1
CHƢƠNG MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên của mỗi quốc gia vốn là “của trời cho”. Có những quốc gia may mắn
hơn những quốc gia khác khi đƣợc sinh sống trên những vùng đất giàu có tài
nguyên. Nhƣng không phải quốc gia nào có nhiều tài nguyên cũng trở nên giàu có.
Theo báo cáo của Quỹ quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF), con ngƣời đang
sử dụng nguồn Tài nguyên thiên nhiên ở tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khả
năng sản xuất ra nguồn tài nguyên của hành tinh. Theo báo cáo này, hiện nay con
ngƣời tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của trái
đất. Sự tiêu thụ nhiên liệu nhƣ than, khí và dầu lửa cũng tăng khoảng 700% từ năm
1961-2000. Bên cạnh đó là những hậu quả tiềm tàng của biến đổi khí hậu, cùng với
những mâu thuẫn bắt nguồn từ những nhu cầu đối nghịch của những nhóm lợi ích
xung quanh nguồn Tài nguyên thiên nhiên (các nhóm sử dụng nguồn Tài nguyên
giá trị cao nhƣ khoáng sản, kim loại, đá, các chất có nguồn gốc Hydrocacbon (dầu
mở, khí đốt) và gỗ; các nguồn tại nguyên quý hiếm nhƣ đất đai, rừng và động vật
hoang dã; các nền kinh tế phụ thuộc hàng hoá thô cộng với quản lý ko minh bạch
dẫn đến tham nhũng).
Việt nam là một quốc gia đang phát triển, nguồn lực tri thức còn hạn chế, chƣa
sở hữu những bản quyền công nghệ tiên tiến, nội lực tài chính còn hạn hẹp, tài
nguyên thiên nhiên trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong cuộc đua
tăng trƣởng kinh tế. Dựa vào khai thác tài nguyên để tạo động lực phát triển chỉ là
một bƣớc đi ngắn hạn. Để có thể đạt mục tiêu “phát triển bền vững” về dài hạn thì
sự phụ thuộc vào tài nguyên có phải là một lựa chọn? Có những lựa chọn nào cho
phát triển nếu đảm bảo nguyên tắc “bảo vệ tài nguyên” trong hành trình phát triển
bền vững? Hay mục tiêu “phát triển bền vững” là quá xa đối với quốc gia giàu tài
nguyên nhƣng nền kinh tế còn nghèo nàn?
Đứng trƣớc những thách thức phát triển có liên quan đến việc sử dụng và phân
phối nguồn lực tự nhiên, chính phủ cần nhấn mạnh đến nhu cầu đầu tƣ hiệu quả hơn
vào quản lý nhà nƣớc về tài nguyên thiên nhiên và những nhà hoạch định chính
2
sách cần có những công cụ trong giải quyết mâu thuẫn do tài nguyên thiên nhiên.
Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên là dạng hàng hoá đặc biệt do không phải đi qua quá
trình sản xuất. Nếu đƣợc quản lý tốt, tài nguyên sẽ sản sinh lợi tức, đóng góp vào
nguồn tài chính phục vụ phát triển đất nƣớc. Kiểm soát nguồn Tài nguyên thiên
nhiên cũng là nền tảng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia.
2. Mục đích của đề tài
Mục đích đề tài thảo luận vấn đề chính phát sinh trong lĩnh vực Tài nguyên thiên
nhiên. Nội dung tập trung vào “đánh thuế Tài nguyên thiên nhiên” theo tiêu chuẩn
hiệu quả, công bằng, nhằm làm nổi bật tính chất hiệu quả của việc đánh thuế tài
nguyên thiên nhiên và những nguyên nhân công bằng xã hội trong việc đánh thuế
tài nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nhƣ chúng ta đã biết tài nguyên thiên nhiên dần đƣợc sở hữu hoặc kiểm soát bởi
chính phủ, và chịu nhiều loại thuế thông thƣờng; phạm vi của luận văn mở rộng ra
ngoài các hình thức thuế thông thƣờng, bao gồm cả loại tiền khác nhau nhƣ tiền bản
quyền, tiền cho thuê, tiền lợi tức, tiền thƣởng, và các quy định thƣờng đƣợc sử dụng
kết hợp với các loại thuế thông thƣờng. Một số tài nguyên có thể phải nộp thuế cho
những khu vực pháp lý chồng chéo, nhƣ tài nguyên thiên nhiên thƣờng bị đánh thuế
nhiều hơn một chính phủ, hoặc quốc gia khác nhau, kể cả các sản phẩm tài nguyên
thiên nhiên thƣờng đƣợc giao dịch nhƣ hàng hóa. Sau khi liệt kê một phạm vi khá
rộng về các vấn đề thuế và các công cụ, đề tài sẽ hạn chế phân tích chi tiết lý thuyết
và thực nghiệm vào một nguồn tài nguyên cụ thể để đại diện cho các vấn đề
chính. Để phân tích các vấn đề quản lý tối ƣu và đánh thuế tài nguyên tái tạo trong
cạnh tranh sử dụng, nhƣng không phải tài sản chung, đề tài sẽ sử dụng tài nguyên
nƣớc trong nông nghiệp Các vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên chung nhƣ thủy
sản; tài nguyên khai thác (mỏ kim loại) biểu thị một số vấn đề cơ bản trong việc
chọn thời điểm tối ƣu hay việc cân bằng giữa doanh thu có đƣợc và hiệu quả kinh tế
sẽ đƣợc xem xét ở những đề tài tiếp theo. Tại tất cả các phần, đề tài sẽ cố gắng kết
3
hợp phân tích lý thuyết kèm theo kết quả thực nghiệm và tập trung trình bày và định
lƣợng các vấn đề quan trọng nhất trong lĩnh vực thuế tài nguyên.
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trƣớc tiên và tiếp cận một số khái niệm chung và nguyên nhân, mục đích đánh
thuế tài nguyên. Tiếp đến là những phân tích khái nhiệm tô kinh tế trong sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và trên cơ sở đó phân tích lợi thế của đánh thuế tài nguyên thiên
nhiên để đáp ứng những mục đích nói trên, cũng nhƣ phân tích hoạt động của hệ
thống thuế hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn hợp lý riêng cho các ngành
công nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Trên cơ sở đó, nội dung đề tài sẽ khảo sát hệ thống các phƣơng pháp đánh thuế
khác nhau đang sử dụng tại Việt Nam, thế giới và đề xuất những hàm ý cần thiết
nhằm thiết kế và cải thiện hệ thống thuế trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên
nhằm bảo đảm hiệu quả phân bổ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện các mục tiêu
công bằng xã hội.
Một ứng dụng nhỏ về đánh thuế tài nguyên tại hệ thống hồ Núi Cốc để minh họa
cho tầm quan trọng của đánh thuế tài nguyên trong quản lý và khai thác Tài nguyên
nƣớc trong nông nghiệp.
4
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN
Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (nhƣ giao dịch, tài sản)
nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. thuế đều c
thuế không đƣợc bóp méo các hoạt động
sản xuất, dẫn tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi; việc
thuế và tiến hành trƣng thu thuế phải không
phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều kiện nhƣ nhau. Giữa các công
dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thƣờng
ngƣời có điều kiện tốt hơn có xu hƣớng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn).
Thuế tài nguyên là một bộ phận của hệ thống thuế toàn cục, là cái tác động đến
thu nhập của các doanh nghiệp. Hệ thống này thông thƣờng bao gồm thuế thu nhập
trực tiếp của một tài nguyên nói chung, các kiểu thuế gián tiếp khác nhau bao gồm
các loại thuế bán hàng và thuế tiêu thụ, cũng nhƣ thuế xuất, nhập khẩu, và các loại
thuế đƣợc thiết kế riêng cho các ngành công nghiệp tài nguyên.
Các chính phủ đánh vô số các loại thuế vào các ngành công nghiệp tài nguyên
của họ. Các loại thuế chung và các loại thuế bán hàng chung, cũng áp dụng cho các
ngành tài nguyên. Tuy nhiên, chúng thƣờng có những điều khoản đặc biệt áp dụng
cho ngành này. Ví dụ, các tỷ suất thuế bán hàng cao hơn có thể đƣợc đánh vào tiêu
dùng các sản phẩm dầu khí.
Đối với trƣờng hợp các
công bằng.
tƣ nhân. Điều này có thể đƣợc nhìn nhận nhƣ một lý luận về công bằng.
Các loại thuế đặc biệt cho các ngành công nghiệp tài nguyên hay đƣợc áp dụng
nhất là một loại thuế sản lƣợng hoặc thuế sản xuất đặc biệt đƣợc đánh vào sản lƣợng
hoặc doanh thu của một ngành tài nguyên. Các loại thuế sản xuất có thể cho phép
5
một số chi phí đƣợc khấu trừ. Trong trƣờng hợp đơn giản nhất, chi phí thƣờng
xuyên và vận hành có thể đƣợc khấu trừ.
Việc xác định giá tính thuế cũng rất phức tạp và chƣa bao quát hết những trƣờng
hợp sẽ xảy ra trong thực tế và còn quá sơ sài. Trƣờng hợp số lƣợng tài nguyên đƣợc
khai thác nhƣng đƣợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm nguyên liệu cho
quá trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trƣờng nội địa, xuất khẩu, nhập kho dự
trữ…) hoặc bán ở nhiều địa điểm khác nhau chƣa đƣợc quy định và cũng rất khó có
thể quy định một cách rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là
“giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên” nhƣ quy định của dự thảo là không rõ ràng,
dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn.
Việc áp dụng cách thu thuế Tài nguyên hiện nay tại Việt Nam đã là biện pháp
hiệu quả? Những cách thức thu thuế tài nguyên có thể đƣợc áp dụng? Đề tài sẽ lần
lƣợt vạch ra những bƣớc đi để tạo điều kiện cho việc quản lý Tài nguyên đƣợc hiệu
quả hơn trong tƣơng lai.
6
CHƢƠNG II: MÔ HÌNH
Kinh tế tài nguyên thiên nhiên xuất phát từ những năm cuối thập niên 70 của thế
kỷ trƣớc, sở dĩ lúc đó tình hình về tài nguyên đã cho thấy không mấy khả quan khi
trữ lƣợng tài nguyên ngày càng cạn kiệt một cách nhanh chóng và sự cạn kiệt là để
phục vụ dòng sản xuất theo thời gian. Điều này cho thấy kinh tế tài nguyên xuất
phát chủ yếu vì nguyên nhân cạn kiệt của tài nguyên.
Các nhà nghiên cứu từ trƣớc đến nay cũng đã có rất nhiều những sự nghiên cứu
về tài nguyên, thành phần của tài nguyên và đặc điểm của nó nhƣ: Tài nguyên thiên
nhiên là các thành phần của tự nhiên mà ở trình độ nhất định của sự phát triển lực
lƣợng sản xuất chúng có thể đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện sản xuất và làm đối
tƣợng tiêu dùng. Theo thuộc tính tự nhiên tài nguyên thiên nhiên có thể đƣợc chia ra
là: Tài nguyên đất, nƣớc, khí hậu, sinh vật, khoáng sản. Theo công dụng kinh tế: Tài
nguyên nông nghiệp, công nghiệp, du lịch… Theo khả năng có thể bị cạn kiệt trong
quá trình sử dụng của con ngƣời: Tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái tạo, tài nguyên
vô hạn. Các nghiên cứu cũng chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên,
đồng thời cũng nhƣ môi trƣờng xung quanh, mối tƣơng quan giữa tài nguyên và
môi trƣờng để nhìn nhận đƣợc cách nhìn tổng quan về tài nguyên và con ngƣời phụ
thuộc, tác động vào nhau nhƣ thế nào.
Một mục tiêu quan trọng nhất của đánh thuế tài nguyên là có
.
2.1.1. Kinh tế tài nguyên cạn kiệt
Môi trƣờng và tài nguyên thiên nhiên thực sự rất quan trọng đối với cuộc sống
của con ngƣời. Trong toàn bộ thời gian qua con ngƣời đã tác động, sử dụng, khai
thác một cách triệt để mà không quan tâm tới tình trạng của nó ra sao. Chính vì vậy,
môi trƣờng sống ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, ô nhiễm, dịch bệnh, tai họa cứ
bùng phát một cách nhanh chóng. Tài nguyên ngày càng cạn kiệt, sử dụng không
hợp lý, con ngƣời đã từng nhầm tƣởng rằng tất cả các loại tài nguyên đều là vô hạn.
7
Thực tế đã cho thấy tài nguyên ngày càng cạn kiệt nhanh chóng bởi sự tiêu thụ
quá mức của con ngƣời. Vì vậy, cả thế giới ngày càng lo lắng cho nguồn tài nguyên
của mình và quan tâm trƣớc tiên, cũng chính là xuất phát chủ yếu của kinh tế tài
nguyên là sự cạn kiệt của tài nguyên cạn kiệt.
Tài nguyên cạn kiệt hay là những loại tài nguyên đƣợc
hình thành bởi các quá trình địa chất trong suốt hàng triệu năm, tồn tại những kho
tài nguyên cố định, nếu đã đƣợc con ngƣời phát hiện và khai thác thì khó có thể tái
tạo hay nói cách khác muốn tái tạo đƣợc lại phải mất bằng đó khoảng thời gian hình
thành khối lƣợng tài nguyên mà con ngƣời đã khai thác hết. Các loại tài nguyên cạn
kiệt điển hình nhƣ dầu mỏ, than, khoáng sản. Có một ƣu điểm đó là các tài nguyên
này về khía cạnh nào đó có chung một vai trò, một công dụng và có thể thay thế cho
nhau trong quá trình sử dụng của con ngƣời nhƣ: Chất đốt có thể dùng khí gas, dùng
dầu, dùng than đá. Một câu hỏi đặt ra là tại sao có thể thay thế cho nhau, cái này hết
có thể dùng đến cái khác để thay thế. Bởi vì, con ngƣời đã không chấp nhận việc sử
dụng một cách lần lƣợt, chờ thời gian để phục hồi loại này thì vẫn có loại khác để
dùng. Con ngƣời chọn cách tiêu thụ hết, theo ý muốn của mình, tiêu dùng một cách
thỏa mãn sự phong phú, đa dạng, không cần quan tâm nó cạn kiệt ra sao, tiết kiệm
ra sao, hậu quả ra sao. Để rồi kho dự trữ tài nguyên cũng đã sắp hết, thậm chí nhiều
nơi đã cạn kiệt hoàn toàn.
Tiêu thụ quá mức tài nguyên cạn kiệt đã gây ra hậu vô cũng nghiêm trọng đến
môi trƣờng sống, đến bầu khí quyển, đến nguồn nƣớc… Điển hình là tình hình biến
đổi khí hậu diễn biến nghiêm trọng, mà hậu quả chủ yếu chính là sự phát thải khí
CO2 của con ngƣời ra ngoài môi trƣờng thông qua tiêu thụ tài nguyên.
Với lƣợng tài nguyên còn lại, xã hội phải tính toán làm sao cho khoảng thời gian
là tối ƣu nhất, tìm kiếm các nguồn năng lƣợng thay thế, xử lý, cải thiện những hậu
quả đã gây ra cho môi trƣờng. Kéo dài sự tồn tại của tài nguyên, nghiên cứu ra
những quá trình mà con ngƣời chƣa phát kiến ra đƣợc. Còn với những năng lƣợng
thay thế lại phải tính toán một cách hiệu quả, tối ƣu về chi phí sản xuất và hình thức
quản lý. Với những năng lƣợng sạch sẽ tính toán chi phí tối ƣu, còn với năng lƣợng
8
nhƣ hạt nhân thì lại phải lo quản lý ô nhiễm bên trong nhà máy tránh phát thải, nguy
cơ rủi ro cũng là rất lớn.
Trƣớc tình hình tìm kiếm nguồn năng lƣợng mới luôn gặp phải những khó khăn
về công nghệ, về vốn đầu tƣ, và nguy cơ rủi ro gặp phải. Xã hội vẫn phải tính toán
thời gian tiêu thụ lƣợng tài nguyên còn lại hợp lý. Khoảng thời gian này có thể áp
dụng theo quy tắc Hotelling (Roger Perman, 2003). nhƣ một điều kiện hiệu quả.
Nhƣng quy tắc yêu cầu tỷ lệ tăng trƣởng của giá tài nguyên phải bằng với tỷ lệ chiết
khấu xã hội không tạo ra đƣờng giá duy nhất. Có rất nhiều đƣờng giá thỏa mãn quy
tắc Hotelling, và do vậy chúng đều là những đƣờng hiệu quả. Nhƣng chỉ có một
đƣờng là tối ƣu, nên chỉ sử dụng quy tắc Hotelling nhƣ một điều kiện cần. Quy tắc
Hotelling cho khoan hút tài nguyên không tái tạo thƣờng đƣợc biểu diễn dƣới dạng:
Lấy tích phân ta đƣợc: (Pt
Pt
: P* t
Quy tắc Hotteling phát biểu giá trị chiết khấu của tài nguyên cần phải nhƣ nhau
tại tất cả các thời điểm. Đây chỉ là một trƣờng hợp đặc biệt. Trong hình 2.1 với 2
đƣờng giá khác nhau, hai giá khởi đầu khác nhau, tăng theo thời gian với cùng một
tỉ lệ chiết khấu. Nếu giả sử bằng 5% mỗi một trong những đƣờng này và có vô số
những đƣờng giá nhƣ vậy đều thỏa mãn quy tắc Hotelling.
Đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling đều là những đƣờng giá thỏa mãn điều
kiện cần. Còn điều kiện đủ là các điều kiện khởi đầu và cuối cùng cho tài nguyên
thiên nhiên cần phải đƣợc thỏa mãn. Sẽ có một kho tài nguyên ở mức khởi đầu nào
đó, theo thời gian sử dụng và nền kinh tế tiếp cận tới cuối kỳ kế hoạch. Nếu giá
khởi đầu là “quá thấp”, thì khối lƣợng sử dụng tài nguyên là “quá nhiều” trong mỗi
giai đoạn, và toàn bộ kho tài nguyên sẽ trở nên cạn kiệt trong khoảng thời gian
9
ngắn, không thể thỏa mãn khoảng thời gian dự định của con ngƣời, để khám phá ra
năng lƣợng thay thế và sử dụng một cách hiệu quả, tối ƣu.
Pt
0
t
Nguồn (Roger Perman, 2003).
Hình 2.1: Hai đường giá mỗi đường đều thỏa mãn quy tắc Hotelling
Ngƣợc lại, nếu giá khởi đầu là “quá cao”, khối lƣợng sử dụng tài nguyên “quá
nhỏ” trong mỗi giai đoạn, và kho tài nguyên sẽ chƣa bị cạn kiệt, nó sẽ còn rất nhiều,
thời gian rất dài. Điều này cho thấy con ngƣời đang lãng phí tài nguyên mà thiên
nhiên ban tặng, khó có thể phát triển xã hội khi mà con ngƣời không nhận ra đƣợc
điều đó. Vì vậy, nhận thấy rằng sẽ có một mức giá khởi đầu tối ƣu, với một khối
lƣợng khai thác tối ƣu, dẫn tới một đƣờng giá tối ƣu nhất trong tất cả những đƣờng
giá thỏa mãn quy tắc Hotelling. Tóm lại, để có lời giải cho bài toán tối ƣu tạo ra
đƣờng giá tối ƣu là nhiệm vụ của toàn xã hội trong những nghiên cứu về giá khởi
đầu, khối lƣợng khoan hút tối ƣu.
Để làm rõ hơn chúng ta có thể xem xét bài toán điển hình cho tài nguyên cạn
kiệt. Bài toán đƣợc xây dựng lên là bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc. Mục tiêu là tối
đa hàm phúc lợi xã hội của nền kinh tế tùy thuộc vào ràng buộc kho – luồng tài
nguyên cạn kiệt hay tài nguyên không tái tạo và đồng nhất thức thu nhập quốc dân.
Viết điều này bằng toán học, do vậy bài toán đƣợc trình bày ra sau đây:
10
phiếm hàm lợi ích.
: Ut=U(Ct)
:
ràng buộc:
: St
:
.
Lời giải đầy đủ cho bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc này sử dụng nguyên tắc cực
đại của bài toán điều khiển tối ƣu. Khi so sánh bài toán này với mô tả của bài toán
tối ƣu cho mô hình đơn giản, một khác biệt đã phát sinh. Phƣơng trình vi phân cho
).
Hamilton giá trị-hi :
4 phƣơng trình
sau:
11
.
.
Pt t
. C t t=0,1,…,∞
.
. Do đó, p
:
(Giá ròng = Giá thô – Chi phí cận biên)
n thiên nhiên (
.
12
-lợi
(2).
, nhƣng b
:
, ta đƣợc:
). ,
:
13
,
.
ác động kho lên chi phí.
) sẽ lớn hơn.
Nhƣ vậy, c
14
. Xử lý
thuế đối với các hoạt động thăm dò sẽ
, vì chúng
tạo ra các chi phí khác nhau để nền kinh tế có đƣợc tài nguyên. Một đặc tính có liên
quan của các tài nguyên không hồi sinh là chún
nguyên. Điều này cũng có các hàm ý thuế.
Theo thời gian nhìn thấy những nguy cơ của tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái
tạo cũng có nguy cơ cạn kiệt. Sau đó, cuối thế kỷ 20 thì kinh tế tài nguyên thiên
nhiên đƣợc mở rộng nghiên cứu cho các tài nguyên tái tạo. Do sự bùng nổ dân số và
tăng trƣởng kinh tế là nhân tố chính góp phần gia tăng cạn kiệt của tài nguyên.
Tài nguyên tái tạo là tài nguyên có khả năng tái sản xuất và tăng trƣởng bởi các quá
trình vật lý, hóa học và sinh học. Các tài nguyên tái tạo rất phong phú. Nó có thể
bao gồm: Sự tăng trƣởng của đàn cá hay nói chung là tài nguyên thủy sản, khu rừng
có khả năng tăng trƣởng tự nhiên, các hệ thống nƣớc và bầu khí quyển, những hệ
thống đƣợc tái sản xuất bởi các quá trình vật lý, hóa học. Và cũng có thể là độ phì
nhiêu có thể tái tạo một cách tự nhiên…
Có một sự tƣơng tự giữa tài nguyên tái tạo và tài nguyên cạn kiệt là cả hai đều
có khả năng bị cạn kiệt hoàn toàn nếu khối lƣợng khai thác quá nhiều vƣợt quá mức
và kéo dài. Đối với tài nguyên cạn kiệt khả năng cạn kiệt là hậu quả của tính hữu
hạn của kho. Còn tài nguyên tái tạo, tuy kho của nó có thể tăng trƣởng, tái sản xuất,
nó vẫn có thể tiến dần tới giá trị cuối cùng là bằng không. Lý do, là bởi vì với các
điều kiện hiện hoành dân số ngày càng gia tăng, bùng nổ một cách chóng mặt, cùng
với sự tăng trƣởng của nền kinh tế đòi hỏi khối lƣợng tài nguyên khổng lồ, tất cả
đều ảnh hƣởng tới năng lực tái sản xuất của tài nguyên tái tạo, tỷ lệ khai thác tiếp
tục vƣợt quá tăng trƣởng tự nhiên ròng.
Không chỉ có sử dụng tài nguyên cạn kiệt là gây ra ô nhiễm, mà việc sử dụng tài
nguyên tái tạo ngày nay cũng gây ra ô nhiễm rất nghiêm trọng. Trong nông nghiệp,
15
nhu cầu xã hội ngày càng phát triển cao đòi hỏi con ngƣời ngày càng phải sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để tăng năng suất sản lƣợng sản phẩm. Những hoạt động
nhằm mục đích kinh tế của con ngƣời là nguyên nhân cơ bản làm ô nhiễm môi
trƣờng. Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp nhiều và không hợp lý đã làm cho
môi trƣờng đất ngày càng xấu đi. Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng
trong đất sẽ làm tăng khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại cho cây trồng, vật nuôi
và gián tiếp gây ảnh hƣởng xấu tới sức khỏe con ngƣời. Trong sản xuất, sử dụng tài
nguyên nếu con ngƣời có tinh thần trách nhiệm, không vì lợi ích trƣớc mắt mà
không làm cho thiên nhiên nghèo đi, môi trƣờng sống của cả cộng đồng đã không bị
ô nhiễm.
Trong tài nguyên cạn kiệt đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling, đƣờng giá tối
ƣu đƣợc quan tâm nhiều. Còn với tài nguyên tái tạo sẽ chú ý, dành quan tâm nhiều
đến thu hoạch trạng thái ổn định. Trạng thái ổn định là một trạng thái lý tƣởng,
trong một giai đoạn khối lƣợng kho tài nguyên đƣợc thu hoạch bằng với khối lƣợng
tăng trƣởng tự nhiên ròng của tài nguyên. Lý tƣởng khi mà trạng thái này vẫn cố
định trong các giai đoạn kế tiếp sau đó. Thu hoạch trong trạng thái này là trạng thái
ổn định, khối lƣợng đƣợc thu hoạch là năng suất ổn định có nghĩa là hàm tăng
trƣởng của nó đạt cực đại.
Nguồn (Roger Perman, 2003).
16
Hình 2.2: Hình vẽ mô tả trạng thái ổn định
Đa số các tài liệu nghiên cứu kinh tế học tài nguyên tái tạo nói về hai điều: Thu
hoạch các giống loài động vật và kinh tế học lâm nghiệp. Nông nghiệp có thể cũng
đƣợc nghĩ nhƣ một ngành của thu hoạch tài nguyên tái tạo. Bài toán sử dụng tài
nguyên nƣớc cho nông nghiệp và thủy điện của hồ thủy lợi là bài toán đƣợc kết hợp
chủ yếu từ hai nhánh nghiên cứu trên.
Mặc dù chƣa đƣợc quan tâm và nghiên cứu sâu sắc nhƣng song song với việc cải
thiện cho quản lý cung cấp nƣớc, thì cũng đã có những để ý trên tầm nhìn lớn trong
các nghiên cứu.
Nhƣ vậy, tài nguyên hồi sinh là những tài nguyên có thể tạo ra luồng sản lƣợng
liên tục cho một khoảng thời gian dài vô hạn. Chúng bao gồm những thứ nhƣ đàn
cá, rừng, thủy điện, cung cấp nƣớc, không khí sạch và đất nông nghiệp. Trong mỗi
trƣờng hợp, nhƣ một nguồn lực nào đó đƣợc lấy cho sử dụng kinh tế, tài nguyên có
thể tự bổ sung bởi các cách tự nhiên hoặc nhân tạo. Một đặc điểm đặc trƣng của các
tài nguyên hồi sinh là mức của luồng tài nguyên, một khối lƣợng có thể đƣợc duy trì
liên tục, là biến nội sinh. Mức này có thể phụ thuộc vào kho tài nguyên đƣợc dự trữ,
vào tỷ lệ phục hồi tự nhiên của tài nguyên (ví dụ tỷ lệ tăng trƣởng sinh học), vào
thực hành bảo tồn và quản lý của những ngƣời khai thác tài nguyên (ví dụ, trồng
rừng, điều chỉnh lƣợng đánh bắt cá, th
thiết cần phải xem xét quá trình phục hồi tài nguyên.
Khuôn khổ phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu về tài nguyên hồi sinh, cụ
thể là tài nguyên nƣớc.
2.1.3
Tài nguyên thiên nhiên là một nhân tố sản xuất cơ bản bên cạnh các nhân tố sản
xuất cơ bản khác nhƣ vốn, lao động, và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Một trong những
đặc tính then chốt của tài nguyên thiên nhiên là việc chúng tạo ra tô kinh tế. Tô kinh
17
tế của dự trữ tài nguyên đơn giản là giá trị kinh tế cuối cùng của nó, lợi nhuận kinh
tế từ việc khai thác nó. Hay, luồng tô kinh tế từ một khối lƣợng tài nguyên đã cho là
hiệu số giữa doanh thu tích lũy thực mà nó tạo ra và tất cả chi phí tích lũy thực của
việc có đƣợc những doanh thu đó.
Nhƣ chúng ta đã biết đặc tính của nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên là khối
lƣợng cung cấp hầu nhƣ là cố định. Do vậy, khi cầu của thị trƣờng tăng lên, cân
bằng thị trƣờng sẽ tạo ra một thặng dƣ kinh tế ròng mà các nhà kinh tế thƣờng gọi là
tô kinh tế (economic rent) nhƣ đƣợc mô tả bởi hình vẽ sau đây:
Hình 2.3: Cân bằng của thị trường tài nguyên thiên nhiên
2.1.4
Các nguyên tắc tƣơng tự đƣợc áp dụng cho tài nguyên hồi sinh, mặc dù có đôi
chút khác biệt. Một lần nữa, tô kinh tế từ tài nguyên hồi sinh (rừng, cá…) sẽ là là
một luồng doanh thu tính dồn trừ đi luồng của tất cả chi phí tính dồn trên thực tế.
Việc tính tới doanh thu nhận đƣợc và các đầu vào hiện tại đƣợc sử dụng để tạo
doanh thu là tƣơng tự với trƣờng hợp tài nguyên không hồi sinh. Các chi phí vốn là
khác đôi chút về bản chất. Bất kỳ trọng số có thể khấu hao nào đƣợc sử dụng trong
việc khai thác tài nguyên hồi sinh đƣợc xử lý nhƣ trên. Tuy nhiên, tài sản gắn liền
18
với bản thân tài nguyên hồi sinh là khá khác với một dự trữ tài nguyên không hồi
sinh. Không giống nhƣ tài nguyên không hồi sinh, một điều đặc biệt là sẽ không có
chi phí thăm dò gắn liền với việc khám phá ra nó. Và, vì nó là hồi sinh, tự bản thân
nó đƣợc tái tạo theo thời gian.
Xét ví dụ trong đánh bắt cá. Sự gia tăng dự trữ cá qua thời gian phụ thuộc vào tỷ
lệ tăng trƣởng sinh học của đàn cá và tỷ lệ mà tại đó cá đƣợc đánh bắt từ khu đánh
bắt cá. Thông thƣờng không có chi phí tài nguyên liên quan tới quá trình sinh thái
này (mặc dù các trang trại thủy sản chăn nuôi cá có thể sử dụng các kỹ thuật mua
thêm hay tái tạo). Chi phí cơ hội của việc đánh bắt thêm cá từ khu đánh bắt cá tại
một thời điểm là giá trị hiện tại của luồng cá bị bỏ đi đƣợc tạo ra trong tƣơng lai.
Điều này rõ ràng là một điều khó khăn để có thể tính tới. Một khó khăn trong đo
lƣờng tƣơng tự xảy ra đối với rừng, ngoại trừ ở đây có một chi phí thêm vào là chi
phí của việc tái sinh rừng phải đƣợc tính đến. Tƣơng tự nhƣ đánh bắt cá, có một tỷ
lệ tăng trƣởng tự nhiên của cây cối, do vậy dự trữ cây cối phụ thuộc chung vào tần
suất chặt cây và các mẫu tăng trƣởng của các giống cây. Do vậy, chi phí cơ hội của
việc chặt thêm cây có thể đƣợc xử lý nhƣ chi phí của việc tái trồng rừng cộng với
giá trị hiện tại của thay đổi trong giá trị của các cây cối đƣợc thu hoạch vào tƣơng
lai. Và điều này là khó đo lƣờng.
2.1.5. Tóm tắt
Nhƣ vậy khối lƣợng tô kinh tế mà một tài nguyên đã cho sẽ tạo ra phụ thuộc vào
hành vi của tác nhân chịu trách nhiệm khai thác tài nguyên. Hành vi của tác nhân,
đến lƣợt mình, phụ thuộc vào sắp đặt thể chế. Về cơ bản, những ngƣời vận hành
khu vực tƣ nhân sẽ tối đa giá trị hiện tại của lợi nhuận kinh tế sau thuế (tô kinh tế)
qua từng quãng thời gian. Nếu quyền sở hữu tƣ nhân là tuyệt đối, quãng thời gian sẽ
là vô hạn. Nếu coi giá trị của tô kinh tế đƣợc tạo ra bởi hành vi tối ƣu tƣ nhân là tô
kinh tế tƣ nhân, tức là nó khác với tô kinh tế xã hội, là cái là tô kinh tế có đƣợc từ
tài nguyên theo quan điểm xã hội. Tô kinh tế tƣ nhân có thể khác với tô kinh tế xã
hội vì nhiều lý do. Nếu thuế đƣợc áp dụng lên công ty, chúng là bộ phận của giao
hoàn xã hội, nhƣng không phải là của giao hoàn tƣ nhân. Nếu các hoạt động của
19
công ty tạo ra các chi phí ngoại lai, nhƣ hủy hoại môi trƣờng, những chi phí này sẽ
hình thành nên một phần của chi phí xã hội nhƣng không phải chi phí tƣ nhân. Nếu
chuỗi thời gian của khu vực tƣ nhân là giới hạn bởi ràng buộc thể chế, đo lƣờng tô
kinh tế từ một quan điểm tƣ nhân sẽ khác với đo lƣờng cho xã hội. Thêm nữa, tô
kinh tế xã hội tiềm năng có thể khác thực sự với tô kinh tế xã hội thực tế đƣợc tạo ra
bởi khai thác tài nguyên. Tất cả các bóp méo nói trên có thể làm phát sinh một mẫu
hình khai thác không tối ƣu từ quan điểm xã hội. Một trong những mục đích của đề
tài ở phần sau trong nghiên cứu này là xem xét các loại thuế này tác động nhƣ thế
nào lên hành vi của các nhà quản lý tài nguyên.
Một cách tự nhiên, khối lƣợng tô kinh tế có thể đƣợc tạo ra từ tài nguyên hồi
sinh hoặc không hồi sinh phụ thuộc vào các đặc điểm của tài nguyên đang xét. Khai
mỏ với quặng chất lƣợng cao hơn sẽ tạo ra tô kinh tế cao hơn. Các tài nguyên đƣợc
phát hiện tại những vị trí biệt lập sẽ tốn kém hơn trong khai thác và sẽ tạo ra ít tô
kinh tế hơn. Tô kinh tế cũng sẽ thay đổi theo dự trữ tài nguyên. Đối với bất kỳ một
tài nguyên đã cho nào, chúng ta có thể nghĩ là sẽ có một dãy các dự trữ từ tô kinh tế
thấp tới tô kinh tế cao sắp xếp từ âm tới dƣơng. Chỉ có các dự trữ tài nguyên với tô
kinh tế không âm mới nên khai thác. Những dự trữ tài nguyên có tô kinh tế bằng
không sẽ đƣợc coi là các dự trữ tài nguyên cận biên. Những dự trữ với tô kinh tế
dƣơng sẽ đƣợc gọi là dƣới cận biên. Vị trí của các dự trữ tài nguyên cận biên dọc
theo dãy này cũng sẽ phụ thuộc vào sắp đặt thể chế. Ví dụ, nếu hệ thống thuế tác
động vào tài nguyên cận biên, nó sẽ làm cho tô kinh tế sau thuế âm và dự trữ tài
nguyên khác sẽ trở thành dự trữ cận biên.
Chúng ta đã lƣu ý một vài điểm rằng đo lƣờng tô kinh tế là một điều khó khăn,
cả về mặt khái niệm lẫn về mặt thực hành. Đó là vì toàn bộ hạch toán là dựa trên cơ
sở tính dồn và theo các thành phần thực, và nhiều chi phí phải đƣợc ƣớc tính lại
không thể quan sát đƣợc và do vậy khó đo lƣờng đƣợc. Khái niệm tô kinh tế nhƣ
đƣợc định nghĩa ở trên là một khái nhiệm tích cực về mặt kinh tế vì nó đo lƣờng
luồng đóng góp mà nguồn tài nguyên làm cho trở thành đầu ra kinh tế thực tại bất
cứ thời điểm nào nhƣ một nhà kinh tế sẽ thấy nó.
20
Tuy nhiên, có một thƣớc đo thay thế, là cái đƣa ra cùng một giá trị hiện tại của tô
kinh tế nhƣng một mẫu thời gian khác. Đó là luồng tiền. Nó bao gồm cách biệt giữa
tất cả hóa đơn tiền từ khối lƣợng sản lƣợng bán đƣợc trừ đi các chi tiêu bằng tiền
cho cả đầu vào hiện tại lẫn đầu vào vốn. Vì chi phí vốn không đƣợc vốn hóa, các
chi phí xảy ra sớm hơn nhiều theo thời gian so với dƣới hệ thống hạch toán tính
dồn. Do vậy, luồng tiền sẽ thấp hơn lúc trƣớc và cao hơn lúc sau so với lợi nhuận
kinh tế. Tuy nhiên, theo các thành phần giá trị hiện tại, luồng tiền là giống hệt nhƣ
lợi nhuận kinh tế. Nó cũng có lợi thế là dễ tính hơn so với lợi nhuận kinh tế vì tất cả
các khoản mục về nguyên tắc là quan sát đƣợc. Không cần thiết đo lƣờng một phần
quan trọng, mà cũng không cần đánh chỉ số gì. Khái niệm luồng tiền sẽ đóng một
vai trò quan trọng trong phân tích về các tùy chọn chính sách thuế và đề tài sẽ đề
cập chi tiết hơn ở phần sau.
Một thuộc tính quan trọng cuối cùng của khái niệm tô kinh tế, đó là “tô kinh tế
tƣơng lai đƣợc vốn hóa vào giá trị của tài nguyên” . Bởi vì, tô kinh tế phản ánh giá
trị hiện tại của lợi nhuận kinh tế mà một nguồn tài nguyên đƣợc dự kiến để tạo ra
vào tƣơng lai, giá trị của dự trữ tài nguyên đang xét phải là giá trị hiện tại của tô
kinh tế tƣơng lai của nó. Cho nên, bất kỳ sự thay đổi thuế nào tác động giá trị của
tô kinh tế vào tƣơng lai sẽ lập tức đƣợc vốn hóa vào giá trị hiện tại của tài nguyên.
Tức là, các chủ sở hữu tài nguyên hiện tại gánh chịu các loại thuế tài nguyên dự
kiến tƣơng lai.
2.2. Nguyên nhân và mục đích của
này, đề tài c
trình bày một số nguyên nhân để đánh thuế tài nguyên nói chung và cho các loại
thuế đặc biệt đôi khi đƣợc sử dụng.
2.2
21
thiết k
.
Việc tối đa các tô kinh tế trƣớc-thuế sẽ dẫn tới cùng một hành vi là tối ƣu một phần
đã cho của tô kinh tế trƣớc thuế.
2.2
Một mong muốn để đánh thuế các ngành công nghiệp tài nguyên nhƣ một phần
của đánh thuế thu nhập vốn trong một nền kinh tế. Trong trƣờng hợp này, thu nhập
vốn có thể bao gồm cả giao hoàn bình thƣ
tính thuế.
2.2
của chính sách ngành công nghiệp nhƣ khuyến khích chế biến tiếp theo nguồn tài
nguyên hoặc duy trì một mức hoạt động tối thiểu nào đó vì các nguyên nhân chiến
lƣợc. Nguyên nhân để khuyến khích hoạt động thƣờng là thông qua tài trợ hơn là
đánh thuế để tăng doanh thu.
2.2.4. Ch
tác trong công ty. Khả năng khấu trừ chi phí kết hợp với đánh thuế doanh thu giống
nhƣ có đƣợc vốn cổ phần mới cho công ty. Điều này c
, hệ thống đánh thuế có thể giúp đỡ các công ty có vấ
. Tính hiệu quả của hệ thống thuế cho
22
những mục đích này phụ thuộc vào công ty có khả năng nhận đƣợc lợi thế thuế đầy
đủ của các chi phí có thể khấu trừ.
2.2.5
các nhân tố ngoại lai trong các quyết định quản lý tài nguyên. Các loại thuế sản xuất
có thể đƣợc s
hệ tƣơng lại.
, trong số tất cả các nguyên nhân đánh thuế tài nguyên, mục đích chính
của đánh thuế tài nguyên là thu hồi một phần tô kinh tế cho khu vực công cộng.
2.3.
Khái niệm lý thuyết về tô kinh tế và việc đo lƣờng tô kinh tế là cơ sở nguyên
thủy của hầu hết các loại thuế tài nguyên. Nhƣng thiết kế và thực hiện các cơ chế
cho việc đánh thuế và một vấn đề khó khăn. Đề tài sẽ xem xét một số cơ chế đánh
thuế đã đƣợc áp dụng trên thế giới.
2.3
Một cơ chế rất hay để chính phủ có thể chia sẻ tô kinh tế là yêu cầu các công ty
đấu thầu để dành quyền khai thác tài nguyên. Trong trƣờng hợp các tài nguyên
không hồi sinh, đấu thầu sẽ đƣợc tiến hành trƣớc giai đoạn khai thác. Đối với các tài
nguyên có thể hồi sinh, đấu thầu sẽ đƣợc tiến hành cho một dự trữ tài nguyên đã
biết. Khi mà hệ thống thầu là cạnh tranh và tất cả các nhà thầu có đƣợc thông tin
nhƣ nhau, giá trị của giá bỏ thầu sẽ bằng với tô kinh tế ròng tƣơng lai dự kiến đƣợc
hiệu chỉnh theo một hệ số rủi ro. Để cho một hệ thống nhƣ vậy hoạt động, các
quyền sở hữu có đƣợc phải là vĩnh cửu. Nếu không, sẽ có một động cơ để ngƣời vận
hành bòn rút tài nguyên một cách không hiệu quả.
Thậm chí với đấu thầu hoạt động tốt, các hậu quả có thể sẽ khác biệt với các hậu
quả của thuế tô kinh tế. Một mặt, đấu thầu sẽ tạo ra 100% giá trị tô kinh tế dự kiến
cho ngƣời bỏ thầu, trong khi tỷ suất thuế có thể nhỏ hơn giá trị đó. Trong đấu thầu,
các hậu quả luồng tiền tệ cũng khác biệt nhiều. Các khoản tô kinh tế ròng phải hoàn
toàn đƣợc thanh toán trƣớc, trong khi đối với thuế, chúng đƣợc thanh toán dàn trải
23
trong tƣơng lai. Nếu có bất kỳ ràng buộc thị trƣờng vốn nào, điều này sẽ đƣợc phản
ánh trong độ lớn của giá thầu. Cũng vậy, các tác động rủi ro có thể cũng là khác
nhau. Trong hệ thống đấu thầu, công ty bị bắt buộc gánh chịu rủi ro kèm theo khai
thác tài nguyên, trong khi với thuế luồng tiền tệ, khu vực công cộng sẽ chia sẻ một
phần rủi ro. Một nguyên nhân quan trọng tại sao khu vực công cộng có thể là tốt
hơn khi xử lý rủi ro là vì một số rủi ro mà ngƣời vận hành phải đối mặt là rủi ro của
các mức thuế cao hơn trong tƣơng lai. Tính không phù hợp về thời gian, là cái làm
phát sinh rủi ro này sẽ là nghiêm trọng hơn trong bất kỳ hệ thống nào. Bởi vậy,
trong khi rủi ro làm cho sử dụng hệ thống đấu thầu trở nên thích hợp hơn, rủi ro
cũng làm giảm mức giá mà những ngƣời bỏ thầu sẽ muốn trả cho thuê mƣớn dài
hạn.
2.3
Một cách khác để khu vực công cộng có thể thu hồi đƣợc một phần tô kinh tế
bằng cách đảm nhiệm một phần vốn cổ đông của công ty. Một biện pháp là chính
phủ đóng góp một phần chi phí và đòi hỏi một phần tƣơng đƣơng của vốn cổ phần.
Điều này về mặt tài chính sẽ tƣơng đƣơng với thuế luồng tiền tệ, mặc dù có thể khó
áp dụng hơn. Khu vực công cộng sẽ phải nhận biết cả các chi phí bằng tiền lẫn
doanh thu trong vận hành thích hợp của công ty. Mặt khác, không giống với thuế
luồng tiền tệ, điều này mang lại cho khu vực công cộng một tiếng nói trong các
trách nhiệm làm quyết định đi kèm với quyền sở hữu vốn cổ phần. Cũng vậy, chính
phủ sẽ có thông tin riêng mà nếu không, chính phủ sẽ không thể có đƣợc. Với cách
đánh thuế luồng tiền tệ, ngƣợc lại, chính phủ chỉ là một đối tác không có tiếng nói.
2.3.3. Thuế đánh theo đầu ra
Tổng số tiền thuê hay các loại thuế dựa trên tổng khối lƣợng hoặc giá trị đầu ra.
Các loại thuế trong việc đánh thuế khu vực ngƣ nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản
là có thể sử dụng chung của loại hình này đối với sở hữu tƣ nhân, một tỷ lệ phần
trăm tiền bản quyền hay chia sẻ tổng giá trị đầu ra là một hình thức chi trả cho
ngƣời chủ sở hữu, đặc biệt là trong trƣờng hợp dầu thô và khí ga thiên nhiên.
24
2.3.4. Thuế dựa trên chi phí giả tưởng
Hình thức đánh thuế này là nỗ lực kết hợp mức độ cao trong thu gom tô kinh tế
với những khích lệ cao nhất cho việc sử dụng và quản lý các nhân tố đƣợc hiệu quả.
Một khi tỷ lệ này đƣợc thiết lập cho mỗi đơn vị sản xuất (thƣờng trong trƣờng hợp
chi phí phải trả theo độ tuổi của cây, chi phí cho mỗi khối lƣợng gỗ đã đƣợc phân
loại chất lƣợng và chi phí), doanh nghiệp giữ 100% các chi phí dự trữ. Các khoản
thanh toán phải phù hợp với sản lƣợng và doanh thu. Vấn đề lớn nhất trong quản lý
hành chính đối với loại thuế này nằm trong định nghĩa và sự ứng dụng trong phân
loại chất lƣợng và chi phí.
2.3.5. Điều tiết giá
Những hình thức này thƣờng đƣợc sử dụng để chuyển tô kinh tế từ những công
ty sản xuất hoặc chính phủ tới ngƣời tiêu dùng. Đối với nền kinh tế mở, các quy
định về giá trong nƣớc cần đƣợc bổ sung thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu hoặc các
khoản trợ cấp. Đối với giá tài nguyên nằm trong khu vực pháp lý cần đƣợc quy định
bởi một cơ quan thuộc chính phủ nhƣ là một ngƣời mua duy nhất.
2.3.6. Kiểm soát định lượng
Ở những nƣớc nƣớc mới sản xuất dầu mỏ nhƣ Na Uy, liên hiệp vƣơng quốc
Anh, chính phủ của quốc gia có một quyết định lớn về tỷ lệ mong muốn và quy mô
phát triển và làm giảm bớt những phát triển phù hợp đƣợc cho phép. Liên hiệp
vƣơng quốc Anh đã chọn một tốc độ phát triển khá nhanh, trong khi Na Uy với dân
số nhỏ hơn nhiều, đã chọn một trình độ sản xuất mà họ dự kiến có thể duy trì nhiều
hơn một thế kỷ.
2.3.7. Giám sát và ứng dụng
Tất cả các hệ thống thuế tùy thuộc vào các vấn đề cƣỡng chế, đặc biệt là những
vấn đề đƣợc quản lý hành chính. Nhiều vấn đề phát sinh nhƣ trốn thuế toàn bộ hoặc
lẩn tránh thuế. Trốn thuế là một hành động bất hợp pháp liên quan tới báo cáo thiếu
một cách có chủ tâm các khoản nợ thuế. Khi công ty không thể đƣợc giám sát một
cách hoàn hảo, sẽ xảy ra việc trốn thuế. Khả năng này có thể đƣợc làm giảm bằng
cách tăng các nguồn lực giành cho kiểm toán và bằng cách gia tăng hình phạt cho
25
những vi phạm. Tất nhiên, nếu tham nhũng quản lý hành chính tồn tại, trốn thuế trở
nên khó kiểm soát hơn.
Tránh thuế đƣợc coi là làm giảm các khoản nợ thuế bằng cách tiến hành những
biện pháp làm lệch doanh thu và chi phí giữa các hoạt động. Không giống với trốn
thuế, báo cáo thấp không có liên quan. Tuy nhiên, các biện pháp báo cáo các khoản
mục xác định nào đó có thể bị tác động. Có nhiều cách để làm điều này. Một cách là
sử dụng định giá chuyển khoản. Định giá chuyển khoản là một hiện tƣợng xảy ra
trƣớc tiên trong các công ty kết hợp theo chiều dọc trong đó bán hàng từ công ty
này sang công ty khác không đƣợc thực hiện ngay. Lợi nhuận đƣợc dịch chuyển từ
các công ty hoặc các hoạt động bị đánh thuế nặng xuống các công ty hoặc các hoạt
động bị đánh thuế nhẹ bằng cách thay đổi giá đƣợc đặt ra trong các giao dịch nội
ngành. Bởi vậy, nếu một công ty tài nguyên cũng đƣợc liên quan tới chế biến xuôi
dòng, nó có thể có khả năng tránh một phần của bất kỳ loại thuế tài nguyên đặc biệt
nào đƣợc đánh vào nó bằng cách sắp đặt để bán đầu ra tài nguyên của nó cho công
ty chế biến ở các mức giá đƣợc làm giảm một cách nhân tạo, nhƣ thế sẽ giúp lấy
đƣợc nhiều lợi nhuận của nó hơn trong công ty ngƣợc dòng. Cũng nhƣ việc dịch
chuyển lợi nhuận thông qua định giá chuyển khoản, các giao dịch tài chính cũng có
thể đƣợc sử dụng. Ví dụ, nếu lãi suất là có thể đƣợc khấu trừ, các công ty có thể sắp
đặt để làm cho việc vay mƣợn của chúng thông qua công ty có tỷ suất thuế cao nhất
bởi vậy làm giàm gánh nặng thuế toàn cục của họ. Cuối cùng, các công ty có thể sắp
đặt lại các chi phí gián tiếp và chi phí quản lý hành chính bằng những thay đổi trong
tiếp thị, các trụ sở chính, nghiên cứu và phát triển…
Một kỹ thuật cuối cùng để tránh thuế là làm lợi nhuận giả mạo nhƣ chi phí. Đây
là một vấn đề đặc biệt với các kiểu luồng tiền của thuế. Các công ty có thể sắp đặt
để làm cho một số lợi nhuận của chúng nhƣ là các thanh toán lƣơng và bằng cách đó
làm cho các luồng tiền của họ nhỏ hơn và làm giảm thuế dựa vào các luồng tiền
mặt. Điều này có thể là một vấn đề trong thiết kế thuế dựa trên luồng tiền.
26
2.3.8
Thuế tô kinh tế này là loại thuế đánh vào các luồng tiền thực của các công ty tài
nguyên. Đối với các công ty tài nguyên không hồi sinh, cơ sở tính thuế sẽ bao gồm
tất cả các doanh thu trên cơ sở tiền mặt trừ đi tất cả chi phí hiện thời và chi phí vốn
bao gồm chi phí chiếm hữu các thuộc tính tài nguyên, chi tiêu khai thác, chi tiêu
phát triển và bất kỳ chi tiêu chế biến nào mà công ty tài nguyên phải gánh chịu. Đối
với các công ty tài nguyên có thể hồi sinh, các chi phí tƣơng tự sẽ đƣợc khấu trừ
bao gồm chi phí quyền sở hữu, chi phí thu hoạch, bất kỳ chi phí hồi sinh nào, nhƣ
tái quy hoạch hoặc mua thêm, cũng nhƣ bất kỳ chi phí chế biến nào mà công ty phải
gánh chịu. Sẽ không có khấu trừ nào cho các loại thuế phải trả khác. Tất nhiên, hạch
toán các luồng tiền tệ cần phải đƣợc thực hiện từ một quan điểm xã hội do vậy bất
kỳ chi phí ngoại lai nào cần phải đƣợc đƣa vào nhƣ là chi phí trên cơ sở tiền tệ, khi
đó cơ sở tính thuế xấp xỉ tô kinh tế thực.
2.4. Kết luận
Trong chƣơng này, đề tài đã tổng hợp, giới thiệu những hiểu biết chung về tài
nguyên cạn kiệt (tài nguyên không hồi sinh, tài nguyên không tái tạo) và tài nguyên
hồi sinh (tài nguyên tái tạo) cũng nhƣ tiếp cận khái niệm tô kinh tế. Việc đo lƣờng
tô kinh tế là khá khó khăn và khó thực hiện, nhƣng cũng có một phƣơng án thay thế
đƣợc đƣa ra là phƣơng pháp luồn tiền và tƣơng đƣơng luồng tiền để đo lƣờng tô
kinh tế. Dựa vào những cơ sở lý thuyết này, rất nhiều cơ chế đánh thuế tài nguyên
đã đƣợc đƣa ra nhƣ đấu thầu, chia sẻ sản lƣợng theo đầu ra và tham gia vốn cổ phần
khu vực công cộng,… nhằm thu hồi một phần tô kinh tế cho khu vực công cộng. Do
đề tài đƣợc thực hiện ở Việt Nam, nơi mà việc lƣu trữ dữ liệu chƣa thành hệ thống
và chƣa thực sự cởi mở trong việc chia sẻ số liệu nên phạm vi của đề tài hƣớng tới
áp dụng một phần phƣơng pháp luồng tiền và đánh thuế luồng tiền tƣơng đƣơng để
thực hành ứng dụng.
27
CHƢƠNG III: ĐÁNH THUẾ TÀI NGUYÊN TẠI VIỆT NAM
3.1. Hệ thống thuế tại Việt Nam và những cải cách
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng khích lệ
trong tăng trƣởng kinh tế, an ninh quốc gia và trật tự xã hội, giảm đói nghèo, phát
triển thành thị và nông thôn, quy hoạch, đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển
công nghiệp, loại bỏ các nhà máy công nghiệp từ các khu vực đô thị và có mật độ
dân cƣ đông, để tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh tế và, cùng đồng thời, giải
quyết vấn đề bức xúc trong sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Các biện pháp
này đã và đang đƣợc thực hiện rộng rãi trên toàn quốc.
Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn quan trọng cải cách thuế và đã từng bƣớc
thành công, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội. Các mục tiêu chính của
cải cách phụ thuộc các giai đoạn phát triển kinh tế của từng thời kỳ, nhƣng nói
chung, hệ thống thuế vẫn là công cụ quan trọng của Nhà nƣớc trong điều chỉnh kinh
tế vĩ mô, góp phần phát triển sản xuất, khuyến khích đầu tƣ và xuất khẩu, thúc đẩy
những thay đổi trong cơ cấu kinh tế và doanh thu từ thuế trở thành doanh thu chủ
yếu của ngân sách nhà nƣớc.
3.1.1. Giai đoạn đầu tiên của cải cách thuế (1990-1995)
Kết quả của giai đoạn này nhằm tạo ra một hệ thống thuế đồng nhất, trong đó có
9 loại thuế quan trọng áp dụng cho khu vực nhà nƣớc, tƣ nhân thuộc ngành công
nghiệp và thƣơng mại. Khi đó nông nghiệp với hơn 70% GDP cả nƣớc. Thuế doanh
thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu khi đó đóng vai trò quan trọng trong cải cách
sau này
3.1.2. Giai đoạn thứ hai của cải cách thuế (1997-2005)
Giai đoạn này đƣợc bắt đầu thực hiện trong cuối những năm 1990 trong bối cảnh
Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thƣơng mại Tự do ASEAN (AFTA) và chuẩn bị để
thƣơng lƣợng để gia nhập vào Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO). Với việc xuất
hiện các thuế mới, trong đó có thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Giai đoạn cải cách này thể hiện nỗ lực rất lớn của chính phủ Việt Nam trong thực
hiện chỉ đạo cải cách, phản ánh nền kinh tế chuyển sang định hƣớng thị trƣờng.
28
Một hệ thống thuế, đƣợc coi là liên quan chặt chẽ với hoạt động của một nền
kinh tế định hƣớng thị trƣờng, đã đƣợc từng bƣớc đƣợc thiết lập và áp dụng thống
nhất cho tất cả các thành phần kinh tế bao gồm các loại thuế:
Thuế xuất nhập khẩu;
Thuế giá trị gia tăng (VAT);
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB);
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN);
Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
Thuế chuyển nhƣợng sử dụng đất đai;
Thuế thu nhập cá nhân đối với ngƣời có thu nhập cao;
Thuế nhà ở;
Thuế tài nguyên;
Phí và lệ phí;
* Nhìn chung kết quả đạt đƣợc của 2 giai đoạn cải cách
Tổng doanh thu từ thuế, phí và lệ phí đã tăng đáng kể:
+Thuế doanh thu năm 1996-2000 tăng 2,3 lần so với doanh thu thu đƣợc trong
1991-1995;
+Thuế doanh thu năm 2001-2005 tăng 2,0 lần trong so với doanh thu thu trong
1996-2000;
Tuy nhiên, hệ thống thuế trở nên phức tạp hơn (về thuế suất, ƣu đãi về thuế),
không phải là toàn diện, không đồng bộ, không bao gồm tất cả các mục tiêu chịu
thuế và các nguồn thu bằng kinh tế thị trƣờng, không thực sự minh bạch, bất bình
đẳng, do đó không phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.1.3. Giai đoạn thứ ba của cải cách thuế (2006-2010)
* Các mục tiêu đặt ra trong giai đoạn này:
Thuế phải đóng một vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô;
Khuyến khích sản xuất trong nƣớc, đầu tƣ và xuất khẩu;
Đảm bảo mức độ hợp lý của thu ngân sách cho Nhà nƣớc ngân sách;
Thuế đi cùng với quá trình kinh tế quốc tế hội nhập;
29
Đảm bảo sự công bằng và vốn chủ sở hữu;
Đóng góp vào quá trình cải cách hành chính thuế;
*Các kết quả đạt đƣợc:
Sửa đổi pháp luật về thuế giá trị gia tăng (2008):
+Mở rộng cơ sở thuế qua việc cắt giảm số lƣợng hàng hóa và dịch vụ đƣợc miễn
thuế giá trị gia tăng;
+Cải cách cơ cấu thuế suất (Mở rộng phạm vi 10%, thu hẹp phạm vi 5%), và
phƣơng pháp tính (Thiết lập các yêu cầu đầu vào đƣợc khấu trừ thuế GTGT nhằm
thực hiện thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng);
Sửa đổi thuế TTĐB (2005, 2008);
+Cải cách thuế suất: Giảm thuế đối với bia và rƣợu để mở thị trƣờng do các cam
kết gia nhập WTO, đảm bảo không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và trong
nƣớc.
+Mở rộng việc áp dụng thuế TTĐB đối với máy bay, du thuyền sử dụng cá
nhân.
Cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp (2008): Giảm thuế suất từ 28% đến 25%
và Đơn giản hóa ƣu đãi về thuế: Thu hẹp phạm vi miễn, giảm thuế.
Cải cách thuế thu nhập cá nhân (2007): Giới thiệu Luật thuế thu nhập cá nhân
Giới thiệu Luật thuế tài nguyên (2009): Thay đổi quy định về tỷ giá tính thuế và
thuế để tăng doanh thu và giúp bảo vệ thiên nhiên nguồn tài nguyên.
Giới thiệu Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (2010): Thiết lập thuế
Phƣơng pháp tính theo tỷ lệ phần trăm của giá đất, tăng thuế đối với đất đƣợc
sử dụng để cƣ trú ở khu vực thành thị, giảm thuế nông thôn khu đất ở.
Giới thiệu thuế bảo vệ môi trƣờng (2010): thuế mới mà mục tiêu sản phẩm có
sử dụng là có hại cho môi trƣờng. Cả hai điều này sẽ tạo ra doanh thu và giúp thay
đổi hành vi của ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng.
Cải cách quản lý thuế:
+Hiện đại hóa hệ thống quản lý thuế
+Cơ cấu lại tổ chức
30
+Đào tạo cán bộ
+Ứng dụng công nghệ
Áp dụng cơ chế tự đánh giá
Thuế giáo dục.
3.1.4. Bài học về cải cách thuế ở Việt Nam
Việt Nam đã thành công trong cải cách thuế trong thời gian 2006 - 2010. Bổ
sung những thuế mới hoặc có thể giảm thuế theo cam kết WTO. Cải cách thuế cải
cách đã góp phần đáng kể vào quá trình cải cách kinh tế tại Việt Nam. Doanh thu từ
các khoản thuế và lệ phí là một nguồn quan trọng cho Nhà nƣớc ngân sách nhằm
tăng đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc; thanh toán nợ nƣớc ngoài; Chi tiêu cho xã hội
(y tế, giáo dục, văn hóa ...)
Cải cách thuế luôn luôn gặp rất nhiều trở ngại trong thực hiện, nhƣng điều cần
rút ra là:
Có rất nhiều mục tiêu ban đầu, nhƣng những mục tiêu chính cần thiết để đƣợc
ƣu tiên trong từng giai đoạn phát triển để xây dựng và thực hiện chiến lƣợc cải cách
thuế.
Chính trị, xã hội ổn định và quyết tâm của Chính phủ yếu tố quan trọng nhất
để đảm bảo sự thành công của cải cách thuế. Cải cách thuế cần thiết để thực hiện
phù hợp với cải cách trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế nhƣ pháp luật, tổ chức
quản lý.
Sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, và các nhà tài trợ cũng rất
quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống thuế công bằng trong phổ biến và
triển vọng dài hạn.
3.2. Thuế tài nguyên và một số loại thuế khác ở Việt Nam
3.2.1. Tổng quan doanh thu từ thuế
Doanh thu từ thuế của Việt Nam đạt mức cao nhất là 29% của GDP vào năm
2008 và giảm nhẹ vào năm 2011 (27%) do giảm giá dầu khí. Nếu không tính thuế
đánh vào dầu khí thì doanh thu từ thuế tiếp tục tăng từ 18,4% GDP năm 2008 đến
20,6% GDP trong năm 2010. Các chiến lƣợc cải cách trong thu doanh thu từ thuế cố
31
gắng đạt 23%-24% bất chấp sự suy giảm trong doanh thu dầu mỏ, cũng nhƣ các
giao dịch thƣơng mại và viện trợ nƣớc ngoài. Nhìn vào sơ đồ sau để có cái nhìn rõ
hơn về nội dung này (theo số liệu của FAD).
Hình 3.1: Cân đối ngân sách, từ năm 1998-2017
Việt Nam là một trong những nƣớc đạt tỷ lệ cao nhất trong khu vực về doanh thu
từ thuế trên GDP. Chỉ có Malaysia và Bhutan là cao hơn và doanh thu từ thuế tính
theo đầu ngƣời của Việt Nam là cao nhất. Số liệu thể hiện nhƣ hình sau:
32
Hình 3.2:Tỷ lệ doanh thu từ thuế theo GDP của các nước mới nổi năm 2010
So với các nƣớc mới nổi khác, GDP của Việt Nam dựa nhiều vào thuế Thu nhập
doanh nghiệp (CIT), thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế giao dịch thƣơng mại bao
gồm cả thuế tiêu thụ đặc biệt trong nhập khẩu. Và ít dựa vào thuế thu nhập cá nhân
(PIT), thuế sử dụng đất và thuế TTĐB. Điều này tuy không đƣợc nêu ra, nhƣng có
thể thấy những khu vực có thể phát triển doanh thu từ thuế. Chi tiết thể hiện nhƣ
hình sau:
33
Hình 3.3: So sánh doanh thu từ thuế của Việt Nam và các nước mới nổi
Dựa vào tỷ lệ cách thành phần thuế từ năm 2004 - 2010 (chi tiết xem tại hình
dƣới đây), dự báo trong tƣơng lai, những đóng góp của doanh thu từ thuế có thể
thay đổi do:
+Giảm nguồn thu từ dầu;
+Doanh thu từ những giao dịch thƣơng mại dự kiến cũng giảm do cắt giảm thuế
quan khi tham gia vào WTO;
+Tăng đóng góp của thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt;
+Thuế sử dụng đất tuy là doanh thu thƣờng xuyên nhƣng rất nhỏ;
+Quan trọng nhất là thuế VAT sẽ tăng;
+Thuế Thu nhập cá nhân cũng tăng nhƣng tăng ở mức thấp.
34
Hình 3.4: Những thành phần của Doanh thu từ thuế ở Việt Nam năm 2004-2010
Những thách thức của cải cách thuế của Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2020:
trƣớc hết tạo ra một hệ thống thuế công bằng, hiệu quả toàn diện và phù hợp với
một nền kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Sau đó là cố gắng đơn giản và minh
bạch trong việc thu thuế nhằm tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu, cũng nhƣ
khuyến khích đầu tƣ, đặc biệt là trong khu vực công nghệ cao. Tiếp nữa là nhằm tạo
việc làm và tạo ra tăng trƣởng bền vững.
3.2.2.Thuế giá trị gia tăng (VAT)
Đặc điểm thuế VAT tại Việt Nam hiện nay:
+Hầu hết thuế GTGT hiện nay đƣợc tính toán dựa vào hóa đơn;
+Thuế suất tiêu chuẩn là 10% cộng với khoảng nhỏ hơn 5% phụ thuộc vào danh
sách hàng hóa trong danh sách của (nƣớc sạch, phân bón, thực phẩm tƣơi sống,
đƣờng .......);
35
+Có khoảng 25 mặt hàng hóa và dịch vụ đƣợc miễn thuế;
+Không có ngƣỡng cho phép tiêu chuẩn
+Chỉ hoàn lại dòng tiền trên mức cho phép
+Một phần doanh thu từ thuế đƣợc thu bởi chính quyền địa phƣơng.
Xem các biểu đồ sau để hiểu thêm về đặc điểm của thuế VAT.
Hình 3.5: Sự gia tăng trong doanh thu từ thuế VAT năm 2010 (% GDP)
Hình 3.6: Tiêu chuẩn thu thuế VAT của Việt Nam và quốc tế năm 2010
36
Hình 3.7: Hiệu quả thu thuế VAT giữa Việt Nam và quốc tế năm 2010
Mục tiêu thu thuế VAT từ năm 2011-2015
+Giảm số lƣợng hàng hóa, dịch vụ đƣợc miễn thuế;
+Giảm số lƣợng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%;
+Nghiên cứu tính khả thi của một hệ thống thuế thống nhất vào năm 2020;
+Chuyển hƣớng theo hóa đơn cho tất cả các đối tƣợng nộp thuế (trừ những đối
tƣợng dƣới ngƣỡng cho phép);
+Giới thiệu ngƣỡng thuế GTGT áp dụng cho phù hợp với thông lệ quốc tế
Kiến nghị
+Kiến nghị cụ thể một cách hợp lý cho danh sách những hàng hóa và dịch vụ
miễn thuế;
+Loại bỏ các hàng hóa chịu thuế suất 5% và phân loại những mặt hàng chịu thuế
thấp hơn, hoặc áp dụng thuế tiêu chuẩn;
+Loại bỏ việc hoàn trả thuế cho khu vực xuất khẩu;
+Tập trung vào việc chi trả thuế (chuyển cho khu vực địa phƣơng quản lý);
37
3.2.3. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Các hàng hóa thuộc diện chịu thuế: Thuốc lá, đồ uống có cồn, các sản phẩm dầu,
ô tô, máy bay, du thuyền… và nhiều mặt hàng khác.
Theo báo cáo của tổ chức IMF năm 2009 đặc điểm của thuế TTĐB là
+Việc thu một số loại thuế này không đạt hiệu quả;
+Tỷ lệ thuế đánh vào xăng dầu thấp (10%);
+Tỷ lệ buôn lậu cao;
Giải pháp
+Xem xét tiêu chí hiệu quả của thuế tiêu thụ đặc biệt trên những mặt hàng tiêu
dùng, loại bỏ những đối tƣợng thu đƣợc ít thuế và tốn chi phí bỏ ra cho việc thu
thuế;
+Xem xét khả năng tăng thuế xăng dầu;
+Xem xét lại tính hợp lý của thuế suất (ví dụ về thuế trong xổ số và cờ bạc);
+Phối hợp ngăng chặn tình trạng buôn lậu
3.2.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đặc điểm:
+ Thuế suất TNDN cạnh tranh theo quốc tế là 25%;
+Phạm vi của thuế TNDN: một số tỷ lệ hóa trong những năm gần đây, nhƣng
vẫn tiếp tục mở rộng và phức tạp hóa không cần thiết;
+Thuế TNDN và các khoản giảm trừ doanh thu: ngày càng mở rộng với thông lệ
quốc tế nhƣng một số phạm vi lại loại bỏ giới hạn khấu trừ và đơn giản hóa một số
khoản trợ cấp;
Xu hƣớng thuế TNDN quốc tế: Tỷ lệ thu có giảm nhƣng doanh thu từ thuế có xu
hƣớng tăng lên ở những nƣớc phát triển. Xem biểu đồ sau để hiểu rõ hơn nội dung
này (tham khảo số liệu của FAD):
38
Hình 3.8 : Xu hướng thuế TNDN ở những nước có thu nhập thấp
Hình 3.9: Xu hướng thuế TNDN ở những nước có thu nhập cao
39
Điều này có thể phản ánh việc mở rộng căn cứ tính thuế bao gồm cả việc giảm
ƣu đãi thuế TNDN.
Những thách thức
+Về ƣu đãi thuế
o Doanh thu bị ảnh hƣởng xấu, bao gồm cả nguyên nhân do lợi nhuận;
o Chỉ thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nếu chính phủ quản trị tốt;
o Ảnh hƣởng xấu đến quản trị, đặc biệt là nếu ƣu đãi tùy tiện;
+Lợi nhuận thay đổi: Có nhiều lý do đƣợc trong đợi để kiểm soát thay đổi này;
+Đối với những khu vực liên danh hoặc mở rộng hợp tác bao gồm cả về chính
trị, có thể trở nên mạnh hơn;
Giải pháp đề xuất
+Mở rộng hợp lý hóa trong ƣu đãi thuế (ví dụ: cho phép giảm tỷ lệ thuế TNDN
trong trung và dài hạn, Thuế suất trong khu vực Châu Á trong năm 2011 là
22,78%);
+Khấu trừ thuế TNDN phù hợp với thông lệ quốc tế
o Loại bỏ giới hạn khấu trừ, nhƣng có thể giới hạn cho những doanh nghiệp
giải trí và tài trợ cho các sự kiện thể thao, nghệ thuật;
o Đơn giản hóa cho các khoản khấu trừ sử dụng chung cho 3 hoặc 4 loại vốn
khấu hao;
+Đảm bảo thực hiện hiệu quả các qui tắc kế hoạch thuế cần thiết
3.2.5. Thuế thu nhập cá nhân (PIT)
Những thách thức
+Ƣu điểm là loại thuế này đã có tiến trình thực hiện, nhƣng tỷ lệ chiếm rất thấp
(0,8% GDP) do
o Trợ cấp thuế mức ban đầu vẫn cao;
o Trợ cấp cho loại thuế này cũng cao;
o Thu nhập do lợi nhuận cá nhân thu đƣợc đều miễn thuế;
o Do tỷ lệ thu thuế Thu nhập doanh nghiệp thấp hơn nên hạch toán vào chi
phí này bị ẩn đi;
40
o Thuế lƣơng hƣu
+Cấu trúc của loại thuế này cũng phức tạp
o Lợi tức từ chứng khoán: 20% lợi tức danh nghĩa hoặc 0,1% trên giá bán;
o Lợi tức từ bất động sản: 25% lợi tức danh nghĩa hoặc 2% trên giá bán;
o Thu nhập/lãi cổ tức: 5%;
o Thu nhập bất thƣờng khác nhƣ thừa kế, trúng thƣởng :10%
Giải pháp đề xuất của IMF
+Giảm mức trợ cấp đánh thuế cho mức ban đầu và giảm sự phụ thuộc của loại
thuế này vào trợ cấp;
+Chú ý đến thuế lƣơng hƣu;
+Giảm thuế thu nhập cá nhân trên biên so với tỷ lệ thuế TNDN;
+Thống nhất tỷ lệ thuế lợi tức, xem xét đến một hệ thống thuế kép;
+Mở rộng cơ sở tính thuế lợi tức;
3.3. Thuế tài nguyên ở Việt Nam
Tại Việt Nam, Theo tinh thần của Nghị Quyết Đại hội 6 (1986), những cải cách
về chính sách, cũng nhƣ nhận thức xã hội liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và
giá trị môi trƣờng đã thay đổi hoàn toàn. Bên cạnh giá trị kinh tế, liên quan đến
quyền tài sản, tài nguyên thiên nhiên cũng là mục tiêu tập trung của Nhà nƣớc. Vì
vậy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật
về bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn nhƣ Luật về bảo vệ
và phát triển rừng (1991), luật về đất đai (1993, sửa đổi năm 2003), luật về khoáng
sản, luật về dầu và khí (1993, sửa đổi năm 2000), pháp lệnh về tài nguyên nƣớc
(1998), Pháp lệnh về bảo vệ và phát triển thuỷ sản (1989), ... Về tài nguyên môi
trƣờng, văn bản quy phạm pháp luật cũng tồn tại trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn
nhƣ luật dân sự, luật hình sự, pháp luật về doanh nghiệp, một số thuế luật, pháp lệnh
về phí và lệ phí.
Pháp lệnh thuế tài nguyên đƣợc ban hành vào năm 1990 và sửa đổi năm 1998
của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Đến năm 2009, Luật thuế Tài nguyên đã đƣợc
Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông
41
qua tháng 10 năm 2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Bãi bỏ Pháp
lệnh số 05/1998/PL-UBTVQH10 ngày 16/4/1998 của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội
về thuế tài nguyên (sửa đổi) và Pháp lệnh số 07/2008/PL-UBTVQH12 ngày
22/11/2008 của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế
tài nguyên.
Những qui định về thuế tài nguyên này áp đặt thuế sử dụng hoặc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, nhƣ khoáng sản, dầu và khí, rừng tự nhiên tài nguyên, hải sản
tự nhiên, nƣớc thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên khác.
Thuế suất là nhà nƣớc quy định cho từng loại tài nguyên thiên nhiên, dựa trên
những điều sau đây quy tắc: tài nguyên thiên nhiên không tái tạo đƣợc hoặc có giá
trị sẽ bị đánh thuế cao hơn tái tạo những ngƣời thân. Ví dụ, mức thuế suất 40%
đƣợc áp dụng đối với tài nguyên rừng tự nhiên; thuế tỷ lệ 1% đƣợc áp dụng với đất
đƣợc sử dụng làm nguyên liệu. Bảng thuế tài nguyên thiên nhiên tỷ lệ là tại Phụ lục
1.
Căn cứ tính thuế là sản lƣợng tài nguyên thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế
suất. Riêng đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than, căn cứ tính thuế tài nguyên
đƣợc xác định trên cơ sở lũy tiến từng phần của tổng sản lƣợng dầu, khí thực khai
thác trong mỗi kỳ nộp thuế tính theo sản lƣợng dầu, khí bình quân mỗi ngày khai
thác đƣợc của toàn bộ diện tích hợp đồng dầu, khí và số ngày khai thác trong kỳ
tính thuế; thuế suất và giá tính thuế tài nguyên.
3.3.1. Thuế tài nguyên Việt Nam và quốc tế
Đặc điểm hiện tại của thuế tài nguyên thiên nhiên
+Thuế TNDN chiếm 50%, trong đó thuế thu đƣợc từ những dự án là 32%-40%;
+Thuế tài nguyên: Dầu khí chiếm 7-29%, Kim loại chiếm 10-15%, Phí khai thác
mỏ chiếm 2,5-3%, Thu xuất khẩu: quặng sắt chiếm 40%, vàng 10%, dầu 10% ;
+Xuất khẩu khí ga bị cấm;
+Không hoàn trả lại tiền thuế GTGT cho những mặt hàng thô chƣa qua chế biến;
Xem những so sánh thuế về thuế dầu mỏ, vàng, đồng của Việt Nam với quốc tế
để thấy rõ hơn điều này:
42
Hình 3.10: So sánh tài nguyên dầu của Việt Nam và quốc tế
Hình 3.11: So sánh tài nguyên vàng của Việt Nam và quốc tế
43
Hình 3.12: So sánh tài nguyên đồng của Việt Nam và quốc tế
Ghi chú: AETR là thuế suất trung bình hiệu quả, là tỷ lệ của giá trị hiện tại ròng
(NPV) của dòng tiền dự án trƣớc thuế.
Các vấn đề cần giải quyết
+Việc kết hợp tỷ lệ tiền thuê mỏ cao, thuế TNDN cao, tỷ lệ thuế xuất nhập khẩu
cao có thể khiến đầu tƣ vào Việt Nam trong lĩnh vực năng lƣợng và các lĩnh vực
khai thác mỏ kém hấp dẫn hơn so với nƣớc khác.
+Thuế xuất khẩu là một phƣơng thức không hiệu quả trong tinh chế dầu thô
trong nƣớc;
+Cần tăng cƣờng minh bạch tài chính;
Một số kiến nghị
+Cẩn thận xem xét tổng thế thuế năng lƣợng và thuế vào khoáng sản để đảm bảo
cạnh tranh quốc tế: Xem xét thay đổi cán cân giữa thuế sản xuất, thuế tiền thuê mỏ,
đặc biệt đối với những dự án sắp hoàn thành.
44
+Phân loại tách biệt thuế GTGT và thuế xuất khẩu cho các đối tƣợng xuất khẩu;
+Thực hiện các chuẩn mực kế toán EITI để đảm bảo tính minh bạch;
Để hiểu rõ hơn về sự đa dạng của thuế tài nguyên, đề tài đƣa ra thêm một số khía
cạnh khác thuế tài nguyên.
3.3.2. Thuế Sử dụng đất
Việt Nam áp đặt thuế sử dụng đất thông qua Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai và Pháp lệnh về thuế nhà ở. Điều này có nghĩa là các tổ chức, cá nhân sau
khi nhận đƣợc đất của Nhà nƣớc cho hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi, thủy sản) chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác, những ngƣời sử
dụng nhà ở của các dự án xây dựng công trình hay những nhà ở riêng lẻ đều phải
chịu thuế nhà đất. Nội dung và kết quả thực hiện thuế đánh thuế sử dụng đất đƣợc
đề cập trong các tài liệu liên quan thuế sử dụng đất và tài sản.
Đất đai là một trong các thành phần của tài nguyên, do đó thuế sử dụng đất hiện
tại không phải phân loại bởi vì đất đai đƣợc dễ dàng đo lƣờng và xác định mức đánh
thuế. Xem xét quan điểm chính sách thuế sử dụng đất, thứ nhất là nhằm mục đích
khuyến khích sử dụng đất đạt hiệu quả kinh tế, và đồng thời, đảm bảo công bằng
trong đóng góp của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào ngân sách Nhà nƣớc. Thứ
hai là mức thuế đƣợc áp dụng dựa trên lợi nhuận của việc sử dụng đất (ví dụ trồng
lúa trong sử dụng đất nông nghiệp) và tiện lợi trong sử dụng đất, chẳng hạn nhƣ các
trang web đất đai và cơ sở hạ tầng (đối với cùng một loại đất, mức độ thuế đất sử
dụng để kinh doanh nhà ở có thể cao hơn rất nhiều so với mức thuế sử dụng đất
nông nghiệp). Thứ ba là những quy định về miễn, giảm thuế sử dụng đất đƣợc áp
dụng trong trƣờng hợp thiên tai, khó khăn ảnh hƣởng đến đời sống, và chính sách
đảm bảo những mục tiêu xã hội. Gần đây, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về
miễn, giảm thuế sử dụng đất đối với diện tích đất nông nghiệp của ngƣời nông dân,
cũng miễn thuế sử dụng đất cho các dân tộc thiểu số ở các xã khó khăn trên vùng
cao. Với những tiếp cận này ta thầy, rõ ràng là thuế sử dụng đất ở Việt Nam gần
giống với thuế thu nhập hoặc thuế tài sản hơn thuế tài nguyên thiên nhiên và môi
trƣờng.
45
Đất đai liên quan đến chính sách này đƣợc ban hành nhằm khuyến khích giảm
trong môi trƣờng ô nhiễm tại các khu vực đô thị, khu dân cƣ. Trong đó, tiền thu
đƣợc từ chuyển quyền sử dụng đất liên quan đến việc bán tài sản nằm trong đất của
nhà nƣớc doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc đƣa ra trong tổng thể cho các doanh nghiệp
nếu các hoạt động liên quan đến di chuyển các đơn vị sản xuất từ các khu vực đô thị
hoặc khu dân cƣ theo kế hoạch đã đƣợc phê duyệt, thay vì đƣợc vào ngân sách nhà
nƣớc.
3.3.3. Thuế và lệ phí từ dầu mỏ
Thuế và lệ phí từ dầu mỏ và các loại dầu máy phát điện doanh thu tƣơng đối lớn,
để phát triển, cũng nhƣ các nƣớc phát triển. Tuy nhiên, dựa trên những đánh giá của
Các chuyên gia IMF (6/2004), các khoản thu này vẫn còn khiêm tốn ở Việt Nam,
và, đây là đƣợc coi là một hiện tƣợng bất thƣờng. Hiện nay, thuế và phí từ dầu mỏ
và Các loại dầu này ở Việt Nam bao gồm Biểu thuế nhập khẩu (20%), thuế tiêu thụ
đặc biệt (10%), thuế GTGT (10%), và xăng dầu và phí dầu 1 (Dầu khí: 500 đồng /
lít, dầu diesel: 300 đồng / lít, những ngƣời khác: không áp dụng). Tổng số thuế và lệ
phí từ các nguồn trên vào ngân sách giai đoạn, trong đó doanh thu từ dầu mỏ và các
loại dầu đƣợc sử dụng nhƣ một trong những yếu tố cho phân bổ vốn ngân sách chi
tiêu vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
Nhƣ đã đề cập trong phần trên, các khoản thuế và lệ phí về dầu mỏ và các loại
dầu này ở Việt Nam đƣợc coi là thuế môi trƣờng gián tiếp (IETs) bởi vì họ đƣợc
bao gồm vào giá bán xăng dầu và khí. Vì vậy, tác động đối với môi trƣờng không rõ
ràng, mặc dù họ có tác dụng về mối quan hệ cung-cầu và giảm tiêu thụ tại thời điểm
tăng giá. Vấn đề môi trƣờng ô nhiễm gây ra bởi việc sử dụng dầu mỏ và các loại
dầu (tùy thuộc vào các yếu tố nhƣ: tổng số tiêu thụ số lƣợng, chất lƣợng phƣơng
tiện giao thông vận tải, nhiên liệu bằng cách sử dụng thành thạo, cơ sở hạ tầng ...)
đã không đƣợc điều chỉnh thông qua xăng dầu và dầu thuế và lệ phí.
Đây là một trong những vấn đề cần quan tâm hơn nữa khi thiết kế chính sách
thuế tƣơng lai.
46
3.3.4. Phí và lệ phí trong lĩnh vực Môi trường
Các tài liệu pháp lý cơ bản để ban hành và thực hiện các quy định về phí và lệ
phí liên quan đến môi trƣờng và bảo vệ môi trƣờng là pháp luật bảo vệ môi trƣờng
(2003). Luật này quy định rằng các tổ chức và cá nhân sử dụng các yếu tố môi
trƣờng, nếu tham gia vào các hoạt động gây ô nhiễm môi trƣờng hoặc sự cố, phải
chịu trách nhiệm đóng góp tiền để giải quyết tình trạng ô nhiễm và cải thiện môi
trƣờng.
Căn cứ vào Điều 34, Nghị định 175/CP ngày 18/11/1994, quy định chi tiết và
hƣớng dẫn việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trƣờng, tất cả các tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm đóng góp tiền để hoạt động bảo vệ môi trƣờng khi tham gia vào các
hoạt động sau đây: (i) Thăm dò dầu, khí đốt và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khác, (ii) Sân bay, bến cảng, xe ô tô, và đƣờng sắt trạm; (iii) Xe máy và phƣơng tiện
vận tải khác; và (iv), Tham gia vào các hoạt động kinh doanh gây ô nhiễm. Tài
chính đóng góp của tổ chức, cá nhân đƣợc thực hiện theo hình thức lệ phí, phí, tiền
nộp phạt do hành vi vi phạm hành chính, phụ thuộc vào bản chất của hành vi của họ
liên quan đến việc môi trƣờng.
Điểm ban đầu của xăng dầu và phí dầu là chi phí vận chuyển. Trƣớc đây, Việt
Nam đã áp đặt phí đƣờng cho mỗi phƣơng tiện vận chuyển, mức phí phụ thuộc vào
các loại hình giao thông vận tải, công suất, tải trọng, và hàng năm, điều này đã đƣợc
thay đổi một hệ thống tiền tính lệ phí dựa trên dầu mỏ và giá dầu. Tuy nhiên, sau
nhiều dự án xây dựng, rà soát, cầu nâng cấp và tuyến đƣờng bằng cách sử dụng vốn
vay đƣợc thực hiện, lệ phí đã đƣợc tính để đảm bảo đủ tiền để hoàn trả vốn vay và
tài trợ cho các chi phí vận hành và bảo dƣỡng (O & M) cho các dự án. Chính phủ
cho phép đầu tƣ dự án thu phí trên các phƣơng tiện giao thông vận tải trong mỗi lần
sử dụng. Vào thời điểm đó, áp đặt lệ phí giao thông vận tải thông qua xăng dầu và
giá dầu đƣợc cho là không hợp lý, nhƣ nó đã đƣợc gấp đôi áp đặt và bất bình đẳng,
bởi vì những nhiên liệu không chỉ đƣợc sử dụng trong giao thông vận tải mà còn
cho các mục đích khác, chẳng hạn nhƣ máy phát điện, và động cơ máy bơm để tƣới
tiêu. Vì vậy, trong năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định 78/2000 quy định
47
xăng dầu và phí dầu, và bãi bỏ lệ phí giao thông vận tải trên cơ sở dầu mỏ và giá
dầu. Nhiều ngƣời tin rằng dầu mỏ và dầu phí nên đi theo một loại thuế môi trƣờng
đối với các hoạt động gây ô nhiễm môi trƣờng bằng cách sử dụng dầu mỏ và dầu,
nhƣng phải đƣợc gián tiếp thu thập thông qua xăng dầu và giá dầu.
Theo chƣơng trình sửa đổi hệ thống pháp luật, Quốc hội sẽ phê chuẩn Luật sửa
đổi, bổ sung Luật Môi trƣờng. Theo đó, xuất hiện những công cụ kinh tế để hạn chế
ô nhiễm và bảo vệ môi trƣờng là đầu tƣ cho việc cải thiện môi trƣờng sẽ đƣợc tập
trung hơn.
Pháp lệnh phí và lệ phí, do Quốc hội ban hành Ủy ban Thƣờng vụ vào ngày 28
tháng tám năm 2001, quy định trách nhiệm bồi phí và lệ phí môi trƣờng bao gồm:
(a) Phí và lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận để đáp ứng đủ điều kiện tiêu chuẩn
môi trƣờng cho các doanh nghiệp liên quan đến điều kiện môi trƣờng, lệ phí lập báo
cáo đánh giá môi trƣờng hiệu ứng; và (b) phí bảo vệ môi trƣờng đối với từng lĩnh
vực của các doanh nghiệp, trong đó mục theo thể loại (a) rõ ràng doanh thu bao
gồm các chi phí của công chúng dịch vụ cung cấp các mục tiêu cần thiết để đánh
giá. Thu theo nhóm (b) quy định chi tiết Nghị định 57/2002/NĐ-CP ngày ngày 03
tháng 6 năm 2002, hƣớng dẫn thi hành Pháp lệnh. Sau đó, có thu phí, lệ phí bảo vệ
môi trƣờng sau đây
- Phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải;
- Phí bảo vệ môi trƣờng dầu khí, dầu, khí thải từ việc sử dụng than và khác nhiên
liệu;
- Phí bảo vệ môi trƣờng đối với chất thải rắn;
- Phí bảo vệ môi trƣờng về ô nhiễm tiếng ồn;
- Phí bảo vệ môi trƣờng cho các sân bay, bến, cảng;
- Phí bảo vệ môi trƣờng để khám phá cho dầu, khí đốt và khoáng sản khác.
Tuy nhiên, cho đến nay, chính phủ đã chỉ thành lập quy định về đánh thuế hai
mục thu phí bảo vệ môi trƣờng đối với dầu mỏ và các loại dầu (dầu mỏ và các loại
dầu ' lệ phí) và một khoản phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải tƣơng ứng.
48
Số còn lại lệ phí vẫn đang đƣợc nghiên cứu và các điều kiện cần thiết đang đƣợc
chuẩn bị để ban hành và thực hiện, theo các chƣơng trình liên quan đến xây dựng
các văn bản pháp lý nhà nƣớc. Nhƣ đã trình bày trong phần trên, doanh thu từ môi
trƣờng Phí bảo vệ cho dầu mỏ và các loại dầu có thể đƣợc coi là IETs thuế, mặc dù
nó không phải là chỉ đƣợc sử dụng cho các mục đích môi trƣờng. Với một số tiền
doanh thu trung bình trong giai đoạn 2000-2003 của 2.750 tỷ đồng, phí xăng dầu và
các loại dầu tạo ra một đáng kể tỷ lệ tổng nguồn thu từ thuế và phí (khoảng 2,5%).
Đối với phí môi trƣờng đối với nƣớc thải, các tỉnh có hiện nay đƣợc quy định chi
tiết mức sống nƣớc thải và thực hiện các đánh giá của báo cáo và kết quả tính toán
vào nồng độ và số lƣợng chất thải từ các doanh nghiệp để xác định số tiền hàng
tháng phải nộp lệ phí. Mặc dù vẫn không có kết quả chi tiết liên quan đến doanh thu
này, một số nhận xét có thể đƣợc thực hiện về lệ phí này nhƣ sau:
- Đầu tiên, mục tiêu phải chịu phí và yếu tố đƣợc sử dụng để xác định số tiền lệ
phí là những chất độc quy định / chất độc trong nƣớc thải (hiện nay, chỉ có 7 loại
chính chất độc / độc, nhƣ đã nêu trong Phụ lục 3). Điều này cho thấy rằng lệ phí
môi trƣờng nƣớc thải ở Việt Nam là tƣơng tự nhƣ một loại thuế Pigouvian; ý nghĩa
sẽ có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện, mặc dù mức thu lệ phí đƣợc xác
định trong giai đoạn này vẫn còn khá thấp.
- Mức lệ phí đƣợc tách biệt giữa sinh hoạt và nƣớc thải công nghiệp, do xem xét
các chi phí phát sinh do tổ chức thu thập và tính khả thi của quá trình thực hiện, bởi
vì nó là không thể đo lƣờng và xác định chất độc / độc trong nƣớc thải sinh hoạt của
từng hộ gia đình. Do đó, vốn chủ sở hữu không cần phải
Lệ phí xăng dầu và các loại dầu đƣợc quy định tại Nghị định số 78/2000/NĐ-CP,
ngày 26/12/2000, trong khi phí môi trƣờng đối với nƣớc thải đƣợc quy định tại Nghị
định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng sáu năm 2003, và có hiệu lực từ năm 2004.
Trong 4 th quý năm 2005, chính phủ có kế hoạch để giới thiệu các Nghị định về phí
bảo vệ môi trƣờng đối với khai thác khoáng sản nhất thiết phải đƣợc xem xét, ít
nhất là trong vài năm đầu tiên của thực hiện, với mục đích chính để tạo ra một tuỳ
chỉnh lệ phí thanh toán cho các doanh nghiệp và con ngƣời.
49
- Tiền thu đƣợc, sau khi trừ chi phí tổ chức thu lệ phí, sẽ đƣợc thu thập trong quỹ
bảo vệ môi trƣờng (ở cả trung ƣơng và địa phƣơng các cấp, 50% cho mỗi bên) đƣợc
sử dụng riêng cho các hoạt động bảo vệ môi trƣờng: xử lý và khắc phục ô nhiễm,
cải thiện môi trƣờng, đầu tƣ dự án bảo vệ môi trƣờng bằng cách cải thiện hệ thống
thoát nƣớc, nƣớc thải hệ thống xử lý, ... Đối với lệ phí bảo vệ môi trƣờng khác, quy
tắc này cũng đƣợc áp dụng.
Có thể nói rằng việc xây dựng các quy định về thu thập môi trƣờng phí bảo vệ
đại diện cho một giai đoạn chuyển tiếp để thực hiện một nền tảng cho việc áp dụng
thuế môi trƣờng trong tƣơng lai, bởi vì họ có hiệu ứng khác nhau về doanh nghiệp
sản xuất và các doanh nghiệp, trong đó đƣợc sử dụng để hoạt động trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung không quen với việc thanh toán chi phí môi trƣờng. Hiện nay,
nó sẽ đƣợc khuyến khích kiểm tra theo hình thức từng lệ phí bảo vệ môi trƣờng để
đảm bảo nó là quen thuộc cho các doanh nghiệp, và cũng có thể, theo cách đó, cơ
quan quản lý cũng có thể có tốt kinh nghiệm trong quá trình thực hiện để thiết kế
các thuế môi trƣờng trong tƣơng lai.
3.3.5. Các Thuế môi trường khác
Ngoài các loại thuế môi trƣờng ở trên và lệ phí, chính phủ Việt Nam đã ghép các
mục đích môi trƣờng vào các loại thuế khác trong hệ thống, thời gian ngắn nhƣ sau:
- Thuế nhập khẩu: mặc dù không đƣợc quy định trong pháp luật về xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, hàng hoá gánh nặng môi trƣờng cũng đƣợc xem xét trong bảng
thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó, những biện pháp hành chính hoặc các biện pháp hạn
chế thƣơng mại khác cũng đƣợc đặt ra để thực hiện các mục đích ngăn ngừa ô
nhiễm và bảo vệ môi trƣờng, ví dụ: cấm nhập khẩu máy móc thiết bị đƣợc sử dụng
nhất định, hạn chế về tiêu chuẩn kỹ thuật và quy tắc xuất xứ đối với hàng hoá nhập
khẩu.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp tập
trung vào các mục đích, môi trƣờng đƣợc quy định theo pháp luật về thuế thu nhập
doanh nghiệp trong hai khía cạnh. Thứ nhất, các doanh nghiệp đƣợc phép khấu trừ
tất cả chi phí liên quan đến đầu tƣ thực hiện để ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô
50
nhiễm môi trƣờng, máy móc thiết bị đƣợc sử dụng trong quá trình chế biến nƣớc
thải đƣợc phân loại thành các nhóm cố định tài sản đƣợc đƣợc phân loại nhƣ có cơ
chế trích khấu hao nhanh. Thứ hai, ƣu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đƣợc đề
xuất để khuyến khích các doanh nghiệp tăng cƣờng đầu tƣ nâng cấp máy móc thiết
bị để giảm ô nhiễm môi trƣờng và khuyến khích các doanh nghiệp để di chuyển đến
các khu công nghiệp từ các khu vực sống.
3.4. Kết luận
Việc áp dụng Luật Thuế tài nguyên tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Đối
tƣợng nộp thuế chƣa đầy đủ, chƣa đƣa các loại tài nguyên nhƣ không khí, vùng
biển, vùng trời, kho số, tần số, các nguồn năng lƣợng (gió, ánh sáng mặt trời)… vào
đối tƣợng chịu thuế tài nguyên. Cách thu thuế Tài nguyên của Việt Nam chủ yếu
dựa vào thu thuế theo “Sản lƣợng tài nguyên thực tế khai thác”, nhƣng, quy định
tính thuế theo “sản phẩm sản xuất trong kỳ” và “định mức sử dụng tài nguyên trên
một đơn vị sản phẩm” đối với loại tài nguyên chƣa bán ngay mà còn phải qua gia
công để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm là không khả thi vì tài nguyên đó sản xuất ra
rất nhiều sản phẩm, theo nhiều công đoạn sản xuất không đƣợc chỉ rõ để tính theo
sản phẩm nào.
Những nghiên cứu tại chƣơng này đã lần lƣợt đƣa ra những hiểu biết trong đánh
thuế tài nguyên ở Việt Nam và quốc tế, đồng thời lồng ghép những giải pháp thích
hợp trong từng trƣờng hợp cụ thể để giúp cho những nhà quản lý có thêm những
phƣơng hƣớng mới trong quản lý tài nguyên. Thuế tài nguyên cần đƣợc nghiên cứu
nhiều hơn nữa nhằm: (i) để đảm bảo thu ngân sách, góp phần bảo vệ, khai thác và
sử dụng tài nguyên thiên nhiên kinh tế, hợp lý, và hiệu quả, và, (iii) để góp phần
giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng.
51
CHƢƠNG IV: SỬ DỤNG THUẾ TÀI NGUYÊN ĐỂ QUẢN LÝ HỆ
THỐNG NÚI CỐC ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
4.1. Tổng quan việc sử dụng tài nguyên nƣớc ở hồ Núi Cốc
Hệ thống công trình thủy nông Núi Cốc là một trong những công trình trọng
điểm của tỉnh Thái Nguyên. Nó có nhiệm vụ cung cấp nƣớc cho nông nghiệp (theo thiết kế cung cấp nƣớc tƣới cho 12.000 ha lúa 2 vụ), công nghiệp (7,2 m3/s), nuôi
trồng thủy sản, sinh hoạt (cung cấp nƣớc sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên là 0,1 m3/s), phòng lũ cho hạ du sông cầu, tạo môi trƣờng sinh thái, khí hậu trong lành
để phát triển ngành du lịch (hàng ngày có từ 6.000 đến 6.500 khách đến du lịch,
thăm quan, nghỉ mát tại khu vực hồ) và phục vụ cho các ngành khác.
Từ khi đƣa công trình vào quản lý vận hành khai thác cho thấy việc đánh giá
hiệu quả của công trình từ những giai đoạn ban đầu nhƣ thiết kế rồi tiếp đến là khai
thác trên thực tế cho thấy xây dựng hồ chứa đã mang lại nhiều lợi ích cho sự phát
triển kinh tế trong toàn vùng dự án đảm bảo nhiệm vụ cung cấp nƣớc và các nhiệm
vụ khác. Trên thực tế công trình hồ Núi Cốc hoạt động vƣợt chỉ tiêu và đạt hiệu quả
cao. Với nhiệm vụ quan trọng là tƣới, công trình đã đảm bảo cung cấp nƣớc tƣới
cho khoảng 12.000 ha diện tích đất nông nghiệp, 4.500 ha hoa màu, 2.000 ha chè.
Mặt khác, công trình còn tăng thêm 2.500 ha mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản kết hợp phát triển du lịch, tiếp nƣớc cho hệ thống sông cầu là 50 triệu m3/năm, cấp nƣớc cho sinh hoạt và công nghiệp là 13,14 triệu m3/năm, cấp nƣớc tạo nguồn cho Bắc Giang 10 triệu m3/năm, cấp nƣớc sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công là 28.000 m3/ngày đêm (Tất cả những số liệu đều được lấy từ nguồn số liệu
Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên). Ngoài ra còn
những lợi ích nhận từ thủy điện, thu nhập từ phòng lũ, thu nhập từ nuôi trồng thủy
sản và phát triển thăm quan du lịch không kể đến một số thu nhập phụ khác.
Xây dựng hồ chứa với mục đích chính là khai thác tài nguyên nƣớc theo yêu cầu
sử dụng của con ngƣời. Về khía cạnh năng lực thiết kế hồ Núi Cốc đã phát huy hết
năng lực thiết kế và đạt đƣợc một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế kể
đến tất cả các nhiệm vụ, hoạt động mà hồ Núi Cốc mang lại thì hiệu quả đã thực sự
52
là tối ƣu. Đó cũng là vấn đề mà các nhà đầu tƣ, quản lý vận hành phải quan tâm
hàng đầu sao cho lợi nhuận thu đƣợc là tối đa.
Sử dụng tài nguyên nƣớc sao cho hiệu quả và phù hợp với lƣu lƣợng của hồ
chứa là cần phải quan tâm. Mực nƣớc của hồ dao động liên tục theo các tháng trong
năm nên khi muốn tối ƣu hóa giá trị của tài nguyên nƣớc thì cần phải xem xét tình
hình mực nƣớc, các thông số kỹ thuật của hồ.
Bảng 4.1: Các thông số kỹ thuật hồ Núi Cốc
Diện tích mặt Hồ MNC 3,5 km2 MNDBT 25,0 km2 MNL (P=0,5%) 32,0km2
Cao độ
34,0 m 7,4 x 106m3 46,2 m 175,5 x 106m3 48,25 m 405,5 x 106m3
Dung tích (Dung tích hữu ích 168 x 106m3. Dung tích phòng lũ: 230 x 106m3)
Nguồn: Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên.
4.2. Tối ƣu hóa việc sử dụng tài nguyên nƣớc tại khu vực hồ Núi Cốc
4.2.1. Bài toán qui hoạch động tối ưu sử dụng tài nguyên nước
Phân bổ quỹ nƣớc cho 4 khu tƣới A, B, Cvà D để tối đa doanh thu dự kiến. Mỗi
dự án có các cấu hình thay thế khác nhau yêu cầu các mức quỹ khác nhau và cho ra
các mức doanh thu khác nhau. Do giới hạn ngân sách, tổng lƣợng nƣớc ban đầu có
thể là cố định. Bài toán phân bổ đƣợc mô hình hóa về mặt toán học nhƣ sau:
tùy thuộc vào
53
trong đó rịj là doanh thu có thể đƣợc tạo ra từ cấu hình j của dự án i, cij là yêu cầu
cấp quỹ cho cấu hình j của dự án I, xij là biến quyết định có thể nhận giá trị 0 hoặc 1
với 0 chỉ ra cấu hình j của dự án i không đƣợc chọn và 1 nếu khác đi, F là tổng khối
lƣợng quỹ hiện có cho phát triển, N là tổng số dự án đƣợc xem xét, và i là số các
cấu hình của dự án i. Tập ràng buộc thứ hai thể hiện không phải tất cả các dự án
đang đƣợc xem xét đều phải đƣợc cấp quỹ. Hơn nữa, các cấu hình bên trong mỗi dự
án là loại trừ lẫn nhau, tức là chỉ có một cấu hình cho mỗi dự án có thể đƣợc chọn.
Phù hợp với thảo luận tổng quát về tiếp cận giải quy hoạch động, mô hình quy
hoạch toán nó trên có thể đƣợc mô tả trên Hình 4.1 dƣới đây.
Trên Hình 4.1, các phần tử cơ bản và các thuật ngữ trong việc xây dựng mô hình
quy hoạch động đƣợc giới thiệu dƣới đây.
Hình 4.1: Mô hình qui hoạch phân bổ
Giai đoạn (n) là những điểm của bài toán mà tại đó quyết định đƣợc đƣa ra.
Trong ví dụ phân bổ quỹ, mỗi dự án thể hiện một giai đoạn trong mô hình quy
hoạch động. Nếu một bài toán làm quyết định có thể đƣợc phân rã thành N bài toán
con, sẽ có N giai đoạn trong xây dựng mô hình quy hoạch động.
Biến quyết định ( ) là các chƣơng trình hành động cần đƣợc lấy tại mỗi giai
đoạn. Quyết định trong ví dụ cấp quỹ cho dự án là cấu hình bên trong dự án cần
đƣợc chọn. Số biến quyết định, , trong mỗi giai đoạn không nhất thiết bằng 1.
Biến trạng thái ( ) là biến mô tả trạng thái của một hệ thống tại bất kỳ giai đoạn
n nào. Một biến trạng thái có thể là rời rạc hoặc liên tục, hữu hạn hoặc vô hạn. Trên
Hình 1.1, tại mỗi giai đoạn n, có các trạng thái đầu vào, , và các trạng thái đầu ra,
54
. Các biến trạng thái của hệ thống trong một mô hình quy hoạch động có hàm số
liên kết các giai đoạn kế tiếp nhau sao cho, khi mỗi giai đoạn đƣợc tối ƣu hóa một
cách tách biệt, quyết định tạo thành tự động là chấp nhận đƣợc cho toàn bộ bài toán.
Hơn nữa, nó cho phép một ai đó thực hiện các quyết định tối ƣu cho các giai đoạn
còn lại mà không phải kiểm tra tác động của các qđ tƣơng lai cho các quyết định đã
đƣợc đƣa ra trƣớc đó.
Giao hoàn tại giai đoạn ( ) là một thƣớc đo vô hƣớng của tính hiệu quả của việc
làm quyết định trong mỗi giai đoạn. Đó là một hàm của trạng thái đầu vào, trạng
thái đầu ra, và các biến quyết định của một giai đoạn cụ thể. Tức là,
.
Chuyển giai đoạn hoặc chuyển trạng thái ( ) là một biến đổi thể hiện các mối
quan hệ giữa trạng thái đầu vào, trạng thái đầu ra, và quyết định. Nói chung, thông
qua biến đổi trạng thái, trạng thái đầu ra tại bất kỳ giai đoạn n nào có thể đƣợc biểu
diễn nhƣ một hàm của trạng thái đầu vào và quyết định nhƣ sau
(1.2)
*Các đặc điểm cơ bản đặc trƣng của bài toán quy hoạch động là:
Bài toán phân chia thành các giai đoạn, với các biến quyết định tại mỗi giai
đoạn.
Mỗi giai đoạn có một số trạng thái gắn với nó.
Tác động của quyết định tại mỗi giai đoạn là tạo ra giao hoàn, dựa vào hàm giao
hoàn giai đoạn, và biến đổi biến trạng thái hiện tại thành biến trạng thái cho giai
đoạn tiếp theo, thông qua hàm chuyển trạng thái.
Khi đã cho trạng thái hiện tại, một chính sách tối ƣu cho các giai đoạn còn lại là
độc lập với chính sách đƣợc chấp nhận trong các giai đoạn trƣớc đó. Điều này đƣợc
gọi là nguyên tắc tối ƣu Bellman, là nguyên tắc đóng vai trò xƣơng sống của quy
hoạch động.
Lời giải bắt đầu bằng cách tìm ra quyết định tối ƣu cho mỗi trạng thái có thể
trong giai đoạn cuối cùng (đƣợc gọi là truy hồi giật lùi) hoặc trong giai đoạn đầu
55
(đƣợc gọi là truy hồi tiến lên). Thuật toán tiến lên đƣợc thực hiện từ giai đoạn đầu
tiên tới giai đoạn cuối cùng, trong khi thuật toán giật lùi đƣợc thực hiện từ giai đoạn
cuối cùng về giai đoạn đầu tiên.
Mối quan hệ truy hồi chỉ ra chính sách tối ƣu cho mỗi trạng thái tại bất kỳ giai
đoạn n nào có thể đƣợc phát triển, khi đã cho chính sách tối ƣu cho mỗi giai đoạn
tại giai đoạn tiếp theo n + 1. Phƣơng trình truy hồi giật lùi, đƣợc thể hiện trên Hình
4.1, có thể đƣợc viết là
trong đó thể hiện là một toán tử đại số, có thể là +, -, , hoặc bất cứ phép tính
nào thích hợp cho bài toán. Phƣơng trình truy hồi cho thuật toán tiến lên là
hoặc
4.2.2. Tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên nước tại khu vực hồ Núi Cốc
4.2.2.1. Mô hình hóa đƣờng cầu tƣới trong nông nghiệp
Cầu tƣới có thể đƣợc xây dựng theo nhiều quy mô khác nhau, từ đó định ra
nhiều mô hình tính toán khác nhau. Việc xác định sử dụng mô hình nào trong thực
hành chỉ phụ thuộc vào khối lƣợng công việc tính toán, chứ không thay đổi gì về
mặt nguyên tắc.
Đề tài tập trung xây dựng mô hình cầu cho hệ thống Núi cốc,phản ánh những
quyết định khác nhau của ngƣời nông dân trƣớc những mức cung cấp nƣớc khác
nhau có thể xảy ra. Theo kiến thức hồi quy Kinh tế lƣợng thì mối quan hệ này sẽ
đƣợc thể hiện qua hàm cầu mà vẫn giữ nguyên đƣợc đặc tính của tổng thể.
Biểu diễn toán học chính là hàm sản xuất: D = f (K,L,R,W,…).
56
Trong đó: (K: vốn, L:lao động, R: đất đai,W: nƣớc,…). Nhƣng mối quan hệ
không đơn giản, vì thế cần phải tổng hợp kiến thức từ phƣơng pháp luận và thực
tiễn. Nhằm tập trung vào mục đích chính của đề tài và để thuận lợi cho phân tích,
đơn giản mối quan hệ này bởi hàm cầu tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa nhu
cầu nƣớc của ngƣời nông dân ứng với những mức lợi ích khác nhau sẽ đƣợc biểu
hiện bằng giá nƣớc.
:
Pt = a – b Q
)
4.2 dƣới đây:
Hình 4.2: Biểu diễn cầu trong nông nghiệp
.
4
:
B (Qt) = = a Qt -
57
. Trong đó, các chi phí
đƣợc đƣa vào qua số liệu khảo sát thực tế.
4.2.2.2. Số liệu đầu vào nông nghiệp
+ Sơ đồ hệ thống Núi Cốc
Hình 4.3: Sơ đồ hệ thống Núi Cốc – Thái Nguyên
Hồ Núi Cốc Kênh Chính
Kênh Đông
Kênh Tây
Kênh Giữa
+ Số liệu đầu vào nông nghiệp đƣợc dựa theo:
Số liệu về năng suất lúa và ngô của cục thống kê; và
Số liệu về lƣợng nƣớc tƣới, lƣợng nƣớc mƣa đã đƣợc tính toán tại đồ án tốt
nghiệp “Tính toán giá trị kinh tế của tƣới và phân tích thể chế đối với hệ thống tƣới
Núi cốc” mà tôi đã bảo vệ năm 2008;
Cụ thể tại bảng sau:
58
Bảng 4.2: Số liệu đầu vào nông nghiệp
Lƣợng nƣớc Lƣợng nƣớc Năng suất Giá thóc Các vụ/ Qui đổi năm 2012 (đồng/ năm (tấn/ha) tƣới trên 1ha (triệu m3) mƣa trên 1ha (triệu m3) (tạ/sào) kg thóc)
Vụ chiêm 0,0051 0,0026 1,80 5,00 6.000
Vụ mùa 0,0026 0,0087 1,75 4,86 6.000
Vụ Đông 0,0028 0,0002 2,20 6,11 7.500
(Ghi chú: Lƣợng nƣớc tƣới nhƣ trên đƣợc tính toán theo lƣợng nƣớc mƣa hiệu
quả, nƣớc lƣợng bốc hơi, lƣợng nƣớc thấm và chế độ tƣới cho cây trồng trong từng
thời kỳ).
Số liệu tìm hiểu tại hệ thống Núi Cốc, hệ thống nƣớc từ hồ tới kênh chính tổn
thất 20%. Kênh Giữa và Kênh Đông tổn thất 24,31% (tổn thất kênh là 13%, tổn thất
mặt ruộng là 13%). Do Kênh Tây là kênh đất cát nên tỷ lệ tổn thất lớn hơn là
32,76% (tổn thất kênh là 18%, tổn thất mặt ruộng là 18%).
Số liệu về diện tích gieo trồng từng kênh của các vụ nhƣ bảng sau
Bảng 4.3: Số liệu diện tích gieo trồng từng kênh của các vụ
Các vụ/năm Diện tích (ha) của từng kênh
Kênh chính Kênh Đông Kênh Giữa Kênh Tây
Vụ chiêm 2.924 1.325 1.174 1.577
Vụ mùa 2.275 1.031 913 1.227
Vụ Đông 1.880 852 755 1.014
Qua khảo sát số liệu thực tế, ngoài thuế đất là 50kg thóc/sào thì chi phí ngƣời
nông dân phải bỏ ra chiếm khoảng 52% doanh thu. Do đó ta tính đƣợc Lợi nhuận ròng của lƣơng thực theo lƣợng nƣớc cung cấp và giá 1m3 nƣớc đầu tiên nhƣng
bảng sau:
59
Bảng 4.4: Bảng tính giá 1m3 nước đầu tiên
Các vụ/năm Lƣợng nƣớc tƣới trên 1ha (triệu m3) Lƣợng nƣớc mƣa trên 1ha (triệu m3) Tổng lƣợng nƣớc tƣới và mƣa nƣớc cung cấp trên 1ha (triệu m3) Lợi nhuận ròng của lƣơng thực (triệu đồng/ha) 1m3 Giá đầu nƣớc tiên (bao gồm cả nƣớc mƣa) (đồng/m3)
Vụ chiêm Vụ mùa Vụ Đông 0,0051 0,0026 0,0028 0,0026 0,0087 0,0002 0,0077 0,0112 0,0030 6 6 12 1.582 1.011 7.698
Dựa vào mục 4.1.2.2 tại phần trên ta đƣợc phƣơng trình đƣờng đƣờng cầu có
mƣa và đồ thị nhƣ sau:
+Vụ Chiêm : y= -0,206 x + 1.582
P (đ/m3)
1582
1 800 1 600 1 400 1 200 1 000 800 600 400 200
7700
0
2000
4000
6000
8000
10000
Q (m3/ha)
+ Vụ Mùa : y= -0,090 x + 1.011
P (đ/m3)
1 200
1011
1 000
800
600
400
200
11 200
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
Q (m3/ha)
60
+ Vụ Đông : y= -2,558 x + 7.698
P (đ/m3)
9 000 8 000 7698 7 000 6 000 5 000 4 000 3 000 2 000 1 000
3100
0
1000
2000
3000
4000
Q (m3/ha)
Loại trừ lƣợng nƣớc mƣa hiệu quả và dựa vào những dữ liệu đầu vào nhƣ trên để
tính toán ta đƣợc phƣơng trình đƣờng cầu tƣới của các kênh trong từng vụ (xem chi
tiết tại phụ lục 2-Bảng tính chi tiết phương trình đường cầu cho các kênh trong
từng vụ)(viết lại khi sắp xếp lại. Chi tiết nhƣ sau
+ Vụ chiêm
Kênh chính : y= 73,67 x + 1.318
Kênh Đông : y= 151,49 x + 1.273
Kênh Giữa : y= 170,98 x + 1.273
Kênh Tây : y= 111,60 x + 1.192
+ Vụ mùa
Kênh chính : y= 120,97 x + 842
Kênh Đông : y= 248,73 x + 813
Kênh Giữa : y= 280,88 x + 813
Kênh Tây : y= 183,24 x + 761
+ Vụ đông
Kênh chính : y= 1015,52 x + 6.415
Kênh Đông : y= 2088,13 x + 6.192
Kênh Giữa : y= 2356,40 x + 6.192
Kênh Tây : y= 1538,28 x + 5.798
61
4.2.2.3. Ứng dụng phần mềm Lingo trong việc tối ƣu sử dụng nƣớc
* Giới thiệu phần mềm Lingo
Lingo là một công cụ toàn diện đƣợc thiết kế cho việc xây dựng và giải quyết
các phƣơng trình tuyến tính, mô hình tối ƣu hóa phi tuyến và số nguyên nhanh hơn,
dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Lingo là phần mềm hoàn toàn tích hợp bao gồm một
ngôn ngữ mạnh mẽ thể hiện cho các mô hình tối ƣu hóa, một môi trƣờng đầy đủ
tính năng để xây dựng và chỉnh sửa vấn đề, và bộ xây dựng và giải quyết nhanh.
* Kết quả chạy phần mềm từ dữ liệu tại phần 3.2.2.2 trên.
Xét điều kiện nƣớc đƣợc cung cấp đủ là 77 triệu m3 (theo số liệu tính toán tại
Local optimal solution found.
Objective value: 83819.41
Infeasibilities: 0.9094947E-12
Total solver iterations: 34
Variable Value Reduced Cost
CHIEM 28299.79 0.000000
MUA 7015.162 0.000000
DONG 48504.46 0.000000
S1 44.23550 0.000000
S2 17.10567 0.000000
S3 15.65882 0.000000
XA_THUA 0.000000 8.018637
XA_THUA1 0.000000 0.000000
XA_THUA2 0.000000 0.000000
XA_THUA3 0.000000 0.000000
A11 73.67000 0.000000
B11 1318.000 0.000000
A12 151.4900 0.000000
B12 1273.000 0.000000
A13 170.9800 0.000000
B13 1273.000 0.000000
A14 110.6000 0.000000
B14 1192.000 0.000000
X11 17.78175 0.000000
X12 8.350263 0.000000
X13 7.398417 0.000000
X14 10.70508 0.000000
phụ lục 1). Kết quả chạy phần mềm nhƣ sau:
62
S12 26.45376 0.000000
S13 18.10349 0.000000
S14 10.70508 0.000000
X_CHIEM 44.23550 0.000000
A21 120.9700 0.000000
B21 842.0000 0.000000
A22 248.7300 0.000000
B22 813.0000 0.000000
A23 280.8800 0.000000
B23 813.0000 0.000000
A24 183.2400 0.000000
B24 761.0000 0.000000
X21 6.894117 0.000000
X22 3.236366 0.000000
X23 2.865926 0.000000
X24 4.109263 0.000000
S22 10.21156 0.000000
S23 6.975189 0.000000
S24 4.109263 0.000000
X_MUA 17.10567 0.000000
A31 1015.520 0.000000
B31 6415.000 0.000000
A32 2088.130 0.000000
B32 6192.000 0.000000
A33 2356.400 0.000000
B33 6192.000 0.000000
A34 1538.280 0.000000
B34 5798.000 0.000000
X31 6.309065 0.000000
X32 2.961493 0.000000
X33 2.624334 0.000000
X34 3.763932 0.000000
S32 9.349759 0.000000
S33 6.388266 0.000000
S34 3.763932 0.000000
X_DONG 15.65882 0.000000
Row Slack or Surplus Dual Price
1 83819.41 1.000000
2 0.000000 8.018637
3 0.000000 8.018637
63
4 0.000000 -158.0953
5 0.000000 17.78175
6 0.000000 -34.86345
7 0.000000 8.350263
8 0.000000 -27.36829
9 0.000000 7.398417
10 0.000000 -57.29932
11 0.000000 10.70508
12 0.000000 1.000000
13 0.000000 -8.018637
14 0.000000 -8.018637
15 0.000000 -8.018637
16 0.000000 -8.018637
17 0.1088454 0.000000
18 0.5293179E-01 0.000000
19 0.4689810E-01 0.000000
20 0.7250124E-01 0.000000
21 0.000000 0.000000
22 0.000000 -23.76443
23 0.000000 6.894117
24 0.000000 -5.237033
25 0.000000 3.236366
26 0.000000 -4.106767
27 0.000000 2.865926
28 0.000000 -8.443021
29 0.000000 4.109263
30 0.000000 1.000000
31 0.000000 -8.018637
32 0.000000 -8.018637
33 0.000000 -8.018637
34 0.000000 -8.018637
35 0.6628616E-01 0.000000
36 0.3223832E-01 0.000000
37 0.2854827E-01 0.000000
38 0.4376030E-01 0.000000
39 0.000000 0.000000
40 0.000000 -19.90215
41 0.000000 6.309065
42 0.000000 -4.385219
43 0.000000 2.961492
44 0.000000 -3.443565
64
45 0.000000 2.624334
46 0.000000 -7.083592
47 0.000000 3.763932
48 0.000000 1.000000
49 0.000000 -8.018637
50 0.000000 -8.018637
51 0.000000 -8.018637
52 0.000000 -8.018637
53 0.7896090E-02 0.000000
54 0.3840104E-02 0.000000
55 0.3402918E-02 0.000000
56 0.5212729E-02 0.000000
57 0.000000 0.000000
Nếu đƣợc tƣới đủ doanh thu tối đa thu đƣợc là khoảng 83 tỷ đồng (giá trị tƣơng
đối khớp với giá trị mà Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái
Nguyên đã tính toán). Trong đó:
tr đồng
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 44,23 m3, đạt doanh thu là 28.299 17,1 m3, đạt doanh thu là 7.015 15,6 m3, đạt doanh thu là 48.504 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):
Nƣớc là nguồn tài nguyên hồi sinh. Qua những nghiên cứu tại chƣơng II, chúng
ta đã biết, tài nguyên hồi sinh cũng có khả năng bị cạn kiệt hoàn toàn nếu khối
lƣợng khai thác quá nhiều vƣợt quá mức và kéo dài.
Xét bài toán ở dạng không đƣợc cung cấp đủ nƣớc, giả thiết lƣợng nƣớc ban đầu
tr đồng
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
là 50 m3 , 40 m3, 28 m3, 12 m3, chạy mô hình ta đƣợc kết quả nhƣ sau. + S0= 50 m3 đạt tổng doanh thu là 77.414 triệu đồng trong đó + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 28,1 m3, đạt doanh thu là 24.487 m3, đạt doanh thu là 4.699 7,4 14,5 m3, đạt doanh thu là 48.228 tr đồng
+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3): + S0= 40 m3 đạt tổng doanh thu là 71.902 triệu đồng trong đó + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 22,2 m3, đạt doanh thu là 21.206 tr đồng
m3, đạt doanh thu là + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
3,7 2.705 tr đồng 14,1 m3, đạt doanh thu là 47.991 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):
65
+ S0= 28 m3 đạt tổng doanh thu là 63.022 triệu đồng trong đó
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1):
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
14,5 m3, đạt doanh thu là 15.448 m3, đạt doanh thu là 0 0 13,5 m3, đạt doanh thu là 47.574 tr đồng
+ Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3): + S0= 12 m3 đạt tổng doanh thu là 45.837 triệu đồng trong đó
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 0
0 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
12 m3, đạt doanh thu là 0 m3, đạt doanh thu là 0 m3, đạt doanh thu là 45.837 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):
*Nhận xét:
Từ các kết quả trên ta thấy, lợi ích của nƣớc tƣới cho Vụ Đông Xuân và vụ
Chiêm Xuân cao hơn hẳn so với lợi ích của nƣớc tƣới cho vụ Mùa, và lợi ích của
tƣới cho vụ Đông Xuân là cao nhất. Điều này rất đúng trong thực tế vì Vụ Đông
trồng ngô cho năng suất cao hơn trồng lúa và giá ngô cũng cao hơn giá lúa nên giá
trị của nƣớc tƣới cao hơn. Và, vụ mùa lƣợng mƣa hiệu quả lớn nhất nên giá trị của
nƣớc tƣới thấp hơn. Biểu thị kết quả trên thành đồ thị ta có:
90
80
Hình 4.4: Bảng quan hệ lượng nước ban đầu và doang thu do nước mang lại
) 3 m
77.0
70
60
50
50.0
40
40.0
30
28.0
20
r t ( u ầ đ n a b c ớ ư n g n ợ ư L
12.0
10
0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
0
Doanh thu (tỷ đồng)
Nhìn vào đồ thị thể hiện mối quan hệ trên ta thấy ở những khối lƣợng nƣớc đầu
tiên lợi ích do nƣớc mang lại rất lớn,và mỗi khối lƣợng nƣớc tăng thêm đem lại lợi
ích cận biên ngày càng thấp đi.
66
Kết luận: Những tính toán và mô hình sử dụng hoàn toàn đúng đắn với những kiến
thức trong kinh tế nói chung và tài nguyên nƣớc nói riêng.
4.3. Thuế tài nguyên trong quản lý tài nguyên nƣớc
Vì khuôn khổ đề tài là có hạn nêng chỉ đƣợc đƣa ra một số ý kiến tóm tắt nhất để
biện hộ cho những ƣu điểm của biện pháp đánh thuế tài nguyên so với các biện
pháp thu hồi tô kinh tế thông thƣờng khác của chính phủ. Các chính sách huy động
doanh thu hay đƣợc sử dụng trong thực tế nói chung là khác với các chính sách
đƣợc phác thảo ở trên. Tức là chúng không phải là các công cụ thu thập tô kinh tế
thuần túy, và do vậy chúng có tác động xấu là bóp méo các quyết định phân bổ tài
nguyên. Trong trƣờng hợp thuế, thuế tô kinh tế đƣợc sử dụng trong các ngành công
nghiệp tài nguyên chỉ là ngoại lệ chứ không phải là quy tắc. Nhƣ đã trao đổi tại
Chƣơng II, đề tài sẽ xem xét cách đánh thuế hay đƣợc sử dụng nhất.
Dựa vào mục 4.2.2 ở trên, ta có hàm cầu sau khi có thuế T có dạng
B (Qt) = = a Qt - - T (a Qt - )
Mục đích của nhƣng ứng dụng sau nhằm chỉ ra cách quản lý sử dụng nƣớc qua
đánh thuế tài nguyên, tức là cùng một lƣợng nƣớc cố định, đánh thuế nhƣ thế nào để
quản lý đƣợc hiệu quả lớn nhất.
Ta vẫn xét lƣợng nƣớc cố định ban đầu So= 77 m3, và thuế giả thiết đƣa vào ban
Local optimal solution found. Objective value: 75437.47 Infeasibilities: 0.1818989E-11 Total solver iterations: 34 Variable Value Reduced Cost CHIEM 25469.81 0.000000 MUA 6313.646 0.000000 DONG 43654.02 0.000000 S1 44.23550 0.000000 S2 17.10567 0.000000 S3 15.65882 0.000000 T1 0.1000000 0.000000 T2 0.1000000 0.000000 T3 0.1000000 0.000000 XA_THUA 0.000000 7.216773 XA_THUA1 0.000000 0.000000 XA_THUA2 0.000000 0.000000
đầu là 10% cho tất cả các vụ, các kết quả có đƣợc nhƣ sau:
67
XA_THUA3 0.000000 0.000000 A11 73.67000 0.000000 B11 1318.000 0.000000 A12 151.4900 0.000000 B12 1273.000 0.000000 A13 170.9800 0.000000 B13 1273.000 0.000000 A14 110.6000 0.000000 B14 1192.000 0.000000 X11 17.78175 0.000000 X12 8.350263 0.000000 X13 7.398417 0.000000 X14 10.70508 0.000000 S12 26.45376 0.000000 S13 18.10349 0.000000 S14 10.70508 0.000000 X_CHIEM 44.23550 0.000000 A21 120.9700 0.000000 B21 842.0000 0.000000 A22 248.7300 0.000000 B22 813.0000 0.000000 A23 280.8800 0.000000 B23 813.0000 0.000000 A24 183.2400 0.000000 B24 761.0000 0.000000 X21 6.894117 0.000000 X22 3.236366 0.000000 X23 2.865926 0.000000 X24 4.109263 0.000000 S22 10.21156 0.000000 S23 6.975189 0.000000 S24 4.109263 0.000000 X_MUA 17.10567 0.000000 A31 1015.520 0.000000 B31 6415.000 0.000000 A32 2088.130 0.000000 B32 6192.000 0.000000 A33 2356.400 0.000000 B33 6192.000 0.000000 A34 1538.280 0.000000 B34 5798.000 0.000000 X31 6.309065 0.000000 X32 2.961493 0.000000 X33 2.624334 0.000000 X34 3.763932 0.000000 S32 9.349759 0.000000 S33 6.388266 0.000000 S34 3.763932 0.000000 X_DONG 15.65882 0.000000
Tổng doanh thu là 75.437 triệu đồng trong đó
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ chiêm (S1): 44,23 m3, đạt doanh thu là 25.469
68
tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ mùa (S2):
17,1 m3, đạt doanh thu là 6.313 15,6 m3, đạt doanh thu là 43.654 tr đồng + Lƣợng nƣớc cấp Vụ đông (S3):
Kết quả trên cho thấy, với mức thuế tài nguyên áp dụng, tổng thuế thu đƣợc
khoảng 8,3 tỷ đồng, trong đó thuế do vụ Chiêm, vụ Mùa, vụ Đồng mang lại lần lƣợt
xấp xỉ là 2,76 tỷ; 0,7 tỷ; 4,85 tỷ đồng.
Nhƣ vậy, với lƣợng nƣớc cố định, Vụ Đông đem lại giá trị nƣớc cao nhất nên
với cùng một tỷ lệ thuế đánh vào tài nguyên nƣớc nhƣ nhau trong tất cả các vụ, ta
thu đƣợc giá trị lớn nhất tại vụ Đông, thấp nhất là vụ Mùa. Vụ Đông là vụ có rất ít
mƣa và đây là vụ cũng xảy ra tình trạng thiếu điện trầm trọng. Hàm ý thuế này giúp
các nhà quản lý tài nguyên có chiến lƣợc đánh thuế để quản lý hiệu quả hơn trong
việc sử dụng nƣớc.
4.4. Nhận xét và Kết luận
Do đề tài chỉ giới hạn ứng dụng trong việc cung cấp nƣớc cho khu vực nông
nghiệp nên chỉ xét trƣờng hợp đánh thuế tài nguyên nhƣ trên. Với bài toán sử dụng
đa mục đích khi có sử dụng khác nhƣ thủy điện, du lịch, sinh hoạt...thì việc đánh
thuế có thể chỉ ra sự khác biệt rõ nét hơn trong các trƣờng hợp đánh thuế đánh thuế
theo lợi nhuận vì khi đó chi phí có sự khác biệt.
*Tóm lại: Dạng thu thuế tài nguyên chung nhất là một loại thuế dựa vào khối
khối lƣợng đƣợc sử dụng. Phƣơng pháp thu tiền này khá hấp dẫn bởi ngoài tính đơn
giản của nó, thì những loại thuế này ít đƣợc nhìn nhận nhƣ một dạng của thuế mà
chỉ là nhƣ một loại phí đƣợc đánh bởi khu vực công cộng vì đã dịch chuyển các
nguồn tài nguyên khỏi khu vực công cộng. Tuy nhiên, từ quan điểm kinh tế, chúng
là tƣơng đƣơng với thuế sản xuất. Trong dạng đơn giản, chúng đánh vào doanh thu
mà không hạch toán tới chi phí. Theo nghĩa hẹp, những loại thuế này hoạt động nhƣ
một kiểu không khuyến khích đầu tƣ và khai thác tài nguyên và tạo ra ít doanh thu
cho khu vực công cộng hơn so với có thể đạt đƣợc bằng thuế tô kinh tế. Hơn nữa, vì
không hạch toán tới chi phí, chúng có xu hƣớng đối nghịch với các nguồn doanh thu
có chi phí cao và có lợi cho các doanh thu có chi phí thấp.
69
Tác động của các loại thuế sản xuất có thể khác nhau tuỳ thuộc vào việc liệu tỷ
suất thuế đƣợc dựa trên khối lƣợng đƣợc sản xuất ra (thuế cho một đơn vị) hay dựa
vào giá bán. Còn với bài toán tài nguyên tái tạo, cụ thể là bài toán sử dụng nƣớc
trong hồ nhiệm vụ chính là cấp nƣớc tƣới, tiêu cho nông nghiệp. Những nhà quản lý
cần xem xét sự thay đổi đến điểm tối ƣu, cụ thể là ảnh hƣởng của thuế tài nguyên
nƣớc.
70
CHƢƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tăng trƣởng bền vững là mục tiêu cơ bản quan trọng và dài hạn cho mọi quốc
gia, và sử dụng tài nguyên sao cho hiệu quả đang trở thành một vấn đề lớn, quan
trọng nhƣ tăng trƣởng kinh tế. Đối với các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là các nền
kinh tế chuyển đổi nhƣ Việt Nam, chính sách về tài nguyên thiên nhiên cần đƣợc
thiết lập và triển khai thực hiện cùng với các chính sách khác có liên quan (nhƣ các
chính sách bảo vệ môi trƣờng, chính sách tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cƣờng tăng
trƣởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm).
Ngày nay, trên thế giới có nhiều công cụ đƣợc áp dụng rộng rãi trong quản lý tài
nguyên. Tuy nhiên, việc kiểm soát thu thuế tài nguyên trong thực hành gần đây đã
không đáp ứng đƣợc mong đợi. Ngoài việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao kiến
thức cộng đồng cộng đồng về sử dụng tiết kiệm tài nguyên, và ứng dụng những
công nghệ cao hơn trong hoạt động sản xuất,…Việt Nam đã và đang nghiên cứu
việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong số
những công cụ này, thuế tài nguyên ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà hoạch
định chính sách và kinh tế, cũng nhƣ các tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp.
Càng ngày, các sơ đồ tiền thuế tài nguyên càng đƣợc thiết kế một cách phức tạp
hơn so với thuế sản xuất đơn giản. Các thuộc tính tài nguyên cũng thƣờng là đối
tƣợng của các loại thuế thu nhập chung. Tuy nhiên, trong một số ví dụ, các loại thuế
đặc biệt cho các ngành công nghiệp tài nguyên cũng đƣợc dựa trên một thƣớc đo
nào đó của thu nhập. Trong những trƣờng hợp nhƣ thế, thuế thƣờng đƣợc thiết kế
theo các cách tƣơng tự với thuế thu nhập chung và tạo nên cùng một số độ trệch
giống hệt nhƣ vậy. Tức là, nó cho phép nhanh chóng xóa bỏ chi phí chiếm hữu, khai
thác và phát triển, và thƣờng đƣa ra những miễn giảm cạn kiệt. Mặc dù điều này tạo
ra một số doanh thu, nó cũng cung cấp trợ cấp cho các dự án kém hiệu quả.
Một số chế độ thuế đặt ra loại phí hoặc tiền thuê hàng năm cho việc sử dụng các
thuộc tính tài nguyên. Nếu các tỷ suất này phản ánh đƣợc giá trị vốn thực của các
thuộc tính đƣợc sử dụng, chúng sẽ giống nhƣ thuế tô kinh tế. Nếu một loại thuế tiền
71
thuê hàng năm cần phải đƣợc đƣa ra, thì sử dụng một loại thuế tô kinh tế đúng đắn
sẽ đáng đƣợc ƣa thích hơn.
Các hệ thống đấu thầu có xu hƣớng không đƣợc sử dụng nhiều, đặc biệt trong
các quốc gia đang phát triển. Một nguyên nhân có thể là các điều kiện tự bản thân
không dẫn tới các thủ tục đấu thầu cạnh tranh. Nhiều dự án tài nguyên là lớn và
không thể bao gồm nhiều hơn một nhà đầu tƣ tại cùng một thời điểm. Vì lý do gì đi
chăng nữa, các nhà buôn cá nhân chú ý gây ấn tƣợng với các nhà sản xuất tài
nguyên liên quan tới các kiểu tham gia công cộng khác nhau.
Dạng đơn giản nhất của chia sẻ sản lƣợng là dạng trong đó chính phủ lấy một
phần sản phẩm. Nó tƣơng tự nhƣ cấy rẽ trong nông nghiệp. Vì các sơ đồ chia sẻ sản
lƣợng là đối tƣợng của thƣơng lƣợng, tỷ phần của phần chia có thể thay đổi từ dự án
này tới dự án khác. Theo cách này, một tài khoản nào đó cần phải đƣợc lấy từ các tô
kinh tế tiềm năng khác nhau. Tuy nhiên, khi mà chi phí không đƣợc khấu trừ một
cách tƣờng minh, những sơ đồ nhƣ vậy sẽ không phản ánh tô kinh tế thuần túy.
Một số sơ đồ một phần tính tới chi phí bằng cách làm cho chia sẻ sản lƣợng chỉ
đƣợc thực hiện chỉ sau một mức bảo đảm doanh thu tối thiểu nào đó. Cũng giống
nhƣ cho phép công ty đƣợc thu hồi một phần chi phí ban đầu nào đó trƣớc khi chia
sẻ sản lƣợng, điều này cung cấp một biện pháp bổ sung để chia sẻ rủi ro. Thậm chí
nếu mức tối thiểu đƣợc đặt sao cho thu hồi đƣợc tổng chi phí, vẫn còn một cản trở
khuyến khích cận biên, một khi chia sẻ sản lƣợng bắt đầu đƣợc áp dụng.
Các chính phủ cũng có thể thƣơng lƣợng để nắm giữ vốn cổ phần trong các công
ty tài nguyên. Tại một cực đoan, chính phủ có thể mua các cổ phần của một công ty
tài nguyên trên thị trƣờng mở. Tuy nhiên, vì giá trị thị trƣờng của công ty cần phải
vốn hóa tất cả tô kinh tế ròng tƣơng lai dự kiến của công ty, điều này sẽ không đƣợc
dự kiến để tạo ra bất kỳ doanh thu ròng nào cho chính phủ. Ở một cực đoan khác,
chính phủ đơn giản có thể lấy “vốn cổ phần tự do” trong công ty, và bằng cách đó
cho phép bản thân mình chia sẻ lãi cổ phần tƣơng lai của công ty. Điều này sẽ khác
với chế độ thuế tô kinh tế bởi sự kiện không có khấu trừ ẩn đối với vốn cổ phần ban
đầu đƣợc đặt ra bởi công ty. Điều này có thể xấp xỉ chi phí vốn ban đầu đƣợc công
72
ty gánh chịu. Khi đó nó sẽ tƣơng tự với hệ thống tiền thuê tài nguyên với chi phí
hiện thời đƣợc khấu trừ.
Ở một cực đoan khác, chính phủ đơn giản có thể lấy “vốn cổ phần tự do” trong
công ty, và bằng cách đó cho phép bản thân mình chia sẻ lãi cổ phần tƣơng lai của
công ty. Điều này sẽ khác với chế độ thuế tô kinh tế bởi sự kiện không có khấu trừ
ẩn đối với vốn cổ phần ban đầu đƣợc đặt ra bởi công ty. Điều này có thể xấp xỉ chi
phí vốn ban đầu đƣợc công ty gánh chịu. Sau đó nó sẽ tƣơng tự với hệ thống tiền
thuê tài nguyên với chi phí thƣờng xuyên đƣợc khấu trừ.
Thay vì lấy vốn cổ phần tự do, chính phủ có thể trả một giá nào đó cho nó. Để có
đƣợc một phần tô kinh tế nào đó, giá cần phải nhỏ hơn giá thị trƣờng của cổ phần
đƣợc lấy. Các sơ đồ chia sẻ vốn cổ phần dạng này sẽ là tƣơng đƣơng với các loại
thuế tô kinh tế nếu thanh toán đƣợc thực hiện bởi chính phủ bằng với giá trị hiện
thời cho phần tƣơng đƣơng của chi phí tiền mặt của dự án. Nếu thanh toán này đƣợc
thực hiện trƣớc, nó sẽ có tác động tài chính giống hệt nhƣ thuế luồng tiền. Chỉ có
khác biệt thực là chính phủ có đƣợc quyền bỏ phiếu. Nếu thanh toán đƣợc trải rộng
vào tƣơng lai (ví dụ, đƣợc lấy từ tiền lãi cổ phần), nó cần đƣợc đƣa vào tƣơng lai
với lãi suất. Trong một trƣờng hợp, chính phủ sẽ chỉ có đƣợc phần chia của tô kinh
tế chứ không phải toàn bộ lƣợng tiền.
Nhiều quản lý vận hành tài nguyên không hồi sinh đối mặt với các chi phí đóng
cửa nhƣ chi phí làm sạch để phòng tránh các thiệt hại môi trƣờng. Đơn giản yêu cầu
các công ty đáp ứng những chi phí nhƣ vậy có thể là không bắt buộc vì các công ty
có khả năng tránh những điều đó chỉ bằng cách rời bỏ địa điểm. Làm sạch có thể
đƣợc cƣỡng chế bằng cách yêu cầu công ty phát hành trái phiếu cho chi phí làm
sạch, hoặc, một cách tƣơng đƣơng, bằng cách đặt ra một loại thế lợi tức về quản lý
tài nguyên, là khối lƣợng sẽ đƣợc hoàn trả một khi đã đƣợc làm sạch.
Trong nhiều quốc gia quyền hạn đối với các tài nguyên đƣợc phi tập trung hóa ít
nhất một phần xuống cấp thấp hơn của chính phủ. Điều này có thể làm phát sinh
những vấn đề phối hợp thuế giữa các cấp khác nhau của chính phủ cũng nhƣ cho
các năng lực tài chính khác nhau giữa các cấp thấp hơn của chính phủ.
73
Các chính phủ của các quốc gia đang phát triển ngày càng có ý thức về mong
muốn đánh các loại thuế vào tô kinh tế phát sinh từ các tài nguyên thiên nhiên bên
trong biên giới của họ. Đồng thời, các quốc gia này cũng cho thấy sự phức tạp ngày
càng gia tăng trong việc biển đổi các công cụ tài chính thô đƣợc sử dụng một cách
truyền thống cho mục đích này để làm giảm các chi phí hiệu quả phát sinh từ việc
sử dụng các loại thuế tô kinh tế không hoàn hảo lẫn làm tăng tỷ phần của tô kinh tế
mà họ có khả năng gán với các mục đích xã hội. Bây giờ đã đến lúc cần phải làm
tinh tế những loại thuế vẫn còn rất thô nhƣ tiền thuê tài nguyên, và các loại thuế
xuất khẩu bằng cách thay thế chúng với các dạng đơn giản hơn của các loại thuế
đánh vào tô kinh tế thuần túy.
*MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC THU THUẾ TÀI NGUYÊN
Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thuế và phí đã khi ban hành cần
kết hợp các quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong sử dụng
tài nguyên từ hai tiếp cận. Thứ nhất, các quy định đƣợc hƣớng dẫn để khuyến khích
và trợ cấp ƣu đãi đối với sử dụng những tài nguyên tái tạo. Thứ hai, quy định rõ
ràng về nghĩa vụ tài chính của các đối tƣợng có liên quan đến hành động của khai
thác và sử dụng tài nguyên cạn kiệt để bù đắp phần nào những mất mát ảnh hƣởng
đến phúc lợi xã hội trong dài hạn. Cụ thể là:
Xây dựng hoàn thiện luật quản lý thuế theo hƣớng qui định rõ chế độ tự chịu
trách nhiệm khai báo và nộp thuế của từng đối tƣợng nộp thuế; đối tƣợng đƣợc ủy
quyền, bảo lãnh nộp thay thuế.
Chính sách miễn thuế phải đƣợc quy định một cách cụ thể, chi tiết và cần xét
đến tính công bằng cho các Doanh nghiệp.
Chế độ ấn hạn thuế rõ ràng theo tiêu chí và thời gian cụ thể, trách chung chung
rất khó trong công tác xử lý nhƣ hiện nay.
Đối với công tác giá, tính thuế: Cơ quan quản lý cần phải phân công cán bộ giá
chuyên trách, không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải đƣợc phân
công dựa trên kiến thức chuyên môn đƣợc đào tạo (tốt nghiệp các trƣờng kinh tế, tài
74
chính, kế toán, thƣơng mại, ngoại thƣơng). Ƣu tiên bố trí những cán bộ đã làm công
tác thuế, giá lâu năm, dày dặn kinh nghiệm thực tế.
Công tác đào tạo: Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, tiếp tục thực
hiện công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác thuế, giá
tại các Chi cục trực thuộc đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra.
Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ: xây dựng và công khai các qui trình nghiệp
vụ cụ thể trong từng khâu nghiệp vụ, có chế độ trách nhiệm cho từng đối tƣợng,
chế độ báo cáo cấp trên và chế độ kiểm tra định kỳ.
Xây dựng chế độ khen thƣởng: khen thƣởng định kỳ, đột xuất đối với những
trƣờng hợp có thành tích trong công tác phát hiện gian lận, truy thu thuế cho Nhà
nƣớc và các Chi Thuế Tài Nguyên cần đƣợc hoàn thiện theo hƣớng đơn giản hóa cơ
cấu thuế suất để nâng cao khả năng kiểm soát, chống gian lận thƣơng mại, theo đó
cần giảm bớt số lƣợng các mức thuế suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất
đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời cần xác lập rõ hệ thống phân loại các
mức thuế suất.
Kiến nghị hoàn chỉnh các qui trình, qui chế thực hiện các biện pháp chế tài để
đảm bảo thực thi nghiêm túc Luật thuế Tài Nguyên…cục không để nợ thuế quá hạn
hàng quí, năm.Để phát triển công nghiệp khai khoáng và sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên khoáng sản trên địa bàn các tỉnh phải bắt đầu từ các dự án khai thác mỏ, cần
theo đúng Luật Khoáng sản và theo cam kết của các doanh nghiệp, nếu dự án không
triển khai theo đúng tiến độ thì sẽ bị thu hồi. Các dự án hết hạn đều không cho gia
hạn.
Việc cấp phép mỏ mới cho các doanh nghiệp nên dừng lại và phải tập hợp các
điểm mỏ, lập danh sách theo nhóm nguyên liệu và tổ chức đấu thầu theo nhóm.
Tiếp đến là lựa chọn nhà đầu tƣ có năng lực tài chính, có kinh nghiệm trong ngành
khai khoáng, có dự án đầu tƣ chế biến và có khả năng tiêu thụ sản phẩm. Yêu cầu
nhà đầu tƣ lập đề án và triển khai đánh giá thăm dò địa chất, quy hoạch các điểm
mỏ làm nguồn nguyên liệu, báo cáo kết quả đánh giá thăm dò địa chất.
Cần thống nhất phƣơng thức thu thuế.
75
Nhƣ vậy để đạt đƣợc hiệu quả trong công tác quản lý thu thuế Tài Nguyên cần
có những hiểu biết sâu sắc về mô hình đánh thuế tài nguyên để đƣa ra những biện
pháp khắc phục, hoàn thiện công tác thu thuế tài nguyên. Thu đúng, thu đủ thuế
không chỉ góp phần ổn định nguồn thu Ngân sách Nhà nƣớc mà còn tạo môi trƣờng
kinh doanh bình đẳng, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tƣ, thúc đẩy kinh tế phát triển
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và tiết kiệm
tài nguyên cho thế hệ tƣơng lai.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6,
Luật Thuế tài nguyên, Tháng 10/2009.
2. Chính phủ, Nghị định số 175/NĐ-CP về việc hướng dẫn việc thực hiện pháp
luật bảo vệ môi trường, ngày 18/11/1994;
3. Công ty TNHH một thành viên khai thác Thủy lợi Thái Nguyên, Báo cáo tổng
hợp sử dụng nước tại Hồ Núi Cốc, 2011;
Tiếng Anh:
1. Fiscal Affairs Department (FAD), Tax reform in Vietnam issues for 2011-2015,
2010.
2. www.pwc.com/vn, VietNam pocket tax book 2011.
3. Taukuji and Nguyen Van Phung - Tax Policy Department - MOF of Vietnam,
Environment Related Taxes in Vietnam 2010.
4. Nguyen Van Phung - Tax Policy Department - MOF of Vietnam, Tax Reform in
Vietnam Main accomplishments and lessons 2010.
5. David C.L.Nellor, Sovereignty and Natural Resource Taxation in Developing
Countries 1987, Economic Development and Cultural Change.
6. Robin Boadway and Frank Flatters, The taxation of Natural Resources
10/1993, Policy Research Dessemination Center.
7. John F. Helliwell - University of Bristish Columbia, Vancouver, BC and Simon
Fraser University, Burnaby, BC , The taxation of Natural Resources 1985, B.V.
(North-Holland).
77
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng tham khảo thuế suất của một số tài nguyên
(Trích luật thuế tài nguyên năm 2009)
Thuế suất (%) TT Nhóm, loại tài nguyên
Khoáng sản kim loại I
Sắt, măng-gan (mangan) 7-20 1
Ti-tan (titan) 7-20 2
Vàng 9-25 3
Đất hiếm 12-25 4
Bạch kim, bạc, thiếc 7-25 5
Vôn-phờ-ram (wolfram), ăng-ti-moan (antimoan) 7-25 6
Chì, kẽm, nhôm, bô-xit (bouxite), đồng, ni-ken (niken) 7-25 7
7-25 8 Cô-ban (coban), mô-lip-đen (molipden), thuỷ ngân, ma- nhê (magie), va-na-đi (vanadi)
9 Khoáng sản kim loại khác 5-25
II Khoáng sản không kim loại
Đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình 3-10 1
5-15 2 Đá, trừ đá nung vôi và sản xuất xi măng; sỏi; cát, trừ cát làm thủy tinh
Đất làm gạch 5-15 3
Gờ-ra-nít (granite), sét chịu lửa 7-20 4
Đô-lô-mít (dolomite), quắc-zít (quartzite) 7-20 5
7-15 6 Cao lanh, mi-ca (mica), thạch anh kỹ thuật, cát làm thủy tinh
5-15 7 Pi-rít (pirite), phốt-pho-rít (phosphorite), đá nung vôi và sản xuất xi măng
A-pa-tít (apatit), séc-păng-tin (secpentin) 3-10 8
Than an-tra-xít (antraxit) hầm lò 4-20 9
Than an-tra-xít (antraxit) lộ thiên 6-20 10
Than nâu, than mỡ 6-20 11
Than khác 4-20 12
78
TT Nhóm, loại tài nguyên Thuế suất (%)
Kim cƣơng, ru-bi (rubi), sa-phia (sapphire) 16-30 13
16-30 14 E-mô-rốt (emerald), a-lếch-xan-đờ-rít (alexandrite), màu đen
12-25 15 Adít, rô-đô-lít (rodolite), py-rốp (pyrope), bê-rin (berin), sờ-pi-nen (spinen), tô-paz (topaz)
12-25 16
Thạch anh tinh thể màu tím xanh, vàng lục, da cam; cờ-ri- ô-lít (cryolite); ô-pan (pan) quý màu trắng, đỏ lửa; phen- sờ-phát (fenspat); birusa; nê-phờ-rít (nefrite)
17 Khoáng sản không kim loại khác 4-25
III Dầu thô 6-40
IV Khí thiên nhiên, khí than 1-30
V Sản phẩm của rừng tự nhiên
Gỗ nhóm I 25-35 1
Gỗ nhóm II 20-30 2
Gỗ nhóm III, IV 15-20 3
Gỗ nhóm V, VI, VII, VIII và các loại gỗ khác 10-15 4
Cành, ngọn, gốc, rễ 10-20 5
Củi 1-5 6
Tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô 10-15 7
Trầm hƣơng, kỳ nam 25-30 8
Hồi, quế, sa nhân, thảo quả 10-15 9
10 Sản phẩm khác của rừng tự nhiên 5-15
VI Hải sản tự nhiên
Ngọc trai, bào ngƣ, hải sâm 6-10 1
Hải sản tự nhiên khác 1-5 2
VII Nƣớc thiên nhiên
8-10 1 Nƣớc khoáng thiên nhiên, nƣớc nóng thiên nhiên, nƣớc thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp
Nƣớc thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện 2-5 2
Nƣớc thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh, trừ nƣớc 3
79
TT Nhóm, loại tài nguyên Thuế suất (%)
quy định tại điểm 1 và điểm 2 Nhóm này
1-3 3.1 Nƣớc mặt
3-8 3.2 Nƣớc dƣới đất
10-20 VIII Yến sào thiên nhiên
1-20 IX Tài nguyên khác
80
Phụ lục 2: Bảng tính phƣơng trình đƣờng cầu cho các kênh trong từng vụ
Lƣợng nƣớc tƣới có Giá 1m3 nƣớc (không Các Lƣợng nƣớc tƣới Các kênh Diện tích (ha) Tổn thất tính đến tổn thất bao gồm nƣớc mƣa)-có vụ/năm (triệu m3) (triệu m3) tổn thất (đồng/m3)
20,00% 2.924 Kênh chính 14,91 17,89 1.318 Vụ chiêm
24,31% 1.325 Kênh Đông 6,76 8,40 1.273
24,31% 1.174 Kênh Giữa 5,99 7,44 1.273
32,76% 1.577 Kênh Tây 8,04 10,68 1.192
20,00% 2.275 Kênh chính 5,80 6,96 842 Vụ mùa
24,31% 1.031 Kênh Đông 2,63 3,27 813
24,31% 913 Kênh Giữa 2,33 2,89 813
32,76% 1.227 Kênh Tây 3,13 4,15 761
20,00% 1.880 Kênh chính 5,26 6,32 6.415 Vụ Đông
24,31% 852 Kênh Đông 2,39 2,97 6.192
24,31% 755 Kênh Giữa 2,11 2,63 6.192
32,76% 1.014 Kênh Tây 2,84 3,77 5.798
Tổng 77

