ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI VIỆT HÀ
SỬ DỤNG PPĐV TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI VIỆT HÀ
SỬ DỤNG PPĐV TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN
Ngành: LL&PPDH Bộ môn Lý luận chính trị
Mã số: 8.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THỊ LAN ANH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ “Sử dụng PPĐV trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp
10 ở Trung tâm giáo dục thường xuyên - giáo dục hướng nghiệp tỉnh Bắc Kạn” do
học viên Bùi Việt Hà thực hiện nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Thị Lan
Anh, Khoa Giáo dục Chính trị, trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên trong
thời gian từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019 một cách nghiêm túc, độc lập.
Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu và số liệu được nêu ra trong luận
văn này là trung thực chưa hề được sử dụng và công bố ở bất kỳ một công trình
nào khác.
Tôi xin cam đoan các thông tin được tác giả trích dẫn trong luận văn đều có
nguồn gốc rõ ràng.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bùi Việt Hà
LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Sử dụng PPĐV trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở
Trung tâm giáo dục thường xuyên - giáo dục hướng nghiệp tỉnh Bắc Kạn” được
hoàn thiện, trước hết tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Ngô Thị Lan Anh,
người đã hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn
đúng tiến độ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn thầy cô giáo Khoa Giáo dục Chính trị, đặc biệt là các
thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy các chuyên đề của toàn khoá học đã giúp tôi có nền
tảng kiến thức để hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tới Khoa Giáo dục Chính trị, phòng Đào tạo
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Trung tâm giáo dục thường xuyên
- giáo dục hướng nghiệp tỉnh Bắc Kạn đã tạo điều kiện, giúp đỡ, để tôi hoàn thành
luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới anh em, bạn bè, gia đình đã động viên, giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bùi Việt Hà
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................. v
DANH MỤC CÁC HÌNH .................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................. 3
4. Giả thuyết khoa học ......................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ................................................................. 4
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài ........................................................ 5
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN -
GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP ........................................................................ 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề....................................................................... 6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về sử dụng PPĐV trong dạy học .................... 6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD ......... 8
1.1.3. Những nội dung luận văn tiếp tục nghiên cứu ........................................ 11
1.2. Lý luận chung của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở Trung tâm GDTX - GDHN ....................................................................... 12
1.2.1. Quan niệm về đóng vai và PPĐV trong dạy học ..................................... 12
1.2.2. Vị trí, vai trò và những yêu cầu đối với việc sử dụng PPĐV trong
dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN ............................... 18
1.2.3. Yêu cầu tất yếu của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD
lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN ................................................................. 22
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN ............................................................ 33
2.1. Thực trạng của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn ...................................................... 33
2.1.1. Khái quát về các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn ....... 33
2.1.2. Việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trung
tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn .................................................................... 37
2.1.3. Đánh giá thực trạng sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn ................................................. 47
2.2. Đề xuất quy trình thực hiện việc sử dụng PPĐV trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn ...................................................................................................... 49
2.2.1. Một số nguyên tắc đảm bảo khi xây dựng quy trình sử dụng PPĐV
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trung
tâm GDTX- GDHN tỉnh Bắc Kạn ..................................................................... 49
2.2.2. Quy trình thực hiện việc sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn ............................................................................................................. 51
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 58
Chương 3. THỰC NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG HIỆU
QUẢ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG
XUYÊN - GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN ........................... 59
3.1. Thực nghiệm ............................................................................................... 59
3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 59
3.1.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................. 61
3.1.3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng PPĐV trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn ............... 72
3.2.1. Đối với giáo viên ..................................................................................... 72
3.2.2. Đối với học sinh ....................................................................................... 74
3.2.3. Đối nhà quản lý, tổ trưởng chuyên môn .................................................. 76
Kết luận chương 3 .............................................................................................. 77
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 81
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
: Cán bộ quản lý CBQL
: Đối chứng ĐC
: Giáo dục công dân GDCD
GDTX - GDHN : Giáo dục thường xuyên - giáo dục hướng nghiệp
Nxb : Nhà xuất bản
PPDH : PPDH
PPĐV : PPĐV
THPT : Trung học phổ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TN : Thực nghiệm
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Quy mô học sinh ở 3 trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn giai đoạn 2014 - 2019 ............................................................ 34
Bảng 2.2. Kết quả học tập học kỳ I năm học 2018- 2019 của học sinh khối 10
các trường THPT thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn ........................... 35
Bảng 2.3. Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về sự cần thiết khi sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc
Kạn ........................................................................................................ 38
Bảng 2.4. Đánh giá của giáo viên về mức độ sử dụng PPĐV và các PPDH khác
trong dạy học GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn ................................................................................................. 39
Bảng 2.5. Đánh giá của CBQL về mức độ giáo viên sử dụng PPĐV và các PPDH
khác trong dạy học GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn .......................................................................................... 39
Bảng 2.6. Đánh giá của giáo viên về mục đích sử dụng PPĐV trong dạy học
GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn ............. 41
Bảng 2.7. Đánh giá của GV và CBQL về những khó khăn khi giáo viên sử
dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ................................... 42
Bảng 2.8. Đánh giá của học sinh về mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD của giáo viên tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn ................................................................................................ 44
Bảng 2.9. Mức độ tích cực của học sinh đối với môn GDCD khi giáo viên
sử dụng PPĐV trong dạy học .............................................................. 46
Bảng 2.10. Mức độ hứng thú học tập môn GDCD của học sinh khi giáo viên sử
dụng PPĐV vào dạy học ........................................................................ 47
Bảng 3.1. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn ........................ 64
Bảng 3.2. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm và lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đối chứng ở trung tâm GDTX - GDHN Chợ Đồn ................................ 65
Bảng 3.3. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng ở Trung tâm GDTX - GDHN Bạch Thông .......................... 65
Bảng 3.4. Mức độ hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD ................... 66
Bảng 3.5. Thái độ học tập của học sinh đối với giờ học sử dụng PPĐV ................. 67
Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra 1 tiết ở trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn: .... 70
Bảng 3.7. Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX - GDHN huyện Chợ Đồn .... 70
Bảng 3.8. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ở Trung
tâm GDTX - GDHN huyện Bạch Thông .............................................. 71
DANH MỤC CÁC HÌNH
Sơ đồ 2.1. Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về sự cần thiết khi sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc
Kạn ........................................................................................................ 38
Sơ đồ 2.2. Đánh giá của học sinh về mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD của giáo viên tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn ................................................................................................ 45
Biểu đồ 3.1: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN tỉnh Bắc Kạn .......... 70
Biểu đồ 3.2: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN huyện Chợ Đồn ..... 71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 3.3: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN huyện Bạch Thông ...... 71
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đang rất chú trọng đến
đổi mới giáo dục và đào tạo, xem đó là chính sách, biện pháp hàng đầu để phát triển
quốc gia mình.
Ở Việt Nam, Nghị quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc” [10, tr.4]. Để nhấn mạnh vai trò của đổi mới phương pháp dạy học,
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Chuyển mạnh quá
trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học.” [11, tr.115]
Trên thực tế, việc thực hiện đổi mới PPDH hiện nay có vai trò hết sức quan
trọng đối với hoạt động dạy và học ở nước ta. Đặc biệt, đối với môn GDCD ở các
trường THPT, các Trung tâm GDTX - GDHN, muốn nâng cao được chất lượng dạy và
học môn học này, trước hết giáo viên cần phải chủ động trong việc đổi mới, lựa chọn
các PPDH tích cực, hiệu quả, khơi gợi được ở người học sự hứng thú, nhu cầu khám
phá và mong muốn chiếm lĩnh được tri thức của môn học, biến nó thành tri thức, kỹ
năng của bản thân mình. Vận dụng được nó trong đời sống thực tiễn.
Một trong những PPDH tích cực hiện nay được giáo viên dạy môn GDCD sử
dụng đó là PPĐV để kết hợp với các PPDH khác như thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn
đề, dạy học tình huống, thảo luận nhóm... Sử dụng PPDH này, giờ học trở nên sinh động,
học sinh có điều kiện suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự
kiện cụ thể mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát. Tuy nhiên, không phải nội dung
nào của chương trình môn GDCD, giáo viên cũng có thể thực hiện PPĐV. Cũng không
phải giáo viên nào cũng có thể sử dụng tốt phương pháp này trong dạy học môn GDCD
cho học sinh phổ thông. Bởi, khi sử dụng PPĐV, giáo viên phải có kinh nghiệm tổ chức,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học sinh cần phải mạnh dạn, tình huống đưa ra để học sinh đóng vai phải phù hợp với
kiến thức của bài học và năng lực “diễn” của học sinh. Chính những khó khăn này, khiến
giáo viên thường ngại và rất ít sử dụng PPĐV để dạy học môn GDCD ở các trường
THPT hiện nay. Đặc biệt, các Trung tâm GDTX - GDHN, việc giáo viên sử dụng PPĐV
tronng dạy học môn GDCD lại càng hạn chế. Nguyên nhân, đối tượng học sinh theo học
ở các Trung tâm này, đa phần các em có trình độ nhận thức thấp hơn so với mặt bằng
chung của học sinh các trường phổ thông trên địa bàn, lại ít chú trọng đến học kiến thức
của chương trình phổ thông, nên khó lòng để thực hiện được các PPDH tích cực với tất
cả các môn học, không riêng gì với môn GDCD.
Đối với Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, đổi mới PPDH môn GDCD
trong những năm qua cho thấy, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong thay đổi cách dạy và
học của cả giáo viên lẫn học sinh nhưng kết quả đạt được của môn học vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu, đòi hỏi thực tế của xã hội. Nhiều giáo viên của Trung tâm cũng đã
sử dụng các PPDH tích cực trong dạy học môn GDCD để nhằm nâng cao chất lượng
của môn học. Song, trên thực tế những PPDH mới, tích cực mà giáo viên sử dụng vẫn
chưa nhiều chủ yếu là phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm kết hợp
với các PPDH truyền thống như thuyết trình, đàm thoại... Cho nên, học sinh của Trung
tâm vẫn chưa thật coi trọng và thích thú đối với môn học GDCD, vẫn xem môn học
như là môn phụ, không mấy đầu tư thời gian để học tập.
Do vậy, giáo viên dạy môn GDCD ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn,
ngoài những PPDH đã sử dụng, ở một số nội dung của chương trình GDCD lớp 10, 11,
12 nên kết hợp với thiết kế bài giảng dưới hình thức những vấn đề, những tình huống
giả định, giúp học sinh tập trung vào một sự kiện, một vấn đề cụ thể nhằm phát huy
tính sáng tạo và phát triển năng lực của người học. Giờ học sẽ trở nên sinh động và hấp
dẫn cuốn hút đối với cả người học lẫn người dạy.
Từ kinh nghiệm và thực tiễn dạy học, cùng với việc tham khảo từ đồng nghiệp
về chất lượng học tập của học sinh ở Trung tâm, tôi nhận thấy ngoài những PPDH mà
giáo viên vẫn sử dụng nên có sự kết hợp thêm với PPĐV trong dạy học một số nội dung
chương trình GDCD là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng mục tiêu về kiến thức, kỹ năng,
thái độ của môn học đề ra. Đồng thời, nó cũng góp phần quan trọng vào việc đổi mới
PPDH nhằm phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh ở Trung tâm GDTX - GDHN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
Chính bởi xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và khảo sát, phân tích thực trạng sử dụng PPĐV trong
dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, đề tài đề xuất quy
trình và một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10 phần “Công dân với đạo đức” ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
- Khảo sát và phân tích thực trạng, đề xuất quy trình sử dụng PPĐV trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn.
- Tiến hành thực nghiệm và đề ra một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả
PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung
tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tiến hành điều tra và khảo sát thực trạng của việc sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn năm học 2017 - 2018.
- Đề xuất quy trình và thực nghiệm việc sử dụng PPĐV trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc
Kạn năm học 2018 - 2019 ở các lớp:
+ Lớp 10 A, 10 B: Trung tâm GDTX - GDHN thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
+ Lớp 10 A, 10 B: Trung tâm GDTX - GDHN huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Lớp 10 A, 10 B: Trung tâm GDTX - GDHN huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu quy trình đề xuất và các giải pháp mà đề tài nêu ra về việc sử dụng PPĐV
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX -
GDHN tỉnh Bắc Kạn được thực hiện, sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cho
môn học, tạo được sự hứng thú đối với người học, phát huy được năng lực học tập của
học sinh đối với môn GDCD ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Phương pháp lịch sử và lôgíc: Nghiên cứu và thu thập các tài liệu tham khảo
từ sách báo chuyên ngành,từ các công trình nghiên cứu đi trước về PPĐV và sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD, để từ đó có những thông tin tư liệu cần thiết phục
vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài.
+ Phân tích và tổng hợp tài liệu: Trên cơ sở nghiên cứu thông tin thu thập được
từ các tài liệu tham khảo, tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích để làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần ở Trung tâm
GDTX - GDHN.
+ Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết: Từ các kết quả thu được của
việc phân tích tài liệu tham khảo, luận văn tiến hành phân loại, chọn lọc thông tin để
lựa chọn các quan điểm lý thuyết về PPĐV và sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD lớp 10 để có cơ sở đề xuất quy trình và các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả
PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức” ở Trung tâm
GDTX - GDHN ở tỉnh Bắc Kạn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp phỏng vấn: Tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp giáo viên dạy
GDCD và học sinh khối 10 ở 3 Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Bạch Thông,
Chợ Đồn để tìm hiểu thực trạng sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các
trung tâm này.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Xây dựng bản anket với hệ thống câu hỏi
đóng và câu hỏi mở dành cho giáo viên và học sinh khối 10 ở 3 Trung tâm GDTX -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
GDHN Tỉnh Bắc Kạn, Chợ Đồn, Bạch Thông nhằm khảo sát về thực trạng sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
Trên cơ sở đó, chỉ ra ưu điểm, hạn chế của việc sử dụng PPĐV, đề xuất quy trình và
các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả PPDH này ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm quy trình đã đề
xuất, nhằm kiểm định lại tính đúng đắn của giả thuyết khoa học mà đề tài đưa ra, trên
cơ sở đó rút ra cac kết luận, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm đem lại hiệu quả khi
giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp
10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
5.3. Phương pháp bổ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê: để xử lý số liệu kết quả nghiên cứu, xây dựng
bảng, biểu... rút ra được các kết luận khoa học đáp ứng được mục tiêu và nhiệm vụ mà
đề tài nêu ra.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Đề tài hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
- Quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD
lớp 10 và những giải pháp mà đề tài nêu ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học viên cao học, sinh viên
ngành sư phạm GDCT; giáo viên dạy học GDCD ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc
Kạn trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về sử dụng PPĐV trong dạy học
PPĐV là một trong những PPDH tích cực, hiện được giáo viên quan tâm và sử
dụng vào dạy học ở nhiều môn học khác nhau trong chương trình giáo dục phổ thông.
Xung quanh vấn đề này, có rất nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu. Như:
Tác giả Lê Thị Ngọc Thương đã biên dịch từ tài liệu “Role Play as a Teaching
Method: A Practical Guide” (Hướng dẫn thực hành: đóng vai như một phương pháp
dạy học) của tiến sĩ Kanokwan Manorom và Zoë Pollock. Trong tài liệu này, tiến sĩ
Kanokwan Manorom và Zoë Pollock đã chỉ ra tại sao nên sử dụng PPĐV trong dạy học
các môn khoa học xã hội nhất là đối với đối tượng là sinh viên. Cụ thể, theo nhóm tác
giả: PPĐV góp phần nâng cao sự hiểu biết nhiều hơn về sự phức tạp thực hành chuyên
môn và cho phép sinh viên phát triển kỹ năng để tham gia vào các cuộc đàm phán đa
liên đới trong môi trường có kiểm soát của lớp học. Đóng vai trong lớp học có thể được
thực hiện bằng nhiều cách, có thể gồm yếu tố trực tuyến hay tương tác mặt đối mặt.
Thời lượng của quá trình này cũng có thể thay đổi tùy theo các mục tiêu của hoạt động.
Đóng vai trong lớp học đòi hỏi sinh viên chủ động trong quá trình học tập bằng cách
cho phép họ hoạt động như là các bên liên quan trong một kịch bản tưởng tượng hay
thực. Nó là một kỹ thuật bổ sung cho hình thức phân công và giảng dạy truyền thống
của bậc học đại học ngành khoa học xã hội [29].
Với cách lập luận này, nhóm tác giả đã cho thấy tính ưu việt khi giáo viên sử
dụng PPĐV trong dạy học. Nó sẽ giúp cho người học phát huy được tính cực, tạo ra
sự hứng thú đối với môn học, đây là điều cần thiết trong dạy học. Đồng thời, các tác
giả cũng cho rằng khi sử dụng PPĐV, giáo viên sẽ có thể bổ sung cho PPDH truyền
thống những hạn chế nhất định như: sự thụ động của người học, tính độc thoại của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giáo viên.
Cũng trong tài liệu dịch của tác giả Lê Thị Thương còn đề cập đến quan điểm
của nhiều nhà giáo dục trên thế giới về PPĐV như: Brierley, Devonshire, Hillman...
Theo các tác giả này: Kỹ thuật đóng vai phát triển các chức năng kiến thức như:
“một sự kết hợp của kiến thức mệnh đề (hiểu biết về - nền tảng kiến thức học thuật),
kiến thức về thủ tục (biết làm thế nào - có các kỹ năng) và kiến thức có điều kiện
(biết được tình huống để sử dụng các kỹ năng) [29]. Điều này cũng cho thấy, PPĐV
là một trong những PPDH phát triển cho người học không chỉ nắm vững về kiến
thức của môn học mà còn thực hành được các kỹ năng khi tham gia vào các tình
huống đóng vai cụ thể.
Tác giả Jude Howell với bài báo “Using role play as a teaching method” (Sử
dụng đóng vai như một phương pháp giảng dạy) đăng trên tạp chí “Teaching Public
Administration” ngày 1/3/1992, vol.XII, n.01, từ trang 69 - 75. Trong bài báo này, tác
giả Jude Howell cho rằng khi sử dụng PPĐV không chỉ cung sự thay đổi trong kĩ thuật
giảng dạy mà còn cho phép cách tiếp cận lấy học sinh làm trung tâm. Bởi theo tác giả,
ở phương pháp dạy học truyền thống, chỉ học sinh mạnh dạn mới dám tham gia nêu ý
kiến còn khi sử dụng PPĐV tất cả học sinh đều có thể tích cực tham gia. Bằng cách
khiến cho học sinh đóng vai, họ cảm thấy có vấn đề, trải nghiệm căng thẳng và xung
đột, tham gia vào thương lượng và hợp tác. Cũng theo tác giả Jude Howell, khi sử dụng
PPĐV sẽ tăng vai trò tham gia của học sinh, kích thích sự hứng thú của họ đối với môn
học, khuyến khích họ tích cực học hơn [17, tr.69 - 70].
Trong cuốn “Hướng dẫn thực hành, dạy học ngày nay” của tác giả Petty
Gheossrey (2012), Nxb Stanley Thoorrney, cũng đã đề cập đến vấn đề đóng vai, diễn
kịch và mô phỏng. Theo tác giả: Đóng vai có tác tác dụng trong việc phát triển kỹ năng
giao tiếp cho học sinh, tạo cơ hội thực tập kỹ năng trong môi trường được đảm bảo.
Đồng thời tác giả chỉ ra ưu điểm của PPĐV là: làm giảm mặc cảm sân khấu, sợ đứng
trước lớp. Lên kế hoạch có bài tập đóng vai, kịch bản được soạn thảo hoàn hảo, mỗi
vai diễn có lời thoại khác nhau [22, tr. 224]. Như vậy, với cách nhận định này cho
chúng ta thấy khi giáo viên sử PPĐV trong dạy học sẽ mang lại cho người học tính chủ
động, hạn chế được những nhược điểm của người học như thụ động, hay thiếu mạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dạn trong giao tiếp và thực hiện các yêu cầu của môn học.
Ngoài ra, còn có các bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến kinh
nghiệm, luận văn về sử dụng PPĐV trong dạy học như: tác giả Mai Thị Kim Chi (2014),
“Vận dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử Việt Nam (Thế kỉ X - giữa thế kỉ XIX), Lớp 10
THPT - chương trình chuẩn”, Luận văn Thạc sĩ Khoa Lịch sử, Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội [5].
“Một vài ý kiến về PPĐV” nguồn Nxb Quân đội nhân dân, đăng trên Website:
caodangquany1.edu.vn đã nêu ra khái niệm về PPĐV, điều kiện áp dụng, trường hợp vận
dụng và cách thức thực hiện một buổi dạy học bằng PPĐV. Bài viết cũng đã khẳng định
những ưu điểm khi sử dụng PPĐV: Đóng vai là PPDH cơ bản và tốt nhất về kỹ năng
giao tiếp, là phương pháp cụ thể để dạy học về phong cách thái độ đối với con người,
đồng đội... Đó là PPDH sinh động, chủ động, tạo điều kiện cho người học bộc lộ các
ưu điểm để phát huy và nhược điểm để sửa chữa khắc phục. Qua đóng vai, người học
có điều kiện ứng dụng lý thuyết, nguyên tắc đã học vào thực tế sinh động, đa dạng mà
họ sẽ tiếp xúc sau này [30].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung chỉ ra những ưu điểm
và tính hiệu quả khi sử dụng PPĐV trong dạy học, sẽ góp phần khắc phục sự thụ động
ở người học, đáp ứng mục tiêu giáo dục mới hiện nay: lấy người học làm trung tâm,
phát huy năng lực của người học.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD
GDCD ở trường phổ thông được xác định: có vị trí hàng đầu trong việc định
hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ
bản về giá trị đọa đức - nhân văn, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và pháp
luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam. Do đó, để dạy tốt
môn GDCD đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, giáo viên và học sinh đều cần
phải thay đổi cách dạy và học. Theo đó, nhiều PPDH mới theo hướng tích cực được áp
dụng, trong đó PPĐV cũng được giáo viên lựa chọn để sử dụng trong dạy học những
nội dung nhất định của chương trình GDCD ở phổ thông.
Cũng đã có không ít các công trình nghiên cứu về PPĐV trong dạy học môn
GDCD. Trong cuốn “Lí luận dạy học môn GDCD ở trường phổ thông” của nhóm tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giả Vũ Đình Bảy (chủ biên) (2015), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, đã đưa ra quan
niệm thế nào là PPĐV, các bước tiến hành, đánh giá về ưu điểm, hạn chế của PPĐV
trong dạy học môn GDCD. Ở công trình này, nhóm tác giả cũng đã tách PPĐV với
phương pháp trò chơi trong dạy học GDCD, đưa ra những yêu cầu sư phạm khi sử dụng
PPĐV như: “tình huống đóng vai phải phù hợp với nội dung bài học, lứa tuổi, trình độ
học sinh, điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống không quá dài và phức tạp. Cần
quy định rõ thời gian đóng vai…” [1, tr.101].
Cuốn “Dạy và học môn GDCD ở trường THPT - Những vấn đề lí luận và thực
tiễn”, của nhóm tác giả Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên (2007), Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, đã nêu lên nhiều PPDH khác nhau trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT. Đề cập tới PPĐV, nhóm tác giả khẳng định: đó là phương pháp tổ chức cho học
sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong tình huống giả định để nắm vững nội
dung bài học” [6, tr.22]. Việc sử dụng PPĐV khi thực hiện dạy học một số nội dung
của môn GDCD theo các tác giả là cần thiết, góp phần thúc đẩy được sự tương tác giữa
học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên, khích lệ được thái độ, hành vi của
học sinh theo hướng tích cực. Đồng thời, còn tạo nên tính thú cho người học khi học
môn học này.
Nhóm tác giả Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga (2011), “Phương pháp dạy
học môn GDCD ở trường THPT”, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. Cuốn sách cũng nêu
ra quan niệm về PPDH đóng vai, chỉ ra: PPĐV chỉ mang tính tương tác giữa giáo viên
và học sinh, giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với môi trường học tập. PPĐV là
phương pháp tổ chức cho người học thực hành, làm thử một số cách ứng xử nào đó trong
một tình huống giả định [14, tr.169 - 170]. Với cách hiểu này, PPĐV nghiêng về phương
pháp dạy học thực hành, có lẽ ở một khía cạnh nào đó thì có thể chúng ta đồng tình nếu
hiểu đó là PPDH chung cho các môn học. Nêu căn cứ vào tính đặc thù của môn GDCD,
việc sử PPĐV sẽ được xem như một PPDH tích cực nhằm kết hợp với các PPDH khác
để phát huy tính tích cực của người học đem lại sự hấp dẫn trong các giờ học trên lớp
đối với môn học GDCD cho cả học sinh lẫn giáo viên.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Lưu Thị Điểm (2010), “Vận dụng PPĐV vào dạy
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD ở trường THPT Đoàn Thị Điểm - Hà Nội”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tác giả luận văn đã phân tích làm sáng tỏ khái niệm
PPĐV, chỉ ra ưu nhược điểm của việc sử dụng PPĐV trong dạy học, khảo sát thực
trạng và thực nghiệm việc vận dụng PPĐV vào dạy học phần “Công dân với đạo đức”
môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Đoàn Thị Điểm - Hà Nội, đề xuất quy trình và điều
kiện để thực hiện quy trình trong dạy học môn GDCD. Tuy nhiên, với việc thực nghiệm
rồi đề xuất quy trình điều đó gây khó khăn cho quá trình vận dụng PPĐV trong dạy
học môn GDCD ở trường trường THPT [13].
Tác giả Nguyễn Thị Nga (2014), Luận văn thạc sỹ “Vận dụng PPĐV vào dạy
học môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà
Đông, Thành phố Hà Nội”, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong luận văn này, tác
giả cũng tập trung phân tích làm sáng tỏ về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
PPĐV vào dạy học môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lê
Quý Đôn - Hà Đông. Từ kết quả thực nghiệm và những phân tích của tác giả cho thấy
tính hiệu quả khi sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT này.
Qua kết học tập của các lớp đối chứng đã phần nào cho thấy, khi giáo viên đổi mới
PPDH theo hướng tích cực, phát huy năng lực của người học, đã thu hút và đem lại
niềm hứng khởi cho học sinh khi học môn GDCD. Vì thế, kết quả và chất lượng học
tập của môn học cũng được nâng cao [19].
Tác giả Vũ Thị Bốn (2017), Luận văn thạc sỹ “Vận dụng PPĐV trong dạy học
phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lương Tài 2, Bắc Ninh”, trường Đại
học Sư phạm Hà Nội. Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng
PPĐV vào dạy học phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lương Tài 2, Bắc
Ninh, tác giả đã đề xuất các nguyên tắc, biện pháp sử dụng PPĐV và tiến hành thực
nghiệm PPĐV trong dạy học nội dung này tại trường THPT Lương Tài 2, Bắc Ninh.
Những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của tác giả nhằm nâng cao hiệu quả việc sử
dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD, đã cho thấy đây là PPDH giáo viên nên sử
dụng kết hợp thường xuyên với các PPDH khác nhằm phát huy được vai trò của người
học khi học tập môn học này [4].
Tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2017), Luận văn thạc sỹ “Sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD ở các trường THPT huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”, trường Đại học Sư phạm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đại học Thái Nguyên. Luận văn cũng đã phân tích được các khái niệm, đặc điểm, quy trình
sử dụng PPĐV trong dạy học nói chung, dạy học môn GDCD nói riêng. Các giải pháp mà
tác giả nêu ra đối với cấp quản lý, giáo viên, học sinh đã góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng PPDH này trong dạy học môn GDCD ở các trường THPT
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay [15, tr.92 - 94].
Ngoài những công trình kể trên, còn có các bài báo khoa học, bài hội thảo, sáng
kiến kinh nghiệm bàn về PPĐV và việc sử dụng phương pháp này vào dạy học môn
GDCD nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay của quốc gia. Bài báo “Đổi
mới PPDH môn GDCD sau năm 2015 theo hướng phát triển năng lực cho học sinh”
của tác giả Lưu Thu Thủy (2013), Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia giáo dục đạo đức công
dân, giáo dục phổ thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam. Bài báo nhấn mạnh: Đóng
vai là một phương pháp dạy học của môn GDCD, PPĐV sẽ giúp cho học sinh có năng
lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy phê phán, năng lực sáng tạo
[28, tr.378 - 382].
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đây của các tác giả đã tiếp cận việc sử
dụng PPDH đóng vai trong dạy học môn GDCD từ nhiều góc độ khác nhau, đều chỉ ra
mặt mạnh và những hạn chế của PPDH này khi vận dụng. Đây là những cơ sở lý luận
và thực tiễn quan trọng để tác giả luận văn có thể tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo nhằm
giải quyết tốt mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đã đề ra.
1.1.3. Những nội dung luận văn tiếp tục nghiên cứu
Cho đến nay, các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nói chung và Trung
tâm GDTX - GDHN của tỉnh nói riêng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
nào mang tính chuyên sâu về sử dụng PPĐV vào dạy học môn GDCD đối với các cơ
sở giáo dục này.
Dựa trên kết quả nghiên cứu đã có liên quan đến vấn đề của đề tài, luận văn có
nhiệm vụ làm rõ những nội dung nghiên cứu sau đây:
- Đưa ra khái niệm và những yêu cầu sư phạm về việc sử dụng PPĐV trong dạy
học môn GDCD ở Trung tâm GDTX - GDHN.
- Phân tích thực trạng và đề xuất quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
- Thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm từ đó nêu ra một số giải pháp
nhằm sử dụng có hiệu quả PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Lý luận chung của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung
tâm GDTX - GDHN
1.2.1. Quan niệm về đóng vai và PPĐV trong dạy học
* Quan niệm về đóng vai
Trong Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê, đóng vai là thể hiện nhân vật
trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng hành động, nói năng như thật. Khi một
vấn đề, một chủ đề nào đó trong cuộc sống hiện thực được xây dựng thành một vở kịch
thì được gọi là kịch bản, nhưng để thể hiện được nội dung kịch bản đó, người diễn viên
phải đảm nhận sắm vai một nhân vật và biểu diễn vai đó, quá trình đó được gọi là đóng
vai [26, tr. 337]. Với quan niệm này của tác giả Hoàng Phê, đóng vai chính là việc hóa
thân của mình vào các nhân vật, trong các tình huống cụ thể theo một kịch bản nhất
định đã được xây dựng.
* Quan niệm về PPĐV
Trong giáo dục, cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về đóng vai và PPĐV.
Đóng vai là một PPDH thông qua mô phỏng và thường có tính chất trò chơi (còn
gọi là trò chơi đóng vai). Có nhiều hình thức trò chơi dạy học như trò chơi tự do, trò
chơi đóng vai, quy tắc trò chơi, lập kế hoạch biểu diễn kịch, biểu diễn tự do. Với cách
nhìn nhận này, PPĐV liên quan đến các khái niệm mô phỏng và trò chơi.
Ở các mô phỏng người học đảm nhận vai trò thường có ở trò chơi hoặc làm việc
trong những môi trường được mô phỏng nhằm trước tiên là phát triển năng lực hành
động, năng lực quyết định trong những tình huống gần với cuộc sống nhưng đã được
đơn giản hóa.
Theo mức độ tự lực, có 2 loại trò chơi đóng vai cơ bản:
Đóng vai có điều khiển: nội dung, hành động của các vai đã được đưa ra trước
theo kịch bản và người chơi cần làm đúng theo kịch bản.
Đóng vai “mở” hay “tự do”: Không có quy định bắt buộc về hành động chi tiết
của các vai mà phụ thuộc vào sự sáng tạo và tự kiến tạo của người chơi.
Ví dụ: Khi giảng về quy luật cung - cầu, giáo viên có thể cho học sinh đóng vai
người bán hàng và người mua hàng trong việc mặc cả giá hàng hoặc chọn hàng.
Ngày nay, trò chơi đóng vai trò được sử dụng như một PPDH trong nhiều môn
học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội. Khi sử dụng PPĐV sẽ khuyến khích được
học sinh thâm nhập vào môi trường thực tế, thử đặt mình vào các nhân vật, trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tình huống khác nhau để giải quyết vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống.
PPĐV là PPDH mang tính chất tương tác giữa giáo viên với học sinh, học sinh với
học sinh, học sinh với môi trường học tập. Sử dụng PPDH này sẽ phát huy được tính chủ
động của học sinh, phát triển kỹ năng giao tiếp, hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề.
Theo Hilbert Meyer: Đóng vai là một PPDH phức tạp ngầm nhận thức hiện thực
xã hội. Với sự giúp đỡ của đóng vai học sinh có thể hiểu được hành động của mình tốt
hơn và tác động lên tư duy tình cảm và hành động của bạn học, giáo viên và những
người quan sát [29].
Đóng vai được áp dụng trong hoạt động dạy học nhằm mục đích nâng cao hiểu
biết về tri thức, kỹ năng, thái độ của người học để đạt tới mục tiêu dạy học. Thông
qua việc hóa thân mình vào các nhân vật, người học sẽ chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh
được kiến thức và được hoạt động trực tiếp trong suốt quá trình đóng vai. Sử dụng
PPDH đóng vai, giáo viên sẽ giống như người đạo diễn, xây dựng chủ đề kịch bản
theo nội dung môn học còn học sinh chính là các diễn viên tham gia đóng vai thành
các nhân vật theo kịch bản đã có. Khi tham gia vào quá trình đóng vai, học sinh có
điều kiện để khắc sâu kiến thức và hình thành những kinh nghiệm cần có để ứng xử
trong thực tiễn đời sống.
Trên thực tế, đóng vai xuất phát từ nghệ thuật kịch. Khoảng từ thế kỉ XIX, nó
được đưa vào quá trình dạy học và trở thành một PPDH được nhiều nhà giáo dục sử
dụng. Theo giả Phan Trọng Ngọ: Phương pháp đóng kịch trong dạy học là giáo viên
cung cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo vai diễn. Qua đó, họ học được
cách suy nghĩ, thể hiện hành động cũng như các kỹ năng ứng xử khác của các nhân vật
trong kịch bản [21, tr.283].
Như vậy, ta có thể hiểu đóng vai là một PPDH, trong đó người học thực hiện
những tình huống hành động được mô phỏng theo các vai về một chủ đề gắn với thực
tiễn thường mang tính chất trò chơi, trong đó các tình huống cuộc sống các vấn đề hoặc
xung đột được thể hiện đóng vai nhằm phát triển năng lực hành động thông qua sự trải
nghiệm của chính bản thân người học và thông qua thông tin phản hồi từ những người
quan sát.
Hiểu một cách khác, PPĐV thực chất là phương pháp tổ chức cho người học
thông qua hình thức đóng kịch, diễn xuất thành các nhân vật được thực hành, “làm
thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Thông qua đó, giúp
học sinh tích cực tham gia, sáng tạo, thể hiện được bản thân, phát triển kỹ năng giao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiếp, hòa nhập vào môi trường học tập linh hoạt, năng động.
Các bước tiến hành thực hiện PPĐV:
* Giai đoạn chuẩn bị:
Giáo viên xác định đề tài, mô phỏng các tình huống và các vai cần phân tích
những đặc điểm của người học và của môi trường học tập tương ứng để xây dựng các
tình huống mô phỏng sao cho chúng gần với thực tế ở mức tối đa.
- Thông tin cho học sinh về chủ đề và các vai diễn.
- Chia nhóm vào giao chủ đề, tình huống và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm
- Chọn các vai, chủ yếu dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, giáo viên có thể gợi
ý, khuyến khích.
- Quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai cho mỗi nhóm.
* Giai đoạn tiếp nhận (giai đoạn làm quen): Vì đây phần lớn là những tình
huống phức tạp nên người học trước tiên phải được làm quen với những tình huống và
các quy tắc chơi.
- Giải thích cho rõ vai.
- Kiểm tra lại xem những người cùng chơi có nắm rõ vai trò của mình hay không.
- Xác định các tiêu chí quan sát và giao nhiệm vụ quan sát.
- Người chơi làm quen với các vai của mình, có thể sử dụng các thẻ mô tả vai.
* Giai đoạn tương tác (giai đoạn chơi): Trong giai đoạn này những người học
(người chơi) là những cá nhân hoặc trong các nhóm sẽ thực hiện các hành động chơi.
Giai đoạn này có thể được chia thành nhiều "vòng chơi".
- Người chơi tự nhập vào vai của mình.
- Thực hiện trò chơi đóng vai mà không ngắt quãng.
- Những người không trực tiếp tham gia đóng vai thì có vai trò là những người
quan sát.
* Giai đoạn đánh giá:
Ở giai đoạn này sẽ xác định và đánh giá thành công, thất bại và những đánh giá
về cả quá trình chơi.
- Người chơi tách mình khỏi vai trò của mình, tự đánh giá về việc trình diễn, về
các vai diễn và cảm nhận của mình.
- Người quan sát nhận xét về tiến trình trò chơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Cả lớp thảo luận đánh giá trò chơi.
- Rút ra những kiến thức từ trò chơi.
Ở các mô phỏng, môi trường học tập là một mô hình môi trường phức tạp nhưng
rõ ràng, với sự tham gia của những bạn chơi. Vật liệu, dụng cụ chơi cũng có ý nghĩa
lớn, chúng có thể bao gồm các đối tượng, các hình tượng tượng trưng, các bản minh
họa. Tiếp theo, điều quan trọng là các quy tắc chơi, tức là những quy định nêu rõ những
hành động được phép của người học. Những mô phỏng quy mô lớn mà ở đó nhiều
người học sẽ học đồng thời và học với nhau, đòi hỏi phải có một tổ phụ trách trò chơi,
tổ này chịu trách nhiệm cung cấp những thông tin bổ sung nếu cần, giám sát sự tuân
thủ các quy tắc chơi hoặc đảm nhận chức năng trọng tài.
Ở PPĐV điều quan trọng không phải là cuối cùng giải pháp nào sẽ xuất hiện mà
là việc những người tham gia cố gắng trong quá trình đóng vai như thế nào. Vì vậy,
việc đánh giá trò chơi đóng vai cũng quan trọng như bản thân trò chơi đóng vai.
Đóng vai cũng giống như các PPDH khác, không phải là một phương pháp vạn
năng, có thể sử dụng để thay thế hoàn toàn các PPDH khác. Vì vậy, cần đánh giá những
ưu điểm và hạn chế của PPDH này để sử dụng nó có hiệu quả, phát huy được thế mạnh
của PPĐV.
* Ưu điểm của PPĐV:
Thứ nhất, học sinh được rèn luyện, thực hành kỹ năng giao tiếp, ứng xử và bày
tỏ thái độ trong môi trường giáo dục an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Học
sinh có được nhiều cơ hội để giao tiếp với nhau, qua đó tăng thêm sự đoàn kết, tinh
thần tập thể làm việc theo nhóm, biết quan tâm và chia sẻ lẫn nhau để cùng hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Thông qua việc hóa thân vào các vai diễn, xử lý các tình huống
giả định sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn kiến thức lý thuyết được học, có thêm kinh
nghiệm, sự tự tin để bước vào cuộc sống. Đồng thời, qua những lời nhận xét, đánh giá
của bạn bè và thầy cô sẽ khích lệ cho các vai diễn, các em sẽ có những nỗ lực cho
những giờ học sau và tự dần hoàn thiện chính mình, rút ra được những bài học cần thiết
cho cuộc sống. Bởi bản chất của PPĐV phần chính không phải là ở việc “diễn” mà là
những thảo luận ở sau phần diễn ấy.
Thứ hai, PPĐV đem lại cho học sinh sự hứng thú, tập trung cao, tạo điều kiện
thuận lợi để các em được khám phá, tìm tòi tri thức. Chính bởi vây, nên các em sẽ cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thấy hào hứng hơn trong các giờ học khi sử dụng PPDH này. Bởi chính các em là người
chủ động chiếm lĩnh tri thức dưới sự dẫn dắt cảu giáo viên, các em đang dần biến những
kiến thức hàn lâm từ sách vở thành kiến thức thực tiễn, sinh động cho bản thân, tạo bầu
không khí vui vẻ, thoải mái cho lớp học. Nhờ đó, chất lượng của môn học cũng được
nâng lên.
Thứ ba, sử dụng PPĐV học sinh sẽ được hóa thân thành các nhân vật, trở thành
các diễn viên để bộc lộ tính cách, tâm hồn theo nhân vật chính diện hoặc phản diện,
điều đó sẽ khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo hướng tích cực. Học sinh
biết phân biệt được những hành vi đúng, sai trong thực tế, do đó các em sẽ tự điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Chính quá trình
tham gia đóng vai thành các nhân vật, việc ứng xử và xử lý các tình huống giả định của
từng nhân vật mà các em hóa thân đã giúp phát triển ở người học tư duy phản biện,
năng lực giải quyết vấn đề, óc sáng tạo, trí tưởng tượng, khả năng quan sát, phân tích
vấn đề nảy sinh…
Thứ tư, sử dụng PPĐV, học sinh thông qua vai diễn có thể thấy ngay tác động
và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm mà các vai diễn đã thực hiện. Bởi lẽ, mỗi một vai
diễn đều mang một nội dung truyền tải nhất định tới người xem. Thông qua những lời
nói và việc làm của vai diễn đó, người xem sẽ đánh giá được điều đó là phù hợp hay
không phù hợp. Vì vậy, từng cử chỉ, lời nói của nhân vật đều có sức lan tỏa nhất định
tới nhận thức, hành vi, cử chỉ của người xem.
Thứ năm, PPĐV thúc đẩy nhiều hơn sự tương tác giữa học sinh với giáo viên,
học sinh với học sinh. Cơ hội để được bộc lộ bản thân của cả người tham ra diễn lẫn
người quan sát, đưa ra những nhận xét đánh gia. Qua đó, giáo viên kịp thời uốn nắn
người học, điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn và cổ vũ, khích lệ, định hướng để
những lời nói, ý nghĩ, hành động tốt, những tài năng sớm được phát hiện, bộc lộ có
điều kiện phát triển, nở rộ hơn.
Thứ sáu, PPĐV còn giúp HS trở nên tự tin hơn, mạnh dạn và trưởng thành hơn
trong cuộc sống, loại bỏ những e ngại, tự ti ngại giao tiếp, ngại thể hiện mình trước
đám đông. Việc tham gia đóng vai đã lôi kéo, thu hút được đông đảo các em học sinh
cùng tham gia, tâm lý sợ sệt, quan ngại, lo sợ mình không làm được sẽ dần được cởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bỏ khỏi các em. Khi hóa thân thành các nhân vật sẽ giúp các em thêm tự tin để bộc lộ
sự sáng tạo, đam mê nghệ thuật của mình. Đồng thời, với PPDH này còn giúp học sinh
có sự thay đổi không khí, phương thức học tập, các em được vận động thể chất và tâm
hồn trở nên phóng khoáng, tạo điều kiện để có thể học tập tốt hơn không chỉ với một
giờ học mà kèm theo nhiều giờ học khác.
* Hạn chế của PPĐV:
Thứ nhất, khi sử dụng PPĐV nếu HS tham gia đóng vai mà không hiểu rõ vai
diễn của mình, diễn sai nội dung, yêu cầu của nhận vật, lúc đó kết quả sẽ không đạt
được như mong muốn, giờ học sẽ thất bại. Khi đóng vai, một trong những yêu cầu
không thể thiếu để góp phần tạo nên sự thành công của vai diễn đó là sự nhập vai của
các nhân vật. Nếu học sinh không hiểu rõ vai diễn của mình thì sẽ không thể truyền tải
đúng thông điệp tới người khác và kết quả giáo dục sẽ bị sai lệch. Đồng thời, nó sẽ gây
cho học sinh trong lớp học và bản thân người hóa vai trở lên lúng túng, thay vì tạo sự
tự tin cho người học giờ đây sẽ làm cho những học sinh đó khó có thể dám khẳng định
mình trước đông người thêm lần nào nữa.
Thứ hai, PPĐV chỉ có thể tiến hành thuận lợi với những nơi có cơ sở vật chất là
lớp học cần phải rộng, cần có kinh phí để chuẩn bị đạo cụ, trang phục, học sinh cần
mạnh dạn, có hứng thú tham gia vào các vai diễn… Bởi khi tiến hành đóng vai nếu
không có yếu tố hóa trang hoặc đạo cụ sẽ giảm hiệu quả của giờ học, không gây được
hứng thú cho người xem là các thành viên trong lớp. Học sinh tham gia đóng vai mà ít
có kinh nghiệm và khả năng diễn đạt cũng sẽ là khó khăn làm cho lớp học không tập
trung hoặc rối nhiễu, có những nhận xét không hay làm ảnh hưởng không tốt tới chính
tâm lý của người diễn, tạo cho họ sự mặc cảm, tự ti.
Thứ ba, sử dụng PPĐV mất nhiều thời gian, nếu giáo viên không có kinh nghiệm
tổ chức sẽ ảnh hưởng đến các nội dung tiếp theo của môn học. Mặt khác, khi tổ chức
cho học sinh diễn kịch nếu giáo viên không bao quát, quản lý lớp tốt trong quá trình
tiến hành đóng vai, trật tự lớp học rất dễ bị phá vỡ, lớp học trở nên mất trật tự, ồn ào
ảnh hưởng đến các lớp khác. Học sinh cũng thể có những hành vi phấn kích qua sự thể
hiện của các vai diễn có thể xuất hiện những hành vi la hét, cười nói, khóc… điều này
cũng ảnh hưởng đến trật của lớp học
Thứ tư, nếu giáo viên không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng khi thực hiện PPĐV, dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến sự lặp đi lặp lại của một tình huống đóng vai mà không có sự thay đổi sẽ khiến học
sinh thấy nhàm chán, tạo tâm lý chản nản và sẽ không còn hứng thú với môn học. Mặt
khác, PPĐV thường được sử dụng thuận lợi với học sinh nhỏ tuổi, học sinh càng lớn
tuổi thì càng khó áp dụng PPDH này.
Thứ năm, kết thúc của việc đóng vai, lớp học dễ bị lộn xộn, khó tập trung để giáo
viên ổn định lớp và tiếp tục phần dạy của mình tiếp theo. Bên cạnh đó, mặc dù vai diễn đã
kết thúc, nhưng dư âm của vai diễn vẫn còn đọng lại khiến nhiều học sinh mất tập trung,
phân tâm và chưa thể bắt nhịp vào bài giảng của giáo viên ngay được. Điều này cũng gây
ra những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng dạy và học của môn học.
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng PPĐV trong dạy học sẽ kích thích hứng thú,
tích cực nhận thức của người học. Người học sẽ được cuốn hút trong các hoạt động
do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo. Qua đó họ tự khám phá, chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng nói cũng như phương pháp “tạo ra” tri thức, kỹ năng đó. Dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, người học tự giác suy nghĩ, tìm tòi, độc lập nhận thức và tự đánh giá
năng lực của mình. Bài giảng của giáo viên vì thế cũng trở nên sinh động, hấp dẫn
hơn tránh được lối dạy học thụ động theo kiểu thầy đọc, trò chép, phát huy tối đa khả
năng sáng tạo của học sinh. Đây là PPDH sinh động, tạo điều kiện cho người học
được chủ động bộc lộ các ưu điểm để phát huy và nhược điểm để sửa chữa, khắc
phục.
1.2.2. Vị trí, vai trò và những yêu cầu đối với việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN
1.2.2.1. Ví trí, vài trò của môn GDCD ở Trung tâm GDTX - GDHN
Mỗi một môn học trong chương trình giáo dục đều có một vị trí, vai trò nhất
định. Ở trường phổ thông, vị trí của môn GDCD được xác định trong Chỉ thị số
30/1998/CT - BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 20/5/1998:
Môn GDCD ở trường phổ thông có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển
nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị
đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế
thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam, trung thành với lý tưởng
độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và thời đại.
Đối với Trung tâm GDTX - GDHN có chức năng, nhiệm vụ “thực hiện xóa mù
chữ cho những người trong độ tuổi theo quy định. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng
lực làm việc; cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng cần thiết của cuộc sống cho mọi
người; tạo cơ hội cho những người có nhu cầu tiếp tục học tập để nâng cao trình độ học
vấn” (Điều 39, Luật Giáo dục). Do đó, các Trung tâm GDTX - GDHN đều có chương
trình bổ túc văn hóa THPT cho các đối tượng theo học tại đây. Trong chương trình bổ
túc, các môn văn hóa học sinh phải học bắt buộc có môn GDCD. Môn học này cũng
có vị trí, vai trò quan trọng như các môn văn hóa khác đang được dạy trong chương
trình bổ túc văn hóa cho học sinh THPT tại Trung tâm.
Sở dĩ môn GDCD có vị trí, vai trò quan trọng là bởi:
Thứ nhất, môn học này đã trang bị cho học sinh hệ thống tri thức cơ bản về giá
trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và pháp luật. Đó là
hệ thống những kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh vực đạo đức, pháp luật, quyền con
người, triết học, kinh tế, chính trị học, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước...
giúp học sinh có những hiểu biết nhất định đối với thực tiễn đời sống xã hội và có các
kỹ năng để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Thứ hai, thông qua môn học từng bước hình thành cho học sinh thế giới quan
đúng đắn, phương pháp luận khoa học. Những kiến thức mà môn học cung cấp sẽ giúp
học sinh có được những quan niệm đúng đắn, khoa học, khách quan về thế giới xung
quanh như phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học” trong chương trình GDCD lớp 10. Từ đó, giúp cách em có sự vận dụng đứng đắn
trong giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Thứ ba, môn học còn có vai trò góp phần hình thành cho học sinh nhân sinh
quan tiến bộ. Thông qua hệ thống tri thức về giá trị - đạo đức nhân văn, đường lối
chính sách lớn của Đảng, pháp luật của Nhà nước, học sinh ý thức được về các giá
trị của con người Việt Nam thời kì hội nhập, quốc tế hóa toàn cầu. Các em có những
nhận thức đúng đắn về thế giới, về thời đại, về con người trong xã hội với những
trách nhiệm, vai trò của từng cá nhân góp phần để xây dựng, phát triển xã hội ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
càng hoàn mỹ hơn. Đồng thời, thông qua môn học sẽ giúp các em biết phân biệt
đúng - sai, phải - trái, điều được làm và không nên làm, dám đấu tranh lên án cái
xấu; ca ngợi, học tập những tấm gương đạo đức trong đời sống để giúp mình trở lên
hoàn thiện hơn.
Thứ tư, môn học còn trang bị cho học sinh những kĩ năng sống cần thiết, giáo dục
cho các em các quyền công dân và định hướng để phát triển nhân cách cho học sinh. Đây
chính là nét đặc thù của môn GDCD ở trường phổ thông nói chung và các Trung tâm
GDTX - GDHN nói riêng đó là giáo dục cho các em học sinh các quyền cơ bản bản của
con người, của công dân. Thông qua đó, giúp định hướng phát triển nhân cách cho học
sinh, đồng thời cũng trang bị cho các em những kỹ năng về giao tiếp, ứng xử trong quan
hệ gia đình, bạn bè, cộng đồng xã hội. Giáo dục cho các em trở thành những người công
dân có ích cho bản thân, gia đình và xã hội; trở thành những con người phát triển cao về
trí tuệ, trong sáng về đạo đức và có đời sống tinh thần phong phú.
Như vậy, môn GDCD ở trường THPT nói chung và các Trung tâm GDTX -
GDHN nói riêng đều giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển
trí, tuệ, nhân cách của học sinh. Song, do tính đặc thù của môn học GDCD mang tính
trừu tượng, nhiều nội dung lý thuyết là các nguyên lý, quy luật, phạm trù, các quy định
điều luật mang tính quy chuẩn bắt buộc... học sinh khó nắm bắt và dễ chán nản, không
có mấy hứng thú đối với môn học. Mặt khác, học sinh theo học bổ túc văn hóa tại các
Trung tâm GDTX - GDHN lại có mặt bằng nhận thức thấp hơn so với học sinh các
trường phổ thông nên tâm lí ngại học, không muốn học cũng khiến cho môn học vốn
khó lại càng thêm khó khăn đối với giáo viên dạy học môn này.
Do đó, để môn GDCD thực sự khẳng định được vị trí, vai trò của mình đối với
người học, giáo viên dạy môn học này cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới PPDH, tiếp cận với các PPDH tích cực để
nhằm đem lại hiệu quả cho môn học. Một trong những PPDH có thể giúp giáo viên dạy
GDCD khơi gợi được sự hứng thú, hấp dẫn cho học sinh đó là sử dụng PPĐV kết hợp
với các PPDH khác. Nếu giáo viên biết khai thác và sử dụng hợp lý PPDH đóng vai
trong dạy học môn GDCD sẽ khắc phục được ở học sinh tính thụ động, phát huy khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năng giao tiếp, ứng xử của các em trong đời sống thực tiễn.
1.2.2.2. Những yêu cầu đối với việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
Trung tâm GDTX - GDHN
Sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD là việc giáo viên giao cho học sinh giải
quyết một tình huống cụ thể thông qua đóng vai. Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành,
“làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định gắn với nội dung đơn
vị kiến thức của môn GDCD.
Một là, đối với giáo viên dạy môn GDCD
- Giáo viên phải có sự chuẩn bị đầy đủ, chi tiết, nắm vững và thực hiện đúng
quy trình sử dụng PPDH đóng vai trong dạy học môn GDCD. Giáo viên cần lựa chọn
các tình huống đóng vai phải phù hợp với nội dung bài học, lứa tuổi học sinh lớp 10,
trình độ của học sinh (đối với Trung tâm GDTX - GDHN, đối tượng học sinh học bổ
túc văn hóa nên có lực học thấp, đa phần là học sinh dân tộc nên các em còn nhút nhát,
rụt dè) và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
- Khi giáo viên đưa ra tình huống đóng vai cho học sinh cần phải rõ ràng mạch lạc
các ý, các câu để học sinh dễ hiểu, tránh dùng từ ngữ trừu tượng khó hiểu. Đồng thời, giáo
viên không nên cho sẵn học sinh kịch bản mà chỉ đưa ra tình huống, trên cơ sở đó học sinh
sẽ tự xây dựng kịch bản để thể hiện khả năng sáng tạo chủ động của mình.
- Chia nhóm học sinh với số lượng phù hợp, tránh đông quá khó thực hiện. Giáo
viên cần dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai (nếu là đóng vai trực
tiếp trong tiết học), trong khi các nhóm chuẩn bị giáo viên nên đến từng nhóm quan
sát, lắng nghe, kịp thời phát hiện những khó khăn, lúng túng của học sinh để có sự hỗ
trợ giúp đỡ kịp thời.
- Giáo viên cần định hướng cho học sinh xây dựng kịch bản phải có kịch tính
(các xung đột, các mâu thuẫn giữa các nhân vật) để gây hứng thú, tạo sự chú ý và mang
tính thuyết phục cao về tư tưởng, hành vi gắn với nội dung cần giáo dục của môn học
GDCD.
- Sau khi diễn, giáo viên cần thực hiện đàm thoại để rút ra những kiến thức, kết
luận gắn với nội dung bài học giúp học sinh hiểu và ghi nhớ. Việc bình luận sau cảnh
diễn cũng cần được giáo viên chú ý để tạo cho lớp học bầu không khí thân thiện, cởi
mở, cầu thị và xây dựng. Học sinh cảm thấy hứng thú và bổ ích sau với tiết học và hiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sâu sắc hơn về nội dung của môn học GDCD.
Trong dạy học đóng vai, giáo viên phải đóng vai trò vừa là “khán giả”, vừa là
“trọng tài” công minh, đánh giá và đưa ra nhận xét xác đáng. PPĐV có ưu thế trong
dạy học môn GDCD song muốn vận dụng phương pháp này giáo viên phải có sự đầu
tư công sức, có đam mê thực sự với nghề, chuẩn bị kĩ lưỡng giáo án lên lớp, lựa chọn
chủ đề và kịch bản cho từng nội dung học tập một cảnh hấp dẫn, phù hợp.
Hai là, đối với học sinh.
- Học sinh trong lớp đều được tham gia vào quá trình thảo luận xây dựng kịch
bản, được đóng vai hoặc phục vụ cho công việc đóng vai của các bạn trong nhóm. Giáo
viên nên khích lệ cả học sinh nhút nhát tham gia vào các vai diễn, động viên để các em
tự tin vào bản thân mình.
- Học sinh tham gia đóng vai cần phải hiểu rõ vai diễn của mình trong bài tập
đóng vai để tránh bị lạc đề. Phải học thuộc nội dung kịch bản, kết hợp tương tác với
các bạn diễn để có kết quả tốt.
- Trong quá trình diễn, học sinh trong vai trò khán giả cần tập trung, quan sát
vai diễn để hiểu được ý nghĩa truyền đạt qua vai diễn, có những đánh giá, nhận xét xác
thực sau mỗi vai diễn. Bởi “diễn” không phải là nội dung trọng tâm trong PPĐV mà
nhận xét, đánh giá mới là quan trọng.
Ba là, đối với Trung tâm GDTX - GDHN.
- Trung tâm cần chú ý đến điều kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ dạy học, những
yếu tố bên ngoài như phòng học, âm thanh, ánh sáng, máy chiếu cũng có tác động
không nhỏ đến thành công của việc sử dụng PPDH đóng vai đối với môn học GDCD
nói riêng và các môn học khác trong nhà trường nói chung.
- Trung tâm cũng cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi trao đổi kinh nghiệm
cho giáo viên trong sử dụng các PPDH tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới
giáo dục và đào tạo của Trung tâm. Có những khuyến khích đối với giáo viên mạnh
dạn sử dụng những PPDH tích cực như PPDH đóng vai, dạy học tình huống, dạy
học hợp tác… Tổ chức cho giáo viên dự giờ dạy học mẫu sử dụng PPDH mới, góp
ý, trao đổi để giáo viên có thêm kinh nghiệm trong tổ chức giờ học có hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.2.3. Yêu cầu tất yếu của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
Trung tâm GDTX - GDHN
1.2.3.1. Đặc điểm và cấu trúc chương trình GDCD lớp 10
Thứ nhất, về cấu trúc chương trình GDCD lớp 10
Nội dung chương trình GDCD lớp 10 ở trường trung học phổ thông hiện hành được
cấu trúc thành 2 phần: Phần thứ nhất “Công dân với việc hình thành thế giới quan và
phương pháp luận khoa học”; phần thứ hai “Công dân với đạo đức”. Chương trình được
thực hiện với thời lượng 37 tiết dạy học trong 37 tuần. Cụ thể:
+ Học kỳ I: 19 tiết, dạy học trong 19 tuần gồm các bài từ bài 1 đến hết bài 9
(trong đó bao gồm cả 1 tiết kiểm tra định kỳ và 1 tiết kiểm tra cuối học kỳ I).
+ Học kỳ II: 18 tiết, dạy học trong 18 tuần gồm các bài từ bài 10 đến bài 16
(trong đó bao gồm cả 1 tiết kiểm tra định kỳ và 1 tiết kiểm tra cuối học kỳ II).
Nội dung cụ thể của từng phần như sau:
Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học. Ở phần thứ nhất này gồm 9 bài:
Bài 1. Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nội dung của
bài này, nói về vai trò của thế giới quan và phương pháp luận Triết học.
Bài 2. Thế giới vật chất tồn tại khách quan. (Theo phân phối chương trình bài 2
giảm tải - yêu cầu HS đọc thêm)
Bài 3. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Bài học làm rõ khái niệm
vận động, vai trò của vận động với tính cách là phương thức tồn tại của các sự vật và
hiện tượng trong thế giới khách quan; làm rõ khái niệm phát triển, giải thích được phát
triển là khuynh hướng tất yếu của quá trình vận động của sự vật và hiện tượng trong
thế giới khách quan.
Bài 4. Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Bài học trang bị cho
học sinh những tri thức khoa học về mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn,
nguồn gốc khách quan của mọi sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 5. Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Từ khái niệm
chất và lượng của sự vật, hiện tượng; nội dung cơ bản của bài học là làm rõ cách thức
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bài 6. Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. Bài này nói về phủ định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và phủ định biện chứng, từ đó khái quát khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 7. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Nội dung của bài tập
trung vào các vấn đề nhận thức, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Bài 8. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. (Theo phân phối chương trình bài 8 giảm
tải - yêu cầu HS đọc thêm)
Bài 9. Con người là chủ thể của lịch sử, là mục tiêu phát triển của xã hội. Nội
dung của bài giúp học sinh hiểu được con người là chủ thể của lịch sử, sáng tạo ra lịch
sử; hiểu được con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội; chứng minh được mọi giá
trị của vật chất và tinh thần của xã hội là do con người tạo ra.
Có thể nói, 9 bài dạy thuộc phần thứ nhất của chương trình là tương đối trừu
tượng và có tính khái quát hóa cao so với trình độ nhận thức của học sinh, nhưng được
sắp xếp học ngay ở lớp 10, vì theo logic, thế giới quan và phương pháp luận phải được
trang bị trước, làm cơ sở lí luận cho phần kiến thức thứ hai liên quan trực tiếp đến
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của một công dân khi gia nhập đời sống cộng đồng,
như các vấn đề về đạo đức, kinh tế, chính trị - xã hội và pháp luật.
Sau khi học xong phần này, học sinh cần đạt được những mục tiêu cụ thể về
kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Về kiến thức:
+ Học sinh nhận biết được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng.
+ Học sinh hiểu và nhận thức rõ sự vận động và phát triển khách quan của thế
giới vật chất và con người có thể nhận thức, có thể vận dụng được những quy luật ấy.
+ Học sinh hiểu rõ được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể với khách thể
nhận thức thế giới qua các mối quan hệ: Thực tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội với ý
thức xã hội, con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội.
Về kỹ năng:
+ Học sinh biết sử dụng phương pháp tư duy biện chứng và lập trường duy vật
để nhận diện, phân tích, đánh giá, giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội và các vấn
đề, các tình huống nảy sinh trong thực tiễn.
+ Hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề và các tình huống nảy sinh trong thực
tiễn một cách khoa học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Về thái độ, học sinh có các thái độ sau:
+ Tôn trọng những quy luật khách quan, phát huy vai trò của nhân tố chủ quan
trong đời sống xã hội; phê phán những hiện tượng duy tâm, mê tín, dị đoan và những
tư tưởng, hành vi thiếu lành mạnh trong xã hội.
+ Có thái độ khách quan, tin tưởng, ủng hộ và làm theo cái mới, cái tiến bộ,
tham gia tích cực và có trách nhiệm với các hoạt động của cộng đồng.
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức
Đây là khối kiến thức có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho học sinh
những hiểu biết về phạm trù cơ bản của Đạo đức học và trách nhiệm của người công
dân trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là phần tổng kết, khái quát lại những nội dung
đạo đức mà học sinh đã được học ở Tiểu học và Trung học cơ sở.
Phần này gồm 7 bài:
Bài 10. Quan niệm về đạo đức. Nội dung của bài bao gồm khái niệm đạo đức; sự
giống và khác nhau giữa đạo đức với pháp luật; vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội.
Bài 11. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học. Bài này bao gồm các nội dung
nói về các phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc.
Bài 12. Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. Nội dung của bài học trực
tiếp trang bị cho học sinh có những hiểu biết cơ bản về tình yêu, tình yêu chân chính,
hôn nhân và gia đình; các đặc trưng tốt đẹp, tiến bộ về chế độ hôn nhân và gia đình
nước ta hiện nay và các chức năng của gia đình; trách nhiệm của công dân trong tình
yêu, hôn nhân và gia đình.
Bài 13. Công dân với cộng đồng. Bài này gồm các nội dung về trách nhiệm đạo
đức của công dân trong mối quan hệ với cộng đồng nơi ở và tập thể lớp học, trường
học.
Bài 14. Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bài học gồm các
nội dung về lòng yêu nước, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam và các biểu
hiện cụ thể của lòng yêu nước Việt Nam; trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bài 15. Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Bài học tập trung
phân tích làm rõ một số vấn đề cấp thiết của nhân loại hiện nay: Ô nhiễm môi trường,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bùng nổ dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo; Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần
thiết về trách nhiệm công dân, đặc biệt là trách nhiệm của học sinh trước những vấn đề
cấp thiết của nhân loại.
Bài 16. Tự hoàn thiện bản thân. Nội dung chủ yếu của bài học là làm rõ khái
niệm tự hoàn thiện bản thân, sự cần thiết và yêu cầu cần phải tự hoàn thiện bản thân
theo chuẩn mực đạo đức xã hội.
Những mục tiêu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ mà học sinh cần đạt
được sau khi học xong những phần này là:
Về kiến thức:
- Hiểu được các quan niệm về đạo đức, hiểu được thế nào là nghĩa vụ, lương
tâm, nhân phẩm, danh dự và hiểu rõ những yêu cầu và nhiệm vụ mà đạo đức xã hội đặt
ra cho công dân.
- Hiểu được các quan niệm về tình yêu chân chính, về tự hoàn thiện bản thân,
về lòng yêu nước, về những vấn đề cấp thiết mà nhân loại đặt ra.
Về kỹ năng:
- Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi đạo đức trong đời
sống hàng ngày, ở trường và ở ngoài xã hội.
- Có kỹ năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện bản thân theo các chuẩn mực của đạo
đức xã hội.
- Có kỹ năng vận dụng các kiến thức đã học để nhận diện, đánh giá, phê phán những
quan niệm sai trái về chủ nghĩa yêu nước, về những vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Về thái độ:
- Tin tưởng vào các giá trị đạo đức xã hội, có tình cảm, niềm tin đối với các quan
điểm, thái độ hành vi đúng đắn.
- Có thái độ phê phán đối với các quan điểm, thái độ hành vi lệch chuẩn xã hội.
- Có thái độ yêu quý, gắn bó, trách nhiệm với tập thể, quê hương, đất nước
- Có thái độ và hành động đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực đạo đức, tuân thủ
luật pháp góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết mà nhân loại đặt ra.
Thứ hai, về đặc điểm của chương trình GDCD lớp 10
Chương trình GDCD 10 gồm 2 phần chính:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Phần thứ nhất, công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học. Ở phần này, cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản liên quan đến triết học, nhằm
trang bị cho học sinh những cơ sở ban đầu về thế giới quan, phương pháp luận trong cuộc
sống, là căn cứ lý luận cho các phần sau.
- Phần thứ 2, công dân với đạo đức. Phần này giúp học sinh hình thành một số giá
trị đạo đức của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự phát triển tiếp nối
nội dung môn GDCD ở bậc trung học cơ sở. Những chuẩn mực đạo đức mà học sinh đã
học ở các lớp dưới được nâng lên thành những giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhằm giúp học sinh giải quyết hợp lý,
có hiệu quả các mối quan hệ xã hội.
Chương trình GDCD 10 giúp học sinh vận dụng được kiến thức đã học để phân tích,
đánh giá các hiện tượng, các sự kiện, các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù hợp với lứa
tuổi. Qua đó, các em biết lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã
hội như: Biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, cái đẹp và đấu tranh phê phán đối với các hành vi, hiện
tượng tiêu cực trong cuộc sống, phù hợp với khả năng của bản thân; tin tưởng vào các đường
lối, chủ trương của Đảng; tôn trọng pháp luật, chính sách của Nhà nước và các quy định chung
của cộng đồng, của tập thể. Sống có hoài bão và mục đích sống cao đẹp.
Với cấu trúc và đặc điểm trên đây, việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD
lớp 10 sẽ là phù hợp, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn
học này ở các trường THPT nói chung và ở Trung tâm GDTX - GDHN nói riêng.
1.2.3.2. Sự cần thiết của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung
tâm GDTX - GDHN
Trong những năm gần đây, đổi mới giáo dục phổ thông là yêu cầu khách quan
với yêu cầu phát huy năng lực người học, trong đó năng lực sáng tạo, giải quyết vấn
đề là năng lực cốt lõi được đặt ra từ đòi hỏi của thực tiễn. Vì lẽ đó, nghiên cứu về
PPĐV và dạy học sử dụng PPĐV ngày càng được coi trọng. Sự cần thiết của việc
sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 có thể được nhìn nhận ở các góc
độ dưới đây:
Một là, sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 không chỉ góp phần
hiện thực hóa mục tiêu của môn học mà còn đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Với tư cách là môn học có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển
ý thức công dân, chương trình GDCD lớp 10 trực tiếp định hướng và giúp học sinh
hiểu và nhận thức đúng đắn những quy luật phát triển tất yếu khách quan của tự nhiên,
xã hội và tư duy; định hướng hoạt động thực tiễn của học sinh theo nguyên tắc sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật; phù hợp với chuẩn mực đạo đức, phát huy tinh
thần trách nhiệm đối với cộng đồng, đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, với gia đình và
đối với chính bản thân mình. Đây cũng là môn học kích thích mạnh mẽ sự phát triển
năng lực trí tuệ như: tư duy trừu tượng, logic, biện chứng và rèn luyện các thao tác tư
duy như phân tích, tổng hợp, so sánh cho học sinh.
Quan trọng hơn, chương trình GDCD lớp 10 còn trực tiếp góp phần hình thành
và phát triển ở người học năng lực nhận diện và tư duy phản biện - vốn là những năng
lực rất cần thiết của người công dân trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập. Những năng lực
nêu trên không thể được hình thành càng không thể được phát triển ở học sinh nếu giáo
viên không đưa học sinh vào thực hành trong các tình huống giả định, không khuyến khích
học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những tình huống nảy sinh trong thực
tiễn. Như vậy, sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10, giáo viên không chỉ góp
phần hiện thực hóa mục tiêu của môn học mà còn phát huy được quan diểm “lấy người
học làm trung tâm”.
Mặt khác, kiến thức GDCD lớp 10 mang tính trừu tượng, khái quát hóa cao ở
phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học”, nhưng
cũng rất gần gũi, gắn với cuộc sống con người như ở phần “Công dân với đạo đức”. Bởi
vậy, để dạy được tri thức bộ môn này, giáo viên không thể truyền tải ngay cho học sinh
những điều thầy muốn dạy mà cách làm tốt nhất là chuyển những tri thức đó vào các tình
huống giả định để học sinh chiếm lĩnh nó thông qua hoạt động đóng vai một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo. Vì vậy, để các kiến thức của môn GDCD đến với học sinh
một cách thiết thực, gần gũi và có hiệu quả thì ngoài các PPDH truyền thống, giáo viên
cần tổ chức cho người học thực hành những tình huống giả định có dụng ý sư phạm, tạo
cho người học một môi trường học tập cởi mở, vui tươi thay vì giáo viên chỉ chăm chăm
vào độc thoại lý thuyết, gây sự nhàm chán cho học sinh. Qua đó, hình thành cho học sinh
thói quen làm việc độc lập, làm việc nhóm, bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khi thực hành trong thực tiễn.
Hai là, sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD là một trong những PPDH
hiện đại, thể hiện sự quán triệt nguyên tắc học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tiễn vốn rất được coi trọng đối với giáo dục nói chung và dạy học khoa học chính trị
nói riêng. Cả về lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, giáo dục là việc chuẩn bị cho người
học vào việc giải quyết các tình huống của cuộc sống. Con người bắt đầu suy nghĩ khi
họ thấy xuất hiện nhu cầu hiểu biết một cái gì đó. Việc được trực tiếp tham gia vào giải
quyết các mâu thuẫn, được hóa thân vào các nhân vật trong các tình huống giả định sẽ
giúp học sinh cảm thấy thích thú và hiểu sâu sắc hơn về nội dung của bài học.
Vì vậy, dạy học bằng PPĐV là một trong những PPDH tích cực góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, được xem như khâu đột phá căn bản trong xu hướng
đầu tư chiều sâu cho yêu cầu đổi mới PPDH hiện nay. Đây là một trong những PPDH
hữu hiệu giáo viên nên sử dụng trong dạy học môn GDCD nhằm mang lại niềm vui,
hứng thú, kích thích học sinh say mê, tìm tòi chiếm lĩnh tri thức của môn học; phát
triển tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, từ đó hình thành ở học sinh nhân
cách của người lao động mới: tự chủ, sáng tạo, có khả năng giải quyết tốt các tình
huống do cuộc sống đặt ra.
Ba là, xét từ đặc thù môn học, có thể thấy, chương trình GDCD lớp 10 có hệ
thống tri thức phong phú đa dạng, đặc biệt ở phần khối kiến thức Công dân với đạo
đức. Ở phần này, tri thức môn học không còn là những phạm trù, khái niệm trừu tượng
mà là những khái niệm đạo đức rất gần gũi với cuộc sống, phù hợp với hiểu biết của
học sinh lớp 10. Trong đó, những phẩm chất cơ bản như sống hòa nhập với cộng đồng,
nhân nghĩa; những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự;
trách nhiệm của công dân với việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với các vấn đề chung
của nhân loại là những chuẩn mực đạo đức học sinh lớp 10 cần phải nhận thức đầy đủ,
thấu hiểu sâu sắc để trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng.
Những vấn đề đó, mặc dù không trừu tượng nhưng lại đòi hỏi sự liên hệ, vận
dụng rất cao của người học vào những tình huống thực tế, qua đó hình thành và phát
triển ở người học kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi đạo đức trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đời sống hàng ngày ở trường và ở ngoài xã hội; kỹ năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện
bản thân theo các yêu cầu của đạo đức xã hội. Điều này có thể được đáp ứng khi học
sinh tích cực tham gia trò chơi đóng vai mà giáo viên đưa ra. Do đó, dạy học bằng
PPĐV là lựa chọn dạy học gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành vốn được xem
là nguyên tắc dạy học rất căn bản hiện nay.
Bốn là, xuất phát từ đặc điểm đào tạo của Trung tâm GDTX - GDHN có nhiệm
vụ tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục và đào tạo như: Chương trình GDTX
cấp THPT theo hình thức tập trung; chương trình tư vấn, hướng nghiệp, hướng học,
dạy nghề phổ thông cho học sinh các trường THCS và THPT trên địa bàn; chương trình
liên kết đào tạo… Học sinh theo học tại trung tâm chương trình bổ túc văn hóa THPT
số lượng không nhiều, tỷ lệ học sinh khá giỏi ít, đa phần học sinh có học lực trung bình
và yếu. Bởi vậy, giáo viên ở Trung tâm gặp rất nhiều khó khăn trong dạy học các môn
văn hóa. Muốn chất lượng của các môn học thay đổi, đặc biệt môn GDCD vốn xưa nay
học sinh và phụ huynh đều không xem trọng như các môn Toán, Anh, Văn, giáo viên
dạy môn học nay này cần tích cực đổi mới cách thức tổ chức dạy học và PPDH cho
phù hợp. Giáo viên cần chú trọng nhiều đến các PPDH nhằm phát huy ở người học tính
chủ động, tích cực như PPĐV nhằm tạo cho học sinh bầu không khí học tập thoải mái,
hiệu quả.
Năm là, sử PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 là một trong những biện
pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Dạy học sử dụng PPĐV được coi là trường học về tư duy logic, về cách đào
sâu, trau dồi kiến thức và rèn luyện kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề cho
học sinh. Đó còn là cách thức đưa học sinh đi từ tri thức tới quan điểm, thái độ,
niềm tin. Mục đích của dạy học sử dụng PPĐV là làm tăng tối đa cơ hội để học sinh
làm việc và thể hiện khả năng của mình, được chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến
để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Khi trải nghiệm các
tình huống giả định, mỗi học sinh không những được giao tiếp mà còn xuất hiện
những hứng khởi làm tăng hiệu suất của hoạt động học do học sinh được cá thể hóa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được thể hiện mình, được tự do thử nghiệm và khẳng định năng lực cá nhân trước
tập thể. Đây chính là một trong những đặc trưng tâm lý rất nổi bật của lứa tuổi học
sinh THPT nói chung và học sinh theo học bổ túc văn hóa tại Trung tâm GDTX -
GDHN nói riêng.
Dạy học sử dụng PPĐV chương trình GDCD lớp 10, giúp người học tham gia
vào các hoạt động học tập ở mức độ cao. Người học không học thụ động, chỉ nghe thầy
giảng và truyền đạt kiến thức, mà học tập tích cực bằng hành động của chính mình.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, khi sử dụng PPĐV trong dạy học, tính tích cực, chủ động cùng
với sự hứng thú khi tham gia hoạt động của người học sẽ có điều kiện để phát huy nhờ
vai trò định hướng của giáo viên.
Với việc sử dụng PPĐV trong dạy học GDCD lớp 10, học sinh sẽ khắc phục
được những nhược điểm của bản thân như sự rụt rè, lúng túng khi phát biểu hay
trình bày quan điểm của mình, rèn luyện thói quen chủ động, tích cực, sáng tạo
trong học tập, từ đó tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận tri thức của môn học.
Khi dạy học sử dụng PPĐV dưới sự định hướng, giám sát, giao việc của giáo viên
sẽ giúp học sinh ứng dụng lý thuyết, nguyên tắc đã học về tư duy lý luận, phương
pháp biện chứng, các nguyên tắc ứng xử đạo đức vào thực tế sinh động, đa dạng
mà các em sẽ tiếp xúc sau này.
Việc sử dụng PPĐV trong giảng dạy GDCD lớp 10 giúp cho học sinh gắn lý
luận với thực tiễn và vận dụng tri thức vào xử lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn
nên việc giảng dạy lý luận đỡ nhàm chán, khô cứng và nhờ đó kích thích lòng ham mê
học tập của học sinh, tránh lối học thụ động và góp phần khắc phục hiện trạng dạy học
Giáo dục công dân thiếu gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống, thầy đọc, trò ghi, thầy
nói, trò nghe vốn tồn tại khá phổ biến ở các trường , các Trung tâm GDTX - GDHN
hiện nay.
Kết luận chương 1
PPĐV là một trong những PPDH tích cực, phương pháp này nhằm giúp học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể
mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát thông qua việc xử lý các tình huống giả
định.
Sử dụng PPDH đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 10 giúp học sinh thực
hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ, hành vi theo hướng tích cực một cách
tự giác. Thúc đẩy nhiều hơn sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
với nhau trong các tiết học; phát huy được tính chủ động và khả năng sáng tạo của
học sinh.
PPĐV có những ưu thế mà không phải PPDH nào cũng có thể có được. Những
ưu thế đó phù hợp cho việc dạy học các môn khoa học xã hội nói chung và môn GDCD
nói riêng. Đặc biệt, đối với Trung tâm GDTX - GDHN, căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ đào tạo và đối tượng theo học bổ túc văn hóa tại đây, việc giáo viên sử dụng các
PPDH tích cực trong đó có áp dụng PPĐV vào dạy học các môn học khoa học xã hội
là cần thiết.
Đối với chương trình GDCD lớp 10 tập trung trang bị cho học sinh kiến thức về
triết học và đạo đức, là sự tiếp nối của chương trình trung học cơ sở, nên giáo viên cần
tạo cho học sinh bầu không khí học tập thoải mái, để các em được thể hiện và phát huy
năng lực học tập của mình. Vì thế, ngoài việc sử dụng các PPDH truyền thống, giáo
viên dạy GDCD lớp 10 nên sử dụng PPĐV cho phần “Công dân với đạo đức” ở một số
nội dung cụ thể là phù hợp, đáp ứng nhu cầu của học sinh cũng như xu hướng đổi mới
giáo dục hiện nay “lấy người học làm trung tâm”.
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƯỜNG XUYÊN - GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN
2.1. Thực trạng của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung
tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
2.1.1. Khái quát về các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh miền núi nằm ở trung tâm nội địa vùng Đông bắc Bắc bộ, phía
bắc giáp với tỉnh Cao Bằng, phía Đông giáp với tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp với tỉnh
Thái Nguyên, phía Tây giáp với tỉnh Tuyên Quang. Bắc Kạn có diện tích đất tự nhiên
là 485.941 ha gồm 1 thành phố (Thành phố Bắc Kạn) và 7 huyện (Ba Bể, Bạch Thông,
Chợ Đồn, Chợ Mới, Na Rì, Ngân Sơn, Pắc Nặm). Dân số toàn tỉnh hiện có trên 308.300
người, gồm 7 dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80% .Vì vậy, đa số học sinh
là người dân tộc thiểu số, điều kiện học tập còn thiếu thốn nên thời gian dành cho việc
học chưa nhiều.
Nhằm tạo cơ hội cho con em đồng bào các dân tộc trong tỉnh có điều kiện đến
trường, các Trung tâm GDTX - GDHN đã được hình thành, pháp triển thành hệ thống từ
cấp huyện cho đến tỉnh. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 7 trung tâm thuộc 7 Huyện (Ba Bể,
Bạch Thông,Chợ Đồn, Chợ Mới, Na Rì, Ngân Sơn, Pắc Nặm) và 1 Trung tâm trực thuộc
tỉnh (Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn). Các Trung tâm đều có chung nhiệm vụ
tổ chức thực hiện các chương trình Giáo dục và Đào tạo, điều tra nhu cầu học tập trên địa
bàn, xác định nội dung học tập, đề xuất với Sở Giáo dục và Đào tạo và chính quyền địa
phương về kế hoạch tổ chức các chương trình và hình thức giáo dục đào tạo phù hợp
với từng loại đối tượng và nhu cầu hiện nay.
Các loại hình đào tạo tại các Trung tâm GDTX - GDHN bao gồm: bổ túc THPT;
liên kết đào tạo các hệ đại học, cao đẳng, tại chức vừa làm vừa học; bồi dưỡng ngoại
ngũ, tiếng dân tộc, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ngắn hạn.
Đội ngũ cán bộ, viên chức ở các Trung tâm GDTX - GDHN có trình độ tương
đối đồng đều, các thầy cô giáo đều yêu nghề và không ngừng học hỏi để nâng cao
trình độ, với 100% giáo viên đạt chuẩn. Hiện tại Trung tâm đã có 6 thạc sỹ và 3 giáo
viên đang theo học cao học, luôn ổn định về tư tưởng, tuyệt đối tin tưởng vào sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước. Cán bộ, giáo viên của Trung
tâm luôn có ý thức chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước; có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật, lối sống
trong sạch, lành mạnh; luôn nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ
được giao, luôn thực hiện hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch phát triển giáo dục
và đào tạo hàng năm được giao.
Cơ sở vật chất của các Trung tâm GDTX - GDHN từ tỉnh đến huyện đều cơ bản
đảm bảo để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh vừa theo học văn hóa, vừa theo học
nghề. Mặc dù còn có những khó khăn nhất định, do đặc điểm của tỉnh miền núi, việc
đầu tư cơ sở vật chất hàng năm ở các Trung tâm tuyến huyện còn hạn chế, điều này
cũng ảnh không nhỏ đến việc thực hiện đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và
học tại các Trung tâm này.
* Khái quát về đặc điểm học sinh lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn
So với các trường THPT trên địa bàn toàn tỉnh, học sinh tham gia theo học bổ
túc tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn số lượng không lớn, về mặt bằng
trình độ thì thấp hơn rất nhiều. Đa số, học sinh là người dân thiểu số, vì không đỗ vào
các trường THPT trên địa bàn mới theo học tại các Trung tâm GDTX - GDHN từ tỉnh
đến các huyện với tính chất vừa học bổ túc văn hóa, vừa học nghề. Cho nên, việc học
văn hóa của học sinh ở các Trung tâm không được học sinh chú trọng, đa phần định
hướng của các em hướng tới giáo dục nghề. Đây chính là khó khăn lớn nhất cản trở
việc học và dạy văn hóa của học sinh và giáo viên ở các Trung tâm GDTX - GDHN
Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
Tại 3 Trung tâm mà chúng tôi tiến hành lựa chọn khảo sát là Trung tâm GDTX
- GDHN tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm GDTX - GDHN huyện Chợ Đồn, Trung tâm GDTX
- GDHN huyện Bạch Thông, quy mô học sinh theo học bổ túc văn hóa trong 5 năm từ
2014 - 2019 có số lượng không lớn. Mỗi Trung tâm chỉ có từ 1 đến 2 lớp bổ túc văn
hóa cho các khối 10, 11, 12. Số lượng học sinh mỗi lớp không nhiều, dao động từ 30 -
45 học sinh trên một lớp.
Bảng 2.1. Quy mô học sinh ở 3 trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2014 - 2019
(Đơn vị tính: Tổng số học sinh)
STT Tên trường Năm 2014 Năm 2019
1 GDTX - GDHN Tỉnh 232 155
2 GDTX - GDHN Bạch Thông 162 103
3 GDTX - GDHN Chợ Đồn 155 96
Tổng số 549 354
Nhìn vào kết quả thống kê của bảng 2.1, số lượng học sinh học bổ túc văn hóa ở
các Trung tâm ngày càng giảm, tại thời điểm 2014 có 549 học sinh ở cả 3 khối 10, 11,
12 thì đến năm 2019 số học sinh ở 3 Trung tâm mà chúng tôi khảo sát trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn là 354 em, riêng khối 10 có 190 học sinh. Hầu hết học sinh ở các trung tâm
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đều là con em dân tộc thiểu số, thi trượt kỳ thi tuyển sinh vào
lớp 10 THPT, bỏ học nửa chừng hay đã lập gia đình có nhu cầu theo học tiếp. Hầu hết
học sinh vừa đi học, vừa đi làm thêm để trang trải cuộc sống. Điều này chi phối trực
tiếp đến quá trình dạy học nói chung và dạy học GDCD nói riêng tại các Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
Những năm qua chất lượng giáo dục của các Trung tâm trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn đã có những chuyển biến rõ rệt theo chiều hướng nâng cao chất lượng đào tạo
và giáo dục toàn diện. Kết quả đào tạo hàng năm cho thấy, tỷ lệ lên lớp hàng năm
chiếm từ 90% đến 98%. Riêng học sinh khối 10 có kết quả học tập kỳ I năm học 2018
- 2019 như sau:
Nhìn vào kết quả học tập bảng 2.2 cho thấy học lực của học sinh khối 10 học kì 1
năm học 2018 - 2019 tại 3 Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Bạch Thông, Chợ
Đồn không có học sinh nào học lực giỏi. Tỷ lệ học sinh đạt học lực khá đạt trên 30%. Tỷ
lệ học sinh có học lực trung bình Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh là 26,5%; Trung tâm
GDTX - GDHN Bạch Thông là 50%; Trung tâm GDTX - GDHN Chợ Đồn là 39%, còn
lại là học lực yếu, không có học sinh nào học lực kém. Điều này cũng phần nào phản ánh
đúng với kết quả tuyển đầu vào của học sinh lớp 10 tại các Trung tâm.
Bảng 2.2. Kết quả học tập học kỳ I năm học 2018- 2019 của học sinh khối 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các trường THPT thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
Giỏi Khá Yếu Kém Học lực TB Trường Số lượng SL SL SL SL SL Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%) 0 Tỉ lệ (%) 42 50,6 22 26,5 19 22,9 Tỉ lệ (%) 0 GDTX-GDHN Tỉnh 83 0 0
46 0 0 16 34,8 23 50,0 7 15,2 0 0
61 0 0 20 32,8 24 39,3 17 27,9 0 0 GDTX - GDHN Bạch Thông GDTX - GDHN Chợ Đồn
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Là những chủ thể có xu hướng khẳng định tính độc lập trong tư duy, suy nghĩ và
hành động, nhiều học sinh ở Trung tâm đã bắt đầu ý thức được vị trí, vai trò của mình,
các em bắt đầu có định hướng về nghề nghiệp trong tương lai. Điều này lý giải vì sao,
hứng thú học tập đối với môn học cũng có sự thay đổi theo hướng chú trọng và tích
cực học những môn học liên quan trực tiếp đến kỳ thi THPT quốc gia, đặc biệt là những
môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình sẽ chọn.
Thực tế này đang đặt ra yêu cầu đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học các môn học gắn với kì thi THPT quốc gia, trong đó có môn GDCD ở các Trung
tâm GDTX - GDHN theo hướng nâng cao chất lượng và phát huy tính tích cực, sáng
tạo của người học. Trách nhiệm của giáo viên là bằng việc dạy học và chất lượng bài
giảng phải khơi gợi được niềm hứng thú của học sinh khi các em tiếp cận môn GDCD
ngay ở lớp 10. Điều này đã khách quan hóa tính cấp thiết cần sử dụng PPĐV trong dạy
học GDCD lớp 10 ở các Trung tâm GDTX - GDHN nói chung và trung tâm GDTX -
GDHN tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
* Khái quát về đặc điểm giáo viên dạy GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn
Giáo viên dạy môn GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn đa phần đều
được đào tạo đúng chuyên ngành từ các trường đại học lớn trong cả nước. Các giáo viên đều là
những người có tâm huyết với nghề, có trách nhiệm trong công tác giáo dục và đào tạo của
Trung tâm cũng như đối với sự nghiệp phát triển chung của nền giáo dục tỉnh Bắc Kạn.
Số lượng giáo viên dạy GDCD chính thức tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh
Bắc Kạn là 8 giáo viên có tuổi đời từ 34 đến 55 tuổi, có thâm niên công tác và có kinh
nghiệm giảng dạy. Tuy nhiên, do điều kiện cũng như đặc thù đào tạo nghề nghiệp tại các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trung tâm nên giáo viên dạy môn GDCD ở đây hiện nay có: 1 giáo viên có trình độ cao cấp
lý luận; 1 giáo viên đang đi học cao học và 6 giáo viên có trình độ đại học.
Mặc dù, số lượng giáo viên dạy môn GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN
không nhiều, song giáo viên luôn ý thức được nhiệm vụ, vai trò, trách nhiệm của mình
trong công tác đào tạo của Trung tâm. Giáo viên luôn phấn đấu đạt các danh hiệu thi
đua, tham gia các kì thi giáo viên dạy giỏi do trường và tỉnh tổ chức.
Hàng năm, Trung tâm cũng đều cử giáo viên đi bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ để nâng cao chất lượng nghề nghiệp, nắm bắt được kịp thời những đổi mới trong
chương trình để có những điều chỉnh cho phù hợp đáp ứng yêu cầu của môn học, nâng
cao chất lượng dạy và học cho giáo viên và học sinh.
Giáo viên dạy GDCD ở các Trung tâm còn tích cực tham gia vào công tác tư
vấn nghề nghiệp cho người học ngoài công tác giảng dạy chuyên môn chính của mình.
Quá trình tư vấn, tiếp xúc với học sinh, giúp giáo viên dạy GDCD càng hiểu rõ hơn về
trách nhiệm nghề nghiệp cũng như thấy được sự ảnh hưởng của bản thân đến người
học. Vì thế, không chỉ rèn luyện nâng cao chất lượng chuyên môn giảng dạy, mà giáo
viên dạy GDCD còn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách người
thầy, tạo ra sự gần gũi, tin tưởng của người học đối với thầy cô.
Trên thực tế, muốn đem lại những giờ học lý thú, khơi gợi cho học sinh yêu
thích đối với môn học của mình, giáo viên dạy GDCD cần thường xuyên đổi mới PPDH
theo hướng tích cực, mạnh dạn sử dụng những PPDH mới để tạo nên sự thay đổi trong
đào tạo, đem lại cho học sinh một bầu không khí mới, dễ dàng tiếp thu và nâng cao
chất lượng học tập đối với môn học.
Tuy nhiên, tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, đối với các lớp bổ
túc văn hóa, mặt bằng nhận thức của học sinh thấp hơn so với các trường THPT trên
địa bàn tỉnh nên giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong dạy học môn GDCD.
Nhiều em vẫn coi đó là môn học không quan trọng nên thờ ơ, lơ là không chú tâm học
khiến kết quả của môn học chưa cao. Điều này cũng đã tác động tới tâm lý ngại đổi
mới của một số giáo viên dạy môn GDCD tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
Bởi vậy, công tác cán bộ của các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn và bản thân
các giáo viên dạy GDCD ở các Trung tâm này cần có những thay đổi để đáp ứng xu
hướng đổi mới giáo dục của nước ta hiện nay.
2.1.2. Việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trung tâm GDTX
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- GDHN tỉnh Bắc Kạn
Để tìm hiểu thực trạng sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD chương trình
lớp 10 ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, tôi đã tiến hành điều tra xã hội
học đối với 190 học sinh khối 10 và 10 giáo viên, cán bộ quản lý (4 giáo viên tham
gia giảng dạy GDCD lớp 10, 3 tổ trưởng chuyên môn và 3 cán bộ quản lý ở 3 trung
tâm GDTX - GDHN huyện Bạch THông, trung tâm GDTX - GDHN huyện Chợ Đồn,
trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn) trong năm học 2018- 2019, kết quả thu được
như sau:
Kết quả khảo sát đối với giáo viên và cán bộ quản lý.
Một là, nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về sự cần thiết khi sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Bảng 2.3. Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về sự cần thiết khi sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Mức độ
Đối tượng khảo sát Cần thiết Số lượng Rất cần thiết Ít cần thiết
1. Giáo viên 4 Không cần thiết SL % SL % SL % SL % 0 3 75 35 0 1 0 0
2. Cán bộ quản lý 6 5 83,3 1 16,7 0 0 0 0
100 83.3 75 80
0
60 35 40 16.7 20 0 0 0 0
Rất cần thiết
Cần thiết
Ít cần thiết
Không cần thiết
Giáo viên Cán bộ quản lý
Sơ đồ 2.1. Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về sự cần thiết khi sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Nhìn vào bảng 2.3 cho thấy tuyệt đại đa số giáo viên và CBQL được hỏi đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khẳng định mức độ cần thiết và rất cần thiết của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn. Điều này chứng tỏ, sự mong
muốn và kì vọng của cả giáo viên và CBQL vào việc đổi mới PPDH để nhằm nâng cao
chất lượng học tập môn GDCD tại các Trung tâm hiện nay.
Hai là, mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học GDCD lớp 10 tại các Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Tìm hiểu về mức độ sử dụng PPĐV của giáo viên các Trung tâm GDTX -
GDHN tỉnh Bắc Kạn trong dạy môn GDCD ở lớp 10, chúng tôi tiến hành khảo sát và
kết quả thu được như sau:
Qua kết quả thu được ở bảng 2.4 và 2.5, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng PPĐV
trong dạy học môn GDCD tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn đều chưa thường
xuyên so với các PPDH khác như: đàm thoại, thảo luận nhóm hay thuyết trình.
Cụ thể: có 50% số giáo viên được hỏi thừa nhận rằng, đôi khi sử dụng PPĐV
trong dạy học môn GDCD ở lớp 10; còn 50% còn lại khẳng định chưa sử dụng PPĐV
vào dạy ở chương trình lớp 10 môn GDCD và không có giáo viên nào sử dụng PPĐV
một cách thường xuyên trong dạy học môn GDCD ở lớp 10. Khi so sánh với các
phương pháp dạy học khác, cho thấy phần lớn giáo viên vẫn thường xuyên sử dụng các
phương pháp dạy học quen thuộc như: thuyết trình, đàm thoại và thảo luận nhóm (với
100% ý kiến được hỏi).
Bảng 2.4. Đánh giá của giáo viên về mức độ sử dụng PPĐV và các PPDH khác
trong dạy học GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
TT Phương pháp
Thuyết trình
Thảo luận nhóm
1 2 Đàm thoại 3 Trực quan 4 Nêu vấn đề 5 7 Đóng vai 8 Dự án 9 Tình huống Thường xuyên Tỷ lệ % SL 100 4 100 4 0 0 25 1 100 4 0 0 0 0 50 2 Các mức độ Đôi khi SL Tỷ lệ % 0 0 4 3 0 2 0 2 0 0 100 75 0 50 0 50 Chưa bao giờ SL 0 0 0 0 0 2 0 0 Tỷ lệ % 0 0 0 0 0 50 0 0
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 2.5. Đánh giá của CBQL về mức độ giáo viên sử dụng PPĐV và các PPDH
khác trong dạy học GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Các mức độ Tổng TT Phương pháp Thường xuyên Đôi khi Chưa bao giờ số SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ %
6 6 1 Thuyết trình 100 0 0 0 0
6 6 2 Đàm thoại 100 0 0 0 0
6 0 3 Trực quan 0 6 100 0 0
6 1 4 Nêu vấn đề 16,7 5 83,3 0 0
6 6 5 Thảo luận nhóm 100 0 0 0 0
6 0 7 Đóng vai 0 4 2 66,7 33,3
6 0 8 Dự án 0 0 0 0 0
6 2 9 Tình huống 33,3 4 66,7 0 0
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Đối với CBQL khi được hỏi, họ cũng có những nhận xét giống như giáo viên về
mức độ thường xuyên sử dụng các PPDH đối với môn GDCD lớp 10 tại các Trung
tâm. Qua trao đổi, phỏng vấn trực tiếp với giáo viên về lý do tại sao họ ít sử dụng thậm
chí không sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX
- GDHN. Đa phần giáo viên đều nói: do tính đặc thù của học sinh đang học tại Trung
tâm là người dân tộc thiểu số, không bạo dạn, ngại bộc lộ trước đám đông nên rất khó
khăn để thực hiện PPĐV trong dạy học. Thường giáo viên chỉ sử dụng PPĐV vào dạy
phần “Công dân với pháp luật” ở lớp 12, khi đó học sinh đã trưởng thành hơn, các em
có nhiều sự tự tin, mạnh bạo hơn để tham gia vào các “vai diễn” mà giáo viên giao cho
gắn với các chủ đề học tập cụ thể.
Ngoài ra, giáo viên và cả các tổ trưởng chuyên môn đều cho rằng, việc sử dụng
PPĐV trong dạy học GDCD tốn nhiều thời gian và khó thực hiện trên lớp do số lượng
học sinh đông. Muốn thực hiện PPĐV, giáo viên cần phải có sự lựa chọn chủ đề, chuẩn
bị về kịch bản, đạo cụ, hóa trang… Vì thế, giáo viên có những e ngại trong việc sử
dụng PPDH này mà vẫn chỉ tập trung vào các PPDH không mất nhiều công sức để đầu
tư soạn giảng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Điều này cũng lý giải vì sao nhiều năm qua, thực tiễn đổi mới, nâng cao chất
lượng dạy học GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn chưa
tạo được sự thay đổi căn bản, toàn diện về ý thức, tính tích cực của học sinh khi tiếp cận
môn học, nhất là kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ khi thực hành trong thực tiễn.
Do đó, nhìn một cách tổng thể, thái độ học tập thụ động, thiếu tích cực đối với
môn học GDCD lớp 10 ở một bộ phận lớn học sinh còn tồn tại khá phổ biến ở hầu hết
các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn. Hạn chế này, nếu không được khắc phục
bằng việc giáo viên phải là những người trực tiếp đổi mới PPDH thì mục tiêu đào tạo
theo hướng tiếp cận năng lực người học của các Trung tâm này không chỉ đứng trước
nhiều thách thức mà còn khó có thể được hiện thực hóa trong các năm học.
Ba là, về mục đích sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
Bảng 2.6. Đánh giá của giáo viên về mục đích sử dụng PPĐV trong dạy học GDCD
lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Mục đích sử dụng Số lượng Tỷ lệ %
1. Lĩnh hội tri thức mới 3/4 83,3
2. Ôn tập, củng cố kiến thức và khái quát, hệ thống 2/4 50
hóa kiến thức
3. Vận dụng kiến thức vào thực tiễn 4/4 100
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Căn cứ kết quả bảng 2.6, về cơ bản, giáo viên đã nhận thức đúng đắn về mục
đích sử dụng PPĐV hướng đến các giá trị: Lĩnh hội tri thức mới với 3/4 ý kiến được
hỏi (chiếm tỷ lệ 83,3%); Ôn tập, củng cố kiến thức và khái quát, hệ thống hóa kiến thức
với 2/2 ý kiến được hỏi (chiếm 50%); Vận dụng kiến thức vào thực tiễn với 4/4 ý kiến
được hỏi (chiếm 100%). Có thể thấy, phần lớn ý kiến của giáo viên được hỏi về đánh
giá mục đích của việc sử dụng PPĐV đối với chương trình GDCD lớp 10 đều tập trung
nhấn mạnh đến việc trang bị cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức của môn học
vào thực tiễn (4/3 ý kiến được hỏi chiếm tỷ lệ 100%). Điều này chứng tỏ, nếu giáo viên
có khả năng tổ chức cho học sinh tham gia đóng vai trong dạy học GDCD ở lớp 10 sẽ
đáp ứng được yêu cầu đổi mới PPDH, tạo chuyển biến căn bản trong nhận thức và
trong việc hình thành, phát triển năng lực của người học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bốn là, những khó khăn khi giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có những khó khăn chủ yếu cả về mặt khách
quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng đến việc giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD lớp 10 tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn. Mức độ đánh giá của
giáo viên và CBQL về những khó khăn của bản thân giáo viên dạy GDCD khi sử dụng
PPĐV có sự khác nhau, biểu hiện cụ thể qua bảng dưới đây:
Bảng 2.7. Đánh giá của GV và CBQL về những khó khăn khi giáo viên
sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
CBQL Giáo viên
Những khó khăn khi sử dụng PPĐV Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượng % lượng %
6/6 100 4/4 100 1 Thói quen sử dụng các PPDH truyền thống
5/6 83,3 4/4 100 2 Kĩ năng thực hành của học sinh còn hạn chế
4/6 66,7 2/4 50 3 Số lượng học sinh quá đông trong một lớp
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu 3/6 50 3/4 75 4 học tập
Do năng lực của giáo viên còn hạn chế trong
5 tổ chức và hướng dẫn học sinh xây dựng kịch 4/6 66,7 3/4 75
bản và diễn xuất
Chưa có quy trình tổ chức trò chơi khoa học, 6 3/6 50 2/4 50 hợp lí
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Nhìn vào bảng 2.7, những khó khăn chủ quan mà giáo viên gặp phải khi sử
dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 có thể kể đến như: thói quen sử dụng
PPDH truyền thống; kĩ năng thực hành của học sinh còn hạn chế; năng lực của giáo
viên còn hạn chế trong tổ chức và hướng dẫn học sinh xây dựng kịch bản và diễn
xuất; chưa có quy trình tổ chức trò chơi khoa học hợp lý. Những khó khăn khách
quan được xác định như: cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, số
lượng lớp học đông…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Kết quả khảo sát cũng cho thấy cả giáo viên dạy GDCD và CBQL tại các Trung
tâm đều thừa nhận đây là những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi sử dụng PPĐV
trong dạy học môn GDCD lớp 10. Trong đó, việc giáo viên có thói quen sử dụng PPDH
truyền thống; sự hạn chế trong năng lực thực hành của học sinh tại các Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn được đánh giá là những khó khăn lớn nhất gây cản trở
cho quá trình thực hiện PPĐV trong dạy học môn GDCD. Trên thực tế, giáo viên vẫn
theo lối mòn của việc sử dụng những PPDH truyền thống như thuyết trình, đàm thoại,
nêu vấn đề kết hợp với một số PPDH tích cực như thảo luận nhóm… để soạn và giảng
môn GDCD tại các Trung tâm, ít có sự đầu tư thay đổi sử dụng thêm nhiều PPDH tích
cực do tâm lý ngại đổi mới hoạt động dạy và học của chính một số giáo viên dạy môn
học này. Mặt khác, cũng bởi học sinh theo học văn hóa tại các Trung tâm chưa thật chú
tâm học tập, năng lực nhận thức thấp hơn so với mặt bằng học tập của các trường THPT
trong tỉnh. Đây chính là những cản trở khiến giáo viên chưa thật sự chú trọng đến việc
sử dụng thường xuyên PPĐV vào dạy học môn GDCD nói chung và chương trình
GDCD lớp 10 nói riêng tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn thời gian qua.
Năm là, kỹ năng vận dụng tình huống, tổ chức trò chơi đóng vai
Qua nghiên cứu thực tế, trao đổi với các giáo viên chuyên môn ở Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, GDTX - GDHN Bạch Thông, GDTX-GDHN Chợ Đồn
trực tiếp dạy học GDCD, có thể khái quát một số hạn chế trong kỹ năng tổ chức trò
chơi đóng vai như sau:
Về thao tác lựa chọn chủ đề và tình huống: Việc giáo viên lựa chọn chủ đề và
tình huống đôi khi chưa mang tính điển hình, có những tình huống chưa chứa đựng
tính kịch tính để kích thích tư duy, tạo hứng thú cho người học; có những tình huống
gắn với thực tế nhưng lại quá đơn điệu, không làm nổi bật được kiến thức của bài học
cần chuyển tải; sự lặp đi lặp lại một tình huống đóng vai giữa các nhóm cũng gây ra
sự nhàm chán. Việc lựa chọn chủ đề và tình huống là khâu then chốt quyết định sự
thành bại của PPĐV. Nếu tình huống đưa ra không hay, quá dễ hoặc quá khó không
phù hợp với trình độ học sinh sẽ không khích lệ thái độ, hành vi của học sinh một
cách tự giác.
Về phân tích tình huống và xây dựng kịch bản: từ các vấn đề nêu ra trong tình huống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giáo viên nên phân tích để học sinh xung phong hoặc tự phân công đảm nhiệm các vai diễn.
Nhưng nhiều giáo viên đã chủ động phân vai diễn cho học sinh điều này làm cho học sinh
không chủ động và chưa chắc đã phát huy được năng lực diễn của bản thân. Giáo viên cũng
không nên dựng kịch bản cho học sinh mà chỉ nên đưa chủ đề, tình huống gợi ý để học sinh
tự xây dựng kịch bản sẽ phát huy được năng lực sáng tạo của học sinh.
Về báo cáo thực hành: Sau khi học sinh các nhóm thảo luận về công tác chuẩn bị
và phân vai, các nhóm tiến hành đóng vai. Giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, về nội
dung đóng vai của nhóm bạn và kết luận. Thao tác này, được giáo viên sử dụng lặp đi lặp
lại khá đơn điệu và nhàm chán, theo đó, PPĐV trong giải quyết tình huống cũng chưa được
giáo viên định hướng trong cách thức báo cáo giải quyết tình huống của học sinh. Nên tính
hiệu quả mà PPDH này mang lại còn chưa được như mong muốn.
Về việc giáo viên nhận xét, đánh giá và tổng kết: Khâu này tuy đã được giáo
viên chú trọng nhưng hiệu quả chưa cao, do phần lớn giáo viên chưa có tư duy mở khi
đưa ra những kết luận có tính khái quát và định hướng nên nhiều khi giáo viên đưa ra
kết luận giải quyết tình huống còn mang tính khiên cưỡng, áp đặt với nội dung môn
học mà chưa có chuyển biến khéo léo giữa việc vận dụng kiến thức của môn GDCD
vào xử lý các tình huống trong thực tiễn đời sống một cách hài hòa.
Kết quả khảo sát đối với học sinh
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với 190 em học sinh lớp 10 tại 3 Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Bạch Thông và Chợ Đồn, để tìm hiểu về thực trạng
sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 tại các Trung tâm này.
Bảng 2.8. Đánh giá của học sinh về mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD của giáo viên tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Các mức độ
Đôi khi Chưa bao giờ Phương pháp Rất thường xuyên Thường xuyên
SL SL SL SL Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ %
0 0 0 0 106/190 55,8 84/190 44,2 Sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Rất thường xuyên 0%
Thường xuyên 0%
Chưa bao giờ 44%
Đôi khi 56%
Sơ đồ 2.2. Đánh giá của học sinh về mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD của giáo viên tại Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Căn cứ kết quả khảo sát bảng 2.8 cũng cho thấy học sinh tại các Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn đều khẳng định giáo viên không thường xuyên sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD. Mức độ sử dụng PPDH này chỉ được thực hiện rất
ít và ở một số lớp, và vẫn có những lớp học sinh chưa được học với PPDH này lần nào
đối với môn GDCD. Kết quả có 84/190 số học sinh được hỏi chiếm 44,2% trả lời chưa
bao giờ giáo viên sử dụng PPĐV trong các tiết học môn GDCD.
Qua tìm hiểu cụ thể, chỉ có 3 lớp trên 6 lớp 10 chúng tôi khảo sát là giáo viên
có sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD. Chúng tôi đã tiến hành đặt câu hỏi để
tìm hiểu về mức độ tích cực của học sinh đối với môn học ở những lớp mà giáo viên
có sử dụng PPĐV (với số lượng khảo sát là 106 học sinh)
Căn cứ vào kết quả khảo sát bảng 2.9, chúng tôi nhận thấy khi giáo viên sử dụng
PPĐV đã có sự tham gia với những mức độ tích cực khác nhau của nhiều học sinh
trong lớp vào các hoạt động học tập từ việc chọn vai, đóng vai, diễn xuất, nêu ý kiến,
thảo luận, trình bày ý kiến của bản thân với bạn bè và với giáo viên… Mặc dù, trong
quá trình giáo viên tổ chức dạy học bằng PPĐV, số lượng các em có mức độ tham gia
rất tích cực và tích cực ở các biểu hiện chưa nhiều như ở các nội dung: nêu và trao đổi
ý kiến với giáo viên; trình bày quan điểm của mình trước lớp… Đây chính là những
hạn chế chung của học sinh trong các tiết học, các em thường rụt rè, không dám bày tỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quan điểm của mình, tâm lý sợ sai, ngại nói trước đám đông… Bởi vậy, khi giáo viên
sử dụng các PPDH tích cực như PPĐV sẽ dần rèn luyện cho học sinh các kỹ năng giao
tiếp, mạnh dạn nêu ra quan điểm, chính kiến của mình vừa để giúp học sinh hiểu sâu sắc
hơn vấn đề học tập, vừa tạo cho lớp học không khí cởi mở, môn học trở nên hấp dẫn với
người học.
Bảng 2.9. Mức độ tích cực của học sinh đối với môn GDCD khi giáo viên
sử dụng PPĐV trong dạy học
Các mức độ
Không Rất tích cực Tích cực Ít tích cực STT Nội dung tích cực
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ SL SL SL SL % % % %
Tham gia tình 15/ 15/ 56/ 20/ 1 huống, tham gia 14,2 14,2 52,8 18,9 106 106 106 106 đóng vai, diễn xuất
10/ 38/ 30/ 28/ 2 Tham gia thảo luận 35,8 28,3 26,4 9,4 106 106 106 106
Nêu và trao đổi ý 10/ 22/ 42/ 32/ 9,4 3 20,8 39,6 30,2 kiến với bạn 106 106 106 106
Nêu và trao đổi ý 8/ 10/ 56/ 32/ 7,5 4 9,4 52,8 30,2 kiến với giáo viên 106 106 106 106
Chia sẻ kinh nghiệm 15/ 15/ 42/ 34/ 5 14,2 14,2 39,6 32,1 với bạn bè 106 106 106 106
Trình bày quan điểm 10/ 22/ 20/ 54/ 6 9,4 20,8 18,9 50,9 của mình trước lớp 106 106 106 106
Đóng góp ý kiến xây 15/ 15/ 56/ 20/ 7 14,2 14,2 52,8 18,9 dựng bài 106 106 106 106
Hoàn thành các nội 15/ 15/ 42/ 34/ 8 dung do giáo viên 14,2 14,2 39,6 32,1 106 106 106 106 giao cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Tìm hiểu về mức độ hứng thú học tập môn GDCD của học sinh ở các lớp được
giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học. Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.10. Mức độ hứng thú học tập môn GDCD của học sinh
khi giáo viên sử dụng PPĐV vào dạy học
STT Mức độ học tập Số lượng Tỷ lệ %
1 Rất hứng thú 38/106 35,8
2 Hứng thú 46/106 43,4
3 Bình thường 14/106 13,2
4 Ít hứng thú 6/106 5,7
5 Không hứng thú 2/106 1,9
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Kết quả bảng 2.10 đã nói lên mức độ hứng thú của học sinh đối với môn GDCD
rất cao khi giáo viên sử dụng PPĐV. Có tới 38/106 chiếm 35,8 % ý kiến học sinh được
hỏi cho rằng rất hứng thú với môn học, có 46/106 chiếm 43,4% ý kiến học sinh thừa
nhận hứng thú và chỉ có 2/106 chiếm 1,9% ý kiến học sinh được hỏi khẳng định không
hứng thú với môn học. Điều này đã nói lên tính hiệu quả cao của việc giáo viên sử dụng
PPĐV vào dạy học môn GDCD lớp 10, nó đã khắc phục được tâm lý chán nản, ngại
học, ngại nghe giảng của học sinh khi giáo viên chỉ chú trọng giảng lý thuyết mà ít cho
học sinh thực hành.
Tuy nhiên, giáo viên muốn đạt được kết quả dạy học hiệu quả thì không thể chỉ sử
dụng một phương pháp dạy học mà phải có sự kết hợp giữa nhiều PPDH với nhau, căn cứ
vào nội dung bài giảng để lựa chọn PPDH nào là phù hợp, mang tính chủ đạo nhằm đem
lại hứng thú cho người học.
2.1.3. Đánh giá thực trạng sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung
tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
* Về phía giáo viên
- PPĐV đã được giáo viên ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn lựa chọn sử
dụng trong dạy học môn GDCD và mang lại cho học sinh những hứng thú nhất định đối
với môn học. Điều này cho thấy, việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực, tăng cường kết
hợp giữa dạy lý thuyết với thực hành sẽ làm cho môn học đạt được hiệu quả cao, chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lượng môn học vì thế cũng được thay đổi.
- Tuy nhiên, giáo viên của Trung tân, phần lớn vẫn sử dụng các PPDH truyền thống
như: thuyết trình, đàm thoại kết hợp với thảo luận nhóm… chưa có nhiều giáo viên sử
dụng PPĐV trong dạy học GDCD. Nguyên nhân, do tâm lý ngại đổi mới PPDH của một
số giáo viên khi phải có những chuẩn bị về thời gian, công sức cho một phương pháp dạy
học mới.
- Số giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD ở Trung tâm còn chưa
đúng quy trình. Chủ đề và tình huống giả định đưa ra còn đơn điệu, chưa tạo cho học sinh
phát huy năng lực sáng tạo.
- Giáo viên vẫn còn gợi ý về mặt kịch bản cho học sinh; thời gian cho học sinh
chuẩn bị để nhận vai, đóng vai và diễn xuất còn chưa đảm bảo. Đạo phụ cũng chưa được
chú trọng nên vai diễn chưa hấp dẫn nhiều đối với học sinh trong lớp.
- Trong quá trình tổ chức, giáo viên vẫn chưa bao quát lớp, tình trạng học sinh vẫn
nhốn nháo, việc chuyển tiếp giữa phần đóng kịch và phần dạy tiếp bài của giáo viên còn
lúng túng, có khi không đảm bảo về thời gian (hết tiết mà bài học vẫn chưa kết thúc).
- Việc nhận xét của giáo viên cho các nhóm diễn còn sơ sài, chưa lồng ghép được
các nội dung giáo dục về kiến thức của môn học, các kỹ năng, thái độ cần trang bị cho học
sinh qua vai diễn của mình.
Sở dĩ còn có những hạn chế trên đây, là do giáo viên ít sử dụng PPĐV trong dạy
học môn GDCD ở lớp 10 nên kỹ năng tổ chức dạy học còn chưa đảm bảo đúng quy trình,
kết quả đạt được chưa đáp ứng mong muốn mà giáo viên đưa ra.
* Về phía học sinh
- Bên cạnh những học sinh tích cực tham gia vào các nội dung học tập mà giáo viên
triển khai khi thực hiện PPĐV, vẫn còn nhiều học sinh thờ ơ, không tích cực tham gia,
thậm chí không tham gia.
- Kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ của học sinh lớp 10 ở trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn chưa được phát huy ở mức độ cao. Nhiều học sinh là người dân tộc, bản tính
rụt rè, ngại va chạm, sống thu mình, ít chia sẻ nên rất ngại ngùng khi tham gia vào các hoạt
động chung của lớp trong giờ học mà giáo viên sử dụng PPĐV. Khiến cho giáo viên gặp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khó khăn khi tổ chức dạy học bằng PPĐV.
- Đa số học sinh tham gia trò chơi đóng vai chỉ mới ở mức độ hình thức, chưa
thật sự đi sâu, chưa thật sự trở thành một phần quan trọng trong hoạt động học của các
em. Do đó, học sinh tham gia đóng vai chưa thật sự tích cực. Khi tham gia đóng vai chỉ
có số ít học sinh làm việc thật sự còn lại không ít học sinh thường ngồi chơi hoặc tham
gia với thái độ hời hợt.
Thực tế dạy học môn GDCD hiện nay cho thấy, PPDH chủ yếu vẫn là truyền
thụ một chiều, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Với PPDH như vậy sẽ không đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ của môn học và làm
giảm sút vị trí môn học, không đáp ứng đòi hỏi về đào tạo con người lao động mới phát
triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu của xã hội và thời đại. Đây là vấn đề cần được
quan tâm và khắc phục thỏa đáng bằng việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học, sử dụng ngày càng có hiệu qủa đối với các PPDH mới tích cực như PPĐV
trong dạy học môn GDCD.
2.2. Đề xuất quy trình thực hiện việc sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
2.2.1. Một số nguyên tắc đảm bảo khi xây dựng quy trình sử dụng PPĐV trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trung tâm GDTX- GDHN
tỉnh Bắc Kạn
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống.
Quá trình dạy và học luôn gắn kết với nhau trong một chỉnh thể nhất định. Khi
sử dụng bất cứ PPDH nào giáo viên cùng cần phải đảm bảo chú trọng đạt được các
mục tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ của quá trình dạy học. Vì vậy, khi xây
dựng quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với
đạo đức”, giáo viên cần phải có sự gắn kết chặt chẽ, logic giữa các bước thực hiện và
nội dung thực hiện. Đảm bảo các đơn vị kiến thức không có sự chồng lấn lên nhau Vì
thế, giáo viên cần phải chú ý khi xây dựng quy trình, các bước phải có sự gắn kết với
nhau tạo thành chỉnh thể nhằm phát huy tính tích cực của người học.
Trong đó, giáo viên khi sử dụng PPĐV phải xác định được các đơn vị kiến thức
cần giảng, lựa chọn nội dung để xây dựng chủ đề và thiết kế tình huống cho phù hợp
cả về nội dung tri thức, cả về thời gian thực hiện đảm bảo sự cân đối cho 1 tiết giảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trên lớp mà không phá vỡ tính logic, hệ thống của bài học.
Đây là nguyên tắc cơ bản bậc nhất khi thiết kế quy trình sử dụng PPĐV trong
dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức”, nó tạo ra sự thống nhất, cân
đối, hài hòa, toàn vẹn của quá trình dạy học.
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn.
Xây dựng quy trình của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
phải dựa trên điều kiện thực tiễn của Trung tâm GDTX - GDHN, phù hợp với nội dung
chương trình môn học GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức”, phù hợp với các
điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
Khi sử dụng PPDH này, chủ đề, tình huống được giáo viên lựa chọn phải mang
tính điển hình, gắn với thực tiễn của đời sống mà học sinh có thể bắt gặp, truyền tải nội
dung tri thức, mang ý nghĩa giáo dục của môn học đến học sinh, những vẫn tạo ra cho
học sinh tính hứng thú khi tham gia học tập.
Đồng thời, nó còn phải phù với năng lực chuyên môn của giáo viên có khả năng
để thực hiện các nội dung, yêu cầu của các phương pháp dạy học đó hay không.
Ngoài ra, nó còn phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của
học sinh Trung tâm GDTX - GDHN, đảm bảo tính vừa sức đối với các em. Khi sử
dụng PPĐV vào dạy học GDCD phải mang lại chất lượng dạy và học tốt hơn cho
môn học.
Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả.
Khi xây dựng quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần
“công dân với đạo đức”, chúng ta cần phải đảm bảo tính hiệu quả, nghĩa là nó phải
được ứng dụng rộng rãi cho thầy cô và học sinh khi dạy và học môn GDCD ở các Trung
tâm GDTX - GDHN, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn học này.
Việc sử dụng PPĐV trong dạy học GDCD lớp 10 phải đảm bảo học sinh lĩnh
hội được tri thức cơ bản của môn học, rèn luyện cho học sinh các kỹ năng giao tiếp, xử
lý tình huống, năng lực giải quyết vấn đề và có thái độ đúng đắn trong học tập. Học
sinh được tham gia vào xử lý các tình huống giả định, biết dụng nó vào trong thực tiễn
đời sống, phát huy được năng lực sáng, tư duy phản biện, khả năng hợp tác, làm việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhóm.
2.2.2. Quy trình thực hiện việc sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức” môn GDCD lớp 10 ở trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Quy trình thực hiện việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD là trình tự các
giai đoạn, các bước được sắp xếp có tổ chức, có mục đích và được thực hiện liên tiếp
giúp giáo viên tiến hành tốt việc vận dụng tình huống giả định để học sinh xử lý nhằm
đạt được mục tiêu học tập đề ra.
Từ việc nhận thức về sự cần thiết của vấn đề đã nêu, trên cơ sở kế thừa một số
các công trình nghiên cứu đi trước, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của ba Trung tâm
GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi tiến hành đề xuất quy trình sử dụng
PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 như sau:
2.2.2.1. Lập kế hoạch dạy học sử dụng PPĐV
Lập kế hoạch dạy học sử dụng PPĐV là công việc quan trọng, giữ vai trò định
hướng cho toàn bộ hoạt động của giáo viên và học sinh. Việc lập kế hoạch dạy học sử
dụng PPĐV có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ kết quả của bài học.
Khi sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đâọ đức” môn GDCD lớp
10 ở các Trung tâm GDTX- GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, giáo viên cần lập kế
hoạch cụ thể bao gồm:
- Dự kiến về thời gian: Tùy vào mục đích sử dụng, nội dung, tính chất của các
trò chơi đóng vai để phân bố thời gian sao cho hợp lí.
- Dự kiến về không gian: các trò chơi đóng vai được thực hiện trong lớp học
hoặc trong phòng học bộ môn.
- Dự kiến về phương tiện dạy học: Các đạo cụ; máy chiếu; tranh, ảnh… Tùy vào
từng tình huống giả định, giáo viên có thể phân công hoặc cho học sinh tự nhận vai
nhằm phát huy hết khả năng sáng tạo của học sinh.
- Dự kiến về các phương pháp có thể phối hợp: Thuyết trình, đàm thoại, kể
chuyện, thảo luận nhóm.
- Dự kiến những phát sinh ngoài ý muốn, ảnh hưởng đến tổ chức trò chơi đóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vai như: vai diễn không may phải thay đổi người cần có người đóng thế…
2.2.2.2. Xác định nội dung dạy học
Trong quá trình dạy học sử dụng PPĐV, việc xác định nội dung dạy học để lựa
chọn chủ đề và tình huống giả định cho học sinh xử lý là rất cần thiết. Đây là khâu
quan trọng để quy định nội dung hoạt động của thầy và trò trong tiến trình dạy học
bằng PPĐV.
Xác định nội dung dạy học là việc giáo viên phải lựa chọn được những đơn vị
kiến thức cơ bản của bài học để xây dựng các tình huống giả định sao cho phù hợp với
nội dung kiến thức cần chuyển tải đến người học.
Trong chương trình GDCD lớp 10 không phải bài nào cũng dạy học sử dụng đóng
vai và không phải sử dụng đóng vai cho cả một bài học. Khi sử dụng PPĐV trong dạy
học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức” ở Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn, giáo viên cần phải nghiên cứu, lựa chọn bài dạy, lựa chọn nội dung, tình
huống giả định để học sinh nhập vai một cách tự nguyện, tự nhiên nhất, giúp học sinh vừa
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo mà không nhàm chán, mệt mỏi.
Trong quá trình soạn bài, giáo viên cần lưu ý sử dụng những tình huống giả định
sát thực tế để tạo hứng thú, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Điều này tương đối
khó và không phải giáo viên dạy GDCD nào cũng làm tốt. Vì vậy, trước khi tổ chức
trò chơi đóng vai, giáo viên cần xác định trước nội dung tình huống giả định, căn cứ
vào chuẩn kiến thức, kỹ năng và nội dung bài học, lựa chọn nội dung để sử dụng PPĐV
cho phù hợp.
2.2.2.3. Thiết kế bài giảng
Thiết kế bài giảng hay còn gọi là soạn giáo án nhằm thực hiện các hoạt động dạy
và học theo các mục tiêu cụ thể của bài học. Việc thiết kế bài giảng theo PPĐV đối với
môn GDCD lớp 10, bao gồm 3 bước:
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học
Đối với môn GDCD lớp 10, việc xác định mục tiêu bài học giáo viên cần bám sát
vào nội dung trọng tâm trong sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10, kết hợp với
đặc điểm cụ thể của học sinh và điều kiện dạy học của nhà trường, năng lực tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dạy học của giáo viên dạy GDCD.
Mục tiêu của bài học được xem như là mô hình về kết quả mà học sinh cần đạt
được sau bài học, gồm các mục tiêu chuẩn về: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Giáo viên
cần phải xác định được đúng mục tiêu dạy học và giúp cho học sinh thực hiện đạt được
các mục tiêu đó, thì quá trình dạy học mới được coi là thành công.
Xác định được mục tiêu bài học, sẽ giúp giáo viên thiết kế được các hoạt động
dạy và học, xác định được PPDH, phương tiện để thực hiện mục tiêu bài học. Mặt khác,
khi xác định được mục tiêu bài học, người học cũng sẽ chủ động và có ý thức trong
việc xây dựng kế hoạch học tập, do đó việc học trở nên tích cực hơn.
Bước 2: Xác định PPDH, hình thức tổ chức, phương tiện và tài liệu
Việc lựa chọn PPDH, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học trong quy trình
thiết kế bài giảng môn GDCD là khâu rất quan trọng. Bởi thành công hay thất bại của
một giờ dạy chính là ở việc giáo viên có lựa chọn được PPDH phù hợp với nội dung
bài giảng đó hay không và phát huy được nó khi tiến hành giảng. Cho nên, căn cứ vào
kiến thức thực tế của từng nội dung bài giảng môn GDCD lớp 10 mà giáo viên sẽ lựa
chọn sử dụng PPDH, phương tiện hỗ trợ phù hợp. Khi xác định PPDH, giáo viên cần
lưu ý các vấn đề sau:
- PPDH được giáo viên lựa chọn để giảng dạy phải dựa trên cơ sở nội dung,
mục tiêu dạy học của bài giảng; đặc điểm của người học và năng lực của giáo viên.
Trong đó, mục tiêu về kiến thức giữ vai trò quan trọng, quyết định sự lựa chọn
PPDH cho phù hợp của giáo viên. Cấu trúc, nội dung chương trình GDCD lớp 10
đề cập tới hai nội dung chính: “Công nhân với việc hình thành thế giới, phương
pháp luận khoa học” và “Công dân với đạo đức” cung cấp cho học sinh những kiến
thức nền tảng để tham gia vào hoạt động xã hội. Do đó, tùy vào nội dung, kiến thức
từng bài cụ thể của chương trình GDCD lớp 10 mà giáo viên lựa chọn sử dụng
PPĐV kết hợp linh hoạt với các PPDH khác, sao cho đạt được mục tiêu bài học đã
đề ra về chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ.
- Hình thức tổ chức dạy học đối với phần “Công dân với đạo đức” lựa chọn theo
nhóm là phù hợp với PPĐV. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cá nhân và tổ chức thảo luận chung cả lớp.
- Cũng như các PPDH khác, khi giáo viên sử dụng PPĐV cho phần “Công dân
với đâọ đức” phương tiện dạy học nên đa dạng như máy tính, đèn chiếu, các trang phục,
đạo cụ hỗ trợ cho các vai diễn để tăng phần hấp dẫn cho nội dung thể hiện của học sinh
trong các tình huống giả định.
- Về tài liệu dạy học bao gồm Sách giáo khoa lớp 10 và các tài liệu tham khảo
khác như: sách giáo viên, các tài liệu phục vụ nghiên cứu chuyên môn, các tạp chí,
truyện văn học, báo, gương người tốt việc tốt, các clip, video…
Bước 3: Xác định các hoạt động dạy học theo quy trình dạy học bằng PPĐV
Hiện nay, với PPDH lấy người học làm trung tâm, giáo viên giữ vai trò là người
định hướng, còn học sinh sẽ trực tiếp tìm tòi, khám phá tri thức. Vì vậy, việc tiến hành
các hoạt động dạy học phải bao gồm nhiều hoạt động liên kết với nhau tạo thành một
chỉnh thể logic từ đầu tiết học cho đến cuối tiết học. Giống như việc sử dụng các PPDH
tích cực khác, đối với PPĐV, quy trình giờ học cũng bao gồm các bước sau đây:
Bước 1: Ổn định tổ chức lớp và kiểm tra bài cũ.
Việc ổn định lớp bằng lời nói hay cử chỉ thân thiện của giáo viên qua việc hỏi
sĩ số lớp, một vài câu chào hỏi sẽ tạo cho lớp học bầu không khí thoải mái, học sinh
cảm thấy hứng thú với giờ học ngay từ giây phút ban đầu.
Việc kiểm tra bài cũ cũng được giáo viên đưa ra với lời nói cởi mở để học sinh
không bị áp lực, thông qua đó, giáo viên có thể đánh giá được khả năng nắm bắt kiến
thức của học sinh đối với nội dung bài giảng trước đó, ý thức tự học của các em ở nhà,
từ đấy sẽ quyết định tổ chức giờ học theo hình thức nào để đạt hiệu quả cao hơn. Cho
nên, kiểm tra bài cũ còn là khâu giúp học sinh hiểu bài mới tốt hơn. Giáo viên có thể
tiến hành kiểm tra bài cũ ở mọi thời điểm trong quá trình diễn ra 1 tiết học trên lớp,
song tốt nhất nên kiểm tra ở đầu giờ học và đan xen trong quá trình học.
Bước 2: Giới thiệu bài mới.
Đây là bước quan trọng mục đích nhằm dẫn dắt học sinh đến với những tri thức
mới, tạo nên hứng thú cho học sinh khi bước vào bài học mới. Có nhiều cách để giáo
viên giới thiệu bài mới như: Nêu một tình huống có vấn đề liên quan đến kiến thức của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bài mới; kể một câu chuyện hoặc sử dụng 1 clip, chơi 1 trò chơi để dẫn dắt học sinh
vào bài học mới… Nói chung, GV sẽ phải căn cứ vào đối tượng học sinh, bài học và
cả nghiệp vụ sư phạm, kinh nghiệm dạy học, sự linh hoạt, sáng tạo của bản thân để giới
thiệu bài mới sao cho hấp dẫn nhất đối với học sinh. Thông thường giáo viên sử dụng
không quá 5 phút cho hoạt động này.
Bước 3: Dạy bài mới:
Thực chất của hoạt động dạy bài mới là giáo viên dẫn dắt học sinh tiến hành giải
quyết những nội dung của nhiệm vụ học tập đề ra. Đây là khâu quan trọng nhất có ý
nghĩa quyết định tới sự thành công của bài giảng. Do đó, giáo viên phải lựa chọn PPDH
và các phương tiện dạy học cho phù hợp để kích thích được tính sáng tạo của người
học. Bởi vì trong hoạt động này một khối lượng tri thức lớn của bài giảng được giáo
viên truyền đạt đến học sinh. Đó là tri thức cơ bản trọng tâm của bài. Dạy bài mới là
bước chiếm phần lớn thời gian của tiết học GDCD.
Bước 4: Luyện tập, củng cố:
Là bước diễn ra cuối cùng khi kết thúc mỗi bài giảng. Giáo viên phải khái quát
được toàn bộ nội dung bài học thành một hệ thống các đơn vị kiến thức móc xích với
nhau để học sinh nắm vững được nội dung cơ bản. Việc củng cố, luyện tập có thể được
giáo viên sử dụng qua việc cho học sinh làm bài tập, trả lời câu hỏi, câu đố vui, vẽ sơ
đồ, bảng biểu… nhằm kiểm tra, đánh giá nhận thức học tập của học sinh, giúp các em
hiểu sâu hơn kiến thức đã lĩnh hội trong giờ học.
Bước 5: Hướng dẫn học sinh học bài ở nhà và soạn bài cho tiết học sau.
Hoạt động này được tiến hành sau cùng của tiết học, giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh nội dung câu hỏi, bài tập, cách học bài, nghiên cứu tài liệu và chuẩn bị
bài học mới giúp các em một lần nữa củng cố thêm kiến thức đã được học, làm cho học
sinh ghi nhớ bài học lâu hơn và có hệ thống hơn.
2.2.2.4. Thực hiện bài giảng trên lớp
Thực hiện bài giảng trên lớp là sự thống nhất giữa hoạt động dạy và học của
giáo viên và học sinh. Giáo viên là người tổ chức, chịu trách nhiệm dẫn dắt người học
chiếm lĩnh tri thức mới. Còn học sinh là người thực hiện sự dẫn dắt đó bằng vai trò chủ
động, tích cực tham gia vào hoạt động dạy của giáo viên để nhằm lĩnh hội được tri thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mới của bài giảng.
Quy trình thực hiện bài giảng bằng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 có
thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
Thứ nhất, đối với nội dung bài học mà giáo viên giao nhiệm vụ học tập cho học
sinh từ tiết học trước. Quy trình thực hiện bài giảng gồm các bước như sau:
Bước 1: Giáo viên nêu tình huống giả định, giao nhiệm vụ đóng vai cho học sinh
Trước khi kết thúc tiết học của bài trước, giáo viên giao nhiệm vụ học tập về
nhà cho học sinh: nêu ra tình huống, chia nhóm, phân công vai diễn cho học sinh, xây
dựng kịch bản, luyện tập thể hiện các vai diễn. Học sinh chuẩn bị ở nhà.
Tình huống đưa ra và việc phân chia vai diễn cho các nhóm phải được giáo viên
lựa chọn kĩ càng, dựa vào kiến thức của bài giảng mới, năng lực của người học, dung
lượng thời gian để thực hiện, số lượng học sinh tham gia cho đảm bảo với thời lượng
của 1 tiết học.
Bước 2: Chuẩn bị đóng vai từ trước
Học sinh dựa trên tình huống và gợi ý của giáo viên để tìm tòi, phát hiện vấn đề
và xây dựng kịch bản; tiến hành phân công vai diễn, cùng nhau thảo luận đưa ra cách
diễn để xử lý tình huống cho phù hợp.
Bước 3: Học sinh tập luyện thể hiện kịch bản
Cá nhân hoặc nhóm học sinh căn cứ vào kịch bản đã xây dựng tổ chức luyện tập
để hóa thân vào các nhân vật, thể hiện khả năng diễn xuất nhằm giải quyết tốt các tình
huống nêu ra.
Bước 4: Thể hiện vai diễn và kịch bản trước lớp
Khi vào tiết học, các nhóm học sinh dựa trên sự luyện tập sẽ theo thứ tự được
phân công lần lượt lên thể hiện kịch bản, đóng vai cho giáo viên và các thành viên trong
lớp cùng quan sát.
Bước 5: Thảo luận, nhận xét, kết luận và rút ra bài học nhận thức
Sau khi các nhóm học sinh kết thúc phần diễn, giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh trong lớp cùng thảo luận, đưa ra ý kiến nhận xét cho từng tình huống, cách xử lý
tình huống và tìm ra thông điệp của bài học chứa đựng trong các vai diễn đó. Qua đó,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học sinh nhận thức sâu sắc hơn về kiến thức bài học mới.
Thứ hai, đối với bài học mà giáo viên không giao nhiệm vụ học tập từ trước,
đến tiết học mới giao nhiệm vụ cho học sinh, thì quy trình sẽ gồm các bước:
Bước 1: Căn cứ vào nội dung kiến thức của bài, giáo viên sẽ giới thiệu tình
huống/kịch bản cho học sinh. Chia nhóm và giao tình huống/kịch bản cho từng nhóm
để các em đóng vai theo nội dung giáo viên đã chuẩn bị. Giáo viên quy định rõ thời
gian chuẩn bị “kịch bản” và thời gian diễn xuất.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, phân công nhiệm vụ, vai diễn cho các thành viên.
Đối với hình thức này, vì chưa được chuẩn bị trước nên học sinh có thể lúng túng, mất
thời gian trong việc xử lý kịch bản và phân công vai diến. Bởi vậy, để đảm bảo thời
gian của tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh về kịch bản và cùng các em tham
gia lựa chọn, phân công các vai diễn, cách thể hiện....
Bước 3: Các nhóm được phân công lên đóng vai - thể hiện các vai diễn theo bối
cảnh và nội dung kịch bản.
Bước 4: Bàn luận, nhận xét, đánh giá. Kết thúc kịch bản, giáo viên tổ chức cho
các thành viên trong lớp cùng quan sát, thảo luận, đánh giá về các vai diễn họ được
xem, đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh luận hướng vào nội dung trọng tâm bài học,
không quá chú trọng vào năng lực thể hiện các vai diễn.
Bước 5: Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng. Trên cơ sở đánh giá nội
dung, ý nghĩa và năng lực thể hiện kịch bản, giáo viên định hướng để học sinh tự rút ra các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bài học về nhận thức và các kỹ năng để có thể ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Kết luận chương 2
Trên cơ sở khái quát về tình hình, đặc điểm giáo viên và học sinh các Trung tâm
GDTX - GDHN của tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã tiến hành phân tích thực trạng về việc
sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức” ở 3
Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Bạch Thông và Chợ Đồn. Qua đó, thấy được
giáo viên của các Trung tâm đã sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD và thu được
kết quả tốt. Nhưng mức độ giáo viên sử dụng PPĐV chưa thật phổ biến, không thường
xuyên, quy trình thực hiện chưa đảm bảo nên hiệu quả và chất lượng của môn GDCD
ở các Trung tâm này còn hạn chế.
Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của các trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng và đưa ra quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD lớp 10 bao gồm các giai đoạn với các bước cơ bản. Trong mỗi giai đoạn và ở
mỗi bước của quy trình đều thể hiện chi tiết bằng những hoạt động của giáo viên và
học sinh. Các bước được kết nối với nhau theo một trật tự lôgíc, thống nhất chặt chẽ.
Quy trình này đã phản ánh được vai trò tổ chức, điều khiển quá trình tham gia đóng vai
của giáo viên và vai trò chủ động tích cực chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Trong quy
trình này có sự kết hợp đan xen giữa các hình thức học và các PPDH tích cực để nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3
THỰC NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG HIỆU QUẢ
PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
- GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TỈNH BẮC KẠN
3.1. Thực nghiệm
3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm
3.1.1.1. Mục đích của thực nghiệm
Thực nghiệm được thực hiện nhằm kiểm tra tính đúng đắn, tính khả thi và
hiệu quả của việc sử dụng PPĐV trong dạy học trong môn GDCD lớp 10 ở các
Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Đồng thời, từ kết quả thực
nghiệm sẽ giúp tôi phát hiện các vấn đề đặt ra, từ đó tiếp tục điều chỉnh, bổ sung nhằm
hoàn thiện quy trình, điều kiện sử dụng PPĐV một cách khoa học và hợp lý theo hướng
nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn.
3.1.1.2. Giả thuyết thực nghiệm
Tác giả thực nghiệm việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
các trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn với hai nhóm đối chứng và
thực nghiệm, thì sẽ thu được kết quả như sau:
Ở lớp thực nghiệm, việc sử dụng PPĐV trong dạy học sẽ thu hút được sự chú ý
của học sinh, theo đó, tính tích cực, tự giác, tính sáng tạo của học sinh sẽ được phát
huy, một số học sinh vốn nhút nhát, ngại tư duy, ngại tranh luận cũng dần khắc phục
được hạn chế của mình. Học sinh tích cực tham gia đóng vai và thể hiện vai điễn của
mình; tự giác đưa ra nhận xét, đánh giá về các tình huống được xử lý, hiểu sâu sắc hơn
kiến thức của môn học.
Ở lớp đối chứng, do không sử dụng PPĐV mà giáo viên chủ yếu sử dụng phương
pháp thuyết trình nên học sinh thụ động trong tiếp nhận tri thức; không hình thành và
phát triển được ở học sinh kỹ năng giao tiếp, hợp tác, làm việc theo nhóm. Vì thế, việc
rèn luyện và phát triển năng lực của học sinh cũng không được chú trọng. Học sinh
không hứng thú với môn học, nảy sinh tâm lý chán nản, lười và không thích học môn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
GDCD nên kết quả môn học không cao.
3.1.1.3. Phương pháp thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm đảm bảo tính chính xác, khách quan, khoa học, tác giả
đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để khảo sát trình độ của học sinh, tính hiệu
quả của việc sử dụng PPDH của giáo viên ở 2 nhóm lớp đối chứng và thực nghiệm.
Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra và phương pháp
phân tích tổng hợp để phân tích kết quả thực nghiệm, so sánh đối chứng, đưa ra kết
luận trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
GDCD ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn trong những năm học tới.
3.1.1.4. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm và đối chứng
* Thời gian thực nghiệm: Học kỳ 2 năm học 2018 - 2019
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thực nghiệm (tháng 1- 2019)
+ Lựa chọn lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.
+ Khảo sát kết quả đầu vào của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
+ Nghiên cứu nội dung và lựa chọn đơn vị kiến thức thực nghiệm. Tiến hành thực
nghiệm trên cơ sở cùng một nội dung kiến thức cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
+ Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học sử dụng PPĐV.
- Giai đoạn 2: Tiến hành thực nghiệm (tháng 2 - 2019)
+ Tiến hành dạy học theo giáo án thực nghiệm.
+ Tiến hành dạy học không sử dụng trò chơi đóng vai.
- Giai đoạn 3: Đánh giá kết quả thực nghiệm (tháng 3 - 2019)
+ Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá.
+ Phân tích, xử lý kết quả thực nghiệm.
+ Rút ra kết luận cần thiết.
* Địa điểm thực nghiệm
Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm GDTX - GDHN Bạch
Thông, Trung tâm GDTX- GDHN Chợ Đồn
* Đối tượng thực nghiệm và đối chứng
Đối tượng thực nghiệm là học sinh khối 10 Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc
Kạn, Trung tâm GDTX - GDHN Bạch Thông, Trung tâm GDTX- GDHN Chợ Đồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm học 2018 - 2019, cụ thể:
Tên lớp STT Tên trường Tên lớp đối chứng thực nghiệm
1 TT GDTX - GDHN Bắc Kạn 10A 10B
2 TT GDTX - GDHN Bạch Thông 10A 10B
3 TT GDTX-GDHN Chợ Đồn 10A 10B
3.1.2. Nội dung thực nghiệm
3.1.2.1. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm
Chương trình GDCD lớp 10 ở học kỳ II gồm có 7 bài (từ bài 10 đến bài 16).
Chúng tôi lựa chọn nội dung thực nghiệm sử dụng PPĐV để dạy học ở các bài sau:
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học (tiết 2 theo phân phối chương
trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (tiết 1 theo phân phối
chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Bài 15. Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Chúng tôi không tiến hành thực nghiệm đối với những tiết học thực hành, ngoại
khóa, đọc thêm.
3.1.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm
Trong quá trình thiết kế giáo án sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10, chúng tôi có dựa vào sách giáo khoa, sách giáo viên
và chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ để làm rõ thêm mục tiêu cần đạt và trọng tâm
bài học. Giáo án của lớp thực nghiệm được thiết kế dựa trên các nguyên tắc: không làm
thay đổi chương trình, kế hoạch, nội dung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
tuân thủ các bước lên lớp và phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của Trung tâm.
Các yêu cầu cơ bản cần đảm bảo của giáo án thực nghiệm:
1. Về mục đích của bài học:
Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giáo viên học sinh được thực hành, rèn luyện
các kỹ năng giao tiếp, hợp tác, tư duy phản biện để tự mình chiếm lĩnh tri thức cơ bản
của nội dung bài học biến nó thành của mình, vận dụng được vào thực tiễn của bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thân để có khả năng xử lý tốt các tình huống xảy ra xung quanh mình.
2. Về phương pháp dạy học:
Phương pháp chủ đạo được giáo viên lựa chọn sử dụng là PPĐV. Ở một vài nội
dung bài dạy có kết hợp với một số phương pháp dạy học khác như nêu vấn đề, phương
pháp thảo luận nhóm, thuyết trình, đàm thoại. Theo đó, hoạt động của giáo viên được
tiến hành theo tuần tự các bước.
3. Chuẩn bị:
Giáo viên căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và nội dung bài học để sử
dụng PPĐV cho phù hợp. Nêu chủ đề và tình huống giả định để học sinh tiếp nhận và
xử lý theo nội dung kiến thức của bài học. Học sinh tiếp nhận nhiệm vụ, chủ đề/kịch
bản và tiến hành chia nhóm, xây dựng kịch bản, phân công vai diễn.
Khi lựa chọn chủ đề và xây dựng tình huống, chúng tôi cũng linh hoạt trong việc
lựa chọn các chủ đề, tình huống sát với thực tiễn của học sinh để tránh sự nhàm chán,
đơn điệu, hay quá khó cho các em nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và
đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh ở các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn.
Trong một tiết giảng, không phải toàn bộ thời gian chúng tôi dành cho việc sử
dụng PPĐV mà chúng tôi chỉ sử dụng PPĐV ở những nội dung kiến thức trọng tâm, lý
thú, làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết, học sinh có thể hóa mình vào các vai diễn để
thực hiện ý đồ sư phạm của giáo viên. Tùy thuộc vào nội dung bài học mà chúng tôi
lựa chọn tình huống cho phù hợp với khả năng diễn xuất của học sinh. Ngoài ra, trong
một tiết học, chúng tôi còn kết hợp các phương pháp dạy học khác như đàm thoại, thảo
luận nhóm và thuyết trình những nội dung khó.
4. Thực hiện nội dung:
Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, giáo viên tiến hành tổ chức cho học
sinh đóng vai, diễn xuất các vai diễn theo kịch bản mà các em đã xây dựng; đưa ra nhận
xét, đánh giá sau khi kết thúc diễn xuất để rút ra nội dung bài học.
Khi thiết kế giáo án sử dụng PPĐV trong dạy học, chúng tôi phải tuân thủ theo
các bước cơ bản:
Bước 1: Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của bài học bao gồm các chuẩn về nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dung tri thức, kỹ năng và thái độ.
Bước 2: Phân bố thời lượng các tiết và trọng tâm của bài học.
Bước 3: Xác định hình thức tổ chức dạy học và phương pháp dạy học.
Bước 4: Xác định tài liệu học tập và phương tiện dạy học.
Bước 5: Xây dựng tiến trình bài học.
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 1 ( Xem Phụ lục 6)
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2 ( Xem Phụ lục 7)
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 3 ( Xem Phụ lục 8)
3.1.2.3. Tiến hành dạy thực nghiệm
* Các bước tiến hành thực nghiệm:
Để tạo tính khoa học, chính xác cho việc đánh giá, chúng tôi đã khảo sát ở nhiều
phương diện.
Về phía hoạt động của giáo viên gồm có quan sát, phỏng vấn.
Về phía hoạt động của học sinh gồm có làm bài kiểm tra, bài tập ở nhà, bài tập
nhóm, hoạt động nhóm, kết quả bài kiểm tra học kì.
Ngoài ra, chúng tôi còn phỏng vấn, lấy ý kiến của các giáo viên dạy GDCD, cán
bộ quản lý là tổ trưởng chuyên môn và khảo sát ý kiến của học sinh lớp thực nghiệm
về việc sử dụng PPĐV.
Để tiến hành dạy thực nghiệm, chúng tôi tiến hành xin phép Ban Giám đốc
Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, trao đổi với tổ bộ môn về dự định thực
nghiệm của mình. Sau đó, tiến hành dạy thực nghiệm theo thời khóa biểu đã được sắp
xếp. Ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được dạy cùng một nội dung bài học. Giờ
dạy của lớp đối chứng tiến hành dạy trước, giờ dạy lớp thực nghiệm dạy sau, có mời
các thầy cô giáo trong tổ bộ môn đi dự để cùng nhận xét, đánh giá.
* Kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm:
Ngay sau khi kết thúc giờ dạy, chúng tôi tiến hành kiểm tra trình độ nhận thức
của học sinh ở cả hai lớp đối chứng và thực nghiệm nhằm so sánh mức độ nhận thức
và kết quả học tập cả học sinh ở hai lớp.
Bài kiểm tra được làm trong thời gian 45 phút. Đề bài bao gồm 2 phần: tự luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và trắc nghiệm. Cả hai lớp làm chung một đề, đánh giá theo thang điểm như nhau.
Cùng với việc cho học sinh làm bài kiểm tra, chúng tôi phát phiếu điều tra xã
hội học nhằm đánh giá những biểu hiện của học sinh trong giờ học khi giáo viên sử
dụng PPĐV. Cách kiểm tra và xử lý kết quả thực nghiệm được chúng tôi tiến hành theo
các bước sau đây:
Bước 1: Soạn câu hỏi kiểm tra theo mục tiêu bài dạy
Bước 2: Cho học sinh làm bài kiểm tra, trả lời phiếu điều tra
Bước 3: Chấm bài kiểm tra của hai lớp thực nghiệm và đối chứng
Bước 4: Xử lý kết quả kiểm tra, số liệu điều tra để rút ra kết luận.
Để đánh giá khả năng nắm bắt tri thức của học sinh, chúng tôi sử dụng thang
điểm 10, là thang điểm đang được sử dụng phổ biến ở các Trung tâm GDTX - GDHN
hiện nay.
Các điểm số được phân làm bốn mức độ sau:
- Loại giỏi: Điểm 9 đến 10
- Loại khá: Điểm 7 đến 8
- Loại trung bình: Điểm 5 đến 6
- Loại yếu kém: Các điểm dưới 5
3.1.3. Kết quả thực nghiệm
3.1.3.1. Khảo sát trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Khảo sát trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả học
tập môn GDCD của học sinh tại các Trung tâm thể hiện ở các bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.1. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Kết quả học tập Lớp Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém
Lớp 10A 42 02 17 23 0 0 TN
Tổng 42 02 17 23 0 0
Lớp 10B 41 0 13 28 0 0 ĐC
Tổng 41 0 13 28 0 0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Kết quả tổng hợp của tác giả
Bảng 3.2. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng ở trung tâm GDTX - GDHN Chợ Đồn
Kết quả học tập Lớp Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém
0 Lớp 10A 23 01 13 9 0 TN
0 Tổng 23 01 13 9 0
0 Lớp 10B 23 0 7 14 02 ĐC
0 Tổng 23 0 7 14 02
Nguồn: Kết quả tổng hợp của tác giả
Bảng 3.3. Điểm kiểm tra học kỳ I môn GDCD giữa lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng ở Trung tâm GDTX - GDHN Bạch Thông
Kết quả học tập Lớp Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém
0 Lớp 10 A 24 01 13 10 0 TN
0 Tổng 24 01 13 10 0
Lớp 10 B 37 0 15 19 03 ĐC
Tổng 37 0 15 19 03
Nguồn: Kết quả tổng hợp của tác giả
So sánh kết quả học tập và chấm bài kiểm tra ở lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm, chúng tôi có nhận xét sau:
Một là: Học lực của học sinh ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng là
tương đương nhau, chênh lệch không đáng kể, chỉ có sự chênh lệch về kết quả học tập
môn GDCD giữa các Trung tâm, trong đó học sinh ở Trung tâm GDTX - GDHN Bắc
Kạn có kết quả học tập cao hơn trên 50% học sinh có học lực môn GDCD ở mức khá
trở lên, không có học sinh yếu, kém.
Hai là: Kỹ năng làm bài của học sinh ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng
chênh lệch không đáng kể. Khả năng ghi nhớ, tái hiện kiến thức tương đối đồng đều.
Tuy nhiên, khả năng suy luận, đánh giá, giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hạn chế, học sinh còn mắc lỗi diễn đạt nhiều.
3.1.3.2. Phân tích, đánh giá kết quả sau thực nghiệm
Sau thực nghiệm, chúng tôi phân tích, đánh giá kết quả dạy học sử dụng PPĐV
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn qua
quan sát mức độ hứng thú, tính tích cực tham gia trò chơi đóng vai của học sinh; qua kết
quả kiểm tra 1 tiết của học sinh; qua điều tra xã hội học đối với 89 học sinh lớp thực
nghiệm; qua trao đổi chuyên môn với 03 giáo viên tham gia giảng dạy các lớp thực
nghiệm, lớp đối chứng và các giáo viên trong tổ bộ môn đi dự giờ.
Kết quả thực nghiệm được đánh giá trên các bình diện sau:
Một là, mức độ hứng thú, tích cực của học sinh ở các trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn đối với môn học GDCD lớp 10 khi sử dụng PPĐV trong dạy học
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, mức độ hứng thú của học sinh các lớp thực
nghiệm đối với môn học GDCD cao hơn. Hầu hết học sinh các lớp thực nghiệm đã
thích thú với môn học, mức độ chú ý, tập trung, tích cực tham gia vào các hoạt động
học tập, ngày càng gia tăng.
Bảng 3.4. Mức độ hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD
Các mức độ
Bình Rất hứng Không Lớp TS Hứng thú Ít hứng thú thường thú hứng thú
SL % SL % SL % SL % SL %
2 37 22 ĐC 101 1,98 20 19,8 19,8 37,6 21,8 20
89 8 0 17 TN 32 35,9 32 35,9 19,1 9,0 0
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giảc
Nhìn vào kết quả bảng 3.4, chúng tôi nhận thấy có 71,8% ý kiến học sinh các
lớp thực nghiệm đều khẳng định rất hứng thú và hứng thú với tiết học GDCD khi
giáo viên sử dụng PPĐV. Trong khi đó ở lớp đối chứng, có tới 21,6% ý kiến học
sinh cho rằng rất hứng thú và hứng thú đối với môn học. Có thể thấy rõ mức độ
hứng thú của học sinh ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn mà chúng tôi
tiến hành khảo sát với việc sử dụng PPĐV trong dạy học GDCD lớp 10 được thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện qua biểu đồ sau:
Trên cơ sở quan sát các tiết dạy và trực tiếp trao đổi với giáo viên khác và chúng
tôi cũng nhận thấy ở các lớp thực nghiệm, thái độ học tập của học sinh tốt hơn, các em
chủ động, tích cực trao đổi về nội dung bài học và chiếm lĩnh tri thức dưới vai trò định
hướng, tổ chức, dẫn dắt của giáo viên. Học sinh chủ động hơn trong các trò chơi đóng
vai và cảm thấy thích thú với giờ học khi giáo viên sử PPDH này.
Hai là, vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với 89 học sinh ở 3 lớp thực nghiệm, kết quả
thu được như sau:
Bảng 3.5. Thái độ học tập của học sinh đối với giờ học sử dụng PPĐV
TT Câu hỏi Phương án trả lời
1 Mức độ hiểu bài của học sinh
Số ý kiến 65/89 19/89 5/89 Tỷ lệ % 73 16,9 5,6
78/89 87,6
2 Cảm nhận của học sinh về giờ học sử dụng PPĐV 9 10,1
2 2,2
65/89 73
3 22/89 24,7
Mức độ ghi nhớ của học sinh sau bài học này so với các bài học mà giáo viên dạy bằng PPDH khác. 2/89 2,2
9/89 10,1
4 2/89 2,2 Sử dụng PPĐV có vai trò như thế nào đối với việc hình thành, phát triển kỹ năng của học sinh
Có hiểu bài Hiểu ít Không hiểu bài Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn Bình thường như những giờ học khác Không thích giờ học như vậy Bài học được ghi nhớ ngay trên lớp Chỉ nhớ được một số nội dung Không nhớ được nội dung bài học Hình thành ở học sinh kỹ năng giao tiếp, hợp tác Hình thành ở học sinh kỹ năng đánh giá, tư duy phản biện Tất cả các kỹ năng trên Rất muốn Bình thường 78/89 78/89 9/89 87,6 87,6 10,1 5
Không thích 2/89 2,2 Mức độ mong muốn của học sinh tiếp tục được giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả
Qua kết quả khảo sát bảng 3.5, việc giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD ở lớp 10 đã làm cho học sinh hiểu bài, trên thực tế 73% học sinh đã thừa nhận
điều đó; bài học cũng hấp dẫn hơn, sinh động hơn và giờ học thêm phần sôi nổi, tích
cực hơn đây là ý kiến khẳng định của 78/89 chiếm tỷ lệ 87,6 số em được hỏi ở lớp thực
nghiệm.
Khi giáo viên sử dụng PPĐV vào dạy học cũng đã phát triển cho học sinh
các kĩ năng giao tiếp, hợp tác, tư duy phản biện, đánh giá, năng lực giải quyết vấn
đề. Nó đã góp phần khắc phục phần nào tình trạng học sinh thụ động, uể oải trong
giờ học, thay vào đó, học sinh đã tích cực tham gia các hoạt động học tập do giáo
viên thiết kế. Trên thực tế, chỉ có 2,2% học sinh không thích giáo viên sử dụng
PPĐV trong dạy học.
Bên cạnh việc khảo sát học sinh, chúng tôi cũng tiến hành trao đổi với giáo viên
dạy GDCD tại các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn. Hầu hết các giáo viên
tham gia trao đổi chuyên môn và trả lời phỏng vấn đều cho rằng sử dụng PPĐV trong
dạy học môn GDCD lớp 10 là hợp lý với nhiều ưu điểm:
- Dạy học đóng vai mang lại hiệu quả cao trong học tập, học sinh có sự bạo dạn, tự
tin hơn trong giao tiếp giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên. Đồng thời qua
hoạt động đóng vai, học sinh đưa ra được cách xử lý tình huống mà đôi khi giáo viên -
trong vai trò của người dẫn dắt - cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm và những
cách nhìn/giải pháp mới từ phía học sinh để làm phong phú bài giảng, điều chỉnh các tình
huống mô phỏng sao cho gần với thực tế ở mức tối đa. Thông qua việc đóng vai, học sinh
sẽ có điều kiện để vận dụng linh hoạt lý thuyết vào thực tiễn.
- Sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD còn làm kiến thức môn học vốn khô
khan, trừu tượng trở nên gần gũi với người học. Việc hóa mình vào các vai diễn giúp
học sinh nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú học tập đối với môn học.
Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ động, khi được giao chủ đề, tình huống,
các nhóm phải chủ động xây dựng kịch bản, chuẩn bị đạo cụ, trang phục phù hợp để
đóng vai. Muốn làm tốt được những yêu cầu này, học sinh phải chủ động tư duy, thảo
luận - tranh luận trong nhóm hay với giáo viên, tìm hiểu thêm về lý thuyết, tài liệu tham
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khảo để xây dựng được kịch bản đóng vai hợp lý.
- Dạy học sử dụng PPĐV giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng lập luận bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông. Học sinh
cũng học được cách tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác để làm cho vốn kiến
thức của mình phong phú hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học thực nghiệm chúng tôi cũng nhận thấy có
một số vấn đề đặt ra khi sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 mà người
giáo viên cần quan tâm đó là:
1. Làm thế nào để xây dựng các tình huống giả định sao cho chúng gần với thực tế
ở mức tối đa và vẫn đảm bảo chuyển tải được kiến thức của bài học đến học sinh.
2. Làm thế nào để phát huy tính tích cực, sáng tạo của tất cả học sinh trong lớp
khi tham gia giờ học sử dụng PPĐV
Chúng tôi cũng đã trao đổi chuyên môn với các giáo viên dạy GDCD tại Trung
tâm, đa phần các ý kiến cũng hoàn toàn đồng thuận với kết quả mà chúng tôi nhận được
khi quan sát trực tiếp những giờ học GDCD ở lớp thực nghiệm.
Trên thực tế, qua quan sát chúng tôi thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm khi giáo
viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD cũng còn có những hạn chế, như: giáo
viên cần phải lựa chọn được tình huống mô phỏng có tính thực tiễn cao nhưng không
quá sức với người học. Việc tổ chức cho học sinh tham gia đóng vai cần được chuẩn
bị kỹ, nguồn tài liệu phải phong phú và dễ tiếp cận. Câu hỏi được đặt ra cần bám sát
với nội dung bài giảng nhưng không được đi ngay vào trọng tâm, vì kết luận và hướng
người học vào phần trọng tâm sẽ được giáo viên thực hiện vào phần cuối cùng của buổi
học sử dụng đóng vai; một số học sinh không đủ nghiêm túc, hoặc không tham gia với
các thành viên trong nhóm khi thực hiện đóng vai, có một số học sinh còn e dè không
phát huy tinh thần phản biện hoặc trình bày ý kiến cá nhân trước lớp; đạo cụ nhiều khi
học sinh không chuẩn bị đủ … Đó cũng là lý do đòi hỏi giáo viên phải luôn đổi mới, cải
tiến phương pháp dạy học và phát huy vai trò “trọng tài, cố vấn” trong định hướng, tổ
chức quá trình dạy học sử dụng PPĐV.
Ba là, kết quả kiểm tra 1 tiết của học sinh ở các trung tâm GDTX - GDHN trên
địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Trên cơ sở thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả kiểm tra 1 tiết thể hiện ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biểu đồ sau:
Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra 1 tiết ở trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn:
Kết quả kiểm tra TS Nhóm HS Xếp loại Kém Yếu Khá Giỏi TB
SL 0 3 17 13 9 TN 42 Tỉ lệ % 0 7,1 40,5 31 21,4
SL 0 3 20 15 3 ĐC 41 Tỉ lệ % 0 7,3 48,8 36,7 7,3
48.8
40.5 36.7
31
7.3
7.3
21.4
7.1
0 0
Thực nghiệm
Đối chứng
50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0 Kém TB Khá Yếu Giỏi
Biểu đồ 3.1: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.7. Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX - GDHN huyện Chợ Đồn
Kết quả kiểm tra TS
HS Xếp loại Kém Yếu Khá Giỏi TB
SL 0 2 5 11 5 TN 23 Tỉ lệ % 0 8,7 21,7 47,8 21,7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
SL 0 5 11 7 0 ĐC 23 Tỉ lệ % 0 21,7 47,8 30,4 0
40
47.8 47.8 50
30.4
30 21.7 21.7 21.7
20 8.7 10 0 0 0
0 Kém TB Khá Yếu Giỏi
Thực nghiệm Đối chứng
Biểu đồ 3.2: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN huyện Chợ Đồn
Trên cơ sở thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả kiểm tra 1 tiết thể hiện qua
bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.8. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
ở Trung tâm GDTX - GDHN huyện Bạch Thông
Kết quả kiểm tra TS Nhóm HS Xếp loại Kém Yếu TB Khá Giỏi
SL 0 0 8 12 4 TN 24 Tỉ lệ % 0 0 33,3 50,0 16,7
SL 0 5 20 12 0 ĐC 37 Tỉ lệ 0 13,5 54,1 32,4 0
54.1 50
33.3 32.4
16.7 13.5
0 0 0 0
60 50 40 30 20 10 0 Kém TB Khá Yếu Giỏi
Thực nghiệm Đối chứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 3.3: Kết quả kiểm tra 1 tiết ở Trung tâm GDTX-GDHN huyện Bạch Thông
Những số liệu ở bảng trên cho thấy, điểm kiểm tra 1 tiết môn GDCD của học
sinh lớp 10 ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn mà chúng tôi khảo sát đều
có sự chênh lệch đáng kể ở mức độ khá, giỏi giữa các lớp thực nghiệm và đối chứng.
Các lớp thực nghiệm đều có tỷ lệ học sinh có điểm kiểm tra đạt mức yếu giảm rõ rệt,
điểm khá tăng lên. Đây chính là thành công của giáo viên khi tiến hành đổi mới PPDH
theo hướng tích cực sẽ thúc đẩy người học đạt chất lượng học tập tốt hơn. Khi học sinh
có hứng thú với môn học, các em sẽ thay đổi về cách học cũng như ý thức học tập đối
với môn học.
Kết luận thực nghiệm:
Thực nghiệm sư phạm là một bước không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu
đề tài khoa học giáo dục. Thông qua quá trình thực nghiệm, giả thuyết mà đề tài đặt ra
mới được kiểm chứng và khẳng định được tính hiệu quả, tính khả thi của việc sử dụng
một PPDH nào đó trong quá dạy học.
Tiến hành thực nghiệm sử dụng PPĐV trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức” môn GDCD lớp 10 ở ba Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
chúng tôi nhận thấy, nếu giáo viên sử dụng thường xuyên PPDH này vào dạy học
chương trình GDCD lớp 10 nói riêng và các nội dung khác trong chương trình GDCD
nói chung sẽ giúp học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo hơn, say mê và hứng thú hơn
đối với môn học, khắc phục được những hạn chế mà trước nay học sinh vẫn mắc phải
mỗi khi học môn học này như: lười học, không thích học vì môn học khô khan, nặng
lý thuyết, giáo viên thường độc thoại...
Tóm lại, việc sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các Trung tâm
GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn là hoàn toàn có thể thực hiện được nhằm đem lại hiệu
quả trong công tác đổi mới chất lượng của môn học tại các Trung tâm này.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn
3.2.1. Đối với giáo viên
- Muốn sử dụng có hiệu quả PPĐV trong dạy học môn GDCD, giáo viên dạy
môn học này cần phải am hiểu về chương trình, nắm chắc kiến thức của môn học, xác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
định được kiến thức trọng tâm của các bài học để có thể lựa chọn được các chủ đề thích
hợp, đưa ra các tình huống giả định vừa sát thực tiễn, vừa khai thác được kiến thức của
bài học, vừa giúp học sinh phát huy tính sáng tạo khi tham gia xử lý các tình huống
thông qua việc đóng vai, hóa thân thành các nhân vật.
- Rất nhiều giáo viên dạy GDCD nói riêng và dạy các môn khoa học xã hội nói
chung ngại sử dụng PPĐV trong dạy học chính bởi sự “cầu kì” trong việc tổ chức các
giờ học khi sử dụng phương pháp dạy học này. Giáo viên phải gạt bỏ sự “ngại thay đổi
mình” để đầu tư chuẩn bị cho những ý tưởng mới trong day học, sử dụng những PPDH
tích cực để khơi gợi tính sáng tạo cho người học đồng thời cho chính bản thân cả người
dạy. Muốn sử dụng tốt PPDH đóng vai, giáo viên phải lên kế hoạch dạy học cụ thể, xác
định được mục tiêu bài học, xây dựng các chủ đề tình huống phải gắn với mục tiêu của
bài học, các vai diễn phải phù với năng lực diễn xuất của học sinh nếu quá khó hoặc
quá dễ sẽ không tạo được hứng thú cho người học. Khi giao tình huống cho các nhóm
học sinh, giáo viên phải quan sát, gợi mở để học sinh xây dựng kịch bản và thực hiện
diễn xuất theo đúng nội dung mong muốn đưa ra của giáo viên. Tránh việc giáo viên
giao song, bỏ mặc dẫn đến học sinh diễn sai chủ đề, xử lý sai tình huống sẽ không đem
lại được kết quả cho tiết học.
- Giáo viên cần được thường xuyên bồi dưỡng để nâng cao trình độ, các kỹ năng,
nghiệp vụ sư phạm, tham dự các lớp về đổi mới PPDH theo hướng tiếp cận năng lực,
hiểu và nắm vững quy trình thực hiệc việc sử dụng PPĐV trong dạy học.
- Giáo viên khi sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD cũng cần chú trọng
tới việc tổ chức cho học sinh thực hiện đóng vai tại lớp học để sao cho đạt hiệu quả cao
nhất, tạo cho lớp học bầu không khí học tập sôi nổi, sinh động, học sinh hứng thú với
tiết học nhưng không gây ồn ào, mất trật tự, hoặc có những hành vi phấn kích như đập
bàn, ghế, la ó hoặc khóc lóc om xòm.... Giáo viên phải tổ chức để giờ học được diễn ra
tốt đẹp, ý đồ sư phạm của giáo viên được thực hiện, học sinh được trải nghiệm trong
các tình huống thực tiễn, đúc rút ra được nội dung bài học và có khả năng vận dụng
kiến thức đó thành kỹ năng để giải quyết vấn đề nảy sinh trong đời sống.
- Giáo viên cũng cần khích lệ để học sinh trong lớp đều tham gia vào các hoạt
động của giờ học. Những học sinh không tham gia đóng vai sẽ có nhiệm vụ quan sát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bạn diễn, phát hiện ra những nội dung giáo dục ẩn chứa trong các tình huống mà các
“diễn viên” thực hiện để đưa ra những nhận xét, đánh giá, bàn luận. Giáo viên cần khéo
léo lôi cuốn học sinh tích cực, chủ động cùng tham gia xây dựng bài học một cách tự
nhiên, chân thực, tránh gò ép, áp đặt.
- Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, giáo viên cần phải có những kĩ
năng tin học nhất định, biết khai thác và sử dụng có hiệu quả các thông tin từ sách vở,
trên mạng... để phục vụ cho bài giảng, tạo sự hấp dẫn cho mỗi giờ học trên lớp. Sử
dụng những thông tin khai thác được để giáo viên có thêm ý tưởng cho việc xây dựng
các tình huống giả định thêm phong phú, sâu sắc, chứa đựng tính nhân văn, tính giáo
dục đối với người học.
Trong triết lý giáo dục, không có một phương pháp dạy học nào là toàn năng
mà muốn có một giờ dạy tốt, người giáo viên cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa các PPDH với nhau, tùy vào nội dung kiến thức trọng tâm của bài giảng để lựa
chọn xem PPDH nào là chủ đạo, cần sử dụng chính để phát huy được năng lực sư phạm
của giáo viên và tính chủ động, sáng tạo của người học. Đối với PPĐV không phải nội
dung kiến thức nào của môn GDCD đều có thể sử dụng PPDH này, cũng như không
nên sử dụng một mình PPDH này cho cả 1 tiết dạy trên lớp. Bởi như thế, sẽ không đáp
ứng được mục tiêu của bài học, kiến thức của môn học không đảm bảo để truyền thụ
đến người học. Do đó, để sử dụng có hiệu quả PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp
10, giáo viên nên kết hợp PPDH này với các phương pháp đàm thoại, thuyết trình, thảo
luận nhóm, dạy học tình huống, nêu vấn đề...
3.2.2. Đối với học sinh
- Khi sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10, học sinh chính là người
tham gia góp mặt từ khâu đầu tiên nhận chủ đề, tình huống, xây dựng kịch bản, đóng
vai và diễn xuất, đồng thời cũng là người đưa ra nhận xét, đánh giá để đi đến xây dựng
bài học. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của người học góp phần vào sự thành
công hay thất bại của việc sử dụng PPĐV trong dạy học. Chính bởi lẽ đó, học sinh phải
có ý thức trong việc tự học, chủ động, tích cực tham gia vào công việc của nhóm trong
việc xây dựng kịch bản, nêu ý tưởng, bàn bạc lựa chọn vai diễn, chuẩn bị đạo cụ cho
phù hợp, luyện tập chăm chỉ, nghiêm túc để có được những diễn xuất tốt nhất góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làm lên sự thành công của giờ học.
- Học sinh cũng cần từ bỏ những thói quen như lười suy nghĩ, ít phát biểu, ngại
giao tiếp, không tham gia vào công việc của nhóm, sống khép mình... Chỉ khi nào học
sinh có ý thức trong việc mình phải là người chủ động để chiếm lĩnh tri thức, biến nó
thành của mình, đào sâu và vận dụng nó vào xử lý những tình huống xuất hiện hàng
ngày trong cuộc sống... thì khi đó các em mới phát huy được năng lực học tập của chính
mình, đóng góp cho quá trình thực hiện PPĐV một cách tích cực, hiệu quả.
- Trong quá trình tham gia đóng vai, học sinh cần tích cực đóng góp ý kiến, đưa
ra những ý tưởng để mọi người cùng bàn bạc, trao đổi. Những nội dung không rõ, người
học cần chủ động trao đổi với giáo viên, bạn bè để có những ý tưởng tốt nhất trong việc
xử lý các tình huống giả định. Học sinh trong quá trình thảo luận cũng cần phải tôn
trọng ý kiến của các thành viên trong nhóm, biết lắng nghe và chia sẻ. Phải biết thu hẹp
cái tôi cá nhân để hòa mình vào cái chung, để cùng nhau thực hiện tốt, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ mà giáo viên giao cho. Không được để lợi ích cá nhân, tính ích kỉ ảnh
hưởng tới nhiệm vụ của nhóm.
- Học sinh cũng cần tập trung, nghiêm túc không chỉ trong việc thử vai, khi diễn,
mà cần nghiêm túc trong suốt giờ học, quan sát bạn diễn để có sự cảm nhận, đánh giá
thấu hiểu được nội dung giáo dục thông qua các tình huống diễn xuất đó. Học sinh
cũng cần phải biết kiềm chế bản thân để không có những hành vi phấn kích hay sự phá
đám trong giờ học mà giáo viên sử dụng PPĐV.
- Ngoài sách giáo khoa GDCD lớp 10, học sinh cũng cần phải xem ti vi, nghe
đài báo, xem mạng, sách báo, đọc truyện văn học, tìm hiểu về các tấm gương người
tốt, việc tốt để có những ý tưởng, những quan điểm mới lạ, độc đáo nhưng vẫn chứa
đựng tính giáo dục trong đó... Đây là nền tảng, mạch nguồn cho sự sáng tạo của người
học trong quá trình học tập, lao động, vui chơi, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tham
gia vào các nội dung mà giáo viên đề ra trong khi sử dụng PPĐV trong dạy học nói
chung, dạy học môn GDCD nói riêng.
- Đối với học sinh ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, đa phần là học
sinh dân tộc thiểu số, cần phát huy những nội dung đóng vai liên quan đến bản sắc dân
tộc, những biểu hiện tốt đẹp trong gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức của dân
tộc mình không để nó bị mai một hay lai căng bởi những văn hóa không phù hợp. Đồng
thời, các em cũng cần phải rèn luyện để tự tin hơn vào bản thân, mạnh dạn tham gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vào các hoạt động học tập, bày tỏ quan điểm của mình trước thầy cô, bạn bè.
3.2.3. Đối nhà quản lý, tổ trưởng chuyên môn
- Cần khuyến khích giáo viên dạy GDCD của các Trung tâm GDTX - GDHN
tỉnh Bắc Kạn tích cực thực hiện các biện pháp đổi mới giáo dục, trong đó giáo viên cần
chú trọng đổi mới PPDH, sử dụng các PPDH tích cực như PPĐV... nhằm đáp ứng yêu
cầu giáo dục “lấy người học làm trung tâm”.
- Tổ chức tốt các lớp tập huấn hàng năm cho giáo viên được tiếp cận với các
PPDH mới, tích cực. Thường xuyên cử giáo viên tham gia vào các lớp tập huấn để giáo
viên được giao lưu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi những khó khăn vướng mắc
mà giáo viên gặp phải khi thực hiện các PPDH tích cực. Đối với việc sử dụng PPĐV,
giáo viên dạy GDCD gặp khó khăn trong việc lựa chọn các tình huống giả định phải
vừa đáp ứng khai thác được kiến thức trọng tâm của bài học, vừa mang tính giáo dục
lại phải sát thực với thực tế đời sống, môi trường sinh hoạt của các em... Việc giáo viên
được trao đổi với giáo viên, các chuyên gia giáo dục, các cốt cán chuyên môn của tỉnh
về môn học GDCD sẽ từng bước giúp giáo viên tháo gỡ được những vướng mắc, hạn
chế, sự lúng túng của mình khi sử dụng những PPDH mới.
- Khuyến khích giáo viên dạy GDCD của Trung tâm tích cực và thường xuyên
sử dụng kết hợp PPDH truyền thống với các PPDH tích cực, hiện đại. Động viên giáo
viên sử dụng PPĐV vào soạn giảng các tiết dạy mẫu, tham dự các kì thi giáo viên giỏi,
các tiết học phổ bién trên lớp có thể sử dụng được PPDH này. Giáo viên tích cực sử
dụng sẽ ngày càng có kinh nghiệm trong tổ chức và dạy học để mang lại những giờ học
chất lượng, tạo hứng thú cho người học. Học sinh được học trong môi trường giáo dục
cởi mở, tự do học thuật là điều kiện để các em không chỉ học tốt môn học này mà còn
học tốt các môn học khác.
- Trung tâm và tổ bộ môn nên tổ chức dự giờ các tiết học giáo viên sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD để cùng trao đổi, học tập, góp ý cho nhau về những
ưu điểm, hạn chế trong khi sử dụng PPDH này nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy
và học môn học này nói riêng và các môn học văn hóa khác nói chung tại các Trung
tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
- Tạo điều kiện vật chất đảm bảo để giáo viên dạy GDCD có thể thực hiện tốt
PPĐV trong dạy học như về lớp học, điều kiện ánh sáng, máy chiếu, loa đài, mic...
Phòng thay trang phục, chứa các phụ kiện hóa trang để các lớp có thể sử dụng ở nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nội dung học tập khác nhau.
- Cần có những khen thưởng kịp thời cho những giáo viên tích cực đi đầu trong
việc thực hiện đổi mới giáo dục, thường xuyên chủ động sử dụng các PPDH mói để
nâng cao chất lượng giáo dục cho Trung tâm nói riêng và cho ngành giáo dục tỉnh Bắc
Kạn nói chung. Ngược lại, có những hình thức xử lý đối với những giáo viên chậm
tiến, ngại thay đổi, trì trệ có những tư duy lạc hậu gây cản trở cho sự tiến bộ của người
khác.
Kết luận chương 3
Kết quả thực nghiệm sư phạm tại 3 Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn,
Chợ Đồn và Bạch Thông khẳng định việc giáo viên sử dụng PPĐV vào dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 là cần thiết, đáp ứng nhu cầu đổi mới,
nâng cao chất lượng giáo dục của các Trung tâm này.
Qua dạy học thực nghiệm việc sử dụng PPĐV vào dạy học 3 bài thuộc chương
trình GDCD lớp 10 là: Bài 11. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học (tiết học 2);
Bài 13. Công dân với cộng đồng. Bài 14. Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. So sánh kết quả giữa lớp đối chứng và lớp thực nghiệm cho thấy, giáo viên
khi sử dụng PPDH đóng vai đã đem lại hứng thú cho học sinh khi học tập môn GDCD
mà trước đó các em không mấy thích thú với môn học này do giáo viên còn nặng về
thuyết trình, hoặc ít khi sử dụng các PPDH tích cực. Về kết quả học tập, đối với lớp
thực nghiệm tỷ lệ học sinh đạt khá, giỏi tăng lên, tỷ lệ học sinh yếu kếm, trung bình
giảm đáng kể. Học sinh cảm thấy thoải mái khi tham gia vào các tiết học mà giáo viên
sử dụng PPĐV để dạy học.
Từ kết quả thực nghiệm, luận văn đã đề xuất các giải pháp về phía giáo viên,
học sinh và đối với cán bộ quản lý, tổ trưởng chuyên môn để góp phần vào nâng cao
hiệu quả việc sử dụng PPDH đóng vai trong dạy học môn GDCD ở Trung tâm GDTX
- GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn hiện nay. Những giải pháp này nếu được
thực hiện đầy đủ sẽ giúp giáo viên ở các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn có
thêm kĩ năng, kinh nghiệm để tổ chức tốt các giờ dạy đạt chuẩn nhằm phát huy được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho người học.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đóng vai là một trong những PPDH cơ bản và tốt nhất về rèn luyện cho học sinh
kỹ năng giao tiếp, là phương pháp cụ thể để dạy học về phong cách, thái độ đối với con
người trong hợp tác, làm việc nhóm để cùng thực hiện mục tiêu dạy học đề ra ... Đó là
PPDH sinh động, chủ động, tạo điều kiện cho người học bộc lộ các ưu điểm để phát
huy và nhược điểm để sửa chữa khắc phục.
Đối với môn GDCD nói chung và chương trình GDCD lớp 10 nói riêng, các
kiến thức của môn học này vốn mang tính trừu tượng, khái hóa cao, lại nặng về lý
thuyết ít có nội dung thực hành. Trong chương trình, môn học này cũng không được
học sinh và phụ huynh xem trọng như các môn học chính nằm trong tổ hợp xét tuyển
thi vào các trường cao đẳng, chuyên nghiệp nên vì thế học sinh không thật chú tâm
đến môn học. Do đó, giáo viên đảm nhiệm môn học này ở các nhà trường đều chưa
dành nhiều tâm huyết để tìm ra những cải tiến, đột phá cho môn học. Đa phần giáo
viên vẫn sử dụng các PPDH quen thuộc, ít tốn thời gian, công sức để đầu tư soạn
giảng nên chất lượng dạy và học môn này chưa cao ở nhiều trường phổ thông trong
cả nước.
Đối với các Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, việc dạy môn học này
cũng chưa được nhiều giáo viên quan tâm và chú trọng. Việc sử dụng các PPDH tích
cực vào đổi mới chất lượng dạy học của môn học còn rất hạn chế. Qua khảo sát cho
thấy số lượng giáo viên sử dụng các PPDH tích cực ở mức độ lác đác, không thường
xuyên, chủ yếu vẫn là các PPDH thuyết trình, đàm thoại, thảo luận nhóm… Số lượng
giáo viên sử dụng PPĐV vào dạy học môn GDCD chỉ chiếm chưa tới một nửa số giáo
viên đang dạy môn học này tại các Trung tâm GDTX - GDHN trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn. Mức độ sử dụng cũng không thường xuyên, quy trình thực hiện còn chưa đúng,
nhiều khó khăn mà giáo viên gặp phải khi sử dụng phương pháp này trong dạy học nên
chất lượng của môn học chưa cao.
Những khó khăn như về trình độ nhận thức của học sinh tại Trung tâm không
đồng đều, đầu vào học thấp hơn so với các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, đa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phần học sinh là con em dân tộc thiểu số nên không mạnh mẽ, tự tin mà e dè, nhút nhát
không dám bày tỏ ý kiến của mình trước mọi người… Vì vậy, khi giáo viên sử dụng
PPĐV đưa ra chủ đề, tình huống giả định để học sinh thực hiện xử lý tình huống bằng
PPĐV nhiều học sinh không tham gia, hoặc nếu tham gia hời hợt… Do đó, nhiều giáo
viên đã không lựa chọn PPDH này trong dạy học môn GDCD.
Trên cơ sở phân tích thực trạng sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD
lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã đề xuất quy trình
thiết kế sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo
đức” và tiến hành dạy học thực nghiệm ở hai nhóm: lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng tại 3 Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, Chợ Đồn, Bạch Thông. Qua
thực nghiệm cho thấy, khi giáo viên sử dụng PPĐV, học sinh có hứng thú hơn với
môn học vì thế kết quả kiểm tra của môn học cũng được nâng lên đáng kể, tỷ lệ học
sinh khá giỏi tăng cao.
Căn cứ vào số liệu phân tích đánh giá về kết quả thực nghiệm, luận văn đã đề
xuất một số giải pháp cơ bản đối với giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý để nhằm nâng
cao chất lượng sử dụng có hiệu quả PPĐV trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các
Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn.
2. Khuyến nghị
* Đối với các cấp quản lý
- Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn là cơ sở quản lý trực tiếp đối với
giáo viên dạy GDCD cần tạo điều kiện cho giáo viên tham gia đầy đủ các lớp tập
huấn, các hội nghị về đổi mới chương trình, đổi mới PPDH theo hướng tiếp cận
năng lực.
- Trung tâm cũng cần có chính sách cụ thể để khuyến khích giáo viên tích cực
đổi mới PPDH, sử dụng những PPDH hiện đại, tốn nhiều thời gian, công sức như việc
sử dụng PPĐV vào dạy môn GDCD.
- Tham gia dự giờ, góp ý những giờ giảng của giáo viên sử dụng PPDH mới
nhằm giúp giáo viên hoàn thiện hơn trong quá trình dạy học.
- Bổ sung, sửa chữa, làm mới hệ thống cơ sở vật chất để giáo viên thực hiện các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PPDH mới hiệu quả và thuận lợi hơn.
* Đối với giáo viên
- Tích cực đổi mới PPDH theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh, phát huy
tính tích cực, chủ động cho người học.
- Thường xuyên sử dụng PPĐV trong dạy học vào các nội dung cụ thể của môn
GDCD. Song, phải có sự lựa chọn đơn vị kiến thức phù hợp để có thể thực hiện hiệu
quả PPDH nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm.
- Giáo viên phải nắm vững quy trình và thực hiện đúng theo quy trình sử dụng
PPĐV trong dạy học.
* Đối với học sinh
- Học sinh cần phát huy tính chủ động, tích cực trong các giờ học, đặc biệt các
giờ giáo viên sử dụng PPĐV.
- Rèn luyện cho bản thân tính chủ động, mạnh dạn tham gia tích cực vào các
nhiệm vụ phân vai, đóng vai, diễn kịch mà giáo viên nêu ra.
- Học sinh phải tuân thủ thực hiện theo đúng các trình tự, yêu cầu khi sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PPĐV vào trong dạy học môn GDCD.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Đình Bảy (Chủ biên), Đặng Xuân Điều, Nguyễn Thành Minh, Vũ Văn Thục
(2015), Lí luận dạy học môn GDCD ở trường phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Sách giáo khoa Giáo dục công dân 10, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
3. Phùng Văn Bộ (1999), Lí luận dạy học GDCD ở trường phổ thông trung học, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Vũ Thị Bốn (2017), Luận văn thạc sỹ “Vận dụng PPĐV trong dạy học phần
“Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lương Tài 2, Bắc Ninh”, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
5. Mai Thị Kim Chi (2014), Vận dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử Việt Nam (Thế
kỉ X - giữa thế kỉ XIX), Lớp 10 THPT - chương trình chuẩn, Luận văn Thạc sĩ
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên (Đồng chủ biên) (2007), Dạy và học môn
Giáo dục công dân ở trường THPT - những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Cường (2005), Phát triển năng lực thông qua phương pháp và
phương tiện dạy học mới, Tài liệu hội thảo tập huấn, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự
án phát triển giáo dục THPT, Hà Nội.
8. Hồ Thanh Diện (2008), Thiết kế bài giảng Giáo dục công dân 10, Nxb Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29 - QĐ/ TW Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Vương Tất Đạt (1994), “Phương pháp giảng dạy giáo dục công dân”, trường Đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học Sư phạm I Hà Nội.
13. Lưu Thị Điểm (2010), “Vận dụng PPĐV vào dạy phần “Công dân với đạo đức”
môn GDCD ở trường THPT Đoàn Thị Điểm - Hà Nội”, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
14. Dương Văn Đức, Đinh Thị Thúy Nga (2011), Phương pháp dạy học giáo dục công
dân ở trường THPT, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Hạnh (2017), Luận văn thạc sỹ “Sử dụng PPĐV trong dạy học môn
GDCD ở các trường THPT huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”, trường Đại học Sư
phạm, Đại học Thái Nguyên
16. Trần Bá Hoành (1995), “Bàn tiếp về dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, Tạp
chí Thông tin khoa học giáo dục số 49.
17. Jude Howell (1/3/1992), “Using role play as a teaching method” (Sử dụng đóng
vai như một phương pháp giảng dạy) tạp chí “Teaching Public Administration”,
vol.XII, n.01.
18. Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm,
Nxb Giáo dục.
19. Nguyễn Thị Nga (2014), Luận văn thạc sỹ “Vận dụng PPĐV vào dạy học môn
GDCD phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông,
Thành phố Hà Nội”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
20. Hà Thế Ngữ (2001), Giáo dục học - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội
21. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
22. Petty Gheossrey (2012), Hướng dẫn thực hành, dạy học ngày nay, Nxb Stanley
Thoorrney
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa hoc, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
25. Phạm Viết Vượng (2008), Lý luận giáo dục, Nxb Sư phạm Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
26. Hoàng Phê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
27. Phạm Thị Thúy Phương (2011), Một số phương pháp giảng dạy giáo dục công
dân theo hướng giáo dục tích cực, Nxb Sư phạm Hà Nội.
28. Lưu Thu Thủy (2013), Đổi mới PPDH môn GDCD sau năm 2015 theo hướng
phát triển năng lực cho học sinh, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia giáo dục đạo đức
công dân, giáo dục phổ thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
29. Website: www.academia.edu/4035694/26109576/ Tác giả Lê Thị Ngọc Thương đã
biên dịch từ tài liệu “Role Play as a Teaching Method: A Practical Guide” (Hướng
dẫn thực hành: đóng vai như một phương pháp dạy học) của tiến sĩ Kanokwan
Manorom và Zoë Pollock.
30. Website: caodangquany1.edu.vn/ “Một vài ý kiến về PPĐV”/ nguồn Nxb. Quân đội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhân dân, 12/8/2017.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Để góp phần nâng cao hiệu quả việc sử dụng phương pháp đóng vai (PPĐV)
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, kính
mong quý thầy (cô) vui lòng đọc kỹ các câu hỏi sau đây và cho biết ý kiến của mình
bằng cách đánh dấu (X) vào ô trống mà mình cho là thích hợp.
Câu 1: Thầy cô đánh giá như thế nào về mức độ cần thiết của việc sử dụng PPĐV trong
dạy học GDCD?
a. Cần thiết
b. Rất cần thiết
c. Ít cần thiết
d. Không cần thiết
Câu 2: Trong quá trình dạy học, thầy cô sử dụng các phương pháp dạy học sau đây với
mức độ nào?
Mức độ
STT Phương pháp Thường Chưa Đôi khi xuyên bao giờ
1 Thuyết trình
2 Đàm thoại
3 Trực quan
4 Nêu vấn đề
5 Thảo luận nhóm
7 Đóng vai
8 Dự án
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
9 Tình huống
Câu 3: Theo thầy cô, sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD nhằm
mục đích gì?
a. Giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới
b. Giúp học sinh ôn tập, củng cố, khái quát hóa kiến thức
c. Giúp học sinh liên hệ kiến thức với thực tiễn
Câu 4: Khi sử dụng PPĐV vào dạy học, thầy cô thường gặp những khó khăn, trở ngại
nào?
a. Thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống
b. Kỹ năng thực hành của học sinh còn hạn chế
c. Số lượng học sinh quá đông trong 1 lớp
d. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập
e. Do năng lực của giáo viên còn hạn chế trong tổ chức HS xây dựng kịch bản
và diễn xuất
g. Chưa có quy trình tổ chức trò chơi khoa học, hợp lý
Câu 5: Theo thầy cô, sử dụng PPĐV trong dạy học có mang lại hiệu quả tốt không?
Xin thầy cô giải thích cụ thể quan điểm của mình?
.............................................................................................................................
................................................................................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của thầy cô!
Phụ lục 2
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CÁN BỘ QUẢN LÝ
Để góp phần nâng cao hiệu quả việc sử dụng phương pháp đóng vai (PPĐV)
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, kính
mong quý thầy (cô) vui lòng đọc kỹ các câu hỏi sau đây và cho biết ý kiến của mình
bằng cách đánh dấu (X) vào ô trống mà mình cho là thích hợp.
Câu 1: Thầy cô đánh giá như thế nào về mức độ cần thiết của việc sử dụng PPĐV trong
dạy học GDCD?
a. Cần thiết
b. Rất cần thiết
c. Ít cần thiết
d. Không cần thiết
Câu 2: Thầy cô đánh giá thế nào về mức độ sử dụng các phương pháp dạy học sau đây
của giáo viên dạy GDCD ở đơn vị công tác của quý thầy cô?
Mức độ
STT Phương pháp Đôi khi Thường xuyên Chưa bao giờ
1 Thuyết trình
2 Đàm thoại
3 Trực quan
4 Nêu vấn đề
5 Thảo luận nhóm
7 Đóng vai
8 Dự án
9 Tình huống
Câu 3: Theo thầy cô, giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD nhằm mục
đích gì?
a. Giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới
b. Giúp học sinh ôn tập, củng cố, khái quát hóa kiến thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
c. Giúp học sinh liên hệ kiến thức với thực tiễn
Câu 4: Theo thầy cô, khi sử dụng PPĐV vào dạy học môn GDCD, giáo viên thường
gặp những khó khăn, trở ngại nào?
a. Thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống
b. Kỹ năng thực hành của học sinh còn hạn chế
c. Số lượng học sinh quá đông trong 1 lớp
d. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập
e. Do năng lực của giáo viên còn hạn chế trong tổ chức HS xây dựng kịch bản
và diễn xuất
g. Chưa có quy trình tổ chức trò chơi khoa học, hợp lý
Câu 5: Theo thầy cô, giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD có mang lại
hiệu quả tốt không? Xin thầy cô giải thích cụ thể quan điểm của mình?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của thầy cô!
Phụ lục 3
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA HỌC SINH
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp đóng vai (PPĐV) trong
dạy học GDCD lớp 10 ở Trung tâm GDTX - GDHN tỉnh Bắc Kạn, các em vui lòng
đọc kỹ các câu hỏi sau đây và cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô
trống mà mình cho là thích hợp.
Câu 1: Trong quá trình học tập môn GDCD, thầy cô đã sử dụng các phương pháp
dạy học dưới đây ở mức độ nào?
Mức độ
Phương pháp
Đôi khi Thường xuyên Chưa bao giờ
a. Thuyết trình
b. Đàm thoại
c. Trực quan
d. Nêu vấn đề, vận dụng tình huống
e. Thảo luận nhóm
f. Đóng vai
g. Dự án
Câu 2: Khi giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD, mức độ hứng thú
của em đối với môn GDCD?
a. Rất hứng thú
b. Hứng thú
c. Bình thường
d. Ít hứng thú e. Không hứng thú
Câu 3: Nhận xét của em về mức độ sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD của
giáo viên ở lớp em?
a. Rất thường xuyên.
b. Thường xuyên.
c. Đôi khi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
d. Chưa bao giờ.
Câu 4: Em đánh giá như thế nào về hình thức và phương pháp dạy học của giáo
viên GDCD?
a. Giáo viên giảng dạy chủ yếu thiên về lí thuyết
b. Giáo viên giảng dạy ít liên hệ lý thuyết với thực tiễn
c. Giáo viên dạy khô khan, đơn điệu
d. Giáo viên chưa có hình thức, biện pháp khích lệ học sinh tích cực học
tập
e. Giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học
Câu 5: Khi giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD ở trên lớp
các em thường có biểu hiện gì dưới đây? (Ghi chú: Mức độ 1 - Rất tích cực; Mức độ
2 - Tích cực; Mức độ 3 - Ít tích cực; Mức độ 4 - Không tích cực)
Mức độ STT Các biểu hiện 1 2 3 4
1 Tham gia tình huống, tham gia đóng vai, diễn xuất
2 Tham gia thảo luận
3 Nêu và trao đổi ý kiến với bạn
4 Nêu và trao đổi ý kiến với giáo viên
5 Chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè
6 Trình bày quan điểm của mình trước lớp
7 Đóng góp ý kiến xây dựng bài
8 Hoàn thành các nội dung do giáo viên giao cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xin chân thành cảm ơn các em đã cộng tác!
Phụ lục 4
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA HỌC SINH LỚP THỰC NGHIỆM
Câu 1: Em có hiểu bài học hôm nay không?
a. Có hiểu bài
b. Hiểu ít
c. Không hiểu bài
d. Phân vân
Câu 2: Khi sử dụng PPĐV vào dạy học, sự hứng thú học tập của em đạt ở mức độ
nào dưới đây?
a. Rất hứng thú
b. Hứng thú
c. Bình thường
d. Ít hứng thú
e. Không hứng thú
Câu 3: Cảm nhận của em về giờ học có sử dụng PPĐV?
a. Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi hơn
b. Bình thường như những giờ học khác
c. Không thích giờ học như vậy
Câu 4: Sử dụng PPĐV giúp em rèn luyện các kỹ năng nào? (có thể chọn một hoặc
nhiều câu trả lời)
a. Hình thành ở học sinh kỹ năng giao tiếp, hợp tác
b. Hình thành ở học sinh kỹ năng đánh giá, tư duy phản biện
c. Tất cả các kỹ năng trên
Câu 5: Mức độ ghi nhớ của học sinh sau bài học này so với các bài học mà giáo
viên dạy bằng các phương pháp khác?
a. Bài học được ghi nhớ ngay trên lớp
b. Chỉ nhớ được một số nội dung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
c. Không nhớ được nội dung bài học
Câu 6: Em có mong muốn tiếp tục được giáo viên sử dụng PPĐV trong dạy học
môn GDCD lớp 10 không?
a. Rất muốn
b. Bình thường
c. Không thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xin chân thành cảm ơn các em đã cộng tác!
Phụ lục 5
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA HỌC SINH LỚP ĐỐI CHỨNG
Câu 1: Em có hiểu bài học hôm nay không?
a. Có hiểu bài
b. Hiểu ít
c. Không hiểu bài
d. Phân vân
Câu 2: Với PPDH của giáo viên hôm nay, sự hứng thú học tập của em đạt ở mức
độ nào dưới đây?
a. Rất hứng thú
b. Hứng thú
c. Bình thường
d. Ít hứng thú
e. Không hứng thú
Câu 3: Cảm nhận của em về giờ học hôm nay?
a. Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi hơn
b. Bình thường như những giờ học khác
c. Không thích giờ học như vậy
Câu 4: Mức độ ghi nhớ của học sinh sau bài học này so với các bài học mà giáo
viên dạy bằng các phương pháp khác?
a. Bài học được ghi nhớ ngay trên lớp
b. Chỉ nhớ được một số nội dung
c. Không nhớ được nội dung bài học
Câu 5: Em có mong muốn được tiếp tục học theo PPDH này không?
a. Rất muốn
b. Bình thường
c. Không thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xin chân thành cảm ơn các em đã cộng tác!
Phụ lục 6
THIẾT KẾ GIÁO ÁN 1
BÀI 11: MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC
(tiết 2)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này, học sinh cần đạt được các yêu cầu sau:
1. Về kiến thức:
- Hiểu được thế nào là nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc.
2. Về kĩ năng:
- Biết giữ gìn nhân phẩm, danh dự của bản thân.
- Biết phấn đấu cho hạnh phúc của bản thân và xã hội.
3. Về thái độ:
- Coi trọng việc giữ gìn nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc.
- Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
B. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN Ở HỌC SINH
- Năng lực tự nhận thức
- Năng lực phản biện
- Năng lực đánh giá và tự đánh giá
C. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT DẠY HỌC CÓ THỂ SỬ DỤNG
Đóng vai, đàm thoại, thuyết trình, thảo luận nhóm, thảo luận lớp, tình huống,
động não.
D. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10.
- Giáo viên có thể sử dụng thêm một số tranh ảnh, tư liệu liên quan đến bài học.
- Giáo viên có thể sử dụng kết hợp các tài liệu, phương tiện nói trên với các phấn
maềm dạy học như PowerPoint,... với sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học như máy vi
tính, máy Projector, màn chiếu....
E. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Trong bài này học sinh được thực hiện các hoạt động thông qua các hình thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tự học cá nhân, học theo nhóm và cả lớp.
- Phương pháp, kỹ thuật dạy học: Đóng vai, động não, thảo luận nhóm... học
sinh tham gia vào các hoạt động, đặt mình vào các tình huống giả định liên quan đến
nội dung bài học.
I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
* Mục tiêu: Học sinh đóng vai, bày tỏ quan điểm về sự việc xảy ra, từ đó dẫn
dắt học sinh vào nội dung bài học.
* Phương thức tổ chức hoạt động: Giáo viên nêu tình huống giả định, học sinh
tiếp nhận, trải nghiệm qua vai diễn.
Chuẩn bị: Khi kết thúc 2 đơn vị kiến thức "Nghĩa vụ, Lương tâm", GV giao
nhiệm vụ học tập cho HS chuẩn bị cho tiết sau, "Nhân phẩm, Danh dự, hạnh phúc".
GV phân lớp học thành 2 nhóm, giao tình huống đóng vai, nêu yêu cầu, nhiệm vụ cho
mỗi nhóm. Các nhóm có thể lựa chọn tình huống gợi ý của GV để xây dựng kịch bản
đóng vai hoặc tìm tình huống mới (có nội dung tương tự)
- Nhóm 1: Tìm hiểu thế nào là nhân phẩm.
- Nhóm 2: Tìm hiểu thế nào là danh dự.
Yêu cầu chung: Mỗi nhóm được thực hiện một kịch bản trong thời gian từ 5 đến
7 phút. Ngôn ngữ thể hiện phù hợp, trang phục tự chọn, khuyến khích có sử dụng đạo
cụ nhưng đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, tiện ích.
Các tình huống gợi ý:
*Đơn vị kiến thức 1:
a, Nhân phẩm.
Tình huống: An mượn sách của Nam và có ý định lấy luôn không trả. Khi Nam
hỏi thì An nói dối là đã đánh mất và tự nhủ rằng “ăn trộm sách để tích lũy tri thức thì
có gì là đáng xấu hổ”.
b, Danh dự.
My nhà nghèo phải đi bán vé số để kiếm sống, một người khách thấy thương hại
cho tiền nhưng My từ chối không nhận và nói: “Cháu không nhận đâu, xin cảm ơn ông,
cháu chỉ dùng những đồng tiền do cháu tự lao động làm ra thôi”.
1. Ổn định tổ chức lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2. Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Em hiểu lương tâm là gì? Là học sinh em phải rèn luyện như thế nào
để trở thành người có lương tâm?
HS: Trả lời
GV: Nhận xét, đánh giá, cho điểm
3. Giảng bài mới
Giới thiệu bài:
GV: Nghĩa vụ và lương tâm là những phạm trù đạo đức cơ bản, mỗi con người phải
luôn tự rèn luyện bản thân, thực hiện tốt nghĩa vụ và sống có lương tâm trong sáng.
Điều đó giúp tạo ra cho mỗi cá nhân những phẩm chất nhất định, những phẩm chất này
làm nên giá trị của cá nhân, đó là nhân phẩm, danh dự. Để làm sáng tỏ vấn đề này,
chúng ta tiếp tục tìm hiểu nội dung bài học hôm nay.
* Kết quả mong đợi từ hoạt động: Quan điểm bày tỏ của học sinh
II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1. Học sinh tìm hiểu khái niệm nhân phẩm
* Mục tiêu: Học sinh biết được thế nào là nhân phẩm
* Phương thức tổ chức hoạt động
GV: Yêu cầu nhóm 1 thể hiện kịch bản đóng vai 3. Nhân phẩm và danh dự
đã chuẩn bị. a. Nhân phẩm là gì?
GV: Quy định thời gian thể hiện không quá 7 phút,
trong khi nhóm 1 thể hiện, tất cả HS khác phải chú
ý, theo dõi, sau đó nhận xét, đặt ra câu hỏi cho
nhóm 1, tranh luận. (Nhóm 1 có thể thể hiện kịch
bản do GV gợi ý hoặc do nhóm tự xây dựng tình
huống mới tương tự).
Câu hỏi sau phần diễn:
1: Em có nhận xét và đánh giá như thế nào về hành
vi của bạn An ?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
HS khác bổ sung
GV: Nhận xét: An đã lợi dụng lòng tốt của bạn để
mượn sách và cố tình quên đi. Như vậy là An muốn
biến tài sản của bạn thành tài sản của mình.
Việc làm của An không hợp với chuẩn mực đạo đức
xã hội. An đã tự làm hoen ố nhân phẩm của mình.
GV: Vậy theo các em nhân phẩm là gì?
HS: Suy nghĩ, trả lời.
HS: Nhận xét, bổ sung.
- Nhân phẩm là toàn bộ nhứng GV: Nhận xét, kết luận:
phẩm chất mà mỗi người có HS: ghi bài
được. Nói cách khác, nhân
phẩm là giá trị làm người của
mỗi người.
* Biểu hiện của nhân phẩm.
GV: Mỗi người đều có những phẩm chất nhất định,
những phẩm chất này làm nên giá trị của cá nhân
đó gọi là nhân phẩm.
2. Việc làm của bạn An có được coi là thực hiện tốt
nghĩa vụ và chuẩn mực đạo đức chưa? Tại sao?
- HS: Suy nghĩ, trả lời
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận.
Việc làm của bạn An chưa phù hợp với trách nhiệm
của học sinh nói riêng và chuẩn mực đạo đức xã
hội nói chung. Do đó, ngay từ khi còn đang ngồi
trên nghế nhà trường, chúng ta cần phải học tập và
rèn luyện đạo đức để có lương tâm trong sáng, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh.
3. Theo em, người có nhân phẩm có những biểu hiện
nào? Ai sẽ đánh giá nhân phẩm của một con người?
- HS: Suy nghĩ, trả lời
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận về biểu hiện và
ý nghĩa của người có nhân phẩm.
- Có lương tâm trong sáng. - HS: Ghi bài
- Có nhu cầu vật chất và tinh
thần lành mạnh.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức.
- Thực hiện tốt chuẩn mực đạo
đức tiến bộ.
- Xã hội đánh giá cao người có
- GV: Yêu cầu HS tìm những câu ca dao, tục ngữ nhân phẩm.
và những tấm gương về giữ gìn nhân phẩm.
- HS: Suy nghĩ, trả lời.
- HS: Nhận xét, bổ sung.
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận
VD: Tục ngữ:
“Đói cho sạch, rách cho thơm”
“Giấy rách phải giữ lấy lề”
VD: Tấm gương giữ gìn nhân phẩm: Nguyễn Trãi,
Bác Hồ....
- HS: chú ý lắng nghe
- GV: Kết luận:
Khi con người tạo ra cho mình những giá trị
đạo đức, giá trị làm người được xã hội công nhận
thì người đó có danh dự, vậy danh dự là gì, danh
dự có ý nghĩa như thế nào với mỗi cá nhân,chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ta tiếp tục tìm hiểu mục b
* Kết quả mong đợi: Hs học tập tích cực, biết được thế nào là nhân phẩm.
Hoạt động 2: HS tìm hiểu thế nào là danh dự.
* Mục tiêu: - HS biết được thế nào là danh dự, ý nghĩa của danh dự.
- Phân biệt được tự trọng và tự ái
* Phương thức tổ chức hoạt động
GV: Yêu cầu nhóm 2 lên thể hiện kịch bản b. Danh dự
đóng vai đã chuẩn bị. (Thảo luận, nhận xét, * Khái niệm
đánh giá, bổ sung được thực hiện tương tự như
phần thứ nhất).
Hỏi:
a. Em có nhận xét và đánh giá như thế nào
về việc làm của bạn My?
- HS: Suy nghĩ, trả lời.
- HS: Nhận xét, bổ sung.
- GV: Nhận xét, bổ sung.
Chúng ta thấy, tuy còn nhỏ nhưng My là người
có bản lĩnh, biết khắc phục khó khăn lao động
và học tập, không làm điều gì ảnh hưởng tới
danh dự của mình, My là người biết trọng danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dự, thật đáng khen.
Vậy theo em danh dự là gì? Tại sao giữ gìn
danh dự là sức mạnh tinh thần?
- HS: Suy nghĩ, trả lời.
- HS: Nhận xét, bổ sung.
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận - Danh dự là sự coi trọng, đánh giá
cao của dư luận xã hội đối với một
người dựa trên các giá trị tinh thần,
đạo đức của người đó. Do vậy danh
dự là nhân phẩm được đánh giá và
công nhận.
b. Theo em, nhân phẩm và danh dự có quan hệ
với nhau hay không?
HS: Cả lớp cùng trao đổi.
GV: Nhận xét, bổ sung các ý kiến.
Danh dự và nhân phẩm là hai phạm trù đạo đức
khác nhau nhưng lại có quan hệ biện chứng
với nhau. Nhân phẩm là giá trị làm người, còn
danh dự là kết quả xây dựng và bảo vệ nhân
phẩm
* Ý nghĩa:
- Danh dự và nhân phẩm có quan hệ
mật thiết với nhau.
- Giữ gìn danh dự là sức mạnh tinh
thần của mỗi người.
GV: Khi một cá nhân biết tôn trọng và bảo vệ
danh dự của mình thì người đó được coi là có
lòng tự trọng
GV: Gợi ý cho học sinh lấy ví dụ chứng minh. * Lòng tự trọng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Bạn My không nhận số tiền được cho thêm.
- Thầy giáo không nhận tiền của phụ huynh
xin điểm cho con.
Hỏi:
Những cá nhân trên có đưc tính gì?
Họ làm như vậy có ý nghĩa gì?
- HS: Suy nghĩ, trả lời.
- HS: Nhận xét, bổ sung.
- GV: Nhận xét, bổ sung.
Người có lòng tự trọng biết làm chủ các nhu
cầu bản thân, kìm chế nhu cầu, ham muốn
không chính đáng và cố gắng tuân theo các
quy tắc, chuẩn mực đạo đức tiến bộ của xã hội,
đồng thời biết quý trọng danh dự nhân phẩm
của người khác. - Khái niệm:
Lòng tự trọng là ý thức và tình cảm
của mỗi cá nhân tôn trọng và bảo vệ
nhân phẩm và danh dự của chính
mình.
- Biểu hiện:
+ Làm chủ các nhu cầu của bản
thân, kiềm chế các nhu cầu ham
muốn không chính đáng.
+ Tuân theo chuẩn mực đạo đức tiến bộ.
+ Quý trọng nhân phẩm danh dự của
người khác.
GV: Đưa ra câu hỏi
1. Em đã tự ái bao giờ chưa? Ví dụ.
HS: Suy nghĩ, trả lời
HS: Bổ sung, nhận xét.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
GV: Tổng hợp ý kiến.
2. Tự ái có lợi hay có hại?
3. So sánh tự trọng và tự ái.
HS: Suy nghĩ, trả lời
HS: Bổ sung, nhận xét.
GV: Nhận xét, kết luận
Tự trọng khác với tự ái. Tự ái là quá đề cao cái
tôi của bản thân nên thường có thái độ bực tức,
khó chịu, giận dỗi khi mình bị đánh giá thấp.
Người tự ái thường không muốn ai khuyên bảo
mình, phản ứng thiếu sáng suốt và sai lầm. Tự
ái là đức tính không tốt cần loại bỏ.
Kết quả mong đợi:
- Hs biết thế nào là danh dự, phân biệt được tự trọng và tự ái.
Hoạt động 3: HS tìm hiểu thế nào là hạnh phúc
* Mục tiêu: Học sinh biết được thế nào là hạnh phúc
* Phương thức tổ chức hoạt động
- GV: Thuyết trình 4. Hạnh phúc
Hạnh phúc là một phạm trù trung tâm của đạo a. Hạnh phúc là gì?
đức học. Trong lịch sử từng tôn tại nhiều quan
niệm khác nhau về hạnh phúc, sở dĩ có những
quan niệm khác nhau ấy là vì hạnh phúc gắn
với cảm nhận, đánh giá cúa cá nhân, xã hội về
cuộc sống thực tại.
- GV đặt câu hỏi cho HS:
1. Em hiểu thế nào là nhu cầu vật chất và tinh
thần?
2. Em hãy nêu một số nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người?
3. Khi con người được thoả mãn nhu cầu thì
xuất hiện cảm xúc gì? Cảm xúc đó gọi là gì?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
4. Em hãy lấy ví dụ về hạnh phúc.
- HS: cả lớp cùng trao đổi, thảo luận
- GV: liệt kê ý kiến lên bảng phụ
- GV: nhận xét, bổ sung, kết luận
- GV nhấn mạnh tính chân chính và lành mạnh
của các nhu cầu. Trên thực tế có những nhu cầu
không lành mạnh, thiếu đạo đức.
- HS: Ghi bài - Hạnh phúc là cảm xúc vui sướng,
hài lòng của con người trong cuộc
sống khi được đáp ứng, thoả mãn
các nhu cầu chân chính, lành mạnh
về vật chất và tinh thần.
* Kết quả mong đợi: Hs làm việc cá nhân tích cực; Biết được thế nào là hạnh phúc.
Hoạt động 4: HS đọc thêm tìm hiểu hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội
* Mục tiêu: Biết phấn đấu cho hạnh phúc cá nhân và xã hội.
* Phương thức tổ chức hoạt động.
GV: Yêu cầu học sinh đọc thêm trên lớp (Nếu b. Hạnh phúc cá nhân và hạnh
còn thời gian, nếu không còn thời gian yêu cầu phúc xã hội (Đọc thêm)
học sinh đọc bài ở nhà)
Cuối cùng GV đánh giá kết quả thực hiện kịch
bản và đóng vai của cả hai nhóm, nhận xét
những ưu điểm, nhược điểm khi các em thể
hiện tình huống, khen ngợi và động viên các
học sinh đã tham gia thể hiện.
* Kết quả mong đợi: HS làm việc cá nhân tích cực; Biết phấn đáu cho hạnh phúc
cá nhân và xã hội.
III. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
* Mục tiêu: HS củng cố và hoàn thiện kiến thức, biết được thế nào là nhân
phẩm, danh dự, hạnh phúc, phân biệt được tự trọng và tự ái. Đồng thời, rèn cho học
sinh luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng lập luận, kỹ năng trình bày quan điểm
cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
Câu 1. Để trở thành người có lương tâm, học sinh cần thực hiện điều nào dưới đây?
A. Có tình cảm đạo đức trong sáng
B. Hạn chế giao lưu với bạn xấu
C. Chăm chỉ lao động
D. Chăm chỉ học tập
Câu 2. Sự coi trọng đánh giá cao của dư luận xã hội đối với mọi người phải dựa trên
các giá trị tinh thần, đạo đức của người đó gọi là?
A. Tự trọng B. Danh dự
C. Hạnh phúc D. Nghĩa vụ
Câu 3. Hành vi nào dưới đây thể hiện người không có nhân phẩm?
A. Bán hàng giả, hàng kém chất lượng
B. Bán hàng đúng giá cả thị trường
C. Giúp đỡ người nghèo
D. ủng hộ đồng bào lũ lụt
IV. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG
* Mục tiêu: HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng lập luận để viết một bài luận
về hạnh phúc của một học sinh trung học.
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập.
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
V. HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG
* Mục tiêu:
HS tiếp tục tìm tòi, mở rộng hiểu biết về nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc
bằng cách sưu tầm và chia sẻ suy nghĩ về những câu chuyện việc giữ gìn nhân phẩm,
danh dự và hạnh phúc.
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS làm việc cá nhân:
Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, bài thơ, bài hát, câu chuyện nói về giữ gìn
nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc.
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
VI. RÚT KINH NGHIỆM SAU TIẾT DẠY
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phụ lục 7
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2
BÀI 13: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG
(tiết 2)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này, học sinh cần đạt được các yêu cầu sau:
1. Về kiến thức:
- Biết được Hoà nhập, hợp tác là gì và vai trò của Hoà nhập, hợp tác đối với cuộc
sống của con người.
- Hiểu được Hoà nhập, hợp tác là những yêu cầu đạo đức của người công dân
hiện nay trong mối quan hệ với cộng đồng nơi ở và tập thể lớp học, trường học.
2. Về kĩ năng:
- Biết sống Hoà nhập, hợp tác với mọi người xung quanh.
3. Về thái độ:
- Yêu quý, gắn bó với lớp, với trường, với cộng đồng nơi ở.
B. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN Ở HỌC SINH
- Năng lực tự nhận thức.
- Năng lực giao tiếp.
- Năng lực giải quyết tình huống.
- Năng lực tự học.
C. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT DẠY HỌC CÓ THỂ SỬ DỤNG
Đóng vai, đàm thoại, thuyết trình, thảo luận nhóm, thảo luận lớp, động não.
D. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10, phiếu học tập.
- GV có thể sử dụng thêm một số trang ảnh, tư liệu liên quan đến bài học.
- GV có thể sử dụng kết hợp các tài liệu, phương tiện nói trên với các phấn mềm
dạy học như PowerPoint,...với sự hỗ trợ của các thiết bọi dạy học như máy vi tính, máy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Projector, màn chiếu....
E. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Trong bài này học sinh được thực hiện các hoạt động thông qua các hình thức:
Tự học cá nhân, học theo nhóm và cả lớp.
- Phương pháp, kỹ thuật dạy học: Đóng vai, động não, thảo luận nhóm....học
sinh tham gia vào các hoạt động, đặt mình vào các tình huống giả định liên quan đến
nội dung bài học.
I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
* Mục tiêu: Học sinh đóng vai, bày tỏ quan điểm về sự việc xảy ra, từ đó dẫn
dắt học sinh vào nội dung bài học.
* Phương thức tổ chức hoạt động: Giáo viên nêu tình huống giả định, học sinh
tiếp nhận, trải nghiệm qua vai diễn.
Chuẩn bị: Khi kết thúc 2 đơn vị kiến thức “Cộng đồng, Trách nhiệm của công
dân với cộng đồng (mục a)”, GV giao nhiệm vụ học tập cho HS chuẩn bị cho tiết sau,
"Trách nhiệm của công dân với cộng đồng (mục b,c)". GV phân lớp học thành 2 nhóm,
giao tình huống đóng vai, nêu yêu cầu, nhiệm vụ cho mỗi nhóm. Các nhóm có thể lựa
chọn tình huống gợi ý của GV để xây dựng kịch bản đóng vai hoặc tìm tình huống mới
(có nội dung tương tự).
- Nhóm 1, nhóm 2: Tìm hiểu thế nào là Hòa nhập; Hợp tác.
Yêu cầu chung: Mỗi nhóm được thực hiện một kịch bản trong thời gian từ 5 đến
7 phút. Ngôn ngữ thể hiện phù hợp, trang phục tự chọn, khuyến khích có sử dụng đạo
cụ nhưng đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, tiện ích.
Các tình huống gợi ý:
*Đơn vị kiến thức 2:
Bạn Hải có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bố mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng,
Hải sống cùng ông bà nội đã già cả, gia đình chỉ trông vào gánh hàng rau mỗi sáng của
bà. Bản thân Hải bị khuyết tật từ nhỏ, hai chân không đi lại được. Biết được hoàn cảnh
của Hải, cô giáo chủ nhiệm và các bạn trong lớp đã luôn động viên, giúp đỡ tạo mọi
điều kiện để Hải được đến trường. Chính vì thế, Hải không bao giờ cảm thấy mặc cảm,
tự ti, Hải luôn vui vẻ, chan hòa với các bạn, luôn vượt lên trên hoàn cảnh đạt thành tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cao trong học tập.
GV gợi ý:
+ Vai cô giáo: Sống trong tập thể các em phải biết quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau.
+ Vai lớp trưởng: Kêu gọi các bạn quyên góp tiền giúp Hải đóng học phí, phân
công các nhóm thay nhau giúp đỡ đưa hải đi học.
+ Vai bạn thân của Hải: Giúp Hải học tập và làm một số công việc nhà.
Các nhóm có thể đóng vai theo gợi ý hoặc tự xây dựng kịch bản sao cho phù hợp.
* Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Em hiểu nhân nghĩa là gì? Biểu hiện của nhân nghĩa? Nêu những việc
làm của em thể hiện lòng nhân nghĩa?
HS: Trả lời
GV: Nhận xét, đánh giá, cho điểm
3. Giảng bài mới
* GV thuyết trình dẫn dắt HS vào bài mới: Như chúng ta biết, cộng đồng là toàn thể
những người cùng chung sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong
sinh hoạt xã hội. Trong đó các cá nhân thực hiện sự liên kết, hợp tác với nhau tạo nên
đời sống của mình và cộng đồng. Tuy nhiên không phải ai cũng hòa nhập được với
cộng đồng và xã hội, vậy để hiểu thế nào là hòa nhập, chúng ta cùng tìm hiểu tiếp phần
2.
* Kết quả mong đợi từ hoạt động: Thu hút HS vào bài học
II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1. Học sinh tìm hiểu khái niệm hòa nhập
* Mục tiêu: HS hiểu được khái niệm hòa nhập
* Phương thức tổ chức hoạt động
GV: Yêu cầu nhóm 1, nhóm 2 lần lượt thể hiện kịch bản 2. Trách nhiệm của công
đóng vai đã chuẩn bị. dân đối với cộng đồng
GV: Quy định thời gian thể hiện không quá 7 phút, b. Hòa nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong khi 2 nhóm thể hiện, tất cả HS khác phải chú ý,
theo dõi, sau đó nhận xét, đặt ra câu hỏi cho từng nhóm,
tranh luận. (Nhóm 1, nhóm 2 có thể thể hiện kịch bản do
GV gợi ý hoặc do nhóm tự xây dựng tình huống mới
tương tự).
Câu hỏi sau phần diễn:
? Hãy nói lên suy nghĩ của mình về nhân vật Hải trong
câu chuyện?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến cá nhân.
HS: Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận
Qua câu chuyện có rất nhiều điều có ý nghĩa mà chúng
ta cần học tập, song với phạm vi của bài học này ta thấy
bạn Hải đã sống gần gũi, chan hòa không vì hoàn cảnh
mà mặc cảm, tự ti, không xa lánh mọi người. Đó chính
là biểu hiện rõ nhất cho thấy sự hòa nhập của cá nhân
đối với cộng đồng.
GV: Vậy theo các em thế nào là sống hòa nhập?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến cá nhân.
HS: Nhận xét, bổ sung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận
Sống hòa nhập là sống
gần gũi, chan hòa, không
xa lánh mọi người; không
gây mâu thuẫn, bất hòa
với người khác; có ý thức
tham gia các hoạt động
của cộng đồng.
GV: Em có nhận xét gì về lời nói, việc làm của các bạn
qua các vai diễn?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS; Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung.
Qua phần diễn xuất của cả hai nhóm có thể thấy các bạn
đã biết thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân
một cách tích cực, biết cố gắng vì một mục tiêu chung,
khi thấy các bạn vui đó là niềm vui chung của cả tập thể.
GV: Vậy khi con người sống hòa nhập sẽ mang lại cho
chúng ta ý nghĩa như thế nào?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến cá nhân.
HS; Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận
GV: Vậy theo các em là học sinh chúng ta phải rèn luyện
như thế nào để sống hào nhập?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến cá nhân. *Ý nghĩa: HS: Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận
Thêm nhiều niềm vui và
- GV: Cho HS xem một số hình ảnh minh họa về hòa sức mạnh giúp ta vượt qua
nhập khó khăn trong cuộc sống.
*HS cần phải rèn luyện
như thế nào?
Tôn trọng, đoàn kết, quan
tâm, giúp đỡ, cởi mở,
chan hòa với bạn bè, thầy
cô giáo và mọi người
xung quanh.
Tích cực tham gia các
hoạt động tập thể, hoạt
động xã hội do nhà trường
và địa phương tổ chức,
đồng thời vận động mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người cùng tham gia.
GV: Hãy tìm một số câu ca dao, tục ngữ có ý nghĩa nói
về hòa nhập.
Chung lưng đấu cật
Đồng cam, cộng khổ
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
* Kết quả mong đợi: HS hoàn thành hoạt động đóng vai, từ đó hiểu được khái niệm
hòa nhập.
Hoạt động 2: Học sinh tìm hiểu thế nào là Hợp tác
* Mục tiêu: HS hiểu thế nào là hợp tác, biểu hiện của hợp tác.
* Phương thức tổ chức hoạt động:
GV Kể câu chuyện “Bó đũa” c. Hợp tác
GV: Yêu cầu học sinh nêu lên ý nghĩa của câu chuyện.
- HS: Trình bày ý kiến cá nhân.
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận.
- Khái niệm hợp tác. Hợp tác là cùng chung sức
làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ
lẫn nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó
vì mục đích chung.
*Biểu hiện của hợp tác.
GV: Để có thể thành công khi đóng vai các tình huống
mà cô yêu cầu, các em đã làm những công việc gì?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- Cùng bàn bạc, phối hợp - HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Liệt kê, bổ sung, kết luận. nhịp nhàng.
- Hiểu biết về nhiệm vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của nhau.
- Sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ
- GV: Vậy tại sao chúng ta phải hợp tác?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Liệt kê, bổ sung, kết luận. - Ý nghĩa của hợp tác.
Mỗi chúng ta đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng,
sự hợp tác sẽ giúp con người hỗ trợ, bổ sung cho nhau
giúp đem lại hiệu quả cao trong công việc.Đó cũng chính - Hợp tác giúp tạo nên sức
là ý nghĩa của hợp tác. mạnh về tinh thần và vật
chất.
- Đem lại chất lượng và
hiệu quả cao trong công
việc.
- Là yêu cầu đạo đức quan
trong của con người trong
GV: Có phải lúc nào chúng ta cũng có thể hợp tác với xã hội hiện đại.
người khác hay không? Tại sao?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Nhận xét, bổ sung.
Tùy thuộc vào mục đích, động cơ xuất phát của từng
công việc mà chung ta lựa chọn có nên hợp tác hay
không (những việc làm vi phạm pháp luật thì nhất định
không thể hợp tác)
GV: Hợp tác là tùy ý hay phải tuân theo nguyên tắc nào?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến. *Nguyên tắc:
- GV: Nhận xét, kết luận.
Trong hợp tác, muốn tạo ra hiệu quả cao thì phải tuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
theo những nguyên tắc cơ bản.
- Tự nguyện, bình đẳng.
- Hai bên cùng có lợi
*Các mức độ hợp tác:
- Hợp tác song phương, đa
phương.
- Hợp tác từng lĩnh vực
hoặc toàn diện.
- Hợp tác giữa các cá
- GV: Cho học sinh lấy ví dụ về các loại hợp tác. nhân, giữa cộng đồng,
quốc gia, dân tộc. - HS: Suy nghĩ, lấy ví dụ.
- GV: Nhận xét, lấy ví dụ cụ thể.
GV: Là học sinh, các em phải thực hiện hợp tác như thế
nào trong học tập, trong hoạt động chung?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến. *Liên hệ thực tế:
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận.
- Cùng nhau bàn bạc,
phân công, xây dựng kế
hoạch cụ thể.
- Nghiêm túc thực hiện.
- Phối hợp nhịp nhàng,
Cuối cùng GV đánh giá kết quả thực hiện kịch bản và đóng góp sáng kiến cho
đóng vai của cả hai nhóm, nhận xét những ưu điểm, nhau.
nhược điểm khi các em thể hiện tình huống, khen ngợi - Đánh giá và rút ra kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và động viên các học sinh đã tham gia thể hiện. nghiệm.
* Kết quả mong đợi: HS tích cực làm việc cá nhân, thảo luận lớp có hiệu quả, hiểu
được thế nào là hợp tác,biểu hiện ,ý nghĩa của hợp tác.
III. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
* Mục tiêu: HS củng cố và hoàn thiện kiến thức, hiểu rõ thế nào là hòa nhập,
thế nào là hợp tác và những biểu hiện của hợp tác. Đồng thời rèn luyện kỹ giao tiếp, kỹ
năng lập luận, đánh giá, kỹ năng trình bày quan điểm cá nhân.
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập.
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
Câu 1. Sống vui vẻ, cởi mở, chan hòa với thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh là:
A. Sống thân thiện B. Sống hòa nhập.
C. Sống vô tư. D. Sống hợp tác.
Câu 2. Sống gần gũi với mọi người và có ý thức tham gia các hoạt động chung của
cộng đồng là biểu hiện của:
A. Sống có trách nhiệm. B. Sống hòa nhập.
C. Sống hợp tác D. Sống tích cực.
Câu 3. Người sống hòa nhập với cộng đồng sẽ có thêm niềm vui và sức mạnh:
A. Trong một số trường hợp C. Để làm giàu cho gia đình mình
B. Vượt qua khó khăn trong cuộc sống D. Để chinh phục thiên nhiên.
IV. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG
* Mục tiêu: HS vận dụng các kiến thức đã học để trả lời câu hỏi: Em hiểu thế
nào về quan điểm của Đảng ta: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước.”
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập.
* Kết quả mong đợi: sản phẩm của HS theo yêu cầu.
V. HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG
* Mục tiêu: HS tiếp tục tìm tòi, mở rộng hiểu biết về sống hòa nhập, sống hợp
tác để từ đó biết định hướng cho hành vi đạo đức trở thành thói quen đạo đức.
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS làm việc cá nhân:
- Sưu tầm những câu chuyện, những tấm gương điển hình về sống hòa nhập,sống
hợp tác.
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
VI. RÚT KINH NGHIỆM SAU TIẾT DẠY
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
..............................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Phụ lục 8
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 3
BÀI 14: CÔNG DÂN VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này, học sinh cần đạt được các yêu cầu sau:
1. Về kiến thức:
- Hiểu được thế nào là lòng yêu nước và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
2. Về kĩ năng:
- Tự giác tham gia các hoạt động xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước phù hợp
với khả năng của bản thân
3. Về thái độ:
- Yêu quý, tự hào về quê hương, đất nước, dân tộc.
B. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN Ở HỌC SINH
- Năng lực tự nhận thức
- Năng lực đánh giá
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác
C. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT DẠY HỌC CÓ THỂ SỬ DỤNG
Đóng vai, đàm thoại, thuyết trình, thảo luận nhóm, thảo luận lớp, động não.
D. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10; phiếu học tập.
- Giáo viên có thể sử dụng thêm một số trang ảnh, tư liệu liên quan đến bài học.
- Giáo viên có thể sử dụng kết hợp các tài liệu, phương tiện nói trên với các phấn
mềm dạy học như PowerPoint,... với sự hỗ trợ của các thiết bọi dạy học như máy vi
tính, máy Projector, màn chiếu....
E. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Trong bài này học sinh được thực hiện các hoạt động thông qua các hình thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tự học cá nhân, học theo nhóm và cả lớp.
- Phương pháp, kỹ thuật dạy học: Đóng vai, động não, thảo luận nhóm.... học
sinh tham gia vào các hoạt động, đặt mình vào các tình huống giả định liên quan đến
nội dung bài học.
I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
* Mục tiêu: Học sinh đóng vai, bày tỏ quan điểm về sự việc xảy ra. Từ đó dẫn
dắt học sinh vào nội dung bài học.
* Phương thức tổ chức hoạt động:
Giáo viên nêu tình huống giả định, học sinh tiếp nhận, trải nghiệm qua đóng vai.
Chuẩn bị: Khi kết thúc bài 13 "Công dân với cộng đồng", GV giao nhiệm vụ
học tập cho HS chuẩn bị cho tiết sau, "Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc". GV phân lớp học thành 2 nhóm, giao tình huống đóng vai, yêu cầu, nhiệm vụ
cho mỗi nhóm. Các nhóm có thể lựa chọn tình huống gợi ý của GV để xây dựng kịch
bản đóng vai hoặc tìm tình huống mới (có nội dung tương tự)
- Nhóm 1: Tìm hiểu lòng yêu nước là gì.
- Nhóm 2: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Yêu cầu chung: Mỗi nhóm được thực hiện một kịch bản trong thời gian từ 5 đến
7 phút. Ngôn ngữ thể hiện phù hợp, trang phục tự chọn, khuyến khích có sử dụng đạo
cụ nhưng đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, tiện ích.
Các tình huống gợi ý:
*Đơn vị kiến thức 1:
a, Lòng yêu nước là gì?
Tình huống: Anh trai Hùng có giấy gọi nhập ngũ. Bố mẹ Hùng không muốn con
đi bộ đội nên bàn cách xin cho con ở lại.
c, Biểu hiện của lòng yêu nước.
Tình huống: Thanh tốt nghiệp đại học với tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi, một số
công ty lớn đã đồng ý tuyển dụng cô, bạn bè khuyên Thanh ở lại Thành phố để tìm
kiếm cơ hội cho mình nhưng Thanh vẫn quyết định về làm việc tại quê nhà với mơ ước
luôn ấp ủ trong lòng cô là được góp công sức của mình phục vụ quê hương.
1. Ổn định tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2. Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Hợp tác là gì? Biểu hiện của hợp tác? Học sinh phải làm gì để rèn luyện
tinh thần hợp tác?
HS: Trả lời
GV: Nhận xét, đánh giá, cho điểm
3. Giảng bài mới
Giáo viên dẫn dắt: Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc! Nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Mỗi người đều có Tổ quốc của mình, đó là tên gọi đất nước ta một cách thiêng
liêng, trừu mến nhất. Là công dân Việt Nam, chúng ta phải có trách nhiệm như thế nào
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mình.
* Kết quả mong đợi từ hoạt động: Học sinh hiểu thế nào là lòng yêu nước.
II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1. Học sinh tìm hiểu lòng yêu nước và truyền thống yêu nước của
dân tộc Việt Nam
* Mục tiêu: HS hiểu được thế nào lòng yêu nước và truyền thống yêu nước của dân
tộc Việt Nam
* Phương thức tổ chức hoạt động
1.Lòng yêu nước
a. Lòng yêu nước là gì?
- GV: Yêu cầu nhóm 1 thể hiện kịch bản đã
chuẩn bị.
GV: Quy định thời gian thể hiện không quá 7
phút, trong khi nhóm 1 thể hiện, tất cả HS khác
phải chú ý, theo dõi, sau đó nhận xét, đặt ra câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hỏi cho nhóm 1, tranh luận. (Nhóm 1 có thể thể
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
hiện kịch bản do GV gợi ý hoặc do nhóm tự xây
dựng tình huống mới tương tự)
Kết thúc phần thể hiện, GV điều hành phần thảo
luận, đánh giá. GV khuyến khích HS nêu ý kiến
nhận xét về nội dung kịch bản và diễn xuất.
Câu hỏi sau phần diễn:
Theo em Hùng nên làm gì khi biết ý định của bố
mẹ? Vì sao?
Hùng và anh trai nên thuyết phục bố mẹ như
thế nào?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- HS: Nhận xét, bổ sung
-GV: Nhận xét, bổ xung.
GV giảng giải: Hùng nên nói chuyện với ba mẹ
và phân tích cho ba mẹ hiểu là làm như thế
không đúng, trái với Luật Nghĩa vụ quân sự.
Hùng và anh trai phải thuyết phục bố mẹ, rằng
đi bộ đội là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân
khi đến tuổi trưởng thành. Vào quân ngũ anh trai
Hùng còn được đào tạo và rèn luyện để trở thành
người sống có kỉ luật, có trách nhiệm và có ích.
?Việc tham gia nghĩa vụ quân sự có thể hiện tình
yêu với quê hương đất nước không? Tại sao?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- HS: Nhận xét, bổ sung
-GV: Nhận xét, bổ xung.
GV giải thích: Việc đi nhập ngũ là thể hiện tình
yêu quê hương đất nước, trách nhiệm của cá - Khái niệm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhân đối với quốc gia, dân tộc và đó cũng là cách
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
trang bị kiến thức và sức khỏe phòng khi đất
nước gặp chiến tranh sẽ có thể góp sức mình bảo
vệ Tổ quốc.
GV; Các em hiểu thế nào là lòng yêu nước?
HS: Suy nghĩ, phát biểu ý kiến cá nhân.
HS: Nhận xét, bổ xung.
GV: Liệt kê ý kiến, bổ xung, kết luận. Lòng yêu nước là tình yêu quê
hương, đất nước và tinh thần sẵn
sàng đem hết khả năng của mình
phục vụ lợi ích của tổ quốc.
GV: Yêu nước là tình cảm tự nhiên có từ lâu
đời, là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của
công dân với Tổ quốc nó được lớn dần lên
cùng với sự mở rộng quan hệ của con người
đối với đất nước
GV: Cho học sinh nghe bài hát “Quê hương” và
“Việt Nam quê hương tôi”
GV: Hãy chỉ ra những hình ảnh được nhắc đến
trong 2 bài hát " Quê hương" " Việt Nam quê
hương tôi" mà em cảm thấy gần gũi, thân thương.
? Tác giả đã ví quê hương với những hình
ảnh nào?
- HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
- HS: Nhận xét, bổ sung
- GV liệt kê ý kiến của HS lên bảng.
“Tuổi thơ, lòng mẹ, khôn lớn thành người,
trai tráng, thiếu nữ, xây dựng đất nước...”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“Chùm khế ngọt, con đò nhỏ, cánh diều, con
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
đường đi học, nón lá, rừng dừa, dòng sông,
biển cả, phi lao...”
GV: Theo các em lòng yêu nước bắt nguồn từ đâu?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS: Nhận xét, bổ sung. *Lòng yêu nước bắt nguồn từ:
GV: Nhận xét, liệt kê ý kiến cá nhân lên bảng phụ.
- GV giảng giải: Lòng yêu nước bắt nguồn từ
những tình cảm bình dị nhất và gần gũi nhất
đối với con người như yêu gia đình, người + Tình yêu cha mẹ, anh chị em và
thân, yêu những thành quả lao động do mình mọi người xung quanh.
tạo ra, yêu nơi mình sinh ra và lớn lên, gắn bó
những kỷ niệm thời thơ ấu...Tình cảm ban đầu + Tình yêu quê hương.
đó dần dần phát triển thành tình cảm gắn bó với
làng xóm, quê hương và được nâng lên lòng + Lòng tự hào dân tộc.
yêu nước, yêu nhân dân, yêu nhân loại.
GV: Là công dân, là học sinh em cần phải làm
gì để thể hiện lòng yêu nươc của mình?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS; Nhận xét, bổ xung
GV: Nhận xét, liệt kê ý kiến cá nhân lên bảng phụ. -Thực hiện tốt mọi quy định của
nhà trường, địa phương.
- Có mục tiêu học tập đúng đắn,
không ngừng cố gắng vươn lên
trong học tập.
- Có lối sống lành mạnh. Tránh xa
các tệ nạn xã hội.
* Kết quả mong đợi: HS làm việc nhóm tích cực, biết được thế nào là lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
yêu nước.
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 2: HS tìm hiểu truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
* Mục tiêu: - HS hiểu và tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
* Phương thức tổ chức hoạt động
b. Truyền thống yêu nước của
GV: Yêu cầu nhóm 2 thể hiện kịch bản đóng vai dân tộc Việt Nam
đã chuẩn bị.
GV: Quy định thời gian thể hiện không quá 7
phút, trong khi nhóm 2 thể hiện, tất cả HS khác
phải chú ý, theo dõi, sau đó nhận xét, đặt ra câu
hỏi cho nhóm 2, tranh luận. (Nhóm 2 có thể thể
hiện kịch bản do GV gợi ý hoặc do nhóm tự xây
dựng tình huống mới tương tự).
Kết thúc phần thể hiện, GV điều hành phần thảo
luận, đánh giá. GV khuyến khích HS nêu ý kiến
nhận xét về nội dung kịch bản và diễn xuất.
GV: Em có nhận xét gì về hành động của Thanh?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS; Nhận xét, bổ sung
GV và HS cả lớp đánh giá.
? Theo em quyết định của Thanh có phải là
đúng đắn không? Tại sao?
HS: Suy nghĩ, trả lời.
GV: Nhận xét, bổ sung
GV giải thích: Quyết định của Thanh là một lựa
chọn đúng đắn, thể hiện tinh thần không ngại
khó khăn, vất vả với mong muốn được cống hiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho quê hương.
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
? Việc trở về phục vụ quê hương của Thanh có
được coi là sự phục vụ cho đất nước hay không?
Tại sao?
HS: Trao đổi, đánh giá. Phát biểu ý kiến.
GV: Nhận xét, bổ xung, kết luận.
GV kết luận bằng ý kiến của Bác Hồ về truyền
thống yêu nước của dân tộc ta:
“Dân tộc ta một lòng yêu nước nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
bè lũ cướp nước và bán nước”
GV: Truyền thống yêu nước của dân tộc ta được
thể hiện như thế nào?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến. -Yêu nước là truyền thống dân
HS: Nhận xét, bổ sung tộc
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận. cao quý và thiêng liêng nhất của
dân tộc Việt Nam.
-Là cội nguồn của các giá trị
truyền thống khác.
-Lòng yêu nước được hình thành
và hun đúc từ cuộc đấu tranh liên
tục, gian khổ và kiên cường
chống giặc ngoại xâm và lao
động xây dựng đất nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
* Sự khác nhau:
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
GV: Em hãy so sánh sự khác nhau giữa lòng yêu
nước trong giai đoạn trước với ngày nay?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS: Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận. + Trước đây: Chống giặc ngoại
xâm là hàng đầu.
+ Ngày nay: Xây dựng đất nước
giàu mạnh, bảo vệ tổ quốc và phát
huy truyền thống yêu nước
GV: Yêu nước là tình cảm tự nhiên có từ lâu đời,
là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của công
dân với tổ quốc nó được lớn dần lên cùng với sự
mở rộng quan hệ của con người đối với đất nước
GV: Theo các em yêu nước được biểu hiện như
thế nào?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS; Nhận xét, bổ sung
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận. *Biểu hiện của lòng yêu nước
GV: Vậy là một học sinh, em phải làm gì để góp
phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước?
HS: Suy nghĩ, nêu ý kiến.
HS: Nhận xét, bổ sung
- GV liệt kê ý kiến lên bảng phụ hoặc giấy + Tình cảm gắn bó với quê hương,
khổ lớn. đất nước
- GV nhận xét, tổng hợp ý kiến của HS + Tình thương yêu đối với đồng
bào, giống nòi, dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Lòng tự hào dân tộc chính đáng
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
+ Đoàn kết, kiên cường bất khuất
chóng giặc
+ Cần cù và sáng tạo trong lao động
Cuối cùng GV đánh giá kết quả thực hiện kịch
bản và đóng vai của cả hai nhóm, nhận xét
những ưu điểm, nhược điểm khi các em thể hiện * Bài học thực tiễn:
tình huống, khen ngợi và động viên các học sinh - Nâng cao hiểu biết, phát huy
đã tham gia thể hiện. truyền thống yêu nước của dân tộc.
- Thể hiện lòng yêu nước của
mình trong học tập, lao động và
trong cuộc sống.
- Biết tôn trọng truyền thống, tôn
trọng giá trị đạo đức cao quý
của dân tộc.
Kết quả mong đợi:
- Hs nắm được nội dung và lấy được ví dụ thực tế.
- HS hiểu được trách nhiệm của công dân và rút ra được bài học cho bản thân.
III.HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
* Mục tiêu: HS củng cố và hoàn thiện kiến thức, biết được thế nào lòng yêu
nước, và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Đồng thời rèn luyện kỹ năng
giao tiếp , kỹ năng đánh giá, kỹ năng trình bày quan điểm cá nhân.
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập.
* Kết quả mong đợi: sản phẩm của HS theo yêu cầu.
Câu 01: Lòng yêu nước ở mỗi con người chỉ có thể nảy nở và phát triển trải qua những:
A. Biến cố, thử thách. B. Khó khăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
C. Thiên tai khắc nghiệt. D. Thử thách.
Câu 02: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là:
A. Lịch sử oai hùng của dân tộc ta. B. Thế mạnh của dân tộc ta.
C. Một truyền thống quý báu của dân tộc ta. D. Giá trị truyền thống quý
báu của ta.
Câu 03: Bảo vệ Tổ quốc là quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, cao quý của ….?
A. Những người trưởng thành. B. Thanh niên.
C. Cơ quan, tổ chức. D. Công dân.
IV. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG
* Mục tiêu: HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng giao tiếp để củng cố kiến thưc
đã học
* Phương thức tổ chức hoạt động: HS hoàn thành bài tập.
Bài tập : GV tổ chức trò chơi: Thi hát, đọc thơ, kể chuyện, sưu tầm tục ngữ, ca dao
về “tình yêu quê, đất nước”.
* Kết quả mong đợi: sản phẩm của HS theo yêu cầu.
V. HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG
* Mục tiêu: Học sinh tiếp tục tìm tòi, mở rộng hiểu biết về lòng yêu nước, tryền
thống yêu nước của dân tộc và chia sẻ suy nghĩ về những thông tin liên quan đến bài
học.
* Phương thức tổ chức hoạt động: Hái hoa dân chủ:
- HS nhận câu hỏi và thể hiện phần thi của mình..
* Kết quả mong đợi: Sản phẩm của HS theo yêu cầu.
VI. RÚT KINH NGHIỆM SAU TIẾT DẠY
..............................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
..........................................................................................................................
Phụ lục 9
ĐỀ KIỂM TRA 45’
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN - LỚP 10
NĂM HỌC 2018 - 2019
I. MỤC TIÊU KIỂM TRA
- Đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi học xong các bài: 10,11,12.
- Đánh giá sự thay đổi về nhận thức và hành vi của học sinh theo yêu cầu giáo
dục tại lớp, trường.
II. HÌNH THỨC KIỂM TRA
Trắc nghiệm và tự luận.
III. THIẾT LẬP MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA
Mức độ nhận thức
Vận dụng Chủ Nhận biết Thông hiểu Tổng đề/bài Cấp độ thấp Cấp độ cao
TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL
.
- Nêu được thế nào là đạo đức.
Bài 10. Quan niệm về đạo đức.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Hiểu rõ đạo đức là gì Nhận biết được vai trò của đạo đức đối với cá nhân - Phân biệt được sự khác nhau giữa đạo đức và pháp luật. - Phân biệt đc hành vi vi
Mức độ nhận thức
Vận dụng Chủ Nhận biết Thông hiểu Tổng đề/bài Cấp độ thấp Cấp độ cao
TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL
phạm pháp luật và vi phạm đạo đức.
Số câu: Số câu:
Số 5 Số Số 5
câu:3 câu:1 Số câu:2 Số
Số điểm:1. Số Số điểm:
25 điểm:0. điểm:0. điểm:0. 1.25
25 5 Tỉ lệ 75 Tỉ
:10,25 lệ:10,2
% 5%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Biết - Biết Hiểu - Coi được được được trọng thế nào thế thế nào Bài 11. việc là - tôn nào là là Một số giữ gìn nghĩa trọng nghĩa nghĩa phạm lương vụ, nhân vụ, vụ, trù cơ tâm. lương phẩm lương lương bản Nhân tâm, . và tâm, tâm và của phẩm, nhân danh nhân nhiệm đạo danh phẩm, dự của phẩm, vụ mà đức dự và danh người danh đạo học. hạnh dự và khác. dự và đức xã phúc. hạnh hạnh hội đặt phúc. phúc. ra cho
Mức độ nhận thức
Vận dụng Chủ Nhận biết Thông hiểu Tổng đề/bài Cấp độ thấp Cấp độ cao
TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL
con
người
Số câu Số
: 7 Số Số Số Số câu:7
Số câu:3 câu:1 câu:2 câu:1 Số
điểm: Số Số Số Số điểm:3.
3.5 điểm:0. điểm: điểm:0. điểm:0. 5
Tỉ 75 2.0 5 25 Tỉ lệ:
lệ:35% 35%
ủng hộ các quan niệm đúng đắn về tình yêu, hôn nhân, gia đình Bài 12. Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. ủng hộ các quan niệm đúng đắn về tình yêu, hôn nhân, gia đình
Biết nhận xét đánh giá một số quan niệm sai lầm trong tình yêu, Hn, GĐ Hiểu được thế nào là tình yêu, tình yêu chân chính, hôn nhân và gia đình. - Biết nhận xét đánh giá một số quan niệm sai lầm trong tình yêu, Hn, GĐ.
- Biết được các đặc trưng tốt đẹp, tiến bộ của chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay. - Nêu được các chức năng cơ bản của gia đình. Hiểu được thế nào là tình yêu, tình yêu chân chính, hôn nhân và gia đình. - Hiểu được mối quan hệ giữa tình yêu, Hn và GĐ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Số câu:3 Số câu :8 Số câu:3 Số câu:1 Số câu:1 Số câu:1/3 Số câu:8 Số câu:1/ 3 Số câu:1/ 3
Mức độ nhận thức
Vận dụng Chủ Nhận biết Thông hiểu Tổng đề/bài Cấp độ thấp Cấp độ cao
TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL TNKQ TL
Số điểm:0. 75 Số điểm:0. 75 Số điểm: 1.5 Số điểm:0. 25 Số điểm: 1.0 Số điểm:0. 25 Số điểm:0. 5
Số điểm:2. 0 Tỉ lệ:2%
Số câu: 08 Số điểm: 2 Tỉ lệ: 20% Số câu:1/3 Số điểm:0. 5Tỉ lệ: 5% Số câu:1 Số điểm: 2.0 Tỉ lệ: 20% Số câu:6 Số điểm:1. 5 Tỉ lệ: 15% Số câu: 04 Số điểm: 1.0 Tỉ lệ: 10% Số câu:2 Số điểm:0. 5 Tỉ lệ: 5% Số câu: 22 Số điểm:1 0 Tỉ lệ: 100% Số câu:1/ 3 Số điểm: 1.5 Tỉ lệ: 15% Số câu:1/ 3 Số điểm: 1.0 Tỉ lệ: 10% Số điểm: 2.0 Tỉ lệ: 20% Tổng số câu:22 Tổng số điểm: 10 Tỉ lệ: 100%
IV. Đề kiểm tra
A. Trắc nghiệm (5.0đ)
Câu 1. Quan niệm nào dưới đây đúng khi nói về người có đạo đức?
A. Tự ý lấy đồ của người khác B. Tự giác giúp đỡ người gặp nạn
C. Chen lấn khi xếp hàng D. Thờ ơ với người bị nạn
Câu 2 Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức mang tính:
A. Áp đặt B. Bắt buộc C. Cưỡng chế D. Tự nguyện
Câu 3. Sự rung cảm, quyến luyến sâu sắc giữ hai người khác giới, ở họ có sự hòa
quyện nhiều mặt làm cho họ có nhu cầu gần gũi gắn bó với nhau được gọi là:
A. Tình yêu. B. Tình bạn. C. Tình đồng đội. D. Tình đồng hương.
Câu 4. Tình yêu không chỉ điều chỉnh hành vi của con người mà còn làm bộc lộ phẩm
chất:
A. Đạo đức xã hội B. Đạo đức cá nhân
C. Cá tính con người. D. Nhân cách con người.
Câu 5. Hành vi nào dưới đây thể hiện người không có lương tâm?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
A. Bán thực phẩm độc hại cho người tiêu dùng B. Mẹ mắng con khi bị điểm kém
C. Xả rác không đúng nơi quy định D. Đến ở nhà bạn khi chưa được mời
Câu 6. Xã hội không can thiệp đến tình yêu cá nhân nhưng có trách nhiệm hướng dẫn
mọi người có:
A. Cách phòng ngừa trong tình yêu. B. Quan niệm thức thời về tình yêu.
C. Quan điểm rõ ràng về tình yêu. D. Quan niệm đúng đắn về tình yêu
Câu 7. Tình yêu là tình cảm sâu sắc, đáng trân trọng của mỗi cá nhân nhưng không
hoàn toàn là việc:
A. Tự nguyện của cá nhân. B. Riêng của cá nhân
C. Bắt buộc của cá nhân. D. Phải làm của cá nhân.
Câu 8. Khi cá nhân có những hành vi sai lầm, vi phạm các quy tắc chuẩn mực đạo
đức, họ cảm thấy:
A. Thoải mái B. Vui vẻ C. Cắn rứt lương tâm D. Lo lắng
Câu 9. Nghĩa vụ là trách nhiệm của cá nhân đối với yêu cầu lợi ích của:
A. Cộng đồng B. Gia đình C. Anh em D. Lãnh đạo
Câu 10. Khẳng định nào dưới đây đúng khi nói về nghĩa vụ?
A. Kinh doanh đóng thuế B. Tôn trọng pháp luật
C. Bảo vệ trẻ em D. Tôn trọng người già
Câu 11. Điều nào dưới đây nên tránh trong tình yêu nam nữ?
A. Có tình cảm trong sang, lành mạnh B. Có quan hệ tình dục trước hôn nhân.
C. Có hiểu biết về giới tính. D. Có sự thông cảm sâu sắc cho nhau.
Câu 12.Việc nào dưới đây cần tránh trong quan hệ tình yêu giữa hai người?
A. Quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.. B. Tôn trọng người yêu.
C. Tặng quà cho người yêu. D. Yêu nhau vì lợi ích
Câu 13. Vai trò nào dưới đây của đạo đức liên quan trực tiếp đến sự phát triển
của xã hội?
A. Góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững
B. Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
C. Làm cho xã hội hạnh phúc hơn
D. Làm cho đồng nghiệp thân thiện hơn với nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Câu 14. Gia đình không có chức năng nào dưới đây?
A. Duy trì nòi giống. B. Nuôi dưỡng, giáo dục con cái.
C. Tổ chức đời sống gia đình. D. Bảo vệ môi trường.
Câu 15. Cha mẹ có trách nhiệm yêu thương, nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho con cái
được học tập, không phân biệt đối xử giữa các con là thể hiện nội dung quan hệ nào
dưới đây trong gia đình?
A. Cha mẹ và con nuôi.. B. Cha mẹ và con đẻ.
C. Cha mẹ và con D. Cha mẹ và họ hàng.
Câu 16. Tự do trong hôn nhân thể hiện qua việc cá nhân được tự do như thế nào
dưới đây?
A. Kết hôn theo luật định. B. Lấy bất cứ ai mà mình thích.
C. Kết hôn ở độ tuổi mình thích. D. Lấy vợ, chồng theo ý muốn gia đình.
Câu 17. một trong những nội dung của hôn nhân tiến bộ là:
A. Báo cáo họ hàng hai bên.. B. Tổ chức hôn lễ linh đình
C. Đăng kí kết hôn theo luật định D. Viết cam kết hôn nhân tự nguyện.
Câu 18. Năng lực tự đánh giá và điều chình hành vi đạo đức của mình trong mối quan
hệ với người khác và xã hội được gọi là:
A. Danh dự B. Lương tâm C. Nhân phẩm D. Nghĩa vụ
Câu 19. Hành vi nào dưới đây thể hiện người có lương tâm?
A. Học tập để nâng cao trình độ B. Không bán hàng rẻ
C. Tạo ra nhiều công việc cho mọi người D. Không bán hàng giả
Câu 20. Đạo đức giúp cá nhân có ý thức và năng lực:
A. Sống tự do B. Sống tự lập C. Sống thiện D. Sống tự tin
B. Tự luận (5.0đ)
Câu 1 (2.0điểm).
Thế nào là đạo đức? Hãy cho biết đạo đức có vai trò như thế nào đối với gia đình?
Câu 2 (3.0 điểm).
Lan và Hùng là đôi bạn thân thường giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống
hàng ngày. Các bạn trong lớp gán ghép và cho rằng hai bạn yêu nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hỏi.
a. Theo em, có nên gán ghép hai bạn yêu nhau không? Vì sao?
b. Em có nhận xét gì về việc làm của các bạn cùng lớp Lan và Hùng?
c. Nếu em là bạn cùng lớp với Lan và Hùng em sẽ lựa chọn cách xử sự như thế
nào cho phù hợp?
V . Đáp án và biểu điểm.
A. Trắc nghiệm.
1B 5A 9A 13A 17C
2D 6D 10A 14D 18B
3A 7B 11B 15C 19D
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
4B 8C 12D 16A 20C
B. Tự luận
Câu Nội dung Điểm
- Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích 0.5 của cộng đồng của xã hội.
- Đạo đức có vai trò như thế nào đối với gia đình.
+ Đạo đức là nền tảng của hạnh phúc gia đình, tạo ra sự ổn định và 0.5 Câu 1 vững chắc của gia đình.
(2.0đ) + Đạo đức là nhân tố không thể thiếu của một gia đình hạnh phúc. 0.5
+ Sự tan vỡ của gia đình hiện nay thường có nguyên nhân từ việc
vi phạm nghiêm trọng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức như con 0.5
cái không nghe lời cha mẹ, các thành viên trong gia đình không
tôn trọng lẫn nhau
a. Không nên gán ghép vì: nhầm lẫn giữa tình yêu và tình bạn, dễ
khiến hai bạn nảy sinh những hiểu lầm, xấu hổ dẫn đến bất hòa, 1.0
tan vỡ tình bạn. Câu 2 b. Nhận xét: Việc làm của các bạn chưa tốt, làm ảnh hưởng đến 1.0 (1,5đ) tình bạn tốt đẹp của Lan và Hùng.
c. Xử sự: ủng hộ tình bạn của Lan và Hùng; đồng thời khuyên các 1.0 bạn ở lớp ko nên gán ghép như vậy nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
VI. Hoàn thiện đề