa phương mà trong cả tiến trình phát triển
chung của xã hội. Phạm vi nội dung của quy chế dân chủ khá bao quát song
có thể hiểu đơn giản với vai trò của ngưòi dân như sau: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi.
Sự tham gia của người dân vừa là mục đích vừa là phương tiện cần
được thể chế hoá bảo đảm sự tham gia của người dân càng nhiều thì tính bền
vững và sự thành công càng cao. Đối với công trình đường giao thông, nó
mang lại lợi ích trực tiếp mà cộng đồng dễ dàng nhận biết được. Do vậy, để
cộng đồng tham gia đầy đủ tất cả các giai đoạn xây dựng và quản lý sử dụng
thì yếu tố quan trọng đầu tiên là người dân phải có nhu cầu, phải “cần” công
trình. Việc thực hiện cơ chế dân chủ là đề cao vai trò làm chủ của cộng đồng
địa phương do vậy phải bảo đảm các quyền cơ bản của người dân trong xây
dựng và quản lý đường giao thông.
76
c. Nhóm các yếu tố về quản lý, khả năng huy động sự tham gia cộng đồng
- Về nhận thức của các cán bộ chính quyền các cấp
Chính quyền các cấp là trung tâm, là gốc rễ và là yếu tố quyết định đến
thành công khi triển khai áp dụng các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ chính quyền các cấp tại huyện, xã còn hạn
chế, trình độ năng lực chưa đáp ứng được tình hình hiện nay. Cơ chế, chính
sách, cách thức tổ chức, quản lý, điều hành, hỗ trợ, giám sát của các cơ quan
công quyền đôi lúc, đôi khi còn chưa hợp lý, khoa học, phù hợp với điều kiện
từng vùng và sự hoạt động tốt bộ máy của chính quyền địa phương sẽ là yếu
tố ảnh hưởng tới sự tham gia của cộng đồng.
Tác giả thực hiện phỏng vấn chuyên sâu đối với bà Lò Thì Thắm, cán
bộ địa chính xã Lê Lợi và ông Mai Văn Thắng là chuyên viên phòng Kinh tế
và hạ tầng huyện Nậm Nhùn phụ trách mảng giao thông cụ thể như sau:
Hộp 3.5. Phỏng vấn sâu: Bà Lò Thị Thắm, cán bộ địa chính xã Lê Lợi
Chỉ người dân là hiểu rõ nhất về khu vực mình đang sinh sống. Nếu họ tham gia
xây dựng GTNT họ sẽ thấy được trách nhiệm của mình đối với con đường và
thấy gắn bó hơn. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền để dân hiểu còn nhiều khó
khăn vì ở đây nhiều dân tộc khác nhau nên ý thức cũng khác nhau lắm.
Hộp 3.6. Phỏng vấn sâu: Ông Mai Văn Thắng, cán bộ Phòng Kinh tế và
Hạ tầng Huyện Nậm Nhùn, phụ trách vấn đề GTNT
Tôi đã phụ trách vấn đề phát triển GTNT ở huyện nhiều năm. Qua thực tế,
những thôn nào, xã nào huy động được người dân tham gia vào xây dựng và
quản lý đường giao thông thì hiệu quả tốt hơn hẳn. Khó nhất là làm sao cho
dân hiểu, đây là vấn đề của họ chứ không chỉ của các cấp chính quyền.
Qua kết quả phỏng vấn chuyên sâu cho thầy cán bộ đã ý thức được tầm
quan trọng của người dân trong tham gia phát triển giao thông thôn. Tuy
nhiên gặp một số khó khăn trong công tác tuyên truyền, vận động người dân
77
tham gia xây dựng công trình giao thông tại các bản về: Trình độ người dân
hạn chế, đường xá đi trên địa bàn trải dài, đi lại khó khan đặc biệt trong
những ngày mưa lũ, địa bàn chủ yếu là ngườ dân tộc, bất đồng ngôn ngữ….
ảnh hướng lớn đến công tác tuyên truyền, vận động người dân hiểu vai trò,
trách nhiệm lợi ích tham gia xây dựng công trình giao thông.
- Về công tác tuyên truyền xây dựng GTNT:Công tác tuyên truyền, vận
động xây dựng giao thông được thể hiện bảng sau:
Bảng 3.17: Tầm quan trọng của công tác tuyên truyền
Không Rất quan Quan trọng quan trọng trọng Mẫu
Số ngƣời Số ngƣời Số ngƣời
Cán bộ thôn 5 1 3 1
Cán bộ xã 3 0 1 2
Cán bộ huyện 2 0 0 2
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của tác giả, 2016
Công tác tuyên truyền giúp nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng xây dựng GTNT, tạo sự thống nhất
trong nhận thức và hành động, sự đồng thuận trong xã hội, phát huy tính năng
động, sáng tạo, chủ động khắc phục khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
xây dựng. Xóa bỏ tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Tuy nhiên công tác
này mới chỉ dừng lại bởi các văn bản tuyên truyền khi có yêu cầu.
3.5. Đánh giá kết quả đạt đƣợc, tồn tại hạn chế đối với sự tham gia của
cộng đồng trong phát triển GTNT ở huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
3.5.1 Những kết quả đạt được
Qua nghiên cứu thực trạng sự tham gia của cộng đồng ở hai công trình
đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi và bản Chang, xã Lê Lợi trên địa bàn
huyện Nậm Nhùn, cho thấy một số kết quả đã đạt được như sau:
78
- Về cơ chế, chính sách quản lý cho đầu tư phát triển đường giao thông:
Có thể nói huyện Nậm Nhùn nói riêng và tỉnh Lai Châu nói chung đã có
những cơ chế, chính sách cho phát triển đường giao thông theo hình thức Nhà
nước và nhân dân cùng làm, qua đó khai thác được sức mạnh của nhân dân,
cơ sở pháp lý để triển khai đó là Nghị quyết của Tỉnh ủy Lai Châu về phát
triển GTNT của tỉnh. Quá trình bắt đầu triển khai cho thấy dự án triển khai có
công khai nhưng ít dân chủ, ngoài Nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lai
Châu đã ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết của Tỉnh ủy.
- Việc thực hiện chủ trương giao công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng
đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi cho cộng đồng hưởng lợi cho thấy nhiều
ưu điểm nổi trội so với đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi. Qua điều tra cho
thấy 70,83% số người được hỏi ở công trình đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê
Lợi hài lòng với cách thức tổ chức quản lý sử dụng, duy tu bảo dưỡng, trong
khi đường GTNT bản Chang, xã Lê Lợi con số này chỉ đạt 52,5%. Cơ quan
chức năng đã tạo ra một cơ chế làm cho cộng đồng thấy rằng đó không những
là nghĩa vụ mà là quyền của họ được bảo vệ tài sản của mình.
- Về vai trò và nhận thức của cộng đồng đối với xây dựng, quản lý
đường giao thông: Vai trò, vị thế của cộng đồng phần nào đã được coi trọng
và phát huy, việc nâng cao kiến thức về đường giao thông đã được quan tâm,
đặc biệt là giai đoạn thi công xây dựng.
- Về những quy định cụ thể về sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng
và quản lý đường giao thông trong từng giai đoạn: Cộng đồng nhân dân bản Lai
Hà, xã Lê Lợi thông qua họp thôn để tự xác định nhu cầu xây dựng công trình
cho thôn mình, thành lập Ban Xây dựng công trình, kế hoạch tổ chức triển khai,
thông qua thiết kế, dự toán, mức đóng góp, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch
đề ra, bố trí các nguồn lực xây dựng cần thiết để tiến hành tổ chức thi công xây
dựng hoàn thành công trình. Tuy nhiên, các công việc này chủ yếu là xuất phát
từ nhu cầu thực tế và dựa vào quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
79
- Về tuyên truyền, giáo dục để cộng đồng tham gia xây dựng và quản lý
đường giao thông: Để thực hiện các công việc theo kế hoạch, cán bộ của xã
và thôn đã thông báo, tuyên truyền công bố các thông tin cần thiết cho nhân
dân trong thôn được biết, được bàn, được quyết định và được đóng góp.
- Về huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và
quản lý đường giao thông: đã có sự tham gia tích cực của cộng đồng, chủ yếu
là của cộng đồng nhân dân trong thôn.
Bảng 3.15: Tỷ lệ giá trị đóng góp của cộng đồng theo quy mô công trình ở
các bƣớc công việc chủ yếu
(Đơn vị: %)
Công trình đƣờng giao thông
Công trình Nhà nƣớc Công trình Nhà nƣớc Các giai đoạn đầu tƣ toàn bộ và nhân dân cùng làm
Nhà nƣớc Cộng đồng Nhà nƣớc Cộng đồng
Khảo sát, thiết kế 96 4 0 100
Xây dựng 85,5 14,5 29,1 70,9
Giám sát 77,6 22,4 0 100
Quản lý 79,9 20,1 0 100
Nguồn: Điều tra của tác giả, năm 2016
3.5.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh các kết quả đạt được, sự tham gia của cộng đồng ở hai công
trình đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi và bản Chang, xã Lê Lợi trên địa
bàn huyện Nậm Nhùn, cũng còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Về cơ chế, chính sách quản lý cho đầu tư phát triển đường giao thông:
Nghị quyết của Tỉnh ủy Lai Châu về phát triển GTNT của tỉnh đã có sự tham
gia, tuy nhiên tính dân chủ chưa cao. Kế hoạch này chỉ đưa ra một số mục tiêu
chủ yếu, khẳng định UBND tỉnh chỉ hỗ trợ xây dựng đường GTNT bằng xi
măng, đá, cátcung cấp tận chân công trình và một số giải pháp chung chung
80
để hướng dẫn các huyện, thành, thị. Không có thêm hướng dẫn nào về đầu tư
đường giao thông theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Các
nội dung cụ thể như: Cơ chế như thế nào? Huy động ra sao? Cộng đồng
hưởng lợi phải tham gia như thế nào? Bằng hình thức gì? Lại không được quy
định và hướng dẫn cụ thể. Quá trình triển khai cộng đồng phải tự vận động,
xoay xở là chính, họ phải tự xác định mình cần phải làm gì chứ không có quy
định, hướng dẫn nào yêu cầu họ phải/nên làm gì, làm như thế nào? Cộng đồng
hưởng lợi chưa thực hiện quyền được lựa chọn đơn vị tư vấn, quyền được
giám sát, nghiệm thu đối với quá trình khảo sát của đơn vị tư vấn, việc UBND
xã lựa chọn đơn vị tư vấn khảo sát, thiết kế, đơn vị thi công cho thấy việc
phân cấp chưa mạnh và thực sự triệt để. Hơn nữa, hồ sơ thiết kế của công
trình đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi không căn cứ vào các quy hoạch
của địa phương, không được cơ quan chuyên môn nào xem xét nên việc tuân
thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật của đường GTNT còn hạn chế.
- Việc thực hiện chủ trương giao công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng
đường GTNT bản Lai Hà, xã Lê Lợi chưa có sự hướng dẫn và giúp đỡ cho
cộng đồng để quá trình quản lý, duy tu bảo dưỡng được hiệu quả hơn. Đây là
cách tốt nhất để phát huy tính tự lập của cộng đồng.
- Về vai trò và nhận thức của cộng đồng đối với xây dựng, quản lý
đường giao thông: chưa hướng tới đối tượng trực tiếp thực hiện quá trình xây
dựng và quản lý đường giao thông là cộng đồng hưởng lợi mà chỉ đào tạo cho
cán bộ xã. Việc nâng cao kiến thức cho cộng đồng chủ yếu là hướng dẫn chỉ
đạo tại hiện trường thi công, qua đó cho thấy việc làm này chưa thực sự bền
vững, điều đó cũng là một minh chứng cho việc vai trò của cộng đồng chưa
được đánh giá cao.
Theo hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm đã giao cho cộng đồng
hưởng lợi quản lý, duy tu, bảo dưỡng đường GTNT đã được quy định nói
chung và bản Lai Hà, xã Lê Lợi nói riêng. Chưa có quy định cụ thể và chi tiết
81
để người dân dễ dàng thực hiện, bản Lai Hà, xã Lê Lợi chưa xây dựng quy
chế (hương ước) quản lý khác thác tuyến đường này, đồng thời chưa ban hành
chế tài xử lý các vi phạm trong quá trình khai thác sử dụng.
- Về tuyên truyền, giáo dục để cộng đồng tham gia xây dựng và quản lý
đường giao thông: Để thực hiện các công việc theo kế hoạch, cán bộ của xã
và thôn đã thông báo, tuyên truyền công bố các thông tin cần thiết cho nhân
dân trong thôn được biết, được bàn, được quyết định và được đóng góp. Mặc
dù vậy, vẫn còn một số hạn chế như việc thông tin tuyên truyền còn khá hình
thức, người dân thiếu thông tin, một số nội dung qua loa như lập kế hoạch tổ
chức, xác định nhu cầu vốn là do Ban Phát triển của bản đưa ra, không đưa ra
cuộc họp để thảo luận, góp ý mà trưởng thôn chỉ thông báo là kế hoạch tổ
chức như thế nào, mọi người phải tham gia như thế nào? Mức đóng góp ra
sao?..., hoặc là để cộng đồng tham lao động và đóng góp tiền đầy đủ, kịp thời
hơn. Chưa quan tâm việc làm sao để chất lượng tham gia của cộng đồng cao
hơn, cộng đồng tự giác hơn, biện pháp tuyên truyền, giáo dục để mỗi thành
viên trong thôn hiểu được quyền sử dụng và trách nhiệm quản lý đường của
mình chưa được quan tâm đúng mức.
- Về huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản
lý đường giao thông: Mặc dù đã có sự tham gia tích cực của cộng đồng, nhưng
chủ yếu là của cộng đồng nhân dân trong thôn, chưa phát huy sức mạnh của
các tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên... trong
xây dựng cũng như quản lý. Đây là các tổ chức xã hội hiện hữu tại cộng đồng,
có ảnh hưởng nhiều đến việc huy động sự tham gia của cộng đồng.
Việc huy động sự tham gia của cộng đồng ở đây chủ yếu dựa trên các
biện pháp hành chính từ trên xuống là chủ yếu, thiếu các công cụ để huy động
sự tham gia tự giác của người dân, đặc biệt là sự tham gia về lợi ích, đóng góp
của người dân chủ yếu là công lao động (phát cây bụi, khơi thông cống rãnh
thoát nước...).
82
Để giải thích được nguyên nhân của việc công đồng chưa thực sự tham
gia vào phát triển GTNT, tác giả đã xây dựng cây vấn đề như sơ đồ 3.2:
Sơ đồ 3.2. Cây vấn đề về nội dung cộng đồng không tham giatrong giai
đoạn trước khi xây dựng công trình đường GTNT
Sơ đồ 3.3 giải thích sự tham gia của người dân khi có các yếu tố kích thích:
Sơ đồ 3.3: Cây vấn đề thể hiện cơ sở sự tham gia của cộng đồng
trong giai đoạn trước khi xây dựng công trình đường GTNT
83
Chƣơng 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA
CỦA NGƢỜI DÂN TRONG PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG
TẠI HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU
4.1. Quan điểm, mục tiêu, phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả tham gia của
ngƣời dân phát triển trên địa bàn huyện Nậm Nhùn đến năm 2020
Sự tham gia của cộng đồng chính là một quá trình phát triển, nó phụ
thuộc vào xuất phát điểm, điều kiện và những tác động cụ thể của mỗi cộng
đồng. Điều này giải thích lý do tại sao không có một hình mẫu tham gia lý
tưởng chỉ việc áp dụng dập khuôn là thành công. Các giải pháp tăng cường sự
tham gia của cộng đồng phải dựa trên cơ sở những điều kiện tự nhiên, kinh tế,
văn hóa, xã hội và mục tiêu phát triển cụ thể của mỗi địa phương.
4.1.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển giao thông trên địa bàn huyện Nậm
Nhùn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Thứ nhất: Duy trì, củng cố và nâng cấp mạng lưới đường giao thông
hiện có theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đường GTNT, đáp ứng yêu cầu phục vụ
sản xuất và đời sống nông thôn.
Thứ hai: Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong tất cả các giai
đoạn của quá trình xây dựng đường giao thôn.
Thứ ba: Đối với việc quản lý đường giao thông cần thiết phải chuyển giao
cho cộng đồng hưởng lợi, kể cả đối với công trình Nhà nước đầu tư vốn 100 %.
Thứ tư: Các giải pháp đưa ra nhằm bảo đảm thống nhất, hiệu quả, công
bằng, linh hoạt, đồng thời cần chú ý các mục tiêu kinh tế - xã hội.
4.1.2. Định hướngtăng cường tham gia người dân phát triển giao thông
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng sự tham gia của cộng đồng
trong xây dựng và quản lý đường giao thông, có thể thấy rõ tầm quan trọng sự
tham gia của cộng đồng hưởng lợi trong quá trình này. Do đó, cần phải biết
84
tin nhân dân, dựa vào nhân dân, biết tích luỹ từ lao động sống, khơi dậy mọi
nguồn lực vốn có từ trong nhân dân làm cơ sở để phát triển đường GTNT.
Đề tài xin đưa ra định hướng tăng cường sự tham gia của cộng đồng
- Các giải pháp cần hướng tới việc tạo ra môi trường thuận lợi để cộng
trong phát triển đường giao thông trên địa bàn huyện như sau:
đồng tham gia. Môi trường gồm tổng thể những điều kiện cơ bản về vật chất
và xã hội. Nó không chỉ có tác dụng đối với quy mô công trình nhỏ mà còn là
- Tạo ra động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình tham gia. Khía cạnh tác
nền tảng để hướng sự tham gia phát triển lên những cấp độ cao hơn.
động tới cộng đồng phải bảo đảm tính đa dạng, toàn diện và có chiều sâu
- Xây dựng phương án và cơ chế huy động sự tham gia có tính cụ thể
nhằm hướng tới sự tham gia bền vững.
và thực thi cao (phù hợp với đặc điểm cộng đồng, điều kiện phát triển GTNT
- Sử dụng linh hoạt những công cụ, phương pháp có tính thực tiễn,
của địa phương).
khoa học và hệ thống để huy động sự tham gia của cộng đồng.
4.1.3. Mục tiêu, phương hướng tham gia người dân phát triển giao thông
Các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của cộng đồng nhằm đạt
mục tiêu cuối cùng là xã hội hoá công tác xây dựng GTNT, giảm bớt gánh
nặng tài chính cho Nhà nước, nâng cao hiệu quả trong xây dựng và quản lý
công trình.
Để đạt được mục tiêu trên, quá trình xây dựng và quản lý đường giao
thông từ nay đến năm 2020 sẽ phấn đấu nhằm vào 3 mục tiêu cụ thể là:
i) Đẩy mạnh phong trào Nhà nước và nhân dân cùng làm trong xây
dựng và quản lý đường giao thông trên địa bàn;
ii) Phấn đấu cứng hóa 100 % các tuyến đường giao thông trên địa bàn huyện;
iii) Góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
địa phương 2015 - 2020 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nậm Nhùn.
85
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của ngƣời dân phát triển
GTNT trên địa bàn huyện Nậm Nhùn
Qua phân tích thực trạng về sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng
và quản lý đường giao thông ở hai công trình nghiên cứu, đề tài xin đề xuất
một số nội dung nhằm tăng cường sự tham gia của cộng đồng như sau:
4.2.1. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả tham
gia của người dân phát triển GTNT
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách tăng cường sự tham gia của
cộng đồng trong xây dựng và quản lý đường giao thông cần phải căn cứ vào
các văn bản pháp lý. Cơ chế, chính sách nhằm tăng cường sự tham gia công
đồng trong phát đường giao thông cần được cụ thể hóa theo các nội dung sau:
Tăng cường vai trò định hướng của Nhà nước:Như phân tích thực trạng
sự tham gia cho thấy quá trình thực hiện xây dựng và quản lý đường giao thông
cần phải căn cứ vào quy hoạch phát triển GTNT và các quy hoạch khác như
thủy lợi, dân cư, phân vùng kinh tế, sử dụng đất đai và phải đề cập đến khả
năng mở rộng để tránh phải di dân, đền bù và giải toả sau này. Để làm được
điều này thì công tác quy hoạch cần phải làm tốt, cần phải lấy ý kiến của cộng
đồng khu vực được quy hoạch, khi được phê duyệt thì phải công bố cho nhân
dân và các đơn vị có liên quan được biết. Đồng thời cần phải có các quy định
để cơ quan Nhà nước có thể kiểm soát được chất lượng của công trình cũng
như hồ sơ thiết kế của công trình. Hoàn thiện và phổ biến rộng rãi các tiêu
chuẩn kỹ thuật đường GTNT, các định mức tiêu hao vật tư, lao động... để phục
vụ cho việc xây dựng, duy tu, bảo dưỡng đường giao thông.
Để có nguồn lực thực hiện xây dựng và quản lý đường giao thông, Nhà
nước phải giữ vai trò trung trung tâm để huy động mọi nguồn lực từ nhân dân,
từ các thành phần kinh tế và từ các nguồn vốn khác. Các nguồn vốn này, đặc
biệt là vốn góp của dân phải bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch và dân
chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”.
86
Thực hiện việc phân cấp và trao quyền triệt để hơn: Việc thể chế hoá
vấn đề phân cấp và trao quyền cho chính quyền cấp cơ sở và cộng đồng phải
được thể hiện bằng các quyết định, chỉ thị, văn bản hướng dẫn cụ thể của các
cấp có thẩm quyền về các nội dung:
+ Quyền xác định các yêu cầu thiết thực với cuộc sống hiện tại của
người dân, công trình nào là cần nhất, bức xúc nhất của cộng đồng (sự cần thiết
phải đầu tư). Chính quyền các cấp phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tổ chức các
hình thức thông tin để người dân có cơ hội bày tỏ nguyện vọng của họ.
+ Quyền tham gia xây dựng: Cộng đồng phải được quyền lựa chọn, ký
hợp đồng đối với các đơn vị tư vấn và nhà thầu... huy động sức lao động trên địa
bàn tham gia thực hiện càng nhiều càng tốt, nhằm tạo cơ hội tăng thu nhập bằng
tiền cho người dân.
+ Quyền kiểm tra, giám sát: Thực hiện được quyền này, chính bản thân
cộng đồng sẽ có trách nhiệm hơn và tự tin hơn, tránh được tư tưởng ỷ lại,
trông trờ cấp trên và đòi bao cấp.
+ Quyền quản lý, khai thác và duy tu bảo dưỡng.
- Thực hiện tốt và có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở: Thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở thực chất là tạo ra môi trường thuận lợi để cộng đồng có
thể ý thức được vai trò của mình trong quá trình phát triển đường giao thông.
Trong môi trường đó người dân hiểu rõ những quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình đối với việc xây dựng và quản lý đường giao thông không
chỉ ở địa phương mà trong cả tiến trình phát triển chung của xã hội. Phạm vi
nội dung của quy chế dân chủ khá bao quát song có thể hiểu đơn giản với vai
trò của ngưòi dân như sau: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
hưởng lợi.
87
4.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp
luật đến người dân về phát triển GTNT
Thực tế hiện nay số công trình có sự tham gia của người dân vẫn còn
rất khiêm tốn, thậm chí có sự tham gia của người dân nhưng người dân vẫn
rất thiếu thông tin, chỉ biết mình phải làm gì, đóng góp bao nhiêu. Còn một số
không ít người dân không được biết và tham gia vào thiết kế, kế hoạch và
phương án tổ chức thi công xây dựng đường, quyền lợi của họ ra sao? Do
vậy, việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi cho cộng đồng đóng vai trò
như một công cụ tác động trực tiếp và làm chuyển biến nhận thức của cộng
đồng. Việc này tuy đã thực hiện, nhưng cần quan tâm hơn đến chất lượng và
cách thức, hệ thống tuyên truyền phải được xây dựng đồng bộ từ cấp huyện
tới chính quyền xã, thôn và kết hợp rộng rãi với các đoàn thể nhân dân như
hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ... Sử dụng đa dạng các hình thức
truyền thông như phát thanh, bản tin nội bộ, phát động cuộc thi tìm hiểu về
mô hình... Cần đưa nội dung chất lượng quản lý đường giao thông là một tiêu
chí đánh giá trong các phong trào thi đua của các tổ chức đoàn thể.
Để thực hiện thành công mô hình Nhà nước và nhân dân cùng làm cần
phải nhận thức đúng mức về vai trò của cộng đồng. Cần phải tuyên truyền,
giáo dục một cách sâu rộng đối với đông đảo các tầng lớp về vai trò, vị thế
của cộng đồng, đặc biệt cần hướng tới đội ngũ cán bộ làm việc ở Nhà nước.
Có nhận thức đúng đắn về vai trò của cộng đồng thì mới có chính sách phù
hợp với năng lực của họ, khai thác phát huy sức mạnh của họ.
Bên cạnh đó, với vai trò to lớn của mình, cộng đồng hưởng lợi phải có
hiểu biết nhất định về xây dựng và trình độ quản lý. Cần phải triển khai một
cách nghiêm túc việc nâng cao trình độ của cộng đồng đối với xây dựng, quản
lý đường giao thông. Đây cũng là một nội dung mà các nhà tài trợ WB, DFID
rất quan tâm khi tài trợ cho dự án. Ngoài những khoản kinh phí để xây dựng
các tuyến đường GTNT, nhà tài trợ còn cấp cho địa phương nơi xây dựng
88
(thông qua Sở Giao thông vận tải) một khoản kinh phí đáng kể để phổ biến
những kiến thức cơ bản về đường GTNT và quản lý, bảo dưỡng đường GTNT
cho người dân. Do nguồn kinh phí còn hạn hẹp, tránh lãng phí, chính quyền
địa phương có thể sử dụng ngay bộ phận chuyên môn của mình (như cán bộ
phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện, cán bộ UBND xã đã được đào tạo) để mở
các lớp tập huấn ngắn hạn tại chỗ cho cộng đồng hưởng lợi. Có am hiểu được
kiến thức về xây dựng và quản lý đường giao thông thì người dân có thể tham
gia thực chất hơn, có hiệu quả hơn mà không bị hình thức.
4.2.3. Tạo cơ chế cho sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý
đường GTNT
Thực tế hiện nay cho thấy, vẫn còn thiếu các hướng dẫn cụ thể để có
thể quản lý tốt lĩnh vực xây dựng và quản lý, khai thác các công trình đường
giao thông. Trong thời gian tới cần khắc phục những yếu điểm này để việc
quản lý đi vào khuôn khổ và tạo tiền đề cho những nội dung khác. Chính
quyền địa phương cần xây dựng một quy chế đầu tư chi tiết nhằm cụ thể hóa
Nghị quyết, quyết định, chỉ thị.. của cấp trên cho các công trình đường giao
thông như một quy trình chặt chẽ khoa học để cộng đồng có căn cứ pháp lý
triển khai.
- Đối với giai đoạn trước khi xây dựng: Cần phải dựa vào thực tế của địa
phương và ý kiến, nguyện vọng của cộng đồng. Không nên mắc bệnh quan
liêu, không kiểm tra tình hình thực tế, đầu tư không đúng lúc, đúng chỗ gây
lãng phí tiền của Nhà nước và nhân dân. Do vậy, có những quy định có sự
tham gia của cộng đồng khi xác định sự cần thiết phải đầu tư, ví dụ như trước
khi quyết định đầu tư, phải có tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của cộng đồng nơi
chuẩn bị cho xây dựng đường giao thông. Có quy định rõ ràng về quyền và
trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân như UBND xã, trưởng thôn, và nhân dân
trong thôn. Cần tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân thông qua việc quy định
cộng đồng không những được biết mà phải được bàn, được quyết định những
89
vấn đề quan trọng như lựa chọn đơn vị tư vấn, lựa chọn đơn vị thi công, thông
qua thiết kế, thông qua các thức huy động và mức đóng góp.
Đồng thời có quy định để người dân tham gia giám sát quá trình khảo
sát của các đơn vị tư vấn. Thậm chí sau khi sản phẩm khảo sát, thiết kế hoàn
thành phải được các cơ quan chuyên môn thẩm định, lấy ý kiến tham gia, góp
ý của cộng đồng nơi xây dựng.Đối với giai đoạn thi công xây dựng: Giai đoạn
thi công xây dựng là giai đoạn quyết định chất lượng công trình, các công
trình không bảo đảm về chất lượng phần lớn nguyên nhân là trong giai đoạn
này. Có quy định cụ thể về sự tham gia của cộng đồng sẽ giúp chất lượng
công trình tốt hơn, hiệu quả hơn. Đối với giai đoạn quản lý, khai thác: Do
việc quản lý hiện nay vẫn mang nặng tính chất áp đặt từ trên xuống, không
bám sát thực tế và do vậy còn thiếu các quy định rõ ràng, phù hợp với thực tế
đang phát triển. Cần phân cấp một cách triệt để, đó là giao cho cộng đồng
hưởng lợi trực tiếp quản lý đường giao thông, không kể nguồn vốn hay hình
thức đầu tư nào, cơ quanquản lý Nhà nước chỉ có chức năng hướng dẫn, theo
dõi, giám sát.
4.2.4. Huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản
lý đường GTNT
Với hình thức Nhà nước và nhân cùng làm thì mức độ cộng đồng
hưởng lợi sẵn sàng tham gia cao hơn công trình Nhà nước đầu tư hoàn toàn.
Cộng đồng sẵn sàng tham gia, vì khi được tham gia đóng góp công sức tiền
của để xây dựng công trình người dân mong muốn tham gia vì muốn việc đi
lại tốt hơn, chất lượng cuộc sống sẽ tốt hơn, khi hoàn thành họ sẽ có ý thức về
sở hữu và có quyền và trách nhiệm về tài sản của họ. Vì vậy, cần huy động tối
đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý đường giao thông.
Sử dụng các công cụ, phương pháp khoa học, hợp lý và linh hoạt nhằm
huy động sự tham gia của cộng đồng đạt hiệu quả. Việc huy động sự tham gia
của cộng đồng trong xây dựng, quản lý và sử dụng công trình đòi hỏi phải có
90
những phương pháp thực tiễn khoa học phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của địa phương, tạo cho sự tham gia của cộng đồng có tính tự giác cao. Trong
quá trình huy động cũng cần có chính sách ưu tiên cho hộ nghèo, hộ neo đơn,
hộ khó khăn và tạo thêm việc làm cho chính cộng đồng hưởng lợi.
Đồng thời huy động sự tham gia đông đảo của các tổ chức xã hội tại
cộng đồng vào xây dựng và quản lý đường giao thông như Chi hội Phụ nữ,
Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh... Cần dựa vào hoạt động của các tổ
chức này để thực hiện huy động sự tham gia của cộng đồng hưởng lợi, cho
phép nâng cao hiệu quả của sự tham gia, đồng thời lồng ghép được hoạt động
của cộng đồng và các hoạt động đoàn hội khác.
4.2.5. Xây dựng các phong trào, thi đua, khen thưởng
Để đạt được mục tiêu đề ra, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
huyện Nậm Nhùn cần thực hiện nhiều cơ chế thi đua, khen thưởng để khích lệ
các xã xây dựng đường giao nông thông đạt tiêu chí giao thông trong bộ tiêu
chí quốc gia về nông thôn mới.
Công tác khen thưởng được thực hiện linh hoạt để kịp thời ghi nhận,
biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong phong trào
xây dựng nông thôn mới để khích lệ phong trào. Bên cạnh cơ chế động viên
kịp thời các địa phương hoàn thành xuất sắc tiêu chí, phấn đấu về đích sớm
trong xây dựng đường GTNT.
UBND tỉnh, huyện cần ban hành quy chế xét khen thưởng thành tích
xây dựng đường GTNT trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2015, đề xuất các nội
dung thưởng công trình phúc lợi và các hình thức khen thưởng khác phù hợp
với điều kiện của tỉnh như tặng Cờ thi đua, tặng Bằng khen của Ủy ban nhân
dân tỉnh, huyện nhân dịp sơ kết, tổng kết hàng năm.
Thêm vào đó, cần có hình thức khen thưởng kịp thời đối với Tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân đã tích cực tham gia xây dựng, hỗ trợ, kiểm tra, giám
sát công trình giao thông bản, xã trên địa bàn huyện.
91
4.2.6. Đa dạng hóa hình thức cộng đồng tham gia xây dựng GTNT
Như vậy, mục tiêu đặt ra từ nay đến năm 2020 là rất lớn, tiêu chí nông
thôn mới về GTNThuyện Nậm Nhùnđạt được 60% số xã đạt xã nông thôn
mới. Hướng tới, quan trọng nhất là huy động các nguồn lực của Trung ương
và địa phương đầu tư GTNT; các bộ ngành Trung ương cần tính toán để tăng
thêm nguồn lực, lồng ghép vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia và các
nguồn vốn khác (ODA, các nhà tài trợ…). Việc bố trí vốn ngân sách địa
phương, các tỉnh, thành cần chủ động và chú ý đến từng vùng, ưu tiên cho các
xã miền núi, nhất là các tỉnh có điều kiện kinh tế khó khăn, thu ngân sách
thấp. Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc
gia; các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn; Đa dạng hóa các
hình thức xã hội hóa, nghiên cứu áp dụng các hình thức công - tư đối với
đường GTNT, trong đó:
(i) Áp dụng hình thức BT theo hướng DN bỏ kinh phí xây dựng đường,
chính quyền trả nhà đầu tư bằng đất, cho khai thác vật liệu xây dựng hoặc các
hình thức khác;
(ii) Áp dụng hình thức BOT đối với việc xây dựng đường huyện, đường
có lưu lượng lớn và các công trình bến phà, cầu phao, bến xe và các hạng mục
khác có khả năng thu hồi vốn trực tiếp; áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư theo
quy định của pháp luật;
(iii) Kết hợp giải phóng mặt bằng để tạo quỹ đất thương mại dịch vụ
giao thông vận tải để chuyển nhượng, cho thuê tạo thêm vốn cho phát triển
đường GTNT;
Bên cạnh đó, cần tích cực vận động người dân tham gia vào công cuộc
xây dựng GTNT, tuy nhiên huy động phải vừa sức dân, đối với vùng nghèo
ngân sách là chủ yếu. Nhân rộng các mô hình điển hình, hoạt động có hiệu
quả như: Nhân dân tự tổ chức thực hiện Nhà nước hỗ trợ vốn, vật liệu (xi
92
măng, sắt thép); thành lập các tổ đội thi công miễn phí dân nuôi. Tích cực kêu
gọi, vận động sự hảo tâm của kiều bào nước ngoài thông qua hội đồng hương;
các DN đang hoạt động, kinh doanh trên địa bàn, các cán bộ đang công tác
gương mẫu đóng góp kinh phí để làm đường GTNT cho quê hương.
4.2.7. Nâng cao nhận thức, trình độ, thu nhập, hiểu biết của người dân về
xây dựng GTNT
a. Nâng cao nhận thức của người dân
Trong sự phát triển của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng
con người luôn là nhân tố quyết định mọi sự phát triển. Đối với nông
thônnước ta hiện nay, việc quan trọng nhất là đưa KHKT vào sản xuất
nôngnghiệp. Muốn vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc nâng cao trình độ dân
trí để người dân có thể nắm bắt được những TBKT mới. Đồng thời, đây là
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Muốn nâng cao trình độ của người dân một cách toàn diện và mọi mặt
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thì cần đào tạo và trang bị các kiến thức,
kỹ năng cơ bản về hoạt động của thôn, xóm. Các cán bộ từ thị xã đến xã và
cán bộ Ban quản lý cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao
tiến bộ KHKT tới bà con nhằm nâng cao trình độ của người dân trong sản
xuất. Tổ chức cho người dân được đi tham quan học hỏi kinh nghiệm sản xuất
kinh doanh ở các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Khuyến khích người
dân tự học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến, nói rõ nhu cầu và
quan điểm của họ trong các buổi họp thôn với mục tiêu 100% các hộđều tham
gia các hoạt động. Nói cách khác, người dân cần phát huy hơn nữa tinh thần
tham gia lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát của chính mình để cho các hoạtđộng
được triển khai và đạt kết quả tốt.
93
b. Nâng cao thu nhập cho người dân
Để nâng cao khả năng tham gia và sự đóng góp của người dân trong
quá trình xây dựng nông thôn mới, trước tiên cần nâng cao thu nhập cho
cáchộ nông dân. Bằng các chính sách của nhà nước và của địa phương như
chính sách về giải quyết lao động việc làm nông thôn, đa dạng hóa các ngành
nghề nông thôn, phát triển nông nghiệp hàng hóa bền vững…tạo thêm nguồn
thu nhập cho những người dân…Khi nhu cầu thiết yếu được đáp ứng thì vấn
đề quan tâm đến những việc cộng đồng, địa phương mới được quan tâm. Thu
nhập của những hộ nông dân thị xã hiện nay còn thấp, vì vậy, huyện cần có
các chính sách phát triển khu vực nông thôn, có sự phối hợp giữa chính người
dân và chính quyền địa phương. Mở rộng các làng nghề, các ngành nghề phụ
ngoài sản xuất nông nghiệp.
c. Nâng cao hiểu biết của người dân trong tham gia xây dựng và quản
lý các tuyến giao thông
Việc đào tạo để nâng cao nhận thức của người dân là vấn đề rất quan
trọng để giúp họ đưa ra những ứng xử và có những quyết định phù hợp với
từng hoàn cảnh cụ thể để đảm bảo những lợi ích chung của cộng đồng
Cung cấp cho người dân địa phương những kiến thức chung về
giaothông để nâng cao sự hiểu biết của họ, để người dân tự nhận thấy được ý
nghĩa của việc xây dựng các tuyến đường trong thôn và tuyến đường sẽ mang
lại những lợi ích gì cho cuộc sống của chính họ đào tạo cho người dân địa
phương những kiến thức về kỹ thuật trong xây dựng cũng như là các hoạt
động bảo dưỡng đường là việc làm cần thiết. Trong giai đoạn xây dựng, các
kiến thức này sẽ giúp cho các hoạt động được thực hiện đúng theo kỹ thuật
chuyên môn và đảm bảo cho chất lượng của các công trình. Ở giai đoạn khai
thác, sử dụng và quản lý, kiến thức này sẽ giúp người dân đưa ra những quyết
định sửa chữa kịp thời khi phát hiện có sự xuống cấp của các tuyến đường.
Đồng thời, họ cũng có thể tự sửa chữa được với những hỏng hóc nhỏ trên các
đoạn đường thuộc địa phận của họ.
94
4.3. Kiến nghị
Đối với Nhà nước: Tạo cơ sở pháp lý vững chắc, cơ chế chính sách rõ
ràng, cụ thể và đồng bộ để cấp cơ sở dễ áp dụng và triển khai thực hiện. Các
Bộ, Ngành liên quan như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng... cần ban hành
những văn bản pháp lý hướng dẫn, cụ thể hóa các quy định về xây dựng và
quản lý đường giao thông. Phân cấp quản lý phải được thực hiện một cách
triệt để, tránh hình thức, chồng chéo và phải được cụ thể hóa bằng các quyết
định, chỉ thị, văn bản. Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn và công tác
kiểm tra đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tránh dân chủ hình
thức, khẩu hiệu giáo điều.
Đối với chính quyền các cấp (tỉnh, huyện, xã): Cụ thể hóa các chủ
trương chính sách của cấp trên, có những hướng dẫn cụ thể, khoa học phù hợp
với điều kiện của địa phương mình. Quan tâm đến việc nâng cao nhận thức
của cộng đồng về đường giao thông, đưa các nội dung này vào các cuộc thi
tìm hiểu hay phong trào thi đua của các tổ chức, đoàn thể. Tăng cường công
tác tuyên truyền nên thực hiện đều đặn, thường xuyên, đồng thời cần nhân
rộng các điển hình tiến tiến trong xây dựng và quản lý các công trình đường
giao thông trên địa bàn. Có cơ chế và công cụ để cộng động tham gia có hiệu
quả, kể cả công trình do Nhà nước đầu tư hoàn toàn.
Đối với cộng đồng hưởng lợi: Cần tranh thủ các nguồn lực cho đầu tư
phát triển đường giao thông (nhà nước, nhà tài trợ, doanh nghiệp) để cùng xây
dựng, nâng cấp đường giao thông. Cần phải tích cực, chủ động tham gia hơn
nữa trong xây dựng và quản lý đường giao thông. Có nhận thức đúng đắn về
sự tham gia, xóa dần tâm lý bàng quan, thụ động, ỷ lại vào Nhà nước.
95
KẾT LUẬN
Nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý
đường giao thông ở huyện Nậm Nhùncó ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Lợi ích của ngành giao thông mang lại bao trùm mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, cho thấy vai trò hết sức quan trọng của hệ thống đường GTNT
nói chung và đường giao thông nói riêng, đây là nhu cầu cơ bản, thiết yếu của
mọi người dân, nó trở thành công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược về
tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo đồng thời góp phần vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Qua nghiên cứu thực trạng sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng
và quản lý đường giao thông ở Nậm Nhùn cho thấy bước đầu đã có những
thành tựu đáng ghi nhận như tiết kiệm chi phí đầu tư, giảm bớt gánh nặng về
tài chính cho Nhà nước; phát huy vai trò làm chủ của cộng đồng với vai trò
này cộng đồng luôn đạt lợi ích cao nhất; chất lượng, tiến độ trong các giai
đoạn chuẩn bị xây dựng, thực hiện thi công xây dựng và quản lý khai thác đạt
hiệu quả cao. Tuy nhiên, còn tồn tại một số vấn đề chủ yếu như sau:
+ Ở Nậm Nhùn bước đầu đã có những cơ chế, chính sách cho phát triển
đường giao thông theo hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Tuy nhiên,
còn thiếu quy định, hướng dẫn cụ thể, chi tiết các quy định của cấp trên làm
căn cứ để triển khai thực hiện. Đã có sự phân cấp trong đầu tư xây dựng và
quản lý đường giao thông, nhưng sự phân cấp chưa mạnh và chưa thực sự
triệt để đôi khi còn mang tính hình thức.
+ Việc thông tin tuyên truyền còn khá hình thức, người dân thiếu thông
tin, một số nội dung qua loa, mới chỉ hướng tới nội dung là để cộng đồng biết,
cộng đồng làm là chính, chưa quan tâm quyền được bàn, được quyết định các
nội dung quan trọng của cộng đồng hưởng lợi.
Vai trò của cộng đồng chưa được đánh giá cao, các nguồn lực cộng
đồng bị xem nhẹ đặc biệt là kiến thức bản địa, sự tham gia của cộng đồng còn
96
hạn chế khiến cho hiệu quả xây dựng công trình đường giao thông đạt thấp.
Việc nâng cao kiến thức về đường giao thông chưa hướng tới đối tượng trực
tiếp thực hiện quá trình xây dựng và quản lý đường giao thông là cộng đồng
hưởng lợi, mà chỉ đào tạo cho cán bộ xã.
+ Chưa phát huy được tính tự giác của cộng đồng và sức mạnh của các
tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên... trong xây
dựng cũng như quản lý.
Qua nghiên cứu cho thấy sự tham gia của cộng đồng trong phát triển giao
thông bị ảnh hưởng chủ yếu bởi các yếu tố về kinh tế, văn hóa, xã hội; các yếu tố
về cơ chế, chính sách và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Từ nghiên cứu đánh giá thực trạng, một số giải pháp nhằm tăng cường
sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý đường giao thông là:
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tăng cường sự tham gia
của cộng đồng trong phát triển giao thông: Cần phải tăng cường vai trò định
hướng của Nhà nước, đồng thời Nhà nước phải giữ vai trò trung tâm để huy
động mọi nguồn lực. Việc phân cấp phải gắn với trao quyền, quy chế dân chủ
ở cơ sở phải được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả tránh hình thức.
Tuyên truyền, giáo dục phát huy vai trò và nâng cao trình độ của cộng
đồng đối với xây dựng, quản lý đường giao thông: Việc này tuy đã thực hiện,
nhưng cần quan tâm hơn đến chất lượng và cách thức, hệ thống tuyên truyền
phải được xây dựng đồng bộ từ cấp huyện tới chính quyền xã, thôn và kết hợp
rộng rãi với các tổ chức xã hội. Cần đưa nội dung chất lượng quản lý đường
giao thông là một tiêu chí đánh giá trong các phong trào thi đua của các tổ
chức đoàn thể,. Nhận thức đúng đắn về vai trò của cộng đồng, có như vậy thì
mới có chính sách phù hợp với năng lực của cộng đồng, khai thác phát huy
sức mạnh to lớn của cộng đồng. Ngoài cán bộ xã, việc nâng cao nhận thức về
xây dựng và quản lý đường giao thông cũng cần phải hướng tới cộng đồng -
đối tượng trực tiếp tham gia và hưởng lợi.
97
Quy định những nội dung cụ thể về sự tham gia của cộng đồng trong
xây dựng và quản lý đường giao thông: Chính quyền địa phương cần xây
dựng một quy chế đầu tư chi tiết nhằm cụ thể hóa Nghị quyết, quyết định, chỉ
thị… của cấp trên cho các công trình đường giao thông như một quy trình
chặt chẽ khoa học cho từng giai đoạn để cộng đồng có căn cứ pháp lý triển
khai. Cần phân cấp một cách triệt để, đó là giao cho cộng đồng hưởng lợi trực
tiếp quản lý đường giao thông, không kể nguồn vốn hay hình thức đầu tư nào.
Huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và quản lý
đường giao thông: Sử dụng các công cụ, phương pháp khoa học, hợp lý và
linh hoạt nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng đạt hiệu quả, tạo cho sự
tham gia của cộng đồng có tính tự giác cao. Đồng thời huy động sự tham gia
đông đảo của các tổ chức xã hội tại cộng đồng vào xây dựng và quản lý
đường giao thông.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giao thông vận tải (2014), Quyết định số 4927/QĐ-BGTVT về việc
ban hành hướng dẫn chọn quy mô kỹ thuật đường Giao thông phục vụ
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thông mới giai đoạn
2010-2020,ban hành ngày 25/12/2014.
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất lượng
và bảo trì công trình xây dựng, ngày 12/5/2015
3. Chính phủ (2015), Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu
tư xây dựng công trình, ban hành ngày 18/6/2015.
4. Đỗ Xuân Chuyền (2014), Sự tham gia của người dân trong xây dựng
đường GTNT ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ.
5. Mai Thanh Cúc (2005), Giáo trình Phát triển nông thôn, NXB Nông
nghiệp Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Ngọc Đông, GTNT trong công cuộc xây dựng nông thôn mới
và hiện đại hóa nông thôn, http://tcdb.drvn.gov.vn/
7. Tô Duy Hợp - Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng, lý
thuyết và vận dụng, NXB văn hóa thông tin Hà Nội.
8. Vũ Trọng Khải - Đỗ Thái Đồng - Phạm Bích Hợp (2004), Phát triển
nông thôn Việt Nam từ làng xã truyền thống đến văn minh thời đại,
NXB Nông nghiệp.
9. Quốc Hội (2003), Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ban hành ngày
26/11/2003.
10. Trương Văn Tuyển (2007), Giáo trình phát triển cộng đồng, lý luận và
ứng dụng trong phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp HàNội.
11. UBND tỉnh Lai Châu (2015), Quyết định số 333/QĐ-UBND về việc phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Nậm Nhùn
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành ngày 14/4/2015.
99
12. UBND tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 189/QĐ-UBND về việc
ban hành cơ chế quản lý đầu tư thực hiện chương trình xây dựng GTNT
trên địa bàn tỉnh Lai Châu, UBND tỉnh Lai Châu ban hành ngày
04/3/2014.
13. UBND huyện Nậm Nhùn (2013) Quyết định số 43/QĐ-UBND về việc
thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
GTNT huyện Nậm Nhùn giai đoạn 2013 - 2020, ban hành ngày
21/5/2013.
14. UBND huyện Nậm Nhùn (2013), Quyết định số 139/QĐ-UBND về việc
ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng GTNThuyện Nậm Nhùn giai đoạn 2013 - 2020,
ban hành ngày 26/6/2013.
15. UBND huyện Nậm Nhùn (2015), Quyết định số 919-QĐ/HU về vic
kiện toàn Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
GTNThuyện Nậm Nhùn giai đoạn 2015 - 2020, ban hành ngày
28/01/2015;
16. UBND huyện Nậm Nhùn (2015), Quyết định số 426-QĐ/UBND của về
việc Thành lập Văn phòng Điều phối huyện Nậm Nhùn, ban hành ngày
31/3/2015.
17. UBND huyện Nậm Nhùn (2014), Quyết định số 94a/QĐ-UBND về việc
giao chỉ tiêu kế hoạch và phân bổ chi tiết nguồn vốn thực hiện chương
trình xây dựng GTNTnăm 2014, ban hành ngày 25/2/2014.
18. UBND huyện Nậm Nhùn (2014), Quyết định số 424a/QĐ-UBND ngày
26/6/2014 về việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên Ban Chỉ đạo
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng GTNThuyện Nậm Nhùn
giai đoạn 2013 - 2020, ban hành ngày 26/6/2014;
19. Phạm Minh Vương (2014), Sự tham gia của người dân trong xây dựng
nông thôn mới ở thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sỹ.
100
PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA
TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ
CÔNG TRÌNH ĐƢỜNG GIAO THÔNG Ở HỘ NÔNG DÂN
1.Thông tin về chủ hộ
Họ và tên chủ hộ: .............................................................. Giới tính: Nam/nữ
Tuổi: ..................... Dân tộc .......................... Tôn giáo ..................................
Trình độ văn hoá: Mù chữ Tiểu học
□ THCS □THPT □ĐH, CĐ, Trung cấp
Địa chỉ: Xóm ............................. Xã ............................. Huyện Nậm Nhùn
Loại hộ: □Giàu □Khá □Trung bình □Nghèo
2. Gia đình sử dụng phƣơng tiện nào để đi lại và sản xuất
Phương tiện: □Xe đạp □Xe máy □Ô tô □Xe trâu, bò
Mức độ đi lại: □Rất thường xuyên □Bình thường □Ít
3. Mức đóng xây dựng công trình đƣờng giao thông
- Thông tin chung của gia đình ta trong xây dựng và quản lý đường giao
thông thôn bản (điền dấu X vào ô tương ứng)
Trƣớc khi Quản lý, duy tu, Mức độ tham gia Khi XD XD bảo dƣỡng
- Được thông báo
- Được bàn
- Đóng góp
- Quản lý, theo dõi, giám sát
- Gia đình có sẵn sàng tham gia một số công lao động để thực hiện xây dựng
công trình đường giao thông: □Có □Không
- Nếu có gia đình có đề nghị và yêu cầu gì: .....................................................
- Gia đình đã đóng góp bằng hình thức và số lượng như thế nào?
101
* Theo lao động: ...................................................... Công
* Theo khẩu: ........................................................... Công
* Theo chiều dài (km): ............................................ Công
+ Ngày công:
* Theo lao động: ..................................................... Đồng
* Theo khẩu: ........................................................... Đồng
* Theo chiều dài (km): ............................................ Đồng
+ Bằng tiền:
4. Quản lý, duy tu bảo dƣỡng công trình đƣờng giao thông
- Gia đình có sẵn sàng tham gia một số công lao động để thực hiện quản lý,
duy tu bảo dưỡng công trình đường giao thông:
□Có□Không
Nếu có gia đình có đề nghị và yêu cầu gì:
............................................................................................................................
- Gia đình đã đóng góp bằng hình thức và số lượng như thế nào?
* Theo lao động: ...................................................... Công
* Theo khẩu: ........................................................... Công
* Theo chiều dài (km): ............................................ Công
+ Ngày công:
* Theo lao động: ..................................................... Đồng
* Theo khẩu: ........................................................... Đồng
+ Bằng tiền:
- Việc quản lý đường giao thông nên giao cho ai thực hiện:
* Theo chiều dài (km): ............................................ Đồng
□Cá nhân/hộ □Tổ UBND xã khác (ghi rõ)……………………
- Chất lượng quản lý công trình:
□Tốt □ Trung bình □ Kém
102
- Ông (bà) có hài lòng với cách tổ chức quản lý sử dụng, duy tu, bảo dưỡng
công trình đường giao thông hiện nay:□ Có □ Không
- Theo ông (bà) thì quản lý khai thác như thế nào thì hiệu quả nhất:
………...................……………………………………………………………
….……………………………………………………………………………
- Nhận xét của gia đình về việc xây dựng, quản lý sử dụng, duy tu, bảo dưỡng
công trình đường giao thông
- Việc quản lý có thực hiện thường xuyên không: □ Có □Không
- Việc sửa chữa hư hỏng của đường có kịp thời không:□Có □Không
- Ý thức bảo vệ, giữ gìn của cộng đồng ở đây như thế nào:
□ Tốt □ TB □ Kém
- Những tồn tại khác trong quản lý công trình:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
- Để giải quyết những vấn đề nêu trên theo ông (bà) cần làm gì:
- Theo ông (bà) có cần thành lập ban tự quản:□Có □Không
- Nếu đổi mới tổ chức xây dựng, quản lý sử dụng, duy tu bảo dưỡng công
trình đường giao thông theo hướng tăng cường sự tham gia của người dân thì
ông (bà) có sẵn sàng tham gia hay không: □Có □Không