ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI DUY KHÁNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI DUY KHÁNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Lý luận Chính trị Mã số: 8 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ THỦY THÁI NGUYÊN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

hoàn toàn trung thực, khách quan, không trùng lặp với các luận văn khác. Thông tin

trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020

Tác giả luận văn

Bùi Duy Khánh

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự

giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các bạn. Tôi xin bày tỏ sự biết

ơn sâu sắc đến TS. Vũ Thị Thủy, người đã tận tâm, trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình học tập và quá trình nghiên cứu luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm

ơn đến các thầy cô giáo khoa Chính trị - Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái

Nguyên đã trực tiếp giảng dạy lớp Thạc sỹ Khoa học Giáo dục K26.

Tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện của các đồng chí

trong Ban Giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo thuộc Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và

An ninh - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tác giả

có được các thông tin cần thiết, hữu ích để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.

Mặc dù đã cố gắng nhưng luận văn cũng không thể tránh khỏi một số thiếu sót.

Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô, đồng nghiệp và bạn bè.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020

Tác giả luận văn

Bùi Duy Khánh

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii

DANH MỤC CÁC BẢNG ...............................................................................viii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................. 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ..................................... 4

5. Giả thuyết khoa học ......................................................................................... 5

6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài ........................................................ 5

7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG

PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC

QUỐC PHÒNG, AN NINH .............................................................................. 6

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề....................................................................... 6

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận dạy học theo phương pháp

thảo luận nhóm .................................................................................................... 6

1.2. Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh ............................................ 10

1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học ................................. 10

1.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm .................................................................. 13

1.2.3. Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn môn Công tác quốc phòng,

an ninh ............................................................................................................... 27

1.3. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác

quốc phòng, an ninh ........................................................................................... 30

iii

1.3.1. Vai trò của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với giảng

viên..................................................................................................................... 30

1.3.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm đối với sinh viên ................... 34

Kết luận chương 1 .............................................................................................. 37

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH, ĐIỀU KIỆN

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY

HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM

GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐHTN .................................. 38

2.1. Khái quát chung về về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -

Đại học Thái Nguyên ......................................................................................... 38

2.1.1. Đặc điểm về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên ...................................................................................................... 38

2.1.2. Đặc điểm sinh viên ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -

Đại học Thái Nguyên ......................................................................................... 41

2.2. Thực trạng việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

môn Công tác quốc phòng và an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và

an ninh - Đại học Thái Nguyên. ........................................................................ 42

2.2.1. Thực trạng hoạt động dạy môn Công tác quốc phòng - an ninh ở

Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại hoc Thái Nguyên ................ 44

2.2.2. Thực trạng hoạt động học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại

Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. .............. 49

2.3. Một số nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy

học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng

và an ninh - Đại học Thái Nguyên ..................................................................... 54

2.3.1. Đảm bảo mục tiêu của môn học .............................................................. 54

2.3.2. Đảm bảo tính thực tiễn ............................................................................ 55

2.3.3. Đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng

lực người học ..................................................................................................... 58

iv

2.3.4. Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa vai trò của sinh viên với vai

trò chủ đạo của giảng viên ................................................................................. 59

2.3.5. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa phương pháp thảo luận

nhóm với hiệu quả học tập ................................................................................. 59

2.3.6. Đảm bảo được sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức chia nhóm và

các hình thức thảo luận phù hợp với đặc điểm nhận thức của sinh viên. .......... 60

2.4. Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an

ninh .................................................................................................................... 60

2.4.1. Quy trình thiết kế bài học ........................................................................ 61

2.4.2. Quy trình thực hiện bài giảng bằng phương pháp thảo luận nhóm

trong một tiết học ............................................................................................... 65

2.4.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ

dạy theo phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc phòng

và an ninh - Đại học Thái Nguyên ..................................................................... 67

2.5. Điều kiện vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và

an ninh ............................................................................................................... 72

2.5.1. Điều kiện đối với giảng viên ................................................................... 72

2.5.2. Điều kiện đối với sinh viên ...................................................................... 73

2.5.3. Điều kiện về cơ sở vật chất ...................................................................... 73

Kết luận chương 2 .............................................................................................. 75

Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VẬN DỤNG PHƯƠNG

PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC

QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC

PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ................................. 76

3.1. Thực nghiệm sư phạm ................................................................................ 76

3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 76

v

3.1.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................. 78

3.1.3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 83

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục

quốc phòng và An ninh - Đại học Thái Nguyên ................................................ 91

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cấp quản lý........................................................ 91

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với giảng viên ......................................................... 92

3.2.3. Nhóm giải pháp đối với sinh viên ........................................................... 93

Kết luận chương 3 .............................................................................................. 96

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 97

1. Kết luận .......................................................................................................... 97

2. Kiến nghị ....................................................................................................... 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 100

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 102

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PPDH : Phương pháp dạy học

PPTLN : Phương pháp thảo luận nhóm

TLN : Thảo luận nhóm

ĐC : Đối chứng

TN : Thực nghiệm

DBHB : Diễn biến hòa bình

ĐCSVN : Đảng cộng sản Việt Nam

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

ANTQ : An ninh Tổ quốc

GV : Giảng viên

SV : Sinh viên

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN ........... 44

Bảng 2.2. Đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong

dạy học môn học Công tác quốc phòng, an ninh .............................. 45

Bảng 2.3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN ....................................... 45

Bảng 2.4: Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học............................... 46

Bảng 2.5: Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết ....................................... 46

Bảng 2.6: Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học ............................... 47

Bảng 2.7: Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá ...................... 48

Bảng 2.8: Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên ........................ 49

Bảng 2.9: Mức độ thái độ của sinh viên đối với môn học ................................. 50

Bảng 2.10: Mức độ tích cực trong giờ học của sinh viên .................................. 52

Bảng 2.11: Mức độ thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học ............ 52

Bảng 2.12: Mức độ nguyên nhân sinh viên không thích học ............................ 53

Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm .......................................................... 78

Bảng 3.2. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và đối chứng ................... 83

Bảng 3.3. Mức độ hứng thú học tập của SV...................................................... 85

Bảng 3.4. Thái độ học tập của sinh viên đối với giờ học thảo luận nhóm ........ 86

Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra điểm điều kiện sau thực nghiệm............................ 87

viii

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và quốc tế sâu rộng và bùng nổ

thông tin, đổi mới quá trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đã trở

thành xu hướng tất yếu đối với các trường cao đẳng, đại học trên thế giới nói chung và

ở nước ta nói riêng. Theo đó, định hướng đổi mới giáo dục đại học đã được thể hiện

trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Điều 36b Luật Giáo dục sửa đổi (số

44/2009/QH12) nêu rõ “Phương pháp giáo dục đại học cần phải coi trọng việc bồi

dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy

sáng tạo, rèn luyện kĩ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”.

Thực tế khi khoa học ngày càng phát triển, con người không chỉ phát hiện ra

những cái đã có trong tự nhiên, xã hội mà bằng trí tưởng tượng, sáng tạo của mình, con

người đã thiết kế xây dựng những mô hình mới chưa có trong thực tiễn. Các phương

pháp suy diễn, mô hình hóa,… dần dần đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa

học và trở thành phương pháp đặc trưng cho khoa học hiện đại. Trong bối cảnh đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, với mục tiêu nhằm biến quá trình đào tạo thành

quá trình tự đào tạo rất cần phải có những nghiên cứu xác lập mô hình đổi mới phương

pháp dạy học để định hướng cho toàn bộ quá trình đổi mới. Đây là việc làm phù hợp

với xu hướng của thời đại và có ý nghĩa về mặt phương pháp luận.

Phương pháp thảo luận nhóm với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học đặc

trưng ở các trường cao đẳng, đại học có nhiều ưu thế nhằm phát huy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của người học giúp cho người học tiếp cận một cách nhanh nhất, có hiệu

quả với khối lượng tri thức nhân loại ngày càng lớn. Thông qua những chuỗi hoạt động

tìm tòi, nghiên cứu và tranh luận được tổ chức có chủ định trong các buổi thảo luận

nhóm trên lớp, sinh viên sẽ có nhiều cơ hội để lĩnh hội tốt các tri thức, nắm bắt được

con đường đi đến tri thức, đồng thời rèn luyện kĩ năng, tư duy cũng như thái độ, phong

cách làm việc khoa học một cách tích cực và hiệu quả. Điều này có nghĩa phương pháp

thảo luận nhóm là một công cụ thực sự hữu hiệu giúp cho sinh viên phát triển năng lực

và tư duy toàn diện. Tuy nhiên, trên thực tiễn phương pháp thảo luận nhóm vẫn chưa

có một vị trí xứng đáng và chưa trở thành một hình thức tổ chức dạy học độc lập trong

1

cơ cấu các hình thức tổ chức dạy học và đào tạo bậc cao đẳng, đại học ở Việt Nam hiện

nay.

Công tác giáo dục quốc phòng và an ninh là là môn học có vị trí hết sức quan

trọng trong quá trình đào tạo ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng, an ninh. Một trong

những mục tiêu cơ bản của môn Công tác giáo dục quốc phòng, an ninh là trang bị cho

sinh viên kiến thức, kỹ năng quân sự cơ bản, đưa sinh viên làm quen với môi trường

quân sự, rèn luyện ý thức tự giác, tính tổ chức, tính kỷ luật, giúp sinh viên nhận thức

và hành động đúng đắn, tránh được các tệ nạn xã hội đang tồn tại và phát triển hàng

ngày, hàng giờ. Đặc biệt, khơi dậy và nêu cao tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ, tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào

Đảng và Nhà nước, chống lại mọi âm mưu chia rẽ, phản động của các thế lực thù địch

trong và ngoài nước. Chính vì thế, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học môn

Công tác giáo dục quốc phòng, an ninh là một yêu cầu quan trọng và cấp bách. Tuy

nhiên, thực trạng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục

quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế, với

tư duy xem môn Công tác quốc phòng, an ninh chỉ là môn học phụ, không ảnh hưởng

đến điểm tích lũy kết quả học tập đã chi phối, ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ tích cực

tiếp cận của sinh viên và tâm huyết giảng dạy của giảng viên. Hơn nữa, một bộ phận

không nhỏ sinh viên chưa thấy được ý nghĩa và giá trị mang lại từ tri thức của môn

học, chưa thực sự hứng thú, tích cực tham gia học tập dẫn đến hiệu quả dạy học môn

học chưa cao. Để khắc phục thực trạng này đã có nhiều biện pháp, phương pháp và

hình thức dạy học khác nhau trong đó có việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,

phương pháp này sẽ giúp sinh viên chủ động lĩnh hội tri thức, ghi nhớ nội dung bài học

một cách nhanh chóng, bền vững, tự tin bày tỏ ý kiến và không ngừng tìm tòi, nghiên

cứu, thể hiện trách nhiệm cá nhân với công việc chung của toàn nhóm, qua đó hình

thành những phẩm chất, năng lực cho người học.... Với những ưu thế nổi trội như vậy,

phương pháp thảo luận nhóm đã và đang được nhiều giảng viên bộ môn quan tâm vận

dụng trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc

phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn nhiều

lúng túng do chưa hiểu rõ được bản chất của phương pháp thảo luận nhóm cũng như

2

quy trình thực hiện, cách sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ, chưa lựa chọn được chủ đề thảo

luận phù hợp, chưa phối hợp nhuần nhuyễn phương pháp thảo luận nhóm với các

phương pháp dạy học khác... Do vậy, việc sử dụng còn mang nặng tính hình thức,

không phát huy được những ưu điểm của phương pháp dạy học này trong quá trình dạy

học.

Thực tiễn dạy học bộ môn đang đặt ra nhiều vấn đề cần có lời giải đáp như: quá

trình dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh cần sử dụng phương pháp nào?

Phương pháp thảo luận nhóm có vai trò như thế nào trong dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh? Biện pháp nào để sử

dụng phương pháp thảo luận nhóm đạt hiệu quả nhằm góp phần tạo lập sự hứng thú

học tập, phát triển năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, năng lực cá nhân, năng lực hợp

tác và tính sáng tạo của sinh viên. Để tìm ra lời giải cho những vấn đề nêu trên, tác giả

lựa chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên” làm Luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng phương pháp thảo luận

nhóm, luận văn đề xuất quy trình và một số biện pháp nhằm vận dụng có hiệu quả

phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung

tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng

và an ninh - Đại học Thái Nguyên

Thứ hai, phân tích thực trạng và xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo

luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục

quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Thứ ba, thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và đề xuất một số

biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy

3

học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh

- Đại học Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp thảo luận

nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.

Đề tài tiến hành thực nghiệm, nghiên cứu điều kiện, giải pháp nâng cao hiệu quả

của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy môn Công tác quốc phòng, an

ninh trong chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên ở

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

4.1. Cơ sở lý luận của đề tài

Đề tài dựa trên các cơ sở lý luận sau:

- Nội dung chương trình môn học Công tác quốc phòng, an ninh trong chương

trình giáo dục quốc phòng và an ninh.

- Các văn bản chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào

tạo.

- Lý luận về phương pháp dạy học hiện đại trên thế giới và trong nước.

- Kế thừa các công trình nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm trong dạy

học nói chung và dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương

pháp logic - lịch sử…

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, phương pháp điều

tra xã hội học, phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp so sánh tổng hợp,

quan sát, thống kê…để nghiên cứu phần thực trạng của việc vận dụng phương pháp

4

thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo

dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

5. Giả thuyết khoa học

Nếu phương pháp thảo luận nhóm được vận dụng theo đúng nguyên tắc,

quy trình, biện pháp đã nêu trong luận văn thì sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc giảng

dạy môn môn Công tác quốc phòng, an ninh trong chương trình giáo dục quốc phòng và

an ninh. Qua đó, sẽ phát huy được tư duy độc lập, năng lực sáng tạo và năng lực phản

biện xã hội; giúp sinh viên phát triển được kỹ năng giao tiếp, hợp tác nhóm góp phần

nâng cao được chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục, đào tạo.

6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài

- Đề tài hoàn thành góp phần làm sáng tỏ hơn về thực trạng vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

- Qua nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và tiến hành thực nghiệm sư phạm,

đề tài đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng

phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung

tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

- Sau khi hoàn thiện cung cấp những luận cứ làm cơ sở lý luận cho việc vận

dụng phương pháp thảo luận nhóm vào quá trình dạy học môn Công tác quốc phòng,

an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương, 10 tiết.

5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN

NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận dạy học theo phương pháp thảo luận

nhóm

Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm là một trong những phương pháp

được vận dụng khá phổ biến ở nhiều cấp học, nhiều ngành học. Dạy học theo thảo luận

nhóm sớm thu hút sự quan tâm ở các góc độ tiếp cận khác nhau của nhiều nhà khoa

học, nhiều chủ thể giáo dục. Có thể kể đến các góc độ tiếp cận cơ bản dưới đây:

Khi đề cập đến phương pháp thảo luận nhóm, từ thời kỳ Cổ đại, các nhà giáo

dục, nghiên cứu ở phương Đông, phương Tây đều luôn quan tâm đến người học và

hình thức học tập. Với suy nghĩ điều gì cũng đáng học đặc biệt là học từ những người

xung quanh, học bạn bè, Khổng Tử (551-479 TCN) đã khẳng định: “trong ba người

đi tất có một người là thầy ta” [13, tr.22]. Điều đó cho thấy ông đã đề cao sự tương tác

giữa người dạy với người học, giữa người học với người học.

Nhà giáo dục Marco Fabio Quintilian (42-118) với cuốn sách “Luận về thuật

hùng biện” trong đó nghiên cứu nhiều vấn đề về giáo dục và có rất nhiều tư tưởng tiến

bộ. Ông nhận định: dạy học không phải là sự cưỡng ép mà phải làm thế nào để họ vui

vẻ học tập. Giảng dạy cần phải thay đổi hình thức và đưa ra nhiều ví dụ. Người học sẽ

có rất lợi nếu biết nói những điều mình hiểu cho người khác cùng hiểu [13, tr.15]. Quan

điểm của Marco Fabio Quintilian có rất nhiều điểm tương đồng với mục tiêu mà

phương pháp thảo luận nhóm hướng tới cũng như ý nghĩa của nó trong hoạt động học

tập.

J.A. Cô-men-xki (1592-1670) nhà giáo dục được coi là thủy tổ của nền giáo

dục dân chủ đã phản đối cách dạy theo lối thuộc lòng, nhồi sọ người học và tin tưởng

rằng người học sẽ có lợi từ việc dạy cho bạn bè và học từ bạn bè [13].

Nhà giáo dục học người Đức Georg Michael Kerschenteiner (1854-1932)

đã đánh giá rất cao vai trò của việc hợp tác trong nhóm. Ông nhận định: Người dạy

hoàn toàn có thể áp dụng hình thức học tập tự quản theo nhóm để phát triển tính

6

cách của người học, khơi dậy tinh thần trách nhiệm cá nhân trong lương tâm mỗi

con người đối với cộng đồng, loại bỏ những hành động do động cơ ích kỷ đối với

nhóm khác [20, tr.25].

Trong công trình nghiên cứu về học cùng nhau và học độc lập; học hợp tác, học

tranh đua và học cá nhân, các tác giả David W.Johnson và Roger T. Johnson đã cho

rằng học cá nhân và học tranh đua không phù hợp dẫn đến tính tự mãn, ích kỷ, thất

vọng và tự ti. Điều đó dễ dẫn đến sự phát triển không lành mạnh về sức khỏe và tâm

lý. Từ đó, các tác giả cho rằng: Dạy học theo nhóm có vai trò quan trọng trong việc

xây dựng mối quan hệ bạn bè, tăng cường động cơ học tập, sự trao đổi thông tin, phát

triển năng lực tư duy và kỹ năng xã hội. Như vậy, dạy học theo nhóm bộc lộ rõ tính ưu

việt nhưng trong thực tiễn lại ít khi được sử dụng hơn so với kiểu học cá nhân và tranh

đua [6].

Trên cơ sở đánh giá cao vai trò của tập thể, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác

- Lênin cho rằng giáo dục con người thông qua tập thể là một trong những vấn đề quan

trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. C.Mác khẳng định: “Chỉ có trong cộng đồng,

cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu

của mình và do đó chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân” [2, tr.108].

Ở Việt Nam, với triết lý giáo dục “Học thầy không tày học bạn” đã cho thấy,

học tập không chỉ từ phía người thầy mà cần phải học tập nhiều hơn từ bè bạn. Đặc

biệt, sau Cách mạng tháng Tám, cách học theo nhóm với phương châm mọi người cùng

giúp nhau biết chữ được thực hiện sâu rộng trong phong trào “Bình dân học vụ” để

diệt giặc dốt. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, để thực hiện thắng lợi mục tiêu

diệt giặc dốt cần sử dụng mềm dẻo các biện pháp trong đó chú ý đến hình thức dạy học

lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: “Những người chưa biết chữ hãy gắng

sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ

không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo…” [8, tr.37].

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, khi bàn về cách học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã nhấn mạnh vai trò của tự học trên tinh thần “lấy tự học làm cốt” hay nói cách khác,

tự học là yếu tố cốt lõi của hoạt động học tập, là nội lực quyết định chất lượng học tập.

Tuy nhiên, Người đã nhắc đến sự liên quan chặt chẽ giữa tự học với thảo luận, tự học

7

là cốt nhưng “do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [9, tr.273]. Điều đó có nghĩa, thảo luận

là yếu tố ngoại lực để phát huy sức mạnh tập thể. Muốn tiến hành thảo luận thì bản thân

mỗi cá nhân phải có nội lực tự học lớn mới có thể tham gia, đóng góp tích cực được.

Trong những năm gần đây, với xu thế đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa

hoạt động của người học, các nhà giáo dục đã nhận thấy cần phải tổ chức cho người

học học tập theo nhóm. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục đã tập trung

bàn về tầm quan trọng và sự cần thiết của làm việc theo nhóm.

Trong công trình nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Nguyễn Thanh Bình:“Cải tiến

tổ chức hoạt động giáo dục trong trường trung học cơ sở theo phương thức hợp tác”

đã làm rõ nội hàm khái niệm hợp tác, vai trò của mô hình này và vận dụng mô hình

trong cải tiến tổ chức hoạt động giáo dục ở trường trung học cơ sở [1].

Khi bàn đến dạy học hợp tác với tư cách là một quan điểm dạy học trong đó

phương pháp thảo luận nhóm là một trong số các PPDH có sứ mệnh quan trọng phát

huy tính tích cực của người học, công trình nghiên cứu: “Sách trợ giúp giảng viên cao

đẳng sư phạm”, của tập thể tác giả Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá

Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp đã nhấn mạnh vấn đề dạy học hợp tác

nhóm là một trong các PPDH hiện đại [4]. Trong đó, tác giả Nguyễn Hữu Châu cho

rằng, cần sử dụng các nhóm nhỏ để làm việc cùng nhau nhằm tối đa hóa kết quả học

tập của học sinh, bởi lẽ dạy học hợp tác “không chỉ đơn thuần là một cách thức giảng

dạy mà còn là sự thay đổi về cấu trúc tổ chức ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời

sống học đường [3, tr.235].

Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống và

đổi mới” đã nhận định tầm quan trọng của sự hợp tác nhóm trong học tập như: nâng

cao năng lực hợp tác, tăng cường thái độ tích cực với các môn học, tăng cường khả

năng tư duy phê phán, tạo ra những thành công trong học tập. Tác giả nhìn nhận rằng,

không phải dạy học tốt nhất là một thầy một trò bởi người thầy dù có giỏi đến mấy

cũng không thể đi sâu vào thế giới nội tâm của học sinh, không thể tạo ra cảm xúc và

kinh nghiệm đa dạng, phong phú bằng việc học sinh giao tiếp với nhau. Như vậy, học

tập thể, học nhóm vô cùng quan trọng trong đó sự hợp tác diễn ra nhiều chiều, giữa trò

với trò, giữa thầy với trò để hoàn thành nhiệm vụ học tập [19, tr.411-412].

8

Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Toan: “Vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ

thông” đã đề cập đến cơ sở lý luận và thực trạng sử dụng PPTLN trong dạy học và

cho rằng đây là phương pháp phát triển năng lực hợp tác, diễn đạt của người học - một

phẩm chất quan trọng của công dân trong xu thế hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, đây là

một phương pháp khó đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức, quy trình, phối hợp

linh hoạt với các PPDH khác [18].

Cũng theo tác giả Vũ Lệ Hoa, trong cuốn: “Tổ chức dạy học theo quan điểm

sư phạm tương tác”, tác giả nhấn mạnh việc tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận, tranh luận

trong tập thể khiến trình độ của người học được nâng cao, vận dụng được vốn hiểu biết

của mỗi cá nhân và của tập thể lớp [10, tr.66].

Ngoài ra, khi đề cập đến phương pháp thảo luận nhóm có rất nhiều tác giả đã đề

cập: Nguyễn Thị Kim Dung, “Thảo luận nhóm và quá trình xây dựng quan hệ nhân ái

giữa học sinh với nhau ở trường trung học”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 11, trang

10 - 11, 2000; Trần Duy Hưng, “Mô hình phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ”, Tạp

chí Nghiên cứu giáo dục số 4, trang 9-10, 2000; Ngô Thị Thu Dung (2001), “Mô hình

tổ chức dạy học theo nhóm trong giờ học trên lớp”, Tạp chí Giáo dục số 5, trang 21-

22.

Như vậy, từ tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu cho thấy, phương pháp dạy

học thảo luận nhóm trong những năm gần đây đã được các nhà khoa học trong và ngoài

nước quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau đã bước

đầu nêu lên quan niệm về phương pháp dạy thảo luận nhóm, khẳng định vị trí, vai trò,

ý nghĩa to lớn của phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong dạy học. Ở một số công

trình nghiên cứu, các tác giả đã chỉ ra nội dung, hình thức, yêu cầu và nguyên tắc khi

sử dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm phù hợp với từng đối tượng. Những kết

quả nghiên cứu đó sẽ được tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn này. Tuy

nhiên, trên thực tế vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề: Vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Trong luận văn, tác giả tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau:

Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học

9

thảo luận nhóm nói chung và phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng; luận chứng ưu thế khi sử dụng phương pháp

dạy học thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Hai là, điều tra, đánh giá thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học thảo

luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục

quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Ba là, đề xuất một số nguyên tắc và quy trình sử dụng phương pháp dạy học

thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo

dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Bốn là, tổ chức thực nghiệm nguyên tắc và quy trình sử dụng phương pháp dạy

học thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, đề xuất một

số kiến nghị để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong

dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an

ninh trên địa bàn nghiên cứu.

1.2. Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong

dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh

1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học

1.2.1.1. Khái niệm phương pháp

Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, “Methodos”- nguyên

nghĩa là con đường đi tới một cái gì đó; có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích.

Từ điển Triết học cho rằng: “Phương pháp theo nghĩa chung nhất là cách thức

đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định” [15].

Tác giả Phạm Viết Vượng đã phân tích phạm trù phương pháp theo ba bậc:

“Bậc 1: Phương pháp là hệ thống các quan điểm, các cách tiếp cận đối tượng

được sử dụng cho một loại công việc. Cách tiếp cận đối tượng khác nhau sẽ đem lại

hiệu quả công việc khác nhau.

Bậc 2: Phương pháp là hệ quy trình, để tiến hành một loại công việc ta cần lựa

chọn một quy trình với các bước đi ngắn nhất để đem lại hiêu quả tốt nhất (quy trình

10

tối ưu).

Bậc 3: Phương pháp là hệ thống các thao tác biện pháp cụ thể được sử dụng để

tiến hành công việc. Phương pháp là cách làm với các thao tác cụ thể”. [21]

Từ việc tiếp cận đã nêu, Phạm Viết Vượng đã đưa ra khái niệm về phương pháp:

“Phương pháp là tổ hợp các cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng

hoạt động nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích đã xác định”. [21].

Trên góc độ tiếp cận cơ bản nhất, phương pháp được hiểu là cách thức hành

động của chủ thể để đạt đến một mục đích nhất định. Trên ý nghĩa đó, phương pháp là

phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, giúp con người nhận thức

được hiện thực khách quan, nhận thức được thực tiễn. Vì vậy, có thể xem phương pháp

là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động nhận

thức và cải tạo thế giới của con người.

Trên thực tế, phương pháp không đơn giản chỉ là được hình thành qua sự tích

lũy, đúc rút kinh nghiệm mà còn là khoa học, đồng thời là nghệ thuật, nó đòi hỏi tính

sáng tạo và mang dấu ấn của chủ thể sử dụng phương pháp. Viện sĩ Tôđa Páplốp đã

khẳng định: “Phương pháp khoa học là những quy luật nội tại của sự vận động của tư

duy, với tư cách là sự phản ánh chủ quan của thế giới khách quan, hay là những quy

luật khách quan được “chuyển” và “dịch” trong ý thức của con người và được sử dụng

một cách có ý thức, có hệ thống như là phương tiện để giải thích và cải biến thế

giới”[27]. Ở mỗi lĩnh vực nhận thức và hoạt động khác nhau có thể sử dụng phương

pháp khác nhau. Điều này tạo nên tính đa dạng , phong phú trong việc phân chia phương

pháp theo các lĩnh vực và góc độ tiếp cận.

Mặc dù được tiếp cập dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung có thể

hiểu: Phương pháp là cách thức, là con đường, là phương tiện để đạt tới mục đích.

Theo đó, phương pháp vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách

quan của phương pháp được quy định bởi đối tượng, khách thể mà con người muốn tác

động bằng hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình, tính chủ quan của phương pháp

lại bi chi phối, quy định của vì tính mục đích kiếm tìm, lựa chọn và sử dụng phương

pháp của từng chủ thể.

1.2.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học

Nhà giáo dục Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Phương pháp dạy học là cách

11

thức làm việc phối hợp thống nhất của thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt nội dung

trí dục để trên cơ sở đó và thông qua đó chỉ đạo sự học tập của trò, còn trò lĩnh hội và

tự chỉ đạo sự học tập của bản thân để cuối cùng đạt tới mục đích dạy học” [16].

Nhà giáo - GS.TSKH Lâm Quang Thiệp cho rằng: “dạy học là việc giúp cho

người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc thay đổi

những tình cảm, thái độ”[17].Theo quan niệm trên, dạy không phải là truyền thụ kiến

thức một chiều, càng không phải cung cấp thông tin đơn thuần, mà chủ yếu là giúp cho

người học tự mình chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, bồi dưỡng cảm xúc và hình thành

thái độ.

Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố như: mục đích và nhiệm vụ dạy học,

phương pháp và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học,

kết quả dạy học… Quá trình này diễn ra và tác động qua lại với nhau để đạt được mục

đích giáo dục.

Bản chất của dạy học là quá trình xử lý, chuyển giao thông tin tri thức của người

dạy và quá trình thu nhận, xử lý thông tin của người học. Tính hiệu quả của quá trình

này không những phụ thuộc vào chất lượng của thông tin mà quan trọng là phụ thuộc

vào phương pháp thực hiện hoạt động đó. [7, tr.12].

Kết quả cuối cùng của quá trình dạy học là hình thành ở người học các nhu cầu

thường xuyên học tập, tìm tòi tri thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích năng lực tư duy

sáng tạo. Hoạt động dạy học đó còn định hướng cho người học trong việc tìm tòi, đào

sâu kiến thức từ lượng thông tin phong phú và rộng lớn của xã hội; hình thành thói

quen tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học của mình. Hay nói khác, dạy học là một quá

trình tổ chức, điều khiển hoạt động học nhằm hình thành cho họ có thái độ, năng lực,

phương pháp, và ý chí học tập để họ tự khai phá những tri thức phong phú của nhân

loại. Đó chính là bản chất của “dạy học lấy người học làm trung tâm” mà nền giáo dục

hiện đại đang nỗ lực hướng tới.

Từ quan điểm “dạy học là quá trình thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy

và hoạt động học”, các nhà giáo dục học cho rằng, phương pháp dạy học bao hàm cả

phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập. Phương pháp dạy học là một khái

niệm phức hợp, có nhiều bình diện, phương diện và cấp độ khác nhau.

12

Cấp độ rộng nhất, “phương pháp dạy học là những quan điểm, tư tưởng về tổ

chức dạy học, là cách thức triển khai của một hệ thống dạy học đa tầng, đa diện cho

một bậc học, cấp học, ngành học, phương thức học” [7, tr.12].

Cấp độ thứ hai, phương pháp dạy học là chiến lược và mô hình dạy học, là cách

thức triển khai một quá trình dạy học cụ thể diễn ra trong một không gian, thời gian

nhất định và được cấu trúc bởi mục tiêu, nội dung dạy học, các hoạt động dạy học và

kết quả dạy học.

Cấp độ thứ ba, phương pháp dạy học là những cách thức tiến hành hoạt động

của người dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạy học đã được xác định.

Như vậy, mỗi nhà khoa học có cách tiếp cận khác nhau từ khái niệm phương

pháp. Tuy nhiên, trong quan điểm của họ đều đồng nhất ở chỗ: Coi phương pháp dạy

học là thành tố quan trọng của quá trình dạy học và có mối quan hệ mật thiết với các

thành tố khác. Phương pháp dạy học là cách thức phối hợp của người dạy và người

học, trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chỉ đạo, phương pháp học nhằm giúp người

học chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học và hình thành kỹ năng, kỹ xảo theo mục

đích hay nguyên tắc đã định. Việc lựa chọn hợp lý và sử dụng nhuần nhuyễn các

phương pháp dạy học đó chính là nghệ thuật sư phạm.

1.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm

1.2.2.1. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm

Theo Từ điển Tiếng Việt: Nhóm là tập hợp một số ít người hoặc sự vật được

hình thành theo những nguyên tắc nhất định, tụ tập với nhau để cùng làm một việc gì

[15]. Nhóm (đội, ekip) còn được quan niệm là hoạt động có ý thức của con người bao

gồm một tập hợp người (hai hoặc trên hai người) được xác định bởi các mối liên hệ

tương tác, đặc biệt là có cùng mục đích và cùng chia sẻ mục tiêu chung. Hoạt động của

nhóm được thể hiện thông qua sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau và giữa họ có sự

tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau [12].

Từ hoạt động thực tiễn của con người đã hình thành nhiều loại hình nhóm khác

nhau với thời gian tồn tại không giống nhau. Sự đa dạng về nhóm do sự đa dạng về nhu

cầu của con người trong cuộc sống quy định. Xuất phát từ nhu cầu của các thành viên

trong nhóm về môi trường làm việc, sở thích, thói quen, hoàn cảnh sống… sẽ hình

13

thành nhóm không chính thức. Xuất phát từ nhu cầu của một tổ chức, căn cứ vào quyết

định của tổ chức hình thành nên nhóm chính thức. Có nhóm hoạt động trong thời gian

dài, tương đối ổn định nhưng cũng có những nhóm tồn tại trong thời gian ngắn, thậm

chí rất ngắn. Như vậy: Nhóm là tập hợp các cá nhân có sự tương tác lẫn nhau trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ chung.

Học tập là một hoạt động đặc thù của con người có mục đích và được thực hiện

một cách tự giác. Trong quá trình học tập tất yếu sẽ xuất hiện sự liên kết giữa các thành

viên theo các nhóm bởi lẽ giao tiếp nhóm là hình thức giao tiếp rất phổ biến gắn với

việc hình thành và phát triển nhân cách của người học.

Nhóm học tập được quan niệm là tập hợp học sinh cùng trình độ (từ 5 đến 6

người), có cùng một mục đích, thực hiện cùng một nhiệm vụ học tập trong đó học sinh

xác định được mục tiêu, các nhiệm vụ tổ chức, phân công chuẩn bị các phương tiện,

điều kiện cho hoạt động học; hợp tác, phối hợp hoạt động, tự đọc, tự tìm kiếm thông

tin trên sách báo, trên mạng, trong cuộc sống, tiến hành trao đổi, thảo luận, tranh luận

để đi đến thống nhất đáp án giải quyết vấn đề. Nguyên tắc của nhóm học tập dựa trên

cơ sở: hoạt động, hợp tác và tự do. [5].

Theo chúng tôi, nhóm học tập là tập hợp các cá nhân với số lượng nhất định có

sự tương tác với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong quá

trình học tập.

Về khái niệm “thảo luận nhóm” trong dạy học. Thảo luận là khi hai hoặc nhiều

người cùng trao đổi ý kiến bằng ngôn ngữ, lời nói. Thảo luận (discuss) có nghĩa là:

“trao đổi phân tích bằng lý lẽ để làm sáng rõ một số vấn đề” [11]. Tác giả Nguyễn Thị

Toan nghiên cứu “thảo luận nhóm” đã nhận định: “Thảo luận nhóm là một sự trao đổi

ý tưởng, quan điểm, nhận thức giữa các học viên để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các

nội dung phù hợp với hoạt động đào tạo” [18]. Bên cạnh đó, tác giả Phan Trọng Ngọ

cũng cho rằng: “Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được

chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và

thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó”

[14]. Từ những nghiên cứu nêu trên, “Phương pháp thảo luận nhóm” có thể hiểu một

cách khái quát như sau: Phương pháp thảo luận nhóm là một hình thức dạy học, trong

14

đó để đạt được mục tiêu dạy học thì am gia vào giải quyết nhiệm vụ học tập trong một

khoảng thời gian người học phải làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ, mỗi thành

viên trong nhóm đều thất định dưới sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của giảng viên.

Thông qua phương pháp thảo luận nhóm, sinh viên được trực tiếp trao đổi nhận

thức, quan điểm của bản thân để làm rõ một vấn đề nào đó hoặc tham góp những ý

tưởng làm giàu thêm kiến thức về các nội dung phù hợp với hoạt động đào tạo. Phương

pháp thảo luận nhóm lấy mối quan hệ tác động qua lại giữa sinh viên với sinh viên làm

trung tâm của quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của giảng viên nhằm phát

triển tri thức, kĩ năng, thái độ tích cực đặc biệt là kĩ năng hợp tác, làm việc theo nhóm.

Thảo luận nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố

một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới. Nhiệm vụ của các

nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau thuộc nội dung

trong một chủ đề chung.

Để vừa đảm bảo nguyên tắc cá biệt vừa đáp ứng tính phổ biến trong giáo dục,

giảng viên có thể chia nhóm theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu chí có những ưu,

nhược điểm riêng. Do đó, về mặt phương pháp luận không nên tuyệt đối hóa hay áp

dụng một tiêu chí duy nhất trong cả môn học.

Một là, chia nhóm ngẫu nhiên: Ở tiêu chí này, giảng viên có thể chia nhóm theo

bàn, chia theo tổ hoặc gắp thăm. Đây là cách chia được tiến hành khi không cần có sự

phân biệt về trình độ giữa các sinh viên. Tất cả các sinh viên đều phải hoạt động để giải

quyết vấn để được đặt ra. Nhiệm vụ được giao không khác nhau nhiều về nội dung, có

chung một yêu cầu và ít có sự chênh lệch về trình độ khó.

Hai là, chia nhóm theo sở trường: Cách chia này thường được sử dụng trong các

giờ ngoại khóa, mỗi nhóm sẽ gồm các sinh viên có chung hứng thú, chung sở trường.

Cách chia nhóm này một mặt dễ tạo hứng thú cho sinh viên nhưng lại dễ tạo ra sự cách

biệt nếu duy trì thường xuyên hình thức này.

Ba là, chia nhóm theo cùng một trình độ: Với cách chia này có thể phân hóa

sinh viên về trình độ bởi mức độ khó, dễ của nội dung bài học cho từng đối tượng có

trình độ giỏi, khá, trung bình, yếu của sinh viên. Giảng viên cần có những yêu cầu cụ

thể đối với từng nhóm trong việc giải quyết cùng một nhiệm vụ học tập. Giảng viên có

thể yêu cầu cao hơn với nhóm giỏi, khá và gợi ý cho nhóm trung bình, yếu. Như vậy

15

sẽ kích thích được hứng thú học tập trong lớp, sinh viên sẽ tích cực, chủ động, tự giác

hơn theo sự hướng dẫn, điều khiển thảo luận của giảng viên. Một điều cần lưu ý khi áp

dụng cách chia này là giảng viên phải nắm chắc trình độ của từng sinh viên để chia

đúng trình độ, nếu không sẽ phản tác dụng.

Bốn là, chia nhóm gồm đủ trình độ: Với cách chia này, việc xác định vai trò của

trưởng nhóm là rất quan trọng. Cách chia này thường được sử dụng khi cần có sự hỗ

trợ lẫn nhau theo yêu cầu của nội dung bài học.

Như vậy, có nhiều cách chia nhóm khác nhau, mỗi cách có một lợi thế riêng. Do

đó, trong việc lựa chọn phương án chia nhóm giảng viên cần cân nhắc dựa vào mục

tiêu bài học, vị trí, sở trường của sinh viên.

1.2.2.2. Các hình thức dạy học thảo luận nhóm

Trên thực tế, có nhiều hình thức thảo luận theo nhóm, hiệu quả của chúng tuỳ

thuộc vào ý đồ và tính chất sử dụng của giảng viên. Dưới đây là một số hình thức thảo

luận nhóm trong dạy học:

+ Nhóm nhỏ thông thường

Giảng viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ (từ 5-7 sinh viên) để thảo luận một

vấn đề cụ thể và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về vấn đề đó. Hình thức này

thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học khác trong một bài học,

một tiết học, nội dung thảo luận của nhóm nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời

lượng ít (từ 5 - 7phút).

+ Nhóm nhỏ rì rầm

Giảng viên chia lớp thành các nhóm “cực nhỏ” từ 2-3 sinh viên (thường là cùng

một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi, giải quyết một vấn đề,

nêu một ý tưởng, một quan điểm… Với hình thức này, giảng viên cần cung cấp đầy đủ,

chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các câu trả lời để các thành viên

tập trung vào giải quyết vấn đề.

+ Nhóm kim tự tháp

Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm, sau khi thảo luận theo cặp (nhóm rì

rầm) các cặp (2-3 nhóm rì rầm) kết hợp thành một nhóm để hoàn thiện một vấn đề

chung, nếu cần thiết có thể kết hợp nhóm này thành nhóm lớn hơn (8-16 sinh viên).

+ Nhóm đồng tâm

16

Giảng viên chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó

hoán vị cho nhau). Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6 - 8 sinh viên) có nhiệm vụ thảo

luận, trình bày vấn đề được giao, còn lại các thành viên khác trong lớp đóng vai trò là

người quan sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả đối với việc dạy học

các nội dung tri thức có tính khái quát, trừu tượng, góp phần làm tăng ý thức trách

nhiệm của từng sinh viên đồng thời tạo động cơ cho những sinh viên nhút nhát, ngại

trình bày ý tưởng của mình trước tập thể.

1.2.2.3. Yêu cầu của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh

Thứ nhất về quy mô nhóm: Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ, tuỳ theo vấn

đề thảo luận. Tuy nhiên nhóm từ 6 - 8 sinh viên là tốt nhất, vì số sinh viên như vậy

vừa đủ nhỏ để đảm bảo tất cả sinh viên có thể tham gia ý kiến nhưng cũng vừa đủ

lớn để đảm bảo rằng, sinh viên có thể trao đổi quan điểm, ý kiến của mình về vấn

đề thảo luận.

Thứ hai, chia nội dung bài dạy: Nội dung bài dạy cần được chia thành những

vấn đề nhỏ có mối liên hệ với nhau. Trong đó, mỗi vấn đề nhỏ là một nội dung thảo

luận.

Thứ ba, mỗi nhóm phải có một nhóm trưởng để điều khiển, duy trì hoạt động

của nhóm và có thư ký để ghi đầy đủ các ý kiến trong quá trình thảo luận.

Thứ tư, tại một thời điểm có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ

đề nhưng cũng có thể giao cho mỗi nhóm một chủ đề, sự liên kết giữa các nhóm sẽ tạo

ra sự thống nhất chung của bài dạy. Tùy theo mục tiêu bài dạy, giảng viên có thể kết

hợp các cách theo những mức độ nhất định để đảm bảo tính phù hợp.

Thứ năm, các sản phẩm của cá nhân hay nhóm được thể hiện trên các sản phẩm

thảo luận như: Bảng tài liệu, mô hình hay các bản báo cáo. Sản phẩm đó phải được

trình bày trước lớp hoặc nhóm trong lớp để mọi người góp ý, nhận xét.

Thứ sáu, cần đảm bảo có thông tin, phản hồi từ các nhóm. Trong quá trình các

nhóm thảo luận, giảng viên cần kiểm tra việc ghi chép của thư ký, quan sát để nắm bắt

được thái độ, mức độ tích cực của từng sinh viên khi tham gia thảo luận.

Thứ bảy, kết thúc việc thảo luận, giảng viên cần có nhận xét, đánh giá, tổng hợp

ý kiến, đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề thảo luận, thực hiện công tác cố vấn, trọng

17

tài và kịp thời khen ngợi, khích lệ đối với những nhóm, những cá nhân làm tốt.

Thứ tám, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cần xác định hoạt động của

giảng viên và sinh viên:

Hoạt động của giảng viên:

Giảng viên thiết kế các nhiệm vụ, các tình huống học tập cho sinh viên.

+ Nội dung dạy học phải được giảng viên thiết kế thành các nhiệm vụ học tập.

Các nhiệm vụ học tập phải kích thích sinh viên có nhu cầu làm việc nhóm, có sự hợp

tác, hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ, phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, đòi hỏi người

giảng viên phải có tri thức sâu rộng, có kĩ năng thiết kế nhiệm vụ, có nghệ thuật sư

phạm, tạo môi trường hợp tác, kích thích nhu cầu ham muốn giải quyết vấn đề của sinh

viên.

+ Trong quá trình thiết kế nhiệm vụ, giảng viên phải dự đoán trước được những

khó khăn vướng mắc của sinh viên trong quá trình giải quyết nhiệm vụ; dự đoán được

các kĩ năng hiện có của sinh viên để giao nhiệm vụ phù hợp và kích thích sự phát triển;

xác định nhiệm vụ sẽ đồng nhất hay khác nhau giữa các nhóm; dự kiến thời gian hoàn

thành nhiệm vụ và phương thức tổ chức hoạt động của sinh viên để có thể hoàn thành

nhiệm vụ.

Nghiên cứu cách thức chia nhóm và phân chia vai trò của các thành viên trong

nhóm:

Giảng viên cần phải chia đều về số lượng và năng lực làm việc giữa các nhóm.

Nếu vấn đề đặt ra trong bài học không nhiều, giảng viên có thể cho hai nhóm cùng thảo

luận một vấn đề. Nhưng sau đó giảng viên có thể linh hoạt cho nhóm này báo cáo,

nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện.

Sau khi phân chia thành các nhóm, giảng viên hướng dẫn sinh viên phân chia

vai trò của các thành viên, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ rõ

ràng. Nhiệm vụ của các thành viên trong một nhóm có thể bao gồm:

- Trưởng nhóm giữ vai trò điều khiển nhóm và có nhiệm vụ hướng dẫn các thành

viên tham gia vào hoạt động, giải thích rõ nhiệm vụ hoạt động của nhóm; tóm tắt, kiểm

tra lại xem mọi thành viên đã hiểu vấn đề chưa; thống nhất ý kiến của nhóm; giải quyết

các “mâu thuẫn” trong quá trình hoạt động nhóm. Với vai trò này, giảng viên cần chọn

sinh viên có nhiều năng lực hơn, đặc biệt là năng lực quản lý, giám sát và hướng dẫn

18

ban.

- Thư kí cần ghi chép mọi ý kiến, biên tập, tóm tắt các ý kiến của các thành viên

trong nhóm.

- Người báo cáo sẽ thay mặt nhóm báo cáo kết quả thảo luận.

Vai trò của các thành viên trong nhóm cũng thường xuyên thay đổi, sinh viên

cần được luân phiên nhau làm nhóm trưởng hoặc thư kí, luân phiên nhau đại diện cho

nhóm trình bày kết quả thảo luận.

Bố trí không gian lớp học

+ Bố trí không gian lớp học cũng có sức ảnh hưởng lớn đến dạy học theo phương

pháp thảo luận nhóm. Nét sáng tạo trong dạy học phát triển kĩ năng cho sinh viên là

giảng viên xắp xếp, bố trí lại không gian lớp học, giúp cho sinh viên mặt đối mặt tích

cực hợp tác nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập, thuận lợi cho giảng viên đi lại kiểm

tra giám sát; thuận lợi cho việc di chuyển nhóm theo chiến lược dạy học của giảng viên.

Sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học trong thảo luận nhóm

Phương pháp dạy học cần được vận dụng linh hoạt, ở đó cần sự kết hợp hài hòa

giữa thảo luận nhóm với nêu vấn đề, thuyết trình, vận dụng tình huống, đàm thoại…

Kết hợp các phương pháp đó như thế nào, ở mức độ nào cần thiết phải dựa trên mục

tiêu, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng và điều kiện thực tế của dạy học.

Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cũng đòi hỏi giảng viên phải lựa chọn

đa dạng các kỹ thuật dạy học nhằm tạo ra sự tương tác giữa sinh viên với sinh viên, tổ

chức, điều khiển, cố vấn, giúp đỡ học sinh trong quá trình thảo luận nhóm.

Trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên luôn phải thay

đổi vai trò của mình, lúc là người hợp tác, là người cổ vũ, người động viên, người quan

sát… giảng viên càng thâm nhập vào nhiều hoạt động của sinh viên càng đưa ra được

nhiều chỉ đạo thích đáng. Giảng viên không nên can dự quá nhiều vào quá trình thảo

luận của sinh viên, cũng không thể khoanh tay đứng nhìn đối với những khó khăn và

nghi vấn của sinh viên. Với tư cách là người điều khiển, nhiệm vụ của giảng viên là

xây dựng một bầu không khí lớp học hài hoà, thoải mái, hoạt động nhịp nhàng, tạo nên

hứng thú học tập cho sinh viên. Giảng viên cần khống chế thời gian thảo luận của sinh

viên thật khoa học để quá trình thảo luận không diễn ra chậm chạp, cũng không diễn

19

ra quá nhanh theo kiểu chiếu lệ hình thức.

Hoạt động của sinh viên:

Phương pháp thảo luận nhóm không chỉ coi trọng tác động qua lại giữa thầy và

trò mà nổi bật là coi trọng sự tương tác giữa sinh viên với sinh viên. Khi thảo luận

nhóm sinh viên không phải làm việc một mình mà luôn hoạt động trong một nhóm cụ

thể. Điều này đòi hỏi tính cộng tác, tính sẵn sàng chung sức, tích tích cực trong trao

đổi, thảo luận đi đến thống nhất ý kiến; trong nhận xét, đánh giá, đóng góp, bổ sung

kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển, cố vấn của

giảng viên.

Tuy nhiên, để thực hiện được quá trình thảo luận nhóm yêu cầu đặt ra là sinh

viên phải nắm được nguyên tắc làm việc nhóm, phân công nhiệm vụ phù hợp với

năng lực, biết lên kế hoạch hoạt động và dự kiến hoàn thành sản phẩm của nhóm…

Mỗi sinh viên phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình, tích cực suy nghĩ, tìm tòi để giải

quyết các vấn đề mà giảng viên giao cho. Mỗi sinh viên phải có trách nhiệm tương

trợ, giúp đỡ, động viên, khuyến khích cũng như nhắc nhở các thành viên khác trong

nhóm hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định để hưởng thành quả chung của

nhóm.

Sinh viên phải nhận thức sản phẩm của nhóm là sự nỗ lực tổng hợp của từng

sinh viên và kết quả sau khi thảo luận là tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có

khả năng hiểu, nắm vững kiến thức, kĩ năng mà nhiệm vụ học tập đề ra.

Thứ chín về kiểm tra, đánh giá

Sau khi kết thúc hoạt động thảo luận nhóm, giảng viên phải tổ chức cho sinh

viên báo cáo kết quả và tổng kết rút kinh nghiệm, đồng thời đóng vai trò là người nhận

xét, đánh giá. Giảng viên cần thực hiện nhiều phương thức đánh giá để khắc phục được

tình trạng chỉ quan tâm đến nhóm mà không chú ý từng sinh viên, chỉ quan tâm kết quả

học tập mà không chú ý sự tiến bộ của từng sinh viên. Kiểm tra đánh giá phải nhằm

động viên khuyến khích kịp thời những sinh viên tích cực, đồng thời lưu ý đến những

sinh viên có năng lực yếu để các em có thêm lòng tự tin, phương pháp hoàn thành

nhiệm vụ.

20

1.2.2.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh

Cả trên bình diện lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, không có phương

pháp dạy học nào là duy nhất, càng không thể nào có một phương pháp dạy học đem

lại hiệu quả cao đối với tất cả các môn học, các đơn vị kiến thức. Do đó, cần nhận diện

đầy đủ, chính xác về những ưu và nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm để

vận dụng linh hoạt trong từng bài dạy, từng đơn vị kiến thức để đem lại hiệu quả cao

nhất.

Về ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm:

Thứ nhất, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ hình thành phương pháp tự

học ở sinh viên

Đây là một đặc tính ưu việt của PPTLN so với các PPDH khác. Với nhiệm vụ

giảng viên giao chủ đề cho sinh viên về nhà nghiên cứu và chuẩn bị, sinh viên lập kế

hoạch thực hiện, cách thức khai thác và xử lý thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu,

cách ghi chép, lưu giữ thông tin. Bên cạnh đó, thông qua việc cộng tác giữa các thành

viên trong nhóm để giải quyết nhiệm vụ học tập, sinh viên biết trình bày quan điểm của

bản thân, và đưa ra những cơ sở để bảo vệ ý kiến đó, biết lắng nghe, đánh giá, so sánh

quan điểm ý kiến của mình với những người tham gia thảo luận, chấp nhận và phê phán

ý kiến của người khác. Thông qua các tình huống khác nhau, việc góp ý, tranh luận,

đặt giả thiết cũng khác nhau sẽ làm cho sự diễn đạt của sinh viên trở nên phong phú,

đa dạng.

Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần âm mưu có thể đưa ra tình

huống các thế lực thù địch xây dựng một âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,

tình huống cụ thể như sau: “năm 2013 dựa vào việc quốc hội lấy ý kiến nhân dân về

bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, một số phần tử phản động đã kích động nhân dân xóa

bỏ Điều 4 trong hiến pháp”.

Khi đưa ra tình huống như trên đòi hỏi sinh viên phải tích cực chủ động suy

nghĩ, tìm kiếm các nội dung tham khảo (qua các kênh chính thống) qua đó phát huy

21

được tinh thần tự học ở sinh viên.

Như vậy, cùng với việc gia tăng vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội, sự diễn

đạt của bản thân sinh viên về một nội dung cụ thể sẽ mạch lạc, khoa học và logic hơn.

Thứ hai, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ phát huy được tính tích cực,

tinh thần trách nhiệm của sinh viên

Bản chất của thảo luận tạo điều kiện cho người học trở thành người tham gia

sáng tạo tri thức. Điều đó được thể hiện ngay từ khâu chuẩn bị nhiệm vụ giảng viên

giao cho khi ở nhà. Trên lớp, khi tham gia thảo luận, sinh viên phải tự lực giải quyết

nhiệm vụ học tập, chịu trách nhiệm về kết quả làm việc của bản thân, của nhóm. Mọi

nỗ lực của mỗi thành viên có tác động lớn đến kết quả làm việc chung của cả nhóm.

Điều đó thôi thúc sinh viên chủ động hơn trong việc tìm tòi, khai thác, xử lý thông tin,

huy động sức mạnh nội lực của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ học tập.

Trong bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của

các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, đưa ra tình huống sau:

Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở liên xô và đông âu sụp đổ, chủ nghĩa đế

quốc đứng đầu là mỹ đã cấu kết với nhau tập trung chống phá các nước xã hội chủ

nghĩa mà trong đó trọng điểm là việt nam với mọi thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc.

Để thực hiện điều này mỹ đã chi ra hàng chục tỷ usd nhằm tiến hành “diễn biến hòa

bình” tuy nhiên không có kết quả. Do vậy, vào ngày 3/2/1994 mỹ đã xóa bỏ lệnh cấm

vận kinh tế. Ngày 11/7/1995 tổng thống mỹ binclinton đã tuyên bố bình thường hóa

quan hệ việt-mỹ. Từ đây, mỹ có điều kiện để thực hiện “diễn biến hòa bình” tại việt

nam. Vậy đảng cộng sản việt nam đã có những giải pháp gì làm thất bại âm mưu, thủ

đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và

các thế lực thù địch?

Tình huống đưa ra giúp sinh viên hiểu rõ hơn về một số cách thức mà thế lực

thù địch chống phá nước ta, qua đó tìm ra các giải pháp để làm thất bại những âm mưu,

đồng thời phát huy tính tích cực, tinh thần trách nhiệm của sinh viên trong việc học tập,

rèn luyện để trở thành những công dân tốt.

Thực chất, với việc thảo luận tích cực giữa các thành viên trong nhóm sẽ kích

thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và giữa các nhóm với nhau. Với sự bàn

bạc, tranh luận để tìm ra chân lý dựa trên những nguồn thông tin mọi thành viên trong

22

nhóm tìm hiểu nên sản phẩm của nhóm là sản phẩm trí tuệ tập thể, tập hợp sự sáng tạo

của nhiều người và do vậy sẽ rất phong phú, đa dạng.

Thứ ba, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường sự cộng tác của

sinh viên trong quá trình học tập

Thảo luận có thể giúp người học khai thác được nhiều khía cạnh của một vấn

đề, tăng cường khả năng chịu đựng và sự quan tâm của người học đến các vấn đề phức

tạp. Qua đó, người học chấp nhận và đào sâu thêm những giả thiết của mình, biết cách

lắng nghe một cách kiên nhẫn và lịch sư. Bởi lẽ, với những chủ đề thảo luận được giảng

viên giao nhiệm vụ, trên cơ sở chuẩn bị, trong quá trình thảo luận, sinh viên được đưa

ra quan điểm của bản thân, được nghe quan điểm của bạn khác trong nhóm, trong lớp,

được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ

được giao của nhóm.

Đặc thù tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên

không giống như các trường thành viên khác bên ngoài, khi sinh viên tham gia học tập

tại trung tâm sẽ phải chấp hành chế độ nội trú 100%. Chia các lớp thành các Trung đội,

trong Trung đội lại chia ra các tiểu đội, trong các đơn vị bộ đội tiểu đội gồm có chín

người trong đó có tiểu đội trưởng và tiểu đội phó, còn ở Trung tâm giáo dục quốc phòng

và an ninh - Đại học Thái Nguyên sẽ căn cứ vào lưu lượng sinh viên hàng khóa để chia

cho phù hợp với biên chế có quyết định được thông qua của ban giám đốc. Do đặc thù

như vậy nên sự cộng tác của sinh viên trong quá trình học tập là lâu dài và xuyên suốt

trong quá trình học tập, các em ăn ở, sinh hoạt và chấp hành các chế độ cùng nhau trong

suốt thời gian theo học tại Trung tâm. Vì thế tinh thần động đội, sự quan tâm đến người

khác, tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật, tính khoan dung giữa các thành viên trong tiểu

đội, trong nhóm thảo luận, trong lớp học được thiết lập.

Thứ tư, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường sự tự tin cho

sinh viên

Trong thảo luận nhóm sinh viên được làm việc trong một môi trường tập thể

thoải mái, đồng đẳng, được liên kết với nhau qua giao tiếp nên sẽ mạnh dạn hơn và ít

sợ mắc sai lầm. Mọi ý kiến được tự do bày tỏ trong nhóm và không chịu quá nhiều áp

lực về đánh giá mang tính chuẩn mực, khắt khe như việc trình bày với giảng viên. Do

đó, khi thực hiện nhiệm vụ chung, sinh viên hòa nhập, hào hứng, cởi mở hơn, được tập

23

dượt tham gia tìm hiểu hoặc giải quyết vấn đề, được học hỏi kiến thức của bạn bè, sử

dụng được trí tuệ của tập thể, rèn ở người học ý thức lắng nghe người khác và nghe ý

kiến khác.

Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:

Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình

huống các thế lực thù địch sử dụng thủ đoạn cụ thể như sau: Các thế lực thù địch ở

nước ngoài móc nối, cấu kết và chỉ đạo bọn phản động trong nước tuyên truyền kích

động đòi đổi tên nước, tên Đảng, đòi thành lập cái gọi là “hội nhân dân chống tham

nhũng”; chúng tuyên truyền rằng “tham nhũng chỉ được đẩy lùi khi thực hiện đa nguyên

chính trị, đa đảng đối lập để các đảng phái giám sát lẫn nhau” thực chất là làm cho

Đảng ta suy yếu, tan rã như đã thực hiện ở Liên Xô và Đông Âu.

Thông qua sự trao đổi và làm việc nhóm, cả nhóm sẽ phải tìm ra những nội

dung liên quan đến tình huống. Sau đó nhóm cử đại diện lên thuyết trình, điều này

cũng giúp cho sinh viên được rèn luyện các kỹ năng, sự tự tin khi đứng trước đám

đông.

Thứ năm, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo cơ hội để sinh viên đánh

giá bản thân và đánh giá người khác

Thông qua giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm, sinh viên sẽ bộc lộ những hiểu

biết của bản thân cũng như phương pháp tư duy, cách diễn đạt, trình bày. Đây là quá

trình tự nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu của chính mình và của người khác. Từ

đó, mỗi cá nhân tự điều chỉnh, hoàn thiện bản thân mình.

Thứ sáu, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo cơ hội cho giảng viên

tiếp nhận thông tin phản hồi từ sinh viên

Đối với các PPDH khác, sự phản hồi xuất hiện mang tính đơn lẻ nhưng với

PPTLN lại được thể hiện trên diện rộng ở nhiều đối tượng trong cùng một thời điểm.

Thông qua việc quan sát các nhóm làm việc, giảng viên có thể nhận thấy sự phối hợp

chặt chẽ hay lỏng lẻo của các thành viên, sự tích cực hay hạn chế trong quá trình tham

gia, khả năng của từng thành viên trong nhóm, chủ đề TLN phù hợp hay không phù

hợp. Từ đó giảng viên điều chỉnh từ việc tổ chức, quản lý nhóm đến giao nhiệm vụ cụ

thể sao cho phù hợp. Hơn nữa, giảng viên còn có thể thu được tri thức và kinh nghiệm

24

từ chính sinh viên qua sự suy nghĩ, tìm tòi và trình bày sáng tạo về những vấn đề cụ

thể mà họ được giao nhiệm vụ giải quyết.

Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:

Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình

huống các thế lực thù địch thực hiện thủ đoạn nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,

tình huống cụ thể như sau: Lợi dụng tình hình sau những vụ việc phức tạp như vấn đề

biển Đông, chúng xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ độc lập

chủ quyền. Tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật gây khó khăn cho ta trong việc

ban hành các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, điển hình như việc Quốc hội họp

thông qua Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật an ninh mạng ... Sử dụng

chiêu bài dân chủ nhân quyền đả kích chế độ, thể chế chính trị; khuyến khích cải tổ, đa

nguyên, đa đảng.

Trong tình huống trên có thể thu thập được các thông tin từ sinh viên như sau:

sinh viên nắm được những nội dung gì ở biển Đông, chiều bài của bọn chúng nguy

hiểm ra sao…

Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm với mục đích tự thân là thỏa

mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc học tập hướng tới người học, khuyến

khích sự độc lập tự chủ, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng

cho vấn đề nào đó. Trong thảo luận nhóm, các thành viên trong nhóm biết được sự

phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mỗi thành viên trong nhóm phải luôn tự ý thức phải cố

gắng hết mình không phải chỉ vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả

nhóm.

Thứ bảy, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường tính hiệu quả của

quá trình học tập

Trên thực tế bằng sức mạnh tập thể được tạo lập trên nền tảng thế mạnh của mỗi

cá nhân, việc nhìn nhận, giải quyết vấn đề sẽ toàn diện hơn, khách quan hơn, sâu sắc

hơn. Các ý kiến đưa ra ở cả hai chiều thuận, nghịch rồi mới đi đến thống nhất chung.

Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các

25

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình

huống các thế lực thù địch áp dụng thủ đoạn nhằm phá hoại chủ trương, đường lối của

Đảng, hạ thấp uy tín của Đảng, thủ đoạn cụ thể như sau: Chúng ra sức khai thác thông

tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội để xuyên tạc, thổi phồng; lấy

hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn, đưa ra cái gọi là

“tài liệu chứng minh” để xuyên tạc vai trò lãnh đạo, xuyên tạc đường lối, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Dàn dựng, đưa tin bịa đặt về bí mật theo kiểu hé lộ

những “thâm cung bí sử” trong Đảng làm gia tăng các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho nội bộ Đảng mất đoàn kết, chia rẽ, giảm sút hiệu

lực lãnh đạo, phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thông qua tình huống đưa ra sẽ làm kích thích tinh thần yêu nước của sinh

viên, làm cho sinh viên trở nên tích cực, chủ động, hứng thú hơn rất nhiều khi cùng

nhau thảo luận, tự trang bị cho bản thân những kiến thức giá trị để tránh bị các thế

lực thù địch kích động và thao túng. Từ đó kết quả học tập của sinh viên tăng lên là

điều tất yếu.

Với chủ đề thảo luận và mạch kiến thức này, sinh viên sẽ khắc ghi kiến thức

một cách tự nhiên, lâu bền hơn.

Về hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm:

Thứ nhất, để TLN tiến hành một cách hiệu quả, giảng viên và sinh viên cần đầu tư

nhiều công sức từ khâu chuẩn bị đến thực hiện. Sinh viên phải nghiên cứu tài liệu và những

vấn đề liên quan trước khi tới lớp. Giảng viên cần chuẩn bị các phương tiện dạy học phù

hợp phục vụ cho TLN. Như vậy, thực hiện TLN sẽ mất thời gian của cả người dạy lẫn

người học đặc biệt là trong điều kiện dạy học ở những lớp quá đông sinh viên.

Thứ hai, việc chia nhóm và quản lý nhóm không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng

nhiệm vụ của nhóm chỉ tập trung vào một số sinh viên chủ động, tích cực, nhiệt tình.

Số còn lại trông chờ vào kết quả làm việc chung toàn nhóm. Việc đánh giá nếu căn cứ

vào kết quả này sẽ dẫn đến tình trạng cào bằng, không đánh giá đúng năng lực của từng

thành viên với những cố gắng và cống hiến của họ.

Thứ ba, kết quả làm việc của mỗi nhóm chính là tập hợp ý kiến của tất cả các

thành viên trong nhóm. Tuy nhiên dễ xảy ra tình trạng ý kiến quá phân tán hoặc mâu

26

thuẫn gay gắt với nhau dẫn đến kéo dài thời gian, ảnh hưởng đến việc tổ chức dạy học

của giảng viên.

Thứ tư, để TLN thực sự hấp dẫn, bản thân giảng viên phải linh hoạt và mềm

dẻo trong việc sử dụng các tình huống có vấn đề liên quan đến tri thức môn học. Điều

này không phải người giảng viên nào cũng làm được nên dễ dẫn đến tình trạng hình

thức, sinh viên không hứng thú trong thực hiện nhiệm vụ hoặc thực hiện yêu cầu của

giảng viên một cách đối phó. Với môn Công tác quốc phòng, an ninh với đặc thù là

một học rất khô khan, trừu tượng, càng không phải là đam mê của người học nên việc

áp dụng tình huống vào môn học để sinh viên cùng tranh luận, thảo luận là một một

vấn đề không dễ dàng cho người dạy.

1.2.3. Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn môn Công tác quốc phòng, an ninh

Công tác quốc phòng, an ninh là một trong những môn học có vị trí, vai trò quan

trọng trong công tác giáo dục học sinh, sinh viên đặc biệt là giáo dục về nhân cách, về

phẩm chất đạo đức công dân. Mục tiêu giáo dục con người một cách toàn diện tất yếu

đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể từ nhiều môn học, nhiều đơn vị kiến thức, nhiều chủ thể

giáo dục với sự đa dạng về phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học.

Giáo dục quốc phòng, an ninh là môn học chính khóa, bắt buộc đối với học sinh

các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, sinh viên các trường cao

đẳng, đại học và là một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an

ninh nhân dân.

Giáo dục quốc phòng, an ninh cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan

trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên về lòng

yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống đấu

tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; có

ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kiến thức cơ bản

về đường lối quân sự của Đảng và công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh;

có kỹ năng quân sự để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn

dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh ( Ký hiệu là học phần II)

Học phần II: Công tác quốc phòng, an ninh, gồm 8 bài (từ bài 1 đến bài 8):

27

Bài 1: Phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.

Nội dung của bài này tập trung làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến

lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng

Việt Nam. Giúp cho sinh viên thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu

tranh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Xác

định rõ trách nhiệm xây dựng lòng tin, quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn Dân, toàn

Quân góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ

thù.

Bài 2: Phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao.

Bài học tập trung làm rõ những kiến thức cơ bản về khái niệm, đặc điểm, thủ

đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh

tương lai (nếu xảy ra).

Bài 3: Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động

viên công nghiệp quốc phòng.

Bài 4: Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia.

Bài học tập trung phân tích, trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về

chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam;

Những nội dung chủ yếu về xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia

của nước ta trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức trách nhiệm của

mình trong xây dựng và bảo vệ biển đảo, biên giới quốc gia.

Bài 5: Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống

địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

Mục tiêu cơ bản của bài học là trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản,

đúng đắn về dân tộc, tôn giáo, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo theo quan điểm của

chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà

nước ta hiện nay.

Bài 6: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

Bài này gồm các nội dung về:

- Các khái niệm và nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự,

28

an toàn xã hội.

- Tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

- Dự báo tình hình an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong thời gian tới.

- Đối tác và đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn

trật tự, an toàn xã hội.

- Một số quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước cộng hòa xã hội

chủ nghĩa việt nam trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

- Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và

giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Bài 7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

Nội dung này tập trung khái quát những vấn đề về:

- Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

- Nội dung, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

- Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia xây dựng phong trào bảo vệ an

ninh Tổ quốc.

Bài 8: Những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã

hội. Mục tiêu của bài học làm rõ hệ thống kiến thức về:

Tội phạm và các loại tệ nạn xã hội; nội dung và phương pháp phòng ngừa tội

phạm, các loại tệ nạn xã hội cụ thể trong xã hội và trong nhà trường.

Sau khi học xong phần công tác quốc phòng, an ninh, sinh viên cần đạt được

những yêu cầu cơ bản dưới đây:

Về kiến thức:

- Hiểu và nắm được những nội dung cơ bản về Công tác quốc phòng - an ninh,

nhận thức được âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam,

về phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù

địch; đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt

Nam để giữ vững an ninh chính trị và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa.

- Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về chiến tranh công nghệ cao

và phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao; kiến thức về xây

dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, động viên công nghiệp quốc

29

phòng; phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ

an ninh quốc gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ

biên giới, biển đảo của Tổ quốc.

Về kỹ năng:

- Góp phần phát triển tư duy sáng tạo, kỹ năng trong nghiên cứu, phân tích, tổng

hợp của sinh viên về các nội dung; chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế của Đảng và

Nhà nước ta; đề xuất các giải pháp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước về quốc phòng, an ninh.

- Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi trong đời sống

chính trị - xã hội.

- Có kỹ năng nhận diện, phê phán đấu tranh chống những quan điểm sai trái,

những hành vi đi ngược với lợi ích của quốc gia, dân tộc trên lĩnh vực chính trị - xã

hội.

- Hiểu thêm cách xây dựng và quy trình đánh giá kết quả học tập của môn học

Công tác quốc phòng, an ninh, nâng cao khả năng làm việc độc lập của sinh viên.

- Tăng cường kỹ năng trong thu thập, xử lý thông tin trước, trong và sau mỗi bài

học.

Về thái độ:

- Nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội nâng cao trách nhiệm của sinh

viên trong phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế

lực thù địch, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và công tác quốc phòng, an ninh.

- Hình thành nền nếp sinh hoạt, ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm túc trong

học tập.

1.3. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh

1.3.1. Vai trò của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với giảng viên.

Thứ nhất, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh giúp giảng viên định hướng hiệu quả tri thức môn học đến sinh

viên

30

Đối với việc dạy môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, giảng viên không phải là

người cung cấp tri thức sẵn có cho sinh viên đơn thuần thông qua phương pháp thuyết

trình, đàm thoại, giảng giải, nêu vấn đề mà cần kết hợp linh hoạt với phương pháp thảo

luận nhóm và các phương pháp khác để tối ưu hóa hiệu quả truyền đạt tri thức môn học

đến người học.

Những tri thức về môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, như: Chiến lược “Diễn

biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hay quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vốn là những vấn đề

khô khan. Hơn nữa, những vấn đề này trong thực tiễn lại xuất hiện không ít những hiện

tượng trái chiều, thiếu thống nhất với lý luận, cùng với đó là cách tiếp cận một chiều

với nhiều quan điểm lệch lạc, không chính thống. Dó đó, người truyền thụ tri thức

không thể gượng ép truyền thụ đơn thuần bằng thuyết trình, giảng giải mà đòi hỏi người

học phải được tham gia vào nhiều tình huống để giải thích, luận chứng tường minh,

khoa học, để nhận diện những quan điểm, hành vi sai trái, thù địch. Nhờ vai trò định

hướng, tổ chức dạy học của giảng viên bằng tình huống và thông qua các vấn đề được

xây dựng dưới dạng tình huống, người học có thể chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ

năng một cách tích cực và tự giác. Với đặc thù này, phương thảo luận nhóm sẽ phát

huy hiệu quả tốt khi giảng viên kết hợp với phương pháp thảo luận và đàm thoại, nêu

vấn đề.

Thứ hai, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh giúp giảng viên thực hiện tốt vai trò định hướng hoạt động học

của sinh viên

Thực tiễn đã chỉ ra rằng, xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay là xóa bỏ cách

thức dạy học đơn thuần là thầy đọc trò ghi, thầy nói trò nghe. Thay vào đó, giáo dục

đang cấp thiết đòi hỏi một cách nghiêm túc việc chuyển đổi một cách căn bản vai trò,

vị trí của người dạy và người học. Giờ đây, dạy học các môn khoa học nói chung, cũng

như dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh tính cấp thiết đang đặt ra không thể

sử dụng cách thức truyền đạt tri thức thụ động một chiều từ người thầy, thay vào đó là

khẳng định vai trò định hướng của giảng viên viên đối với sinh viên trong hoạt động

học trở thành yếu tố cơ bản để đổi mới phương pháp giáo dục. Dạy học Giáo dục quốc

31

phòng, an ninh đã và đang đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao đối với yêu cầu này.

Người thầy cần phải đảm đương và hiện thực hóa tốt vai trò “trọng tài, cố vấn” trong

mỗi giờ học để định hướng cho học sinh tiếp cận tri thức theo hướng tìm tòi, khảo

nghiệm và khám phá. Vai trò, vị trí của người thầy không còn được xây dựng trên cơ

sở độc tôn về tri thức, mà quan trọng hơn mỗi giảng viên cần xác định lấy người học

là vị trí trung tâm, thầy là chủ đạo định hướng, dẫn dắt người học trong việc tiếp nhận,

tái tạo, xử lý tri thức, qua đó hình thành kỹ năng nghề nghiệp tương ứng cho người học.

Vai trò định hướng của giảng viên trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an

ninh sẽ được phát huy nếu giảng viên vận dụng hợp lý, hiệu quả phương pháp dạy học

thảo luận nhóm để thúc đẩy học sinh khám phá tri thức bằng cách tích cực tham gia

vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, các vấn đề lý luận đang chứa đựng mâu thuẫn trong

tư duy của người học. Trước những vấn đề mang tính chính trị - xã hội và thực tiễn,

người học thường có những cách hiểu, cách nghĩ, cách giải quyết thiếu thống nhất,

thậm chí là sai lệch nếu không có vai trò định hướng của giảng viên. Do đó, biện pháp

để giảng viên thực hiện tốt vai trò định hướng, tổ chức, dẫn dắt hoạt động nhận thức

của học sinh là sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học. Khi đó, người dạy

vừa đóng vai trò là người xây dựng tình huống,vừa là người định hướng dẫn dắt đưa

người học vào các vấn đề cần giải quyết liên quan đến lĩnh vực chính trị - xã hội thực

tiễn của đất nước và thời đại.

Thứ ba, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh giúp giảng viên thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo

định hướng phát triển năng lực cho người học

Thảo luận nhóm là phương pháp được nhiều giảng viên quan tâm đến bởi những

ưu thế của phương pháp này mang lại khi được sử dụng có hiệu quả trong quá trình

dạy học góp phần hình thành và phát triển năng lực cho người học. Đó là phát triển

năng lực giải quyết vấn đề; phát triển năng lực tự học; phát triển năng lực hợp tác; phát

triển năng lực giao tiếp; phát triển năng lực tư duy sáng tạo. Cụ thê:

Phát triển năng lực giải quyết vấn đề: Năng lực giải quyết vấn đề là việc sinh

viên huy động, sử dụng hiệu quả kinh nghiệm, vốn sống, hiểu biết, kỹ năng, tình

cảm...để giải quyết các vấn đề, tình huống cụ thể nảy sinh trong thực tiễn đời sống.

Năng lực giải quyết vấn đề thể hiện ở khả năng nhận thức, phát hiện vấn đề; chỉ ra được

32

bản chất của vấn đề; xác định được nguyên nhân của vấn đề; xác định, điều chỉnh được

quy trình giải quyết vấn đề; đưa ra giải pháp, cách giải quyết vấn đề; đánh giá được

quá trình tham gia cũng như kết quả giải quyết vấn đề của bản thân và của người khác...

Phát triển năng lực tự học: Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là

điều cần thiết trong quá trình tiếp nhận tri thức. Đặc điểm nổi bật của phát triển năng

lực tự học là việc học phải xuất phát từ nhu cầu học tập của bản thân người học, khi có

nhu cầu thôi thúc thì cá nhân sẽ có khát vọng học tập, điều đó khiến họ quyết định tự

học một cách chủ động, độc lập và nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong

suốt quá trình tự học.

Phát triển năng lực hợp tác: Đây là ưu thế nổi bật của TLN nhằm tạo điều kiện

cho người học được làm việc trong môi trường tập thể trên tinh thần trách nhiệm để

giải quyết nhiệm vụ chung. Trước công việc cụ thể của nhóm, ở bất cứ chủ đề thảo luận

nào, các thành viên có nghĩa vụ ngang nhau đòi hỏi mỗi cá nhân phải nâng cao ý thức

của bản thân mình nhằm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chung. Mỗi thành viên trong

nhóm là một mắt xích quan trọng không thể tách rời. Tính đồng đội, tinh thần đoàn kết,

tính kỷ luật được hình thành trong TLN. Điều đó tạo động lực cho sinh viên củng cố

mối quan hệ bạn bè, tạo lập bầu không khí tin cậy và khuyến khích lẫn nhau. Người

học có thể đạt được những điều mà một mình thực hiện sẽ rất khó khăn bằng cách huy

động sức mạnh của tập thể, đặc biệt là khi có sự hiện diện của yếu tố cạnh tranh. Đây

là động cơ mạnh thôi thúc người học chủ động, tích cực hợp tác khi tiến hành TLN.

Phát triển năng lực giao tiếp: Trong thảo luận nhóm các ý kiến của mọi thành

viên được đưa ra một cách tự do, dân chủ nhằm giải quyết nhiệm vụ chung của cả

nhóm. Từ đó tạo điều kiện cho người học trình bày những hiểu biết của bản thân về

một vấn đề cụ thể trên tinh thần tôn trọng tạo cơ hội cho việc học hỏi lẫn nhau.

Phát triển năng lực tư duy sáng tạo: Hoạt động sáng tạo là hoạt động cao nhất

của con người, gắn liền với hoạt động học tập sáng tạo. Năng lực sáng tạo là cốt lõi của

hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong của hoạt động sáng tạo, được xác định từ chất

lượng đặc biệt của các quá trình tâm lý mà trước hết là các quá trình tư duy, trí nhớ,

xúc cảm, động cơ, ý chí…

Rõ ràng, dạy học bằng phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học

tích cực, có nhiều ưu điểm và có khả năng thâm nhập vào hầu hết các phương pháp dạy

33

học khác. Trong quá trình dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh cần thiết phải

sử dụng nhiều phương pháp tổng hợp, như: phương pháp thuyết trình, phương pháp

đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp dự án...nhưng phương pháp thảo

luận nhóm lại có khả năng kết hợp khá linh hoạt với các phương pháp đã nêu để phát

huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế của từng phương pháp. Bởi vì trên thực tế, thuyết

trình hay phương pháp đàm thoại cũng cần thiết gắn liền với việc luận giải, chứng minh

lý thuyết, nhất là các vấn đề chính trị - xã hội bằng tình huống và thông qua tình huống.

Thảo luận nhóm và phương pháp sắm vai trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an

ninh có mục đích là phát triển ở người học năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp

tác nhóm. Mục tiêu này vốn dĩ đòi hỏi việc dạy và học không thể thoát ly tình huống.

Do đó, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp giảng viên thiết kế tốt việc đổi

mới phương pháp dạy học theo hướng đinh hướng phát triển năng lực cho người học.

1.3.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm đối với sinh viên

Thứ nhất, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh góp phần tạo hứng thú học tập cho người học tiếp cận, khám phá

tri thức một cách chủ động, tích cực và sáng tạo

Thực tế đã chứng minh rằng, muốn thảo luận có chất lượng, sôi nổi, người học

phải nghiên cứu: Đọc giáo trình, vở ghi ở trên lớp và tài liệu tham khảo, chuẩn bị đề

cương cẩn thận, chi tiết, do đó đây là quá trình tự học, nỗ lực chủ quan của mỗi người.

Nghiên cứu chính là bù đắp lại những vấn đề mà giảng viên chưa trình bày hết được,

nghiên cứu còn làm sáng tỏ thêm vấn đề mà giảng viên đã trình bày, giúp sinh viên

nắm vững kiến thức hơn.

Với việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh, sinh viên sẽ được tham gia nghiên cứu thảo luận. Đây là quá trình

nghiền ngẫm, biến kiến thức của giảng viên thành kiến thức của sinh viên. Trên lớp

giảng viên giảng cho sinh viên nghe, còn thảo luận nhóm là sinh viên trình bày cho

giảng viên nghe, qua thảo luận của người học giảng viên sẽ kiểm tra, đánh giá xem xét

người họ chiểu đến đâu, tiếp thu đến đâu, qua đó, người học sẽ chủ động nắm bắt được

tri thức một cách nhanh chóng, tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua học

nhóm, mỗi sinh viên có thể nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo

34

thông qua sự tư duy của mỗi thành viên. kích thích sinh viên tìm kiếm những nguồn tri

thức có liên quan đến vấn đề thảo luận. Trên cơ sở đó, các em sẽ thu lượm những kiến

thức cho bản thân thông qua quá trình tìm kiếm tri thức. Theo đó, những kiến thức khô

khan của môn học sẽ được người học tiếp cận chủ động, tự giác và kích thích được sự

hứng thú tìm tòi, khám phá, trải nghiệm của người học. Đây cũng là con đường, cách

thức dần thay đổi cách tư duy và thái độ ngại tiếp cận tri thức môn học của không ít

sinh viên.

Thứ hai, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh giúp người học phát triển được kỹ năng giao tiếp, hợp tác nhóm

Với việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn môn Giáo

dục quốc phòng, an ninh không chỉ giúp người học phát triển được tư duy độc lập, mà

còn phát huy năng lực toàn diện cho người học từ tâm lý, tính cách cho đến kỹ năng

phát biểu và hành vi trong giao tiếp. Qua đó, tạo được không khí học tập sôi nổi, hào

hứng, hăng say, sinh động trong giờ học.

Với việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục

quốc phòng, an ninh, sinh viên được tiếp cận với tình huống, được trình bày, lý giải

những vấn đề, được tranh luận để giải quyết vấn đề trên cơ sở định hướng của giảng

viên. Điều này giúp các em dần tự tin, vượt qua sự dè dặt, ngại ngùng, phát huy tinh

thần trách nhiệm trong việc độc lập suy nghĩ hoặc phối hợp với nhóm để kiếm tìm cách

thức giải quyết vấn đề một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Với việc vận phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, sinh viên sẽ

khắc phục được những nhược điểm của bản thân như sự rụt rè, lúng túng khi giao tiếp,

khi phát biểu hay trình bày quan điểm của mình trước tập thể.

Có thể thấy rằng, khi tham gia vào quá trình thảo luận, mỗi sinh viên không

những được giao tiếp mà còn phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của sinh viên.

Trong thảo luân nhóm, sinh viên phải tự giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham

gia tích cực của các thành viên; đồng thời, các thành viên cũng có trách nhiệm về kết

quả làm việc của mình. Góp phần phát triển năng lực cộng tác làm việc của sinh viên,

qua đó sinh viên được luyện tập kỹ năng cộng tác, làm việc với tinh thần đồng đội, các

thành viên có sự quan tâm và khoan dung trong cách sống, cách ứng xử; rèn luyện khả

35

năng ngôn ngữ, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý

kiến người khác. Quan trọng hơn từ phương pháp thảo luận nhóm người học biết đưa

ra những ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình.

36

Kết luận chương 1

Trong chương này, chúng tôi đã làm rõ được cơ sở lý luận của phương pháp

thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh trên các bình diện:

Tổng quan tình hình nghiên cứu; Khái niệm phương pháp, phương pháp thảo luận

nhóm; hình thức của phương pháp thảo luận nhóm; Yêu cầu khi tiến hành phương pháp

thảo luận nhóm; Ưu điểm, hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học;

Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh; Vai trò của việc

vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an

ninh.

Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đi đến những nhận định khái quát sau:

- Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh không

đồng nghĩa với việc tuyệt đối hóa vai trò của bất kỳ phương pháp nào, trái lại nó đồi

hỏi phải có sự kết hợp linh hoạt các phương pháp khác nhau, trong đó thảo luận nhóm

là một trong những phương pháp cần thiết phải được quan tâm và vận dụng một cách

thích hợp.

- Phương pháp thảo luận nhóm có nhiều ưu thế, thích hợp với việc dạy và học

môn Giáo dục quốc phòng và an ninh, vấn đề đặt ra là vận dụng phương pháp này như

thế nào để đem lại hiệu quả cao.

- Quy trình, các bước thực hiện vận dụng phương thảo luận nhóm cần thiết phải

được đảm bảo trong toàn bộ tiến trình dạy học, trong đó mục tiêu cơ bản hướng đến

khi sử dụng phương pháp này là phát huy tính tích cực, độc lập và sáng tạo của người

học trong giải quyết các vấn đề liên quan đến môn học.

Tổng thể những vấn đề nêu trên sẽ cung cấp cơ sở khoa học tương đối toàn diện

để chúng tôi đề xuất quy trình và thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh.

37

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH, ĐIỀU KIỆN VẬN DỤNG

PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN

CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC

QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

2.1. Khái quát chung về về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên

2.1.1. Đặc điểm về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên là Trung tâm

đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với 28 năm xây dựng và phát

triển đã có nhiều thành tích và phần thưởng cao quý do Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục

và Đào tạo, Bộ Quốc phòng trao tặng. Trung tâm đã khẳng định được vị trí trong sự

nghiệp giáo dục quốc phòng toàn dân nói chung, giáo dục quốc phòng, an ninh cho học

sinh sinh viên nói riêng.

Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên trải qua quá

trình hình thành và phát triển với các giai đoạn:

Giai đoạn 1992 - 1995

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên Đại học Thái

Nguyên ngày nay (Tên cũ là Trung tâm Giáo dục quốc phòng thành phố Thái Nguyên;

Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên) được thành lập tại Quyết định số

2963/QĐ-TCCB ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm

có nhiệm vụ:

(I) Tổ chức Giáo dục Quốc phòng, an ninh cho sinh viên, học sinh các trường

Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông trong

khu vực;

(II) Đào tạo sĩ quan dự bị;

(III) Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học sư phạm quân sự.

Năm 1994, Đại học Thái Nguyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất 5 trường:

Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, Trường Đại học Y khoa Việt Bắc, Trường Đại học

cơ điện Việt Bắc, Trường đại học Nông nghiệp 3 Bắc Thái và Trường Công nhân Cơ

38

điện Bắc Thái. Vì vậy, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái

Nguyên được hình thành từ Trung tâm Giáo dục quốc phòng thành phố Thái Nguyên

của Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc và các Bộ môn quân sự thuộc các trường đại

học trên. Các sĩ quan biệt phái của Trung tâm do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên

quản lý.

Trụ sở đầu tiên của Trung tâm đặt tại Khu B của trường Đại học Sư phạm Việt

Bắc (Cao đẳng Sư phạm Việt Bắc cũ).

Giai đoạn 1996 - 2002

Năm 1996, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên

chuyển địa điểm về Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp và là đơn vị trực thuộc

Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp. Các sĩ quan biệt phái do Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh Thái Nguyên quản lý. Tháng 4 năm 2000, Bộ Tư Lệnh Quân khu 1 quyết định

chuyển các sĩ quan biệt phái về chịu sự quản lý của Bộ tham mưu Quân khu 1.

Giai đoạn 2002 đến nay

Theo Quyết định số 170/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/01/2002 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên

trở thành một đơn vị thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên, Theo quy hoạch của

Đại học Thái Nguyên. Trụ sở của Trung tâm lại chuyển về địa điểm thuở ban đầu thành

lập, thay thế Trường Đại học Đại cương giải thể, thuộc quản lý hành chính của Xã

Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên.

Tháng 5 năm 2008, Trụ sở của Trung tâm được di chuyển về địa điểm mới tại

xóm Nước Hai, xã Quyết Thắng, TP Thái Nguyên. Trung tâm được Nhà nước đầu tư

xây dựng theo Quyết định số 07/2003/QĐ-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2003 của Thủ

tướng Chính phủ về việc quy hoạch các Trung tâm giáo dục quốc phòng, an ninh sinh

viên giai đoạn 2001 - 2010.

Ngày 15/02/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 437/QĐ-BGDĐT

đổi tên Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên thành Trung tâm Giáo dục quốc

phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên.

Hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất của Trung tâm gồm giảng đường, thư viện,

hội trường, ký túc xá sinh viên; Nhà làm việc của Ban Giám đốc, Nhà công vụ; Khu

39

thao trường kỹ chiến thuật, nhà kho quân khí, quân trang; sân vận động … với diện tích

đất sử dụng là 15,5327 ha. Diện tích này đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu khoa học

quân sự và các hoạt động rèn luyện, sinh hoạt tập thể của người học và cán bộ, giảng

viên.

Hệ thống giảng đường của Trung tâm bao gồm 01 nhà giảng đường 03 tầng với

10 phòng học, 02 phòng máy tính phục vụ việc thi trắc nghiệm, 01 giảng đường lớn.

Trung tâm có hệ thống khu học tập, rèn luyện gồm nhà tập bắn, thao trường kỹ chiến

thuật, sân duyệt đội ngũ, chào cờ và tổ chức các sự kiện. Trung tâm có hệ thống sân

vận động (02 sân), nhà thi đấu thể thao đa năng, hội trường, dụng cụ phục vụ sinh viên

luyện tập thể dục thể thao, văn nghệ và các chương trình hoạt động tập thể. Hàng năm,

Trung tâm đều dành một nguồn kinh phí để hỗ trợ sinh viên tham gia các hoạt động

giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao, ngoại khóa…

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên có khả năng

tổ chức học tập tập trung cho mỗi khóa khoảng 1700 sinh viên.

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên trong những

năm qua đã tổ chức giảng dạy môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh,

sinh viên các Trường thành viên, các khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên được 28

khóa; Liên kết giảng dạy cho học sinh sinh viên các trường cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp, học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn.

Trung tâm đã đào tạo được 11 khóa ngắn hạn giảng viên Giáo dục quốc phòng,

an ninh cho các trường trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề các

tỉnh khu vực phía Bắc và trên địa bàn Quân khu 1.

Từ năm 2007, Trung tâm đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo giao nhiệm vụ cùng

với Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên xây dựng chương trình đào tạo

giảng viên dạy hai môn (môn Giáo dục thể chất - Giáo dục quốc phòng, an ninh). Đến

nay đã thực hiện được 09 khóa đào tạo.

Trung tâm đã tham mưu cho Giám đốc Đại học Thái Nguyên và lãnh đạo các

trường thành viên về công tác quốc phòng, an ninh; giúp các nhà trường xây dựng các

phương án bảo vệ trường và được đánh giá có chất lượng tốt qua kiểm tra của Thanh

tra quốc phòng hàng năm.

40

Huấn luyện hơn 1200 lượt tự vệ cho các trường trong Đại học Thái Nguyên, dân

quân tự vệ các phường, xã trên địa bàn; kết quả huấn luyện đều đạt từ khá trở lên.

Trong 28 năm xây dựng và phát triển, Trung tâm Trung tâm Giáo dục quốc

phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên đã 3 lần di chuyển địa điểm với muôn vàn khó

khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Đại

học Thái Nguyên, Quân khu 1 và sự cố gắng, nỗ lực của tập thể đơn vị, đội ngũ cán bộ,

viên chức, người lao động đã phát huy tốt bản chất truyền thống Quân đội, quyết tâm

vượt qua những khó khăn để từng bước xây dựng, ổn định cơ sở vật chất bảo đảm cho

quá trình hoạt động tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh.

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên đã được Đảng,

Nhà nước tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhì và hạng ba; Thủ tướng chính

phủ tặng bằng khen; được Bộ Giáo dục & Đào tạo, UBND tỉnh Thái Nguyên, Tư lệnh

Quân khu 1 tặng nhiều Bằng khen cho các tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc

trong công tác Giáo dục quốc phòng, an ninh.

2.1.2. Đặc điểm sinh viên ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên

Toàn bộ sinh viên của các trường thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên đều

phải tham gia học tập chương trình Giáo dục quốc phòng - an ninh trong 35 ngày. Tất

cả đều phải sinh hoạt tập trung trong thời gian này. Trung tâm sẽ biên chế các lớp thành

các Trung đội, tiểu đội.. Trong đó có các Trung đội trưởng, trung đội phó, tiểu đội

trưởng, tiểu đội phó.. lực lượng này sẽ phối hợp với các Đại đội trưởng (cán bộ quản

lý) để tiến hành quản lý, duy trì các chế độ. Ngoài việc học ra, sinh viên còn phải rèn

luyện, thực hiện các chế độ (10 chế độ trong ngày, 3 chế độ trong tuần). Môi trường rất

kỷ luật và nghiêm khắc, bắt buộc mọi sinh viên phải cố gắng thích nghi.

Cũng giống như sinh viên nói chung trên cả nước về lứa tuổi, nhận thức. Nhưng

sinh viên tỉnh Thái Nguyên cũng có những đặc thù riêng, thể hiện rõ ở những thuận lợi

và khó khăn sau:

Về mặt thuận lợi: Được rèn luyện và học tập ở vùng trung du và miền núi phía

bắc, được kế thừa truyền thống cách mạng và có ý thức sâu sắc về việc gìn giữ, bảo vệ

các truyền thống quý báu của đất nước và con người Thái Nguyên, như đoàn kết, yêu

thương con người, với lối sống giảng dị, chân thành, cởi mở, có tính tự lập cao; được

41

học tập ở một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh. Hiện nay, chỉ tính riêng Đại học Thái Nguyên có 11 cơ sở giáo dục thành

viên.

Do đó, sinh viên ở Thái Nguyên có tính độc lập, tự chủ rất cao, luôn chấp hành

tốt những quy định của nhà trường, lễ phép với thầy cô giáo, đoàn kết thân ái với bạn

bè, luôn có ý chí vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.

Các trường cao đẳng và đại học tỉnh Thái Nguyên đào tạo đa hệ, đa ngành. Đối

tượng tuyển sinh rất đa dạng đến từ hơn 30 tỉnh thành khác nhau trong cả nước, điểm

chuẩn đầu vào tính theo khu vực, theo vùng miền khác nhau, giữa thành thị và nông

thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa có sự chênh lệch rất lớn. Đặc điểm này, ảnh hưởng

đến tính không đồng đều về trình độ nhận thức của sinh viên. Trong đó, sinh viên là

người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chiếm hơn 40%, với ngôn ngữ riêng, sử

dụng tiếng phổ thông còn hạn chế. Nên hầu hết sinh viên đều quen với cách thức dạy

học bằng phương pháp truyền thống.

Về mặt khó khăn: Sinh viên của các trường trên địa bàn tác giả tiến hành khảo

sát và thực nghiệm đến từ các vùng miền khác nhau của đất nước và thuộc nhiều thành

phần dân tộc khác nhau, khi đến trường các em mang theo những bản sắc văn hóa,

phong tục tập quán, lối sống khác nhau, nên khó khăn bước đầu trong việc đưa vào nề

nếp chung của nhà trường. Là những sinh viên năm thứ nhất, vừa bước qua ngưỡng

cửa học tập Trung học phổ thông, lần đầu sống xa gia đình, nên hoàn toàn mới lạ với

môi trường mới, cách thức học tập mới, nên khó tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ

trong học tập và trong cuộc sống.

2.2. Thực trạng việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng và an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -

Đại học Thái Nguyên.

Quá trình khảo sát

* Mục đích khảo sát

Tìm hiểu thực trạng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh để làm căn cứ

đề xuất các yêu cầu, điều kiện, quy trình xây dựng và sử dụng PPDH thảo luận nhóm

tại Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

42

* Nội dung khảo sát

- Nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN trong dạy học

Nội dung của bảng hỏi dành cho giảng viên đề cập tới các vấn đề sau:

- Mức độ sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.

- Nhận thức về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác

môn Công tác quốc phòng, an ninh.

- Tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học

- Sử dụng phương pháp dạy học nội dung lý thuyết

- Sử dụng hình thức tổ chức dạy học

- Sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả

quốc phòng, an ninh.

- Nhận thức về vai trò môn học của sinh viên

- Thái độ của sinh viên đối với môn học

- Tính tích cực trong giờ học của sinh viên

- Nguyên nhân sinh viên chán học

- Giải pháp gia tăng tính tích cực của sinh viên trong giờ học

Nội dung của bảng hỏi dành cho sinh viên đề cập tới các vấn đề sau:

* Khách thể khảo sát

Khách thể khảo sát: 7 giảng viên thuộc Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an

ninh và 200 sinh viên.

(100 sinh viên năm thứ nhất và 100 sinh viên năm thứ hai) của các Trường thành

viên thuộc Đại học Thái Nguyên

Sau khi thu phiếu sinh viên 200/200 (đạt 100%) và 7/7 phiếu giảng viên

(đạt100%)

* Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát, phương pháp

phỏng vấn

- Sử dụng phương pháp thống kê toán học, dùng máy tính xử lý, phân tích số

liệu.

43

2.2.1. Thực trạng hoạt động dạy môn Công tác quốc phòng - an ninh ở Trung tâm

giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại hoc Thái Nguyên

Qua điều tra, chúng tôi thu được 200 phiếu của sinh viên và 7 phiếu của giảng

viên tại Trung tâm Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Sau khi phân tích và xử lý số liệu, kết quả cụ thể như sau:

Một là, nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN trong dạy

học môn Công tác quốc phòng, an ninh.

Kết quả khảo sát cho thấy có 85,71% giảng viên cho rằng rất cần thiết phải sử

dụng PPTLN trong dạy học; cần thiết đối với giảng viên là 14,29%. Không có giảng

viên nào cho rằng không cần thiết.

Có thể thấy đại đa số giảng viên đều nhận thức cần phải sử dụng phương pháp

dạy học này trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh. Điều đó thể hiện thông

qua Bảng số liệu dưới đây:

Bảng 2.1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN

Giảng viên Đánh giá mức độ cần thiết sử dụng

PPTLN trong dạy học Số lượng Tỉ lệ

Rất cần thiết 6 85,71%

Cần thiết 1 14,29%

Không cần thiết 0 0%

Hai là về mức độ sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng,

an ninh

Qua khảo sát đối với giảng viên cho thấy, 28,5% sử dụng thường xuyên PPTLN

và không có giảng viên nào chưa sử dụng; 71,5% giảng viên không thường xuyên sử

dụng.

Chứng tỏ trong thực tế phương pháp này cũng đã được sử dụng nhưng mức độ

thường xuyên chưa nhiều.

Điều này được thể hiện ở Bảng 2.2 dưới đây:

44

Bảng 2.2. Đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

môn học Công tác quốc phòng, an ninh

Giảng viên Đánh giá mức độ sử dụng PPTLN

trong dạy học Số lượng Tỉ lệ

Thường xuyên 2 28,5%

Có sử dụng nhưng không thường xuyên 5 71,5%

Không sử dụng 0 0%

Ba là, nhận thức về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh

Qua điều tra cho thấy, 100% giảng viên xác định được những yêu cầu cần thiết

khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh. Điều này thể

hiện qua Bảng 2.3:

Bảng 2.3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN

Mức độ

Các yêu cầu khi thảo luận nhóm

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

1. Đảm bảo mục tiêu dạy học 5 (71,4%) 0

4 (57,1%) 0 1 (14,3%) 1 (14,3%)

6 (85,7%) 0 0

3 (42,8%) 0 1 (14,3%) 2 (28,6%) 1 (14,3%) 2 (28,6%) 2 (28,6%)

7 (100%) 0 0 0

2. Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận 3. Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm 4. Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận 5. Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác …………….. 0 0 0 0

Bốn là, Tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học

Qua điều tra cho thấy có 14,3% giảng viên lựa chọn tiêu chí sinh viên lĩnh hội

lý thuyết; 14,3% giảng viên lựa chọn tiêu chí ghi nhớ ; 14,3% giảng viên lựa chọn lựa

chọn tiêu chí sinh viên giải quyết vấn đề và 57,1% giảng viên lựa chọn vận dụng lý

45

thuyết để giải quyết thực tế. Điều này thể hiện qua bảng 2.4:

Bảng 2.4: Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học

Tiêu chí

Sinh viên lĩnh hội lý thuyết Sinh viên ghi nhớ Sinh viên giải quyết vấn đề Sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế Phương pháp khác Số lượng 1 1 1 4 0 Tỉ lệ 14,3% 14,3% 14,3% 57,1%

Từ việc lựa chọn tiêu chí dạy học, người nghiên cứu tìm hiểu thực trạng giảng

viên sử dụng phương pháp trong quá trình dạy học.

Năm là, thực trạng sử dụng PPDH nội dung lý thuyết

Bảng 2.5: Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết

Mức độ

PPDH nội dung lý thuyết Rất thường Thường Thỉnh Ít khi xuyên xuyên thoảng

Thuyết trình 3 (42,85%) 3 (42,85%) 1 (14,3%) 0

Đàm thoại 2 (28,6%) 3 (42,8%) 2 (28,6%) 0

0 Thảo luận nhóm 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%)

Nêu và Giải quyết vấn đề 0 1 (14,3%) 3 (42,85%) 3 (42,85%)

Kết quả (bảng 2.5) cho thấy khi dạy nội dung lý thuyết:

Phương pháp thuyết trình có 42,85% giảng viên rất thường xuyên sử dụng,

42,85% thường xuyên và 14,3% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng.

Phương pháp đàm thoại có 28,6% giảng viên rất thường xuyên sử dụng 42,8%

giảng viên thường xuyên, 28,6% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng.

Phương pháp thảo luận nhóm có 71,4% giảng viên rất thường xuyên sử dụng,

14,3% thường xuyên và thỉnh thoảng sử dụng.

Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề có 14,3% giảng viên thường xuyên sử

dụng. 42,85% thỉnh thoảng sử dụng và ít khi sử dụng.

Ngoài bảng hỏi, người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số giảng viên của

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và anh ninh - Đại học Thái Nguyên về việc sử dụng

các phương pháp trong dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh. Các ý kiến đa

46

phần cho biết: “Hiện nay một số cán bộ giảng viên ở trung tâm thường xuyên sử dụng

phương pháp thuyết trình vì nhiều khi họ vẫn đi theo lối mòn giảng dạy truyền thống

và vẫn băn khoăn rằng thời gian chuẩn bị, giảng dạy chưa thực sự thoải mái để vận

dụng các phương pháp tích cực. Nhưng bên cạnh đó đội ngũ giảng viên cũng tự nhận

thức được sự thay đổi trong thời đại mới, họ đang nỗ lực đổi mới cách thức dạy và học

bằng những phương pháp tích cực để nâng cao chất lượng, kết quả học tập cho sinh

viên, cũng như nâng cao trình độ chuyên môn cho giảng viên. Vì thế, đội ngũ giảng

viên đã bắt đầu chú trọng hơn vào việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào

giảng dạy, trong đó phải kể đến PPTLN.

Như vậy, trong quá trình dạy học nội dung lý thuyết giảng viên chủ yếu sử dụng

PPTLN. Điều này lý giải lý do tại sao có 57,1% giảng viên xác định tiêu chí lựa chọn

phương pháp dạy học “sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế” ở trên.

Sáu là, hình thức tổ chức dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh tại Trung

tâm giáo dục quốc phòng - Đại học Thái Nguyên.

Quá trình khảo sát cho thấy trong quá trình dạy học, 28,6% giảng viên rất

thường xuyên sử dụng hình thức tổ chức dạy học nhóm nhỏ, 57,1% thường xuyên và

14,3% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng hình thức tổ chức dạy học nhóm nhỏ.

Đối với hình thức tổ chức dạy học nhóm lớn có 71,4% giảng viên rất thường

xuyên sử dụng, 14,3% giảng viên thường xuyên và thỉnh thoảng sử dụng.

Hình thức tổ chức dạy học toàn lớp ở mức rất thường xuyên chiếm 85,7% và

thường xuyên là 14,3%. Số liệu được thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 2.6: Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học

Mức độ Hình thức Thường tổ chức Rất thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi xuyên

Cá nhân 0 0 0 0

Nhóm nhỏ 2 (28,6%) 4 (57,1%) 1 (14,3%) 0

Nhóm lớn 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0

Toàn lớp 6 (85,7%) 1 (14,3%) 0 0

Trong quá trình tiến hành hoàn thiện đề tài, người nghiên cứu tiến hành phỏng

47

vấn, thu thập một số ý kiến về việc sử dụng các hình thức tổ chức dạy học và phương

pháp dạy học hiện nay. Tổng hợp lại đa phần ý kiến từ các giảng viên đều cho biết:

“Từ trước đến nay, ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên

chủ yếu là tổ chức dạy học toàn lớp, rất ít giảng viên sử dụng hình thức tổ chức dạy

học nhóm. Bởi vì, nội dung bài giảng dài, số lượng sinh viên trên một lớp học đông,

nên giảng viên cố gắng truyền đạt hết nội dung cho kịp thời gian.Về mặt phương pháp

thì chúng tôi sử dụng phương pháp thuyết trình là chủ yếu mặc dù có một số giảng viên

vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học nhưng chưa thường

xuyên”.

Bên cạnh sử dụng phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn, người

nghiên cứu còn tiến hành quan sát giờ dạy của các giảng viên. Kết quả quan sát cho

thấy: Hiện nay do tình trạng lớp học số lượng đông (khoảng từ 100 - 120 sinh viên

trong một lớp), giảng viên chưa được tập huấn nhiều về các phương pháp dạy học theo

quan điểm tích cực, một số giảng viên ngại thay đổi cứ theo lối dạy truyền thống bởi

vì dạy học theo quan điểm tích cực phải đầu tư công sức, thời gian chuẩn bị. Vì vậy

phương pháp thuyết trình được giảng viên sử dụng hầu hết trong các bài giảng của

mình, rất ít giảng viên vận dụng các phương pháp dạy học theo quan điểm tích cực và

hình thức dạy học theo nhóm.

Tuy nhiên hiện nay đội ngũ giảng viên đã và đang cố gắng thay đổi lối mòn

trong suy nghĩ giảng dạy, tích cực, nỗ lực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực

vào giảng dạy, trong đó có PPTLN.

Bảy là, thực trạng phương pháp kiểm tra, đánh giá

Quá trình khảo sát cho thấy 100% giảng viên sử dụng phương pháp kiểm tra

trắc nghiệm kết hợp tự luận, đánh giá kết quả học tập.

Bảng 2.7: Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá

Mức độ Phương pháp kiểm tra, Rất thường Thường Thỉnh đánh giá Ít khi xuyên xuyên thoảng

Tự luận 0 0 0 0

Trắc nghiệm khách quan 0 0 0 0

48

Trắc nghiệm tự luận 7 (100%) 0 0 0

Vấn đáp 0 0 0 0

Như vậy, kết quả khảo sát thực trạng dạy học, phỏng vấn giảng viên và quan sát

giờ dạy, lớp học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm giáo dục quốc phòng

và an ninh - Đại học Thái Nguyên cho thấy lựa chọn phương pháp dạy của nhiều giảng

viên là sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế; Mặc dù còn khá nhiều hạn chế

nhưng giảng viên vẫn đang cố gắng kết hợp phương pháp dạy học truyền thống với các

phương pháp dạy học tích cực trong đó có hình thức thảo luận nhóm. Về hình thức tổ

chức dạy học giảng viên có sử dụng kết hợp giữa tổ chức nhóm nhỏ, nhóm lớn và toàn

lớp. Về phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, phương pháp trắc nghiệm

được sử dụng chủ yếu.

2.2.2. Thực trạng hoạt động học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm

giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

2.2.2.1. Nhận thức của sinh viên về vai trò môn học

Bảng 2.8: Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên

TỈ LỆ TT NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ MÔN HỌC SL (%)

1 Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình” 159 79.5

Giúp sinh viên có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an 2 149 74.5 ninh Tổ quốc.

Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, 3 121 60.5 lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.

4 Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo 170 85

Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống

5 địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo 129 64.5

chống phá cách mạng Việt Nam

Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn 6 159 79.5 trật tự, an toàn xã hội.

7 Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm 170 85

49

tệ nạn xã hội.

8 Không giúp được gì cho sinh viên 03 1.5

Kết quả khảo sát (bảng 2.8) có 79,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về

phòng chống “Diễn biến hòa bình”; 74,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về phong

trào toàn dân bảo vệ anh ninh Tổ quốc; 60,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về

xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên công

nghiệp quốc phòng; 85% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ chủ quyền biển,

đảo; 64,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo; 79,5% trả lời giúp

sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; 85%

trả lời giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội và 1,5% trả

lời không giúp được gì cho sinh viên.Như vậy, đa số sinh viên có nhận thức đúng đắn

về vai trò của môn học, đây là điều kiện thuận lợi để giảng dạy môn học đạt hiệu quả

và chất lượng.

2.2.2.2. Thái độ của sinh viên đối với môn học

Bảng 2.9: Mức độ thái độ của sinh viên đối với môn học

TT THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN SỐ LƯỢNG TỈ LỆ (%)

1 Rất thích 14 7

2 Thích 62 31

3 Không thích 32 16

4 Bình thường 92 46

Kết quả (bảng 2.9) cho chúng ta thấy mặc dù nhận thức về vai trò môn học là

tốt, (theo kết quả khảo sát, đa số sinh viên thấy được vai trò quan trọng của học phần

này) nhưng tỷ lệ sinh viên có thái độ tích cực trong giờ học chưa cao (chỉ có 38% thích

và rất thích học). Thực tiển hoạt động dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh cho

thấy, đây là môn học có khối lượng lý thuyết nhiều, thời gian giảng dạy một buổi học

kéo dài. Mặt khác, đa số giảng viên sử dụng phương pháp dạy học thuyết trình, ít gắn

với các tình huống thực tiển. Đây là những yếu tố ảnh hưởng tới thái độ học tập của

sinh viên.

50

51

2.2.2.3. Tính tích cực của sinh viên

Bảng 2.10: Mức độ tích cực trong giờ học của sinh viên

ít khi Rất thường xuyên Thường xuyên TT HÀNH ĐỘNG CỦA SINH VIÊN TRONG GIỜ HỌC SL SL SL SL

5

70 7 12 10

1 Chú ý nghe giảng 2 Nói chuyện riêng 3 Giơ tay phát biểu 4 Ghi chép 5 Tham gia các tình huống 50 5 2 55 10 TL (%) 25 2,5 1 27,5 5 Thỉnh thoảng TL TL TL (%) (%) (%) 25 22,5 2,5 120 60 69 34,5 95 47,5 5,5 11 35 24 2 4 105 57,5 20 3,5 53 26,5 67 33,5 45 22,5

Kết quả (bảng 2.10) chúng ta thấy sinh viên có hành động ghi chép và chú ý

nghe giảng mức độ khá cao; sinh viên có hành động giơ tay phát biểu và tham gia các

tình huống khá thấp chỉ có 1% sinh viên rất thường xuyên và 2% sinh viên thường

xuyên giơ tay pháp biểu; 50% sinh viên không bao giờ giơ tay phát biểu. Như vậy,

trong giờ học sinh viên chủ yếu tập trung ghi chép, sinh viên ít tham gia hoặc không

có cơ hội tham gia vào các tình huống, xây dựng bài.

* Thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học

Để tìm hiểu sâu hơn tính tích cực học tập của sinh viên, người nghiên cứu đã

tiến hành quan sát lớp học môn Công tác quốc phòng - an ninh. Giảng viên sử dụng

phương pháp thuyết trình, nội dung: Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình bạo

loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; thời gian từ 7 giờ 00

đến 8 giờ 45 ngày 10 tháng 1 năm 2020 tại giảng đường 201. Kết quả quan sát thu được

như sau:

Bảng 2.11: Mức độ thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học

TT Số lượng Thời gian Tỉ lệ (%)

41 45,6 7.00 - 7.50 1 Thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học Tập trung chú ý, ghi chép bài, chăm chú lắng nghe.

2 Lơ đãng, ngủ gật, nói chuyện. 27 30 7.55 - 8.45

9 10 7.00 - 8.45 3 Tích cực hợp tác, nhiệt tình tập luyện, thảo luận nhóm.

4 Thái độ khác 0 7.00 - 8.45

52

Kết quả (bảng 2.11) cho thấy tiết học đầu: có 45,6% sinh viên tập trung chú ý,

lắng nghe, ghi chép bài cẩn thận và 10% sinh viên tích cực hợp tác tập luyện. Nhưng

vào tiết học thứ hai sinh viên có biểu hiện mệt mỏi, thiếu tập trung cụ thể có 30% sinh

viên lơ đãng, nói chuyện, ngủ gật. Như vậy, khi giảng viên sử dụng phương pháp thuyết

trình trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tiết học đầu sinh viên có thái

độ thích học và hành động học tập tích cực tương đối tốt. Nhưng chỉ sử dụng duy nhất

phương pháp thuyết trình trong suốt một bài học thì sau tiết học đầu sinh viên có biểu

hiện mất tập trung, mệt mỏi về tâm lý dẫn đến nói chuyện, làm việc riêng trong giờ

học.Vì vậy, giảng viên cần phải sử dụng phương pháp dạy học tích cực, đưa ra các vấn

đề huống buộc sinh viên phải chủ động làm việc phát huy tính năng động chủ quan chứ

không chỉ thụ động nghe và ghi chép.

2.2.2.4. Nguyên nhân không thích học của sinh viên

Bảng 2.12: Mức độ nguyên nhân sinh viên không thích học

TT Nguyên nhân không thích học SL TL (%)

1 Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu 95 47,5

Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây 89 44,5 2 dựng bài

Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình 82 41 3

4 Môn học trừu tượng 49 14,5

Giảng viên duy trì nghiêm khắc qui định, kỷ luật trong học 44 22 5 tập

6 Môn học xa rời cuộc sống 11 5,5

Kết quả (bảng 2.12) cho thấy có 47,5% sinh viên cho rằng tại vì giảng viên chỉ

sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu, 44,5% sinh viên cho rằng tại vì giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây dựng bài, 41% sinh viên cho rằng tại vì sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình và 30% sinh viên cho rằng tại vì môn học trừu tượng, xa rời cuộc sống. Như vậy, nếu giảng viên tích cực đổi mới

phương pháp dạy học sẽ nâng cao tính tích cực, tự giác của sinh viên.

Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên người nghiên cứu đưa ra một số kết luận như

sau:

53

Thứ nhất, có thể khẳng định rằng ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh

- Đại học Thái Nguyên hoạt động dạy học chủ yếu tập trung ở người thầy, sinh viên

còn thụ động trong việc tiếp thu bài học.

Thứ hai, việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học đã được

triển khai nhưng chưa đồng bộ nên hiệu quả dạy học còn nhiều hạn chế, chất lượng học

tập của sinh viên chưa được nâng cao, sinh viên chưa hứng thú với môn học.

Thứ ba, sinh viên nhận thức đúng vai trò môn học, nhưng do giảng viên chưa

có nhiều phương pháp dạy học theo quan điểm tích cực nên ảnh hưởng đến thái độ và

hành động của sinh viên như ngủ gật, nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học…

Vì vậy, để tăng tính tích cực cho người học, phát triển năng lực và trình độ tư

duy của mỗi sinh viên, nâng cao hơn nữa kết quả, chất lượng môn học trong giai đoạn

hiện nay. Thì việc vận dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học theo quan

điểm tích cực mà cụ thể là dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm là một vấn đề

cần thiết.

2.3. Một số nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại

học Thái Nguyên

2.3.1. Đảm bảo mục tiêu của môn học

Đây là nguyên tắc nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình dạy học nói

chung, sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.

Mục tiêu này được quy định rõ trong chương trình môn học đòi hỏi giảng viên thực

hiện theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ. Đặc biệt, giảng viên xác định rõ những

kiến thức cần đạt trong bài học, môn học trên cơ sở đó tổ chức thực hiện TLN nhằm

đạt được mục tiêu đó. Nếu xa rời mục tiêu thì việc thực hiện TLN không có ý nghĩa

gì trong quá trình dạy học, thậm chí sau khi tiến hành xong, người học còn hiểu sai

vấn đề. Điều đó vô cùng nguy hiểm nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các thế lực

thù địch đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt

Nam.

Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

cần đảm bảo các chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt được cho sinh viên.

54

Về kiến thức: trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Công tác quốc

phòng - an ninh, nhận thức được âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách

mạng Việt Nam, về phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của

các thế lực thù địch; đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá

cách mạng Việt Nam để giữ vững an ninh chính trị và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về chiến tranh công nghệ cao và

phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao; kiến thức về xây dựng

lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, động viên công nghiệp quốc

phòng; phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ

an ninh quốc gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ

biên giới, biển đảo của Tổ quốc.

Về kỹ năng: trang bị cho các em một số kỹ năng cơ bản như: kỹ năng thực hành,

kỹ năng vận dụng thực tiễn, kỹ năng thích nghi và ứng biến linh hoạt với những biến

động của thực tiễn.

Về thái độ: giúp sinh viên có thái độ đúng đắn, tích cực; có khả năng nhìn nhận

và đánh giá đúng - sai, gạt bỏ cảm xúc và thái độ tiêu cực không cần thiết với những

biến động trong xã hội; bình tĩnh nhìn nhận, đánh giá, và có những hành động cụ thể,

tích cực để chống lại những tiêu cực đang nảy sinh từng ngày trong tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa…; sẵn sàng đấu tranh chống lại

những hành vi tiêu cực, tham nhũng, đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng và

Nhà nước; biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của

dân tộc. Qua đó hình thành nên nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tham

gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay. Đó là những con người có

trình độ học vấn rộng, có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ và chuyên môn hóa, đảm

bảo chất lượng công việc với năng suất và hiệu quả cao, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm

trước dân tộc và đất nước.

2.3.2. Đảm bảo tính thực tiễn

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng

tạo trong việc tiếp thu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh và

55

điều kiện cụ thể của đất nước; gắn liền lý luận với thực tiễn (Việt Nam và thế giới), từ

đó bổ sung cho lý luận bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Kết

luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014 của Ban Bí thư TW Đảng (khóa XI) đã khẳng định:

Học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân là giáo dục những vấn đề cơ

bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của

Đảng, phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không giáo điều, khô cứng.

Việc sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh cần đảm

bảo tính thực tiễn, điều này có nghĩa là quá trình dạy học cần tuân thủ nguyên lý: lý

luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành. Trên thực tế, nếu tiến hành dạy học

bằng phương pháp thảo luận nhóm đối với môn Công tác quốc phòng, an ninh chỉ đơn

thuần lựa chọn những chủ đề thảo luận nhằm khai thác nội dung bài học hay tái hiện

lại đơn vị kiến thức bài học sẽ dẫn đến sự hàn lâm, giáo điều, kinh viện, không vận

dụng được những kiến thức đã học để nhận diện, lý giải được những vấn đề diễn ra

trong cuộc sống. Nếu vậy, tính thuyết phục đối với người học không cao đồng thời khó

tạo dựng được niềm tin của SV vào môn học. Như vậy, đảm bảo tính thực tiễn khi sử

dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh sẽ làm cho những kiến

thức nặng về lý thuyết, khó hiểu, phức tạp sẽ trở thành những vấn đề gần gũi, giản dị,

dễ tiếp thu. Chính vì thế, đây là nguyên tắc quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với

hiệu quả việc tổ chức TLN trong dạy học môn.

Đảm bảo nguyên tắc tính thực tiễn khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh đòi hỏi người dạy cần tuân thủ cũng như đảm bảo việc thực

hiện những yêu cầu, cơ bản sau:

Một là, phải căn cứ vào điều kiện dạy học thực tế để tổ chức TLN cho phù hợp.

Dựa vào điều kiện học tập thiết yếu của sinh viên và hệ thống cơ sở vật chất

trường lớp hiện có để triển khai tổ chức TLN. Điều đó có nghĩa giảng viên cần chú ý

đến giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập môn Công tác quốc phòng, an

ninh, số lượng sinh viên trong một lớp, chuyên ngành đào tạo của người học để có cách

thức giao nhiệm vụ, chia nhóm tương ứng. Hệ thống cơ sở vật chất hiện có của nhà

trường giúp giảng viên lựa chọn các phương tiện phù hợp với PPTLN, đồng thời linh

hoạt sử dụng các hình thức báo cáo kết quả thảo luận của các nhóm.

56

Ví dụ: Khi TLN về nội dung: hình thức, biện pháp, quy mô, phạm vi xảy ra bạo

loạn trong bài Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Với nội dung này chỉ cần chia lớp thành

các nhóm lớn, vật chất chỉ cần vở ghi, bút, giáo trình, bàn ghế đã có sẵn trong phòng

học. Đối tượng sinh viên nào cũng có thể tham gia.

Mặt khác, phải dựa vào đối tượng dạy học cụ thể để thiết kế hoạt động thảo luận

nhóm. Cần chú ý đến trình độ cũng như điều kiện học tập cụ thể của sinh viên cũng

như chuyên ngành sinh viên đang theo học để lựa chọn chủ đề thảo luận, đưa ra những

yêu cầu đòi hỏi sinh viên phải thực hiện cùng các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp.

Nếu thực tế lớp học rất đông sinh viên thì không nên chia lớp thành các nhóm nhỏ, việc

di chuyển chỗ ngồi rất dễ gây mất trật tự, mất thời gian và cũng khó thực hiện TLN

hiệu quả...

Hai là, phải xác định chính xác giá trị thực tiễn của các đơn vị kiến thức trong

nội dung môn học để xây dựng chủ đề TLN tương ứng.

Trong quá trình sử dụng PPTLN, giảng viên cần làm rõ được ý nghĩa thực tiễn

của tri thức khoa học để người học lĩnh hội được kiến thức môn học và vận dụng vào

thực tiễn cuộc sống của mình. Khi xây dựng các chủ đề thảo luận, giảng viên cần xác

định rõ nhiệm vụ cho người học cả về kiến thức cần chiếm lĩnh và việc vận dụng kiến

thức đó vào thực tiễn.

Ví dụ: Khi tổ chức TLN về nội dung các giải pháp của Đảng cộng sản Việt Nam

để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật

đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Sau khi TLN sinh viên cần nắm vững

kiến thức và vận dụng nó vào thực tiễn như sau: Cần đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng,

tiêu cực xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy

cơ tụt hậu về kinh tế.. Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù

địch, nắm chắc mọi diễn biến, không để bị động và bất ngờ..

Ba là, căn cứ vào chuyên ngành đào tạo của người học để xây dựng các tình

huống, trường hợp điển hình tương ứng khi tổ chức TLN.

Việc chiếm lĩnh tri thức môn học đối với các chuyên ngành đào tạo là giống nhau

nhưng việc vận dụng kiến thức ở mỗi chuyên ngành lại có những điểm khác biệt. Chính

vì vậy, việc nghiên cứu kỹ đặc thù của từng chuyên ngành đào tạo có ý nghĩa quan trọng

57

trong việc lựa chọn các tình huống và trường hợp điển hình để tiến hành TLN. Điều đó

được thể hiện rõ nét nhất đối với nội dung môn Công tác quốc phòng, an ninh về xây

dựng đội ngũ cán bộ, về đạo đức và về xây dựng con người mới. Trên thực tế, ở mỗi

chuyên ngành khác nhau (giáo viên, y, bác sĩ, dược sĩ, kế toán viên…) sẽ có những

trường hợp điển hình thực hiện hành vi theo hai chiều thuận, nghịch; hoặc tuân thủ, hoặc

vi phạm nội dung môn Công tác quốc phòng, an ninh.

2.3.3. Đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng lực người

học

Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo

dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm

đến việc sinh viên học được cái gì đến chỗ quan tâm sinh viên vận dụng được cái gì

qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy

học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn

luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập theo phương

pháp thảo luận nhóm, đổi mới quan hệ giảng viên - sinh viên theo hướng cộng tác có ý

nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội của sinh viên. Yêu cầu này cũng đòi

hỏi phương pháp thảo luận nhóm phải được thiết kế sao cho đảm bảo thực hiện với

mục đích phát triển những tri thức, kĩ năng và thái độ cần đạt được thông qua môn học,

đồng thời phát triển năng lực của người học.

Mục đích của thảo luận nhóm là thông qua hoạt động tổ chức dạy học của giảng

viên, sinh viên có thể tích cực chủ động và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức. Do

đó, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm giảng viên cần nắm chắc nguyên tắc

đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng lực người học.

Theo đó, mục đích của thảo luận nhóm cần hướng đến việc hình thành cho người học

những thao tác tư duy, những hành động thực hành, những biện pháp hoạt động sáng

tạo và tạo điều kiện cho họ thể hiện khả năng hoạt động sáng tạo trong quá trình thảo

luận nhóm. Hơn nữa, thảo luận nhóm cần chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và

đánh giá lẫn nhau của sinh viên với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo

hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu

cách sửa chữa các sai sót của bản thân.

58

2.3.4. Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa vai trò của sinh viên với vai trò chủ

đạo của giảng viên

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải phát huy cao độ tính tự

giác, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của người học dưới vai trò chủ đạo của giảng

viên, tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học. Thực chất của nguyên

tắc này là đảm bảo sự thống nhất giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò

nhằm phát huy cao độ tính tự giác tích cực, tự lĩnh hội tri thức của trò dưới sự hướng

dẫn của thầy.

Thống nhất giữa dạy và học trong vận dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ cho

phép đạt được hiệu quả cao trong dạy học. Trên ý nghĩa đó, các phương pháp dạy học

tích cực hiện nay đều chú trọng vào việc thiết lập những cách thức tổ chức dạy học sao

cho qua hoạt động tổ chức dạy học của giảng viên, sinh viên có thể tích cực chủ động

và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh thông tin thành tri thức, kĩ năng của mình. Vì vậy,

quy trình vận dụng phương thảo luận nhóm trong quá trình dạy học cũng phải được

xây dựng sao cho vai trò tổ chức, điều khiển của giảng viên phải kết hợp hài hoà với

hoạt động của sinh viên và ngược lại quá trình thảo luận trong các nhóm học tập của

sinh viên phải tích cực thúc đẩy vai trò điều khiển thảo luận của giảng viên.

Thông qua thảo luận nhóm, giảng viên cần khuyến khích, động viên và tạo điều

kiện để sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến, ý tưởng và những thắc mắc của mình, đề

cao tinh thần hoài nghi khoa học, óc phê phán, tác phong độc lập suy nghĩ, chống lối

học vẹt, học đối phó, chủ nghĩa hình thức trong học tập.

2.3.5. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa phương pháp thảo luận nhóm với

hiệu quả học tập

Nguyên tắc này đòi hỏi phải có mối quan hệ biện chứng giữa việc vận dụng

phương pháp thảo luận nhóm với hiệu quả học tập của sinh viên. Điều đó có nghĩa là

khi thực hiện các biện pháp này hiệu quả học tập của sinh viên phải được nâng cao và

các kĩ năng thảo luận nhóm của sinh viên phải được phát triển. Khi vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần chú ý đến hiệu quả học tập của sinh viên. Việc

vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học phải thu được kết quả từ phía sinh

viên như sự say mê, hứng thú trong giờ học, sự thảo luận sôi nổi, tích cực và sự sáng

tạo, khả năng ghi nhớ kiến thức…

59

2.3.6. Đảm bảo được sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức chia nhóm và các hình

thức thảo luận phù hợp với đặc điểm nhận thức của sinh viên.

Để vừa đảm bảo nguyên tắc cá biệt vừa đáp ứng tính phổ biến trong giáo dục,

giảng viên có thể chia nhóm theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu chí có những ưu,

nhược điểm riêng. Do đó, về mặt phương pháp luận không nên tuyệt đối hóa hay áp

dụng một tiêu chí duy nhất khi chia nhóm trong cả môn học. giảng viên cần kết hợp

hài hòa, phù hợp giữa chia nhóm ngẫu nhiên, chia nhóm theo sở trường, chia nhóm

theo cùng một trình độ, chia nhóm gồm đủ trình độ.

Trên thực tế, giảng viên cần lựa chọn các hình thức thảo luận nhóm phù hợp với

đặc điểm nhận thức của sinh viên, phù hợp với số lượng sinh viên cụ thể ở từng lớp.

Như vậy, giảng viên có thể linh hoạt lựa chọn hoặc kết hợp các hình thức thảo luận

theo nhóm nhỏ thông thường, nhóm nhỏ rì rầm, nhóm kim tự tháp hoặc nhóm đồng

tâm. Mặt khác, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm phải lựa chọn các hình thức

thảo luận phù hợp với đặc điểm của đối tượng sinh viên. Có lớp sinh viên nhận thức

tốt cần sử dụng linh hoạt các hình thức thảo luận nhóm sao cho mỗi giờ học, sinh viên

thấy hứng thú, mong chờ. Với đối tượng sinh viên học trung bình việc lựa chọn hình

thức thảo luận nhóm cần chú ý đến khả năng nhận thức và phối hợp thực hiện của sinh

viên.

Có thể nói mỗi hình thức chia nhóm và hình thức thảo luận nhóm đều có những

ưu thế và hạn chế nhất định. Vì vậy, trong một giờ học không thể chỉ áp dụng một hình

thức dạy học nào đó, vì điều này sẽ không phát huy được những điểm mạnh của những

hình thức dạy học khác. Bởi vậy, khi xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo

luận nhóm phải đảm bảo sao cho tất cả các lợi thế của các hình thức thảo luận phải

được khai thác triệt để.

2.4. Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh

Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong quá trình dạy học là

trình tự các giai đoạn, các bước được xắp xếp có tổ chức, có mục đích được thực hiện

liên tiếp nhằm giúp giảng viên thực hiện tốt việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

60

và giúp sinh viên đạt được mục tiêu học tập. Từ việc nhận thức thấu đáo sự cần thiết

của vấn đề đã nêu, trên cơ sở kế thừa một số các công trình nghiên cứu đi trước, căn

cứ vào điều kiện thực tiễn của Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo luận

nhóm trong dạy học Công tác quốc phòng, an ninh như sau:

2.4.1. Quy trình thiết kế bài học

Một là, lập kế hoạch thảo luận nhóm

Công việc này rất quan trọng, giữ vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động của

giảng viên và sinh viên. Việc lập kế hoạch thảo luận nhóm có ảnh hưởng rất lớn đến

toàn bộ kết quả của bài học.

Khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc

phòng, an ninh, giảng viên cần lập kế hoạch cụ thể và thông báo cho sinh viên từ tiết

học trước về kế hoạch thảo luận, những vật chất cần thiết phục vụ hoạt động thảo luận

nhóm.

Theo đó, phải xác định nhiệm vụ của mình và trên cơ sở yêu cầu, hướng dẫn

của giảng viên, sinh viên tự nghiên cứu nội dung bài học bằng cách đọc trước nội dung

giáo trình hoặc phân công chuẩn bị những nội dung cần thực hiện trong bài.

Thiết kế bài giảng là hoạt động không thể thiếu để có giờ giảng hay. Thiết kế

bài giảng giúp giảng viên thực hiện trọn vẹn các ý đồ sư phạm của mình và đạt được

đặt ra trong bài học. Quy trình thiết kế bài giảng theo phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh, tác giả xác định gồm các bước sau:

Hai là, thiết kế bài giảng

* Bước 1: Lựa chọn bài học

Để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng,

an ninh việc đầu tiên cần thực hiện là lựa chọn được bài học/đơn vị kiến thức phù hợp.

Đây là khâu quan trọng để xác định nội dung hoạt động của cả thầy và trò trong tiến trình

dạy học. Cần xác định nội dung dạy học qua đó lựa chọn những đơn vị kiến thức cơ bản

của bài học để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm cho phù hợp.

Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc

phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên,

61

thầy cô cần phải nghiên cứu, lựa chọn bài dạy, lựa chọn nội dung thảo luận nhóm sao

cho phù hợp để sinh viên vừa chủ động, sáng tạo, học tập tích cực, không nhàm chán,

không mệt mỏi. Trong quá trình soạn bài, giảng viên cần chú ý lựa chọn những phương

pháp thảo luận nhóm có vấn để nhằm tạo hứng thú, kích thích tư duy sáng tạo của các

em. Do đó, trước khi tổ chức thảo luận nhóm thầy cô cần xác định trước nội dung thảo

luận nhóm căn cứ vào tài liệu chuẩn kiến thức, kỹ năng và nội dung bài học, lựa chọn

nội dung để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cho phù hợp.

* Bước 2: Xác định mục tiêu bài học và cân nhắc các yếu tố khách quan

Việc xác định mục tiêu bài học là yếu tố nền tảng để quyết định hoạt động của

thầy và trò diễn ra như thế nào, sử dụng phương pháp và phương tiện gì cho hiệu quả.

Nếu mục tiêu bài học không được xác định một cách đúng đắn, rõ ràng thì giảng viên

sẽ không thể tìm ra được phương pháp dạy học phù hợp để truyền tải toàn bộ tri thức

của bài học đến cho sinh viên.

Cũng giống với các phương pháp khác khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh người giảng viên cần phải xác định

được mục tiêu bài học, vì xét cho cùng thì phương pháp thảo luận nhóm, dù ở dạng

thức nào đi chăng nữa, cũng đều phải phục vụ một mục đích nào đó. Trong giảng dạy

phương pháp thảo luận nhóm, thì mục tiêu cần đạt được ấy chính là mục tiêu bài học.

Chính vì thế mà người giảng viên luôn phải đặt cho mình câu hỏi “Ở bài học này, cần

phải đạt được mục tiêu gì, phải cung cấp cho người học những kiến thức gì và phải rèn

luyện cho họ những kỹ năng cần thiết gì?” và dựa vào đó để thiết kế phương pháp thảo

luận nhóm sao cho phù hợp. Nếu không, sẽ rất dễ xảy ra trường hợp là phương pháp

thảo luận nhóm nêu ra không có hoặc truyền tải quá ít ý nghĩa giáo dục. Khi đó, thảo

luận nhóm sẽ trở thành một buổi nói chuyện phiếm, không mang lại tác dụng sư phạm

gì cho người được giáo dục.

Tiếp đó, người giảng viên cần tính đến các yếu tố khách quan, vì những yếu tố

này có quyết định trực tiếp đến sự thành công của phương pháp thảo luận nhóm. Cụ

thể là người giảng viên cần phải tính đến những yếu tố như:

- Thời gian: để tránh thiết kế những nội dung thảo luận nhóm quá dài hay quá

ngắn. Nói một cách khác thì buổi thảo luận dựa trên phương pháp thảo luận nhóm cần

phải diễn ra ‘vừa phải’ với khoảng thời gian cho phép.

62

- Số người học: Số lượng người học có ảnh hưởng quan trọng đến phương pháp

thảo luận nhóm, vì hiển nhiên thiết kế một nội dung thảo luận nhóm cho 20 người, là

hoàn toàn khác với việc thiết kế một phương pháp thảo luận nhóm cho một nhóm nhỏ

5 người. Thông thường thì số người tham gia thảo luận lý tưởng là khoảng 15 - 20

người.

- Trình độ của người học: Chủ yếu dựa vào trình độ của người học mà người

dạy cần đưa ra những nội dung thảo luận nhóm vừa sức: không quá khó để cản trở

người học giải quyết được vấn đề nhưng cũng không quá dễ để khiến cho người học

cảm thấy nhàm chán.

- Cơ sở vật chất: Tuỳ theo điều kiện vật chất mà người giảng viên lựa chọn con

đường truyền tải nội dung dễ hiểu nhất, như sử dụng máy chiếu, video, tranh ảnh và

thiết kế nhóm thảo luận.

Ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, người dạy còn cần phải tính đến tín

ngưỡng, tôn giáo, tầng lớp xã hội, quan hệ giữa các nhóm tham gia cũng như lường

trước được những tác dụng và áp lực mà phương pháp thảo luận nhóm có thể tác động

tới người học để qua đó, tránh thiết kế những phương pháp thảo luận nhóm không phù

hợp, gây phản cảm hay thậm chí là vô tình xúc phạm người học.

* Bước 3: Xác định phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện và tài liệu

học tập

Căn cứ vào nội dung cụ thể của từng bài, từng nội dung thảo luận mà giảng viên

đưa ra lựa chọn các phương pháp, phương tiện dạy học và các tư liệu, tài liệu nhằm

phục vụ hoạt động học tập của sinh viên một cách phù hợp.

Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học cần được kết hợp hài hòa

với các phương pháp khác như: tình huống, sắm vai… để tối ưu hóa hoạt động dạy và

học trong điều kiện thực tế của đơn vị, của từng phòng học.

Cũng như các phương pháp dạy học khác, phương tiện dạy học được sử dụng

trong thảo luận nhóm được khuyến nghị gồm như máy tính, máy chiếu, tranh ảnh…

Ngoài ra, để tăng thêm phần hấp dẫn cho bài học, giảng viên có thể kết hợp phương

pháp thảo luận nhóm với phương pháp tình huống. Lúc này, tùy theo cơ sở vật chất của

trung tâm, giảng viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị những trang phục, dụng cụ phục

vụ cho các vai diễn để tăng phần hấp dẫn.

63

Để thực hiện tốt việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy môn công

tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên . Vấn đề lựa chọn và chuẩn bị tài liệu học tập là rất quan trọng, giảng viên và

sinh viên cần chuẩn bị những tài liệu liên quan đến nội dung bài học như: giáo trình,

những sự kiện về quốc phòng, an ninh, những phương pháp thảo luận nhóm nảy sinh

trong thực tiễn, một số tư liệu khác như phim, ảnh, biểu đồ, mô hình, bút dạ, giấy A4,

giấy màu, thước kẻ, bút dấu, thông tin liên quan đến nội dung bài học…

* Bước 4: Chuẩn bị phương pháp thảo luận nhóm

Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học nói chung và dạy môn công

tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên nói riêng thì việc chuẩn bị nội dung thảo luận nhóm là khâu rất quan trọng.

Chuẩn bị nội dung thảo luận nhóm gồm 2 bước:

Lấy ý tưởng:

Việc lấy ý tưởng cho một phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo tiền đề quan trọng

cho một phương pháp thảo luận nhóm tốt. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc lấy ý tưởng

cho này là không hề dễ dàng, bởi nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức để tìm được

những ý tưởng hay và mới lạ. Tuy nhiên, có một số nguồn thông tin mà người giảng

viên có thể sử dụng để tạo ý tưởng cho phương pháp thảo luận nhóm:

- Các phương tiện thông tin đại chúng: Đây là nguồn thông tin phong phú và đa

dạng mà giảng viên có thể tận dụng khai thác. Giảng viên có thể lấy ý tưởng thông qua:

tivi, đài báo, sách truyện và đặc biệt là Internet…

- Người học: Người học không chỉ đơn thuần đóng vai trò là người phân tích và

giải quyết phương pháp thảo luận nhóm mà họ còn có thể là chủ thể sáng tạo và đề xuất

ra phương pháp thảo luận nhóm nữa. Những vấn đề, những trường hợp khó giải quyết

mỗi cá nhân đã từng gặp trong cuộc sống sẽ trở thành nguồn phương pháp thảo luận

nhóm vô tận mà mỗi giảng viên có thể khai thác và vận dụng một cách thích hợp để

phục vụ tốt nhất cho nội dung bài học.

- Kinh nghiệm bản thân: Trong những trường hợp mà không thể tìm kiếm được

từ những nguồn thông tin bên ngoài thì kinh nghiệm bản thân cũng là nguồn tư liệu mà

người dạy có thể khai thác.

64

Viết phương pháp thảo luận nhóm:

Sau khi đã tạo ra ý tưởng thì cũng là lúc giảng viên có thể bắt tay vào việc biên

soạn phương pháp thảo luận nhóm. Nhìn chung, một phương pháp thảo luận nhóm tốt

thường có ba phần: Mở đầu, phát triển và kết thúc. Nhiệm vụ cụ thể của từng phần như

sau:

- Mở đầu: Giới thiệu phương pháp thảo luận nhóm bước đầu tạo lập bối cảnh

mà nền trên đó, phương pháp thảo luận nhóm được diễn ra.

- Phát triển: Đây là phần chính, vì nó cung cấp cho người học những chi tiết và

dữ kiện cần thiết cho công việc thảo luận, tổng hợp nên giải pháp và cũng là phần mà

những mâu thuẫn, xung đột được đẩy lên đến đỉnh điểm, buộc người học phải có sự

lựa chọn.

- Kết luận: Khác với một bài làm văn, phần kết luận trong một phương pháp

thảo luận nhóm thường là một kết thức mở với một câu hỏi được nêu ra, yêu cầu người

học phải giải quyết.

2.4.2. Quy trình thực hiện bài giảng bằng phương pháp thảo luận nhóm trong một

tiết học

Thực hiện bài học trên lớp bằng phương pháp thảo luận nhóm trong một tiết học

môn công tác quốc phòng, an ninh thực chất là quá trình giảng viên chuyển nội dung

của bài dạy đã được thiết kế sang giờ dạy trực tiếp trên lớp. Trong quá trình đó, giảng

viên là người tổ chức, điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức của sinh viên. Còn sinh

viên giữa vai trò chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động dạy học để tự mình chiếm

lĩnh tri thức, biến tri thức của bài học và của người dạy thành tri thức riêng của mình.

Việc thực hiện giờ học bằng phương pháp nào đi chăng nữa trong đó bao gồm

cả phương pháp thảo luận nhóm cũng phải tuân thủ theo các bước, các hoạt động của

một giờ lên lớp bình thường nhằm mục đích phát triển năng lực người học. Mỗi một

hoạt động sẽ có quy trình thực hiện khác nhau. Để đảm bảo mục tiêu bài học thì việc

áp dụng phương pháp thảo luận nhóm nên thực hiện ở hoạt động trọng tâm là hoạt động

hình thành kiến thức. Trong phạm vi giới hạn của luận văn thạc sỹ, tác giả cũng không

trình bày hết quy trình của từng hoạt động mà chỉ đề xuất quy trình thực hiện việc sử

dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với hoạt động hình thành kiến thức. Ở hoạt động

65

này, quy trình gồm các bước cụ thể như sau:

Bước 1: Nêu nội dung thảo luận nhóm

Đây là bước có tính chất quyết định không khí của tiết học và tiến trình giờ học.

Giảng viên giao bài tập, cung cấp thông tin về nội dung thảo luận nhóm cho sinh viên,

nêu rõ nhiệm vụ cần phải giải quyết. Khi đưa ra tình huống thảo luận nhóm giảng viên

cần vui vẻ, giọng nói truyền cảm để sinh viên tập trung vào thảo luận nhóm; phải bao

quát lớp để chắc chắn rằng tất cả sinh viên đều lắng nghe. Như thế, mục tiêu cần đạt

được ở bước này là định hướng giờ học theo quan điểm tư duy sáng tạo, dạy học tích

cực, kích thích nhu cầu nhận thức của sinh viên đồng thời chuyển trạng thái hoạt động

học tập của sinh viên từ thụ động sang tích cực, chủ động, ở bước này kết quả hoạt

động của giảng viên là một quá trình chuẩn bị chu đáo, thể hiện vai trò chủ động, sáng

tạo với việc hướng dẫn hành động của sinh viên.

Bước 2: Giải quyết nội dung nhóm thảo luận

Đối với bước này, tùy vào ý đồ giảng dạy mà giảng viên có thể tổ chức cho sinh

viên giải quyết vấn đề thông qua phương pháp thảo luận nhóm theo nhiều hình thức

khác nhau: Làm việc độc lập từng cá nhân, làm việc theo nhóm, thảo luận cả lớp. Sau

khi đưa ra nội dung thảo luận nhóm thì giảng viên cần dành một chút thời gian để sinh

viên đọc, nghiên cứu và đưa ra phương án giải quyết thông qua phương pháp thảo luận

nhóm. Ở bước này giảng viên là người đóng vai trò hướng dẫn và làm cố vấn, còn sinh

viên có nhiệm vụ chính là chỉ ra được đâu là mấu chốt, mâu thuẫn của nội dung thảo

luận để theo đó giải quyết đúng mâu thuẫn, tình huống nêu ra, tránh đi lạc đề hay giải

quyết không thấu đáo nội dung cần thảo luận.

Nhằm giúp sinh viên khắc phục được những khó khăn khi thảo luận nhóm, giảng

viên cần phải khéo léo vạch ra con đường tìm kiếm tri thức cho sinh viên thông qua hệ

thống câu hỏi liên quan đến thảo luận nhóm. Câu hỏi gợi mở, hướng dẫn của giảng

viên có tính chất hỗ trợ, dẫn dắt hành động của sinh viên. Vai trò chỉ đạo, làm cố vấn

của giảng viên còn tùy thuộc vào trình độ thảo luận nhóm của sinh viên. Khi hướng

dẫn sinh viên giải quyết tình huống bằng phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần

chú ý vào các mâu thuẫn chứa đựng trong nội dung đưa ra, căn cứ vào các mâu thuẫn

đó để hướng dẫn các thao tác tư duy cho sinh viên.

Sau một khoảng thời gian quy định, giảng viên yêu cầu từng cá nhân hoặc nhóm

66

lên thuyết trình, giải quyết nội dung được giao. Cả lớp cùng lắng nghe, thảo luận, đánh

giá về câu trả lời được nêu ra và đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh luận hướng vào

nội dung trọng tâm bài học.

Bước 3: Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng

Việc giải quyết vấn đề thông qua phương pháp thảo luận nhóm cuối cùng nhằm

mục đích giúp sinh viên rút ra được các khái niệm, thông qua đó nắm vững được tri

thức của bài học, hoàn thành nhiệm vụ nhận thức đã đặt ra. Công việc chủ yếu của

bước 3 là giảng viên nhận xét câu trả lời của người học, chỉ rõ phương án nào nên làm

và phương án nào không nên làm và đưa ra cách thảo luận nhóm chính xác và thuyết

phục nhất để giải quyết nội dung được giao. Xác nhận kiến thức, kĩ năng và phương

pháp mà sinh viên cần thu nhận được thông qua thảo luận nhóm. Ở giai đoạn này cần

yêu cầu sinh viên phải thành thạo trong việc đối chiếu kết quả thu được và lí thuyết đã

học.

Như vậy, việc thực hiện tuần tự các quy trình dạy học là nguyên tắc bắt buộc để

một giờ dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh có sử dụng phương pháp thảo luận

nhóm trong dạy học đạt hiệu quả. Trong mỗi bước của từng quy trình có những chức

năng, nhiệm vụ riêng không giống nhau. Nếu giảng viên xem nhẹ bất cứ một bước nào

trong quy trình đã nêu sẽ dẫn đến những sai sót ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giờ

dạy. Tất nhiên tùy theo đặc trưng của bài học, đặc điểm và trình độ người học, điều

kiện cơ sở vật chất… giảng viên có thể vận dụng các bước trên một cách linh hoạt và

sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng nhắc.

Những phần trình bày trên đây chỉ là chủ ý của tác giả được đúc kết từ kinh

nghiệm thực tiễn dạy học của bản thân, rất cần có sự bổ sung, phát triển bởi các nhà

khoa học.

2.4.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo

phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại

học Thái Nguyên

Kiểm tra, đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống, để xác định mức

độ đạt được về trình độ nắm kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng trình độ phát triển tư duy và

trình độ được giáo dục của người học trong quá trình dạy học. Về kiểm tra, đánh giá

kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo phương pháp thảo luận nhóm trong

67

dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an

ninh - Đại học Thái Nguyên cũng giống như các môn học khác thường được sử dụng

linh hoạt với các hình thức kiểm tra, đánh giá như sau:

Kiểm tra, đánh giá thường xuyên (kiểm tra vấn đáp): Việc kiểm tra, đánh giá

thường xuyên được tiến hành trong quá trình sinh viên thực hiện các nhiệm vụ học tập.

Hình thức này giảng viên có thể kiểm tra một cách linh hoạt tại mọi thời điểm có ở

trong một tiết học. Không nhất thiết chỉ kiểm tra bài cũ ở đầu tiết học như thường lệ

mà có thể kiểm tra kiến thức, kỹ năng vận dụng kiến thức trong tất cả các hoạt động

học tập. Bằng cách này giảng viên sẽ kích thích được sự hứng thú của sinh viên, làm

cho sinh viên hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài.

Kiểm tra, đánh giá định kì (kiểm tra viết): nhằm đánh giá kết quả giáo dục sau

một giai đoạn học tập, rèn luyện, xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của sinh

viên so với chuẩn kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình học. Việc kiểm tra,

đánh giá định kỳ kết quả học tập thường được tiến hành sau khi sinh viên học xong một

phần chương trình và sau khi kết thúc môn học. Hình thức kiểm tra, đánh giá định kì có

thể là viết tự luận hoặc trắc nghiệm, trong quá trình dạy học có vận dụng phương pháp

thảo luận nhóm, chúng tôi khuyến khích giảng viên sử dụng đề thi trong đó có xây dựng

tình huống để người học giải quyết. Việc làm này sẽ kích thích tính năng động, sáng tạo

và hình thành kỹ năng nghiên cứu độc lập cho sinh viên.

Từ việc nghiên cứu thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ở môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên, chúng tôi đề xuất quy trình kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của sinh

viên như sau:

Bước 1: Xác định mục tiêu kiểm tra - đánh giá:

Mục tiêu kiểm tra, đánh giá nhằm mục đích để xác định năng lực và kết quả học

tập của mỗi sinh viên, tạo cơ hội cho sinh viên phát triển kĩ năng tự đánh giá, giúp sinh

viên nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập. Bên cạnh đó,

việc kiểm tra, đánh giá còn giúp cho giảng viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm

mạnh và điểm yếu của mình, tự hoàn thiện hoạt động dạy, phấn đấu không ngừng nâng

cao chất lượng và hiệu quả dạy học.

Việc xác định đúng mục tiêu kiểm tra, đánh giá sẽ giúp giảng viên xây dựng,

68

lựa chọn các hình thức kiểm tra - đánh giá cho phù hợp.

Khi xác định mục tiêu đánh giá đảng viên nên phân rõ từng loại tiêu chí đánh giá,

đảm bảo kết quả kiểm tra, đánh giá được công bằng, khách quan đối với tất cả sinh viên,

nhất là đối với các đề kiểm tra, đánh giá chẵn, lẻ hoặc trắc nghiệm khách quan.

Bước 2: Lựa chọn đơn vị kiến thức cần kiểm tra, đánh giá và thiết kế công cụ

kiểm tra, đánh giá:

Việc lựa chọn đơn vị kiến thức và thiết kế công cụ kiểm tra, đánh giá môn Công

tác quốc phòng, an ninh cần phải được tiến hành một cách thận trọng, tỉ mỉ. Việc kiểm

tra, đánh giá nhằm mục đích kiểm tra trình độ nhận thức của sinh viên, giúp giảng viên

điều chỉnh, cải tiến, nâng cao chất lượng giảng dạy. Do đó, nếu công cụ kiểm tra - đánh

giá không phù hợp sẽ rơi vào các tình trạng: hoặc là chỉ đánh giá được tri thức mà

không đánh giá được toàn bộ kỹ năng của sinh viên, hoặc lại chỉ thiên về kỹ năng mà

không đánh giá được tri thức mà sinh viên cần phải đạt được.

Hiện nay đối với môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc

phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hình thức kiểm tra đánh giá định kì là trắc

nghiệm khách quan. Chính vì vậy, việc thiết kế hệ thống câu hỏi kiểm tra - đánh giá

phải đảm bảo về tính toàn diện, cụ thể của kiến thức và rèn luyện được các kỹ năng

cho sinh viên. Câu hỏi kiểm tra, đánh giá rõ ràng, tránh tình trạng chung chung, không

cụ thể. Đối với đề thi trắc nghiệm khách quan, khi xây dựng, giảng viên cần lưu ý đảm

bảo các yêu cầu sau:

- Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ sinh viên ở 6 mức độ,

từ đơn giản đến phức tạp: Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Phân tích, Tổng hợp, Đánh

giá:

Nhận biết : nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin, là mức độ, yêu cầu

thấp nhất của trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ sinh viên có thể và chỉ cần nhớ hoặc

nhận ra khi được đưa ra hoặc dựa trên những thông tin có tính đặc thù của một khái

niệm, một sự vật, một hiện tượng.

Thông hiểu : Hiểu được ý nghĩa của các khái niệm, hiện tượng, sự vật ; giải thích

được, chứng minh được, là mức độ cao hơn nhận biết nhưng là mức độ thấp nhất của

việc thấu hiểu sự vật, hiện tượng, nó liên quan đến ý nghĩa của các mối quan hệ giữa

69

các khái niệm, thông tin mà sinh viên đã học hoặc đã biết.

Vận dụng: Vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra

thông qua thảo luận nhóm: là khả năng đòi hỏi sinh viên phải biết vận dụng kiến thức

để giải quyết một vấn đề nào đó.

Phân tích: Chia thông tin ra thành các phần thông tin nhỏ sao cho có thể hiểu

được cấu trúc, tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.

Tổng hợp: Sắp xếp, thiết kế lại thông tin, các bộ phận từ các nguồn tài liệu khác

nhau và trên cơ sở đó tạo lập nên một hình mẫu mới.

Đánh giá: Bình xét, nhận định, xác định được giá trị của một tư tưởng, một phương

pháp, một nội dung kiến thức. Đây là một bước tiến mới trong việc lĩnh hội kiến thức được

đặc trưng bởi việc đi sâu vào bản chất của đối tượng, sự vật, hiện tượng.

- Nội dung đề kiểm tra, thi phải bao hàm đầy đủ các mức độ khác nhau của nhận

thức. Tuỳ theo tính chất, yêu cầu của mối kì thi để định ra lượng kiến thức dưa vào đề

kiểm tra, thi phù hợp với từng mức độ nhận thức.

- Đề kiểm tra thi phải có độ khó hợp lí, phù hợp với thời gian làm bài. Không

nên ra đề kiểm tra, thi kiểu phải học thuộc lòng, học vẹt. Đề kiểm tra, thi phải đánh giá

được khả năng lí giải, ứng dụng, phân biệt và phán đoán của sinh viên.

- Nội dung đề kiểm tra, thi tập trung đánh giá phạm vi kiến thức rộng, bao quát

chương trình học, tránh tập trung nhiều vào những mảnh nhỏ kiến thức sẽ dẫn đến

mảnh rời rạc, chắp vá trong kiến thức của sinh viên.

- Các yêu cầu đối với câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn:

+ Câu hỏi phải đánh giá những nội dung quan trọng của chương trình

+ Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí về mặt trình bày và số điểm tương ứng

+ Câu dẫn phải đặt ra câu hỏi trực tiếp hoặc một vấn đề cụ thể

+ Không nên trích dẫn nguyên văn những câu có sẵn trong giáo trình

+ Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi sinh viên

+ Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những sinh viên không nắm vững

kiến thức

+ Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức sai lệch của

sinh viên.

+ Đáp án đúng của câu hỏi này phải độc lập với đáp án đúng của các câu hỏi

70

khác trong bài kiểm tra

+ Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu dẫn

+ Mỗi câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, chính xác nhất

+ Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều đúng” hoặc “không có

phương án nào đúng”.

Với những dạng thức đề trắc nghiệm khách quan đánh giá dạy học bằng phương

pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần chú ý:

- Giảng viên phải xác định rõ mục tiêu môn học, mục tiêu bài học để lựa chọn

nội dung cho câu hỏi tự luận phù hợp với đối tượng sinh viên. Tránh đề xuất các tình

huống quá sức với học sinh hoặc quá dài học sinh không có thời gian giải quyết.

- Những nội dung đó phải được xây dựng trên cơ sở phát triển được các năng

lực, phẩm chất của sinh viên.

- Nếu các nội dung đó được sử dụng theo đề chẵn, lẻ thì các nội dung đó phải

có cùng một độ khó, dễ như nhau, thời gian để hoàn thành phải tương ứng nhau.

Bước 3: Thiết kế các câu hỏi theo ma trận, xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm:

Cần căn cứ vào bảng ma trận mới có thể xây dựng được câu hỏi, xác định số

lượng câu. Về hình thức: theo yêu cầu của kỹ thuật biên soạn câu trắc nghiệm khách

quan. Việc xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm đối với bài kiểm tra cần

đảm bảo yêu cầu: Về nội dung phải mang tính khoa học và chính xác; về cách trình

bày phải cụ thể, chi tiết nhưng ngắn gọn và dễ hiểu; Đáp án phải phù hợp với ma trận

đề kiểm tra.

Bước 4: Tổ chức kiểm tra.

Hoạt động này phải được tiến hành tại lớp, đảm bảo tính nghiêm túc, khách

quan, đúng quy chế để có thể đánh giá đúng năng lực của sinh viên.

Bước 5: Chấm bài kiểm tra

Bài kiểm tra được chấm khách quan. Giảng viên phải chấm bài trong trạng thái

tỉnh táo, vui vẻ, không được lồng bất cứ ý muốn chủ quan nào trong khi chấm bài để

đảm bảo tính công bằng tuyệt đối trong khi chấm.

Bước 6: Tập hợp kết quả, rút kinh nghiệm sau kiểm tra

71

Sau khi chấm xong, giảng viên cần tập hợp và phân tích kết quả bài kiểm tra của

sinh viên. Đối chiếu kết quả với mục tiêu chung của bài học, từ đó rút ra những bài học

hoặc kinh nghiệm cần thiết cho lần sau.

Bước 7: Trả bài kiểm tra

Đây là bước tất yếu phải có trong quy trình kiểm tra - đánh giá. Sau khi tổng

hợp kết quả, giảng viên phải để riêng những bài có điểm giỏi, điểm yếu để trước khi

trả bài, chữa và nêu lên những bài có điểm yếu đế sinh viên rút kinh nghiệm cho lần thi

kết thúc môn học.

2.5. Điều kiện vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh

PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh được tiến hành hiệu

quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó bao gồm các yếu tố chủ

quan và khách quan. Yếu tố chủ quan thuộc về giảng viên, sinh viên, yếu tố khách quan

là những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng đến TLN.

2.5.1. Điều kiện đối với giảng viên

Nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN là yếu tố quan

trọng có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức dạy học, quyết định việc xây dựng chủ đề thảo

luận, lựa chọn phương tiện dạy học, kỹ thuật dạy học. Sự hiểu biết sâu rộng về tri thức

môn học, các vấn đề liên quan đến cuộc sống và nghề nghiệp của giảng viên được coi là

nền tảng của việc tổ chức thảo luận nhóm cho người học. Từ những cơ sở nền tảng đó,

giảng viên sẽ xây dựng các chủ đề thảo luận hấp dẫn, lôi cuốn và kích thích sự nỗ lực

học tập của sinh viên. Việc nắm vững quy trình thực hiện PPTLN và các yêu cầu sư

phạm đặt ra khi thực hiện sẽ đảm bảo tính khoa học, có tác dụng to lớn trong việc tạo

dựng thành công trong học tập cho người học. Bên cạnh đó, việc am hiểu công nghệ

thông tin, lựa chọn các PPDH và kỹ thuật dạy học phù hợp với TLN của giảng viên trong

quá trình thực hiện làm cho người học hứng thú, phát huy vai trò của phương pháp này,

đồng thời hướng tới phát triển các năng lực của sinh viên.

Việc đánh giá hoạt động TLN của sinh viên cũng là một động lực kích thích sự

tham gia vào giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. Trên cơ sở đánh giá của giảng viên

đối với sinh viên cần kết hợp với sự đánh giá từ phía sinh viên (đánh giá lẫn nhau và

72

tự đánh giá). Sự kết hợp này khiến các em nỗ lực hơn trong TLN.

Nội dung chủ đề thảo luận nhóm trong môn học Công tác quốc phòng, an ninh.

Nếu chủ đề thảo luận nặng về lý thuyết, trừu tượng, không phù hợp với đối tượng khiến

sinh viên có tâm lý ngại nghiên cứu. Nội dung chủ đề TLN có ý nghĩa thực tiễn, gắn

với cuộc sống và đặc biệt là nghề nghiệp của người học bao nhiêu càng tác động đến

việc tìm tòi, nghiên cứu của sinh viên bấy nhiêu. Thái độ của người học đối với môn

học cũng dần được thay đổi. Sinh viên sẽ hứng thú và tích cực hơn trong quá trình thảo

luận.

2.5.2. Điều kiện đối với sinh viên

Đây được coi là môi trường bên trong của hoạt động dạy học nói chung và quá

trình sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng bao

gồm tiềm năng trí tuệ, xúc cảm, vốn sống, phong cách học và tính cách. Khi sử dụng

PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh, giảng viên cần khai thác và

huy động tất cả các giác quan của sinh viên, kết hợp TLN với PPDH trực quan. Một

điều đáng chú ý là các nơron thần kinh chỉ chuyển về thần kinh trung ương những thông

tin thực sự có ý nghĩa và người học quan tâm xử lý ra quyết định. Do vậy, giảng viên

phải chú ý đến tính vừa sức và tính hấp dẫn của chủ đề thảo luận.

Các giá trị sống của sinh viên cũng kích thích hứng thú và điều tiết sự hợp tác

của các thành viên trong nhóm. Các giá trị đó phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân và

môi trường sống và được truyền lại từ gia đình, nhà trường và xã hội. Nó quyết định

đến tính tự chủ, tinh thần trách nhiệm trong công việc và sự tôn trọng người khác trong

hoạt động nhóm. Vốn sống liên quan đến kinh nghiệm sống và kiến thức chiếm lĩnh

được ảnh hưởng trực tiếp đến TLN. Giảng viên sẽ tổ chức TLN dễ dàng hơn nếu sinh

viên có vốn sống phong phú.

2.5.3. Điều kiện về cơ sở vật chất

Một là, không gian dạy học.

Không gian lớp học rộng rãi, thoáng mát, yên tĩnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

việc giao tiếp, di chuyển hoạt động của các nhóm học tập. Không gian lớp học còn

được xem xét ở góc độ tâm lý nghĩa là một lớp học có không khí tích cực, cởi mở, tin

cậy và sẵn sàng hợp tác, một không gian đầy ắp tri thức và vốn sống của cả người dạy

73

lẫn người học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nhận thức, mỗi thành viên trong

lớp sẽ hào hứng và xác định được vị trí, trách nhiệm của bản thân mình.

Hai là, các phương tiện, vật chất phục vụ TLN.

Ngoài không gian rộng rãi, các phương tiện vật chất phục vụ cho TLN cần đầy

đủ để phối hợp với PP này trong quá trình thực hiện. Điều đó giúp SV có một môi

trường tương tác thuận lợi nhất nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của TLN. Để PPTLN

phát huy hiệu quả, khi kết hợp với phương pháp trực quan cần phải có hệ thống máy

chiếu, máy tính để trình chiếu, hình ảnh, phim tư liệu… Giáo trình môn học cùng với

nguồn tài liệu tham khảo cũng là một yếu tố không thể thiếu để làm lên thành công của

TLN.

74

Kết luận chương 2

Trên cơ sở khái quát đặc điểm tình, khái quát đặc điểm sinh viên về Trung tâm

giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, đề tài đã đánh giá thực trạng

dạy học môn về Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và

an ninh - Đại học Thái Nguyên nói chung và thực trạng việc vận dụng phương pháp

thảo luận nhóm trong dạy học phần Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo

dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên nói riêng trên cả bình diện những

kết quả đạt được và hạn chế. Đề tài cũng đã xác định các nguyên tắc và quy trình thiết

kế bài giảng; quy trình thực hiện bài giảng bằng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong một tiết học; quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với

giờ dạy được sử dụng bằng phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc

phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn

thực nghiệm vấn đề này ở chương 3.

75

Chương 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC

QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG

VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

3.1. Thực nghiệm sư phạm

3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm

3.1.1.1. Mục đích của thực nghiệm

Tác giả tiến hành thực nghiệm sư phạm trước tiên để kiểm tra và đánh giá một

cách khách quan, toàn diện, chính xác nhất về tính cấp thiết, tính hiệu quả và khả thi

của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc

phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên.

Kết quả của thực nghiệm sư phạm một mặt giúp đánh giá tính hiệu quả của hoạt

động dạy học theo tiến trình đã soạn thảo đối với việc phát huy tính tích cực của sinh

viên thông qua việc đối chiếu và so sánh kết quả học tập ở lớp thực nghiệm với lớp đối

chứng. Mặt khác, còn giúp tác giả luận văn rút ra được những ưu điểm và hạn chế của

việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng,

an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Qua đó,

điều chỉnh, bổ sung nhằm hoàn thiện quy trình, điều kiện vận dụng phương pháp thảo

luận nhóm một cách hợp lý và khoa học.

3.1.1.2. Giả thuyết thực nghiệm

Nếu quy trình vận dụng phương pháp phương pháp thảo luận nhóm trong dạy

học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh

- Đại học Thái Nguyên được xây dựng là đúng đắn, khoa học sẽ góp phần nâng cao

hiệu quả dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh theo hướng phát triển năng lực

của sinh viên: kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng phản biện xã hội, kỹ năng lập luận,

kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình. Qua đó, sinh viên

còn tự đánh giá được nội dung, tự động lĩnh hội kiến thức lý thuyết sau khi nghiên cứu

và thảo luận nhóm. Nghiên cứu và thảo luận nhóm còn giúp một số sinh viên dần khắc

phục hạn chế của mình về vấn đề nhút nhát, ngại tư duy, ngại tranh luận qua đó sẵn

76

sàng tiếp nhận những thông tin tích cực, biết vận dụng tri thức để giải quyết những vấn

đề thực tiễn trong cuộc sống và rút ra bài học cho bản thân. Vì vậy tác giả tiến hành

thực nghiệm giải thuyết đã nêu.

3.1.1.3. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm và đối chứng

* Thời gian thực nghiệm: Học kì 2 năm học 2019-2020

Từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 4 của khóa K28 - CN1

- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thực nghiệm (tháng 5- 2020)

+ Lựa chọn lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.

+ Khảo sát kết quả đầu vào của lớp ở trường Đại học kỹ thuật công nghiệp thực

nghiệm và lớp đối chứng.

+ Nghiên cứu nội dung và lựa chọn đơn vị kiến thức thực nghiệm. Tiến hành

thực nghiệm trên cơ sở cùng một nội dung kiến thức cho lớp thực nghiệm và lớp đối

chứng.

+ Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy bằng phương pháp thảo luận nhóm.

- Giai đoạn 2: Tiến hành thực nghiệm (tháng 5- 2020)

+ Tiến hành dạy học theo giáo án thực nghiệm.

+ Tiến hành dạy học không vận dụng phương thảo luận nhóm.

- Giai đoạn 3: Đánh giá kết quả thực nghiệm (tháng 6 - 2020)

+ Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá.

+ Phân tích, xử lý kết quả thực nghiệm.

+ Rút ra kết luận cần thiết.

* Địa điểm thực nghiệm:

Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên

* Đối tượng thực nghiệm và đối chứng:

Đối tượng của thực nghiệm là những sinh viên khóa K28 - CN1 (hệ Đại học -

khóa K55 Trường Đại học Kĩ thuật công nghiệp), và được chia thành hai loại lớp là lớp

thực nghiệm và lớp đối chứng. Các lớp thực nghiệm và đối chứng được tiến hành như

sau:

77

Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm

Tên khóa Tên lớp thực nghiệm Tên lớp đối chứng

K28 - CN1 Lớp số 16,17,18 Lớp số 4,5,6

Để đảm bảo tính khoa học và chính xác của kết quả thực nghiệm, chúng tôi đã

tiến hành khảo sát và lựa chọn các lớp thực nghiệm đồng đều về trình độ. Học lực của

sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng là tương đương nhau, chênh lệch

không đáng kể. Vì vậy, độ tin cậy trong quá trình điều tra, khảo sát thực nghiệm sẽ

được đảm bảo hơn.

3.1.2. Nội dung thực nghiệm

3.1.2.1. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm

Do nội dung chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh khá rộng. Trong

phạm vi của đề tài, tác giả chỉ lựa chọn một số đơn vị kiến thức trong 2 bài để tiến hành

dạy thực nghiệm và đối chứng (không tiến hành thực nghiệm đối với những tiết học

thực hành, ngoại khóa, các tiết làm bài kiểm tra và các tiết hướng dẫn ôn tập). Cụ thể

như sau:

Giáo án số 1

Bài B1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam

Giáo án số 2

Bài B7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

3.1.2.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm

Quá trình thiết kế giáo án vận dụng phương pháp thảo luận nhóm được thiết kế

dựa trên: Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh và các nguồn tài liệu tham khảo

khác để lấy thông tin qua đó để làm rõ trọng tâm bài học và mục tiêu cần đạt.

Giáo án thực nghiệm được chúng tôi thiết kế căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ

năng, thái độ của môn học, của từng bài, từng đơn vị kiến thức.

Giáo án của lớp thực nghiệm được thiết kế dựa trên các nguyên tắc: không làm

thay đổi chương trình, kế hoạch, nội dung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

tuân thủ các bước lên lớp và phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của đơn vị.

78

Các yêu cầu cơ bản cần đảm bảo của giáo án thực nghiệm:

* Về mục đích của bài học

Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên giúp sinh viên tự lực chiếm lĩnh

tri thức cơ bản của nội dung bài học và hình thành, rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên,

bao gồm kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng phản biện xã hội, kỹ năng lập luận, kỹ

năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình. Sinh viên còn tự đánh

giá được nội dung, tự động lĩnh hội kiến thức lý thuyết sau khi nghiên cứu và thảo luận

nhóm. Nghiên cứu và thảo luận nhóm còn giúp một số sinh viên dần khắc phục hạn

chế của mình về vấn đề nhút nhát, ngại tư duy, ngại tranh luận qua đó sẵn sàng tiếp

nhận những thông tin tích cực, biết vận dụng tri thức để giải quyết những vấn đề thực

tiễn trong cuộc sống và rút ra bài học cho bản thân.

* Về phương pháp dạy học:

Trong giờ học, không phải toàn bộ thời gian dành cho việc vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm mà tác giả chỉ vận dụng cho những vấn đề kiến thức trọng tâm

gắn với mục tiêu giáo dục thái độ và hình thành các kỹ năng tương ứng cho sinh viên.

Ngoài ra tác giả còn kết hợp các phương pháp dạy học khác như nêu vấn đề, phương

pháp tình huống, thuyết trình, đàm thoại. Theo đó, hoạt động của giảng viên được tiến

hành theo tuần tự các bước.

* Chuẩn bị:

Trước hết, giảng viên căn cứ vào số lượng, trình độ nhận thức của sinh viên và

nội dung bài học để tiến hành chia nhóm. Sau đó, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm sinh

viên. Sinh viên ghép nhóm theo quy định, nhận nhiệm vụ, nội dung/câu hỏi thảo luận

và tiến hành thảo luận nhóm dưới sự định hướng của giảng viên.

Khi thiết kế bài tập, vấn đề thảo luận nhóm, tác giả cũng linh hoạt trong việc lựa

chọn các vấn đề để tránh sự nhàm chán, đơn điệu, kích thích hứng thú học tập của sinh

viên và đảm bảo tính vừa sức đối với sinh viên ở Trung tâm.

Trong giờ học, không phải toàn bộ thời gian dành cho việc thảo luận nhóm mà

chúng tôi chỉ thảo luận những vấn đề phức tạp, trọng tâm, lý thú, buộc sinh viên phải

tư duy. Tùy thuộc vào nội dung bài học mà chúng tôi lựa chọn vấn đề thảo luận nhóm

cho phù hợp. Ngoài ra, trong một tiết học, chúng tôi kết hợp các phương pháp dạy học

79

khác như dạy học nêu vấn đề, đàm thoại, dạy học tình huống và thuyết trình những nội

dung khó.

* Thực hiện nội dung:

Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho sinh viên, giảng viên tiến hành tổ chức cho

sinh viên trong các nhóm tiến hành thảo luận.

Khi thiết kế một giáo án dạy học có vận dụng phương pháp thảo luận nhóm,

chúng tôi tuân thủ theo các bước cơ bản:

Bước 1: Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của bài học bao gồm cả nội dung tri thức,

kỹ năng và thái độ. Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên giúp sinh viên tự lực

chiếm lĩnh tri thức cơ bản của nội dung bài học và hình thành, rèn luyện các kỹ năng

cho sinh viên.

Bước 2: Thiết kế, lựa chọn vấn đề, tình huống, chủ đề thảo luận. Để có được

những tình huống, chủ đề thào luận những vấn đề đưa ra phù hợp, đảm bảo tính vừa

sức đối với sinh viên ở các trường Đại học, chúng tôi thiết kế, lựa chọn các vấn đề, các

tình huống, chủ đề thuộc về giáo dục quốc phòng - an ninh. Tùy từng đơn vị kiến thức,

vấn đề chúng tôi nêu ra có thể là những tình huống, chủ đề thường nảy sinh trong thực

tế.

Tùy từng nội dung bài học, giảng viên cần chuẩn bị chu đáo những vấn đề để

đưa ra cho sinh viên tiếp cận từ tiết học trước để sinh viên nghiên cứu và đưa ra cách

giải quyết vấn đề trong tiết học kế tiếp. Giảng viên cũng có thể chuẩn bị những tình

huống, chủ đề vấn đề để đưa ra ngay trong tiết học và yêu cầu sinh viên độc lập suy

nghĩ, trả lời theo phương thức đàm thoại. Ở những tình huống thường xuất hiện cách

hiểu khác nhau thì giảng viên cần lựa chọn hình thức thảo luận nhóm phù hợp.

Bước 3: Xác định trọng tâm bài học và phân bổ thời lượng tiết học. Với mỗi

giáo án thực nghiệm, trọng tâm bài học cần được giáo viên xác định rõ ràng ở từng tiết

học theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Bước 4: Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học và phương pháp dạy học. Về

nguyên tắc, cần xem thảo luận nhóm là phương pháp chủ đạo. Ở một vài nội dung bài

dạy có kết hợp với một số phương pháp dạy học khác như thuyết trình, nêu vấn đề,

đàm thoại...

80

Bước 5: Xác định tài liệu học tập và phương tiện dạy học. Tài liệu học tập phục vụ

cho giờ học là Giáo trình. Phương tiện dạy học cho các giáo án thực nghiệm bao gồm giáo

án, máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, video liên quan đến nội dung bài học.

Bước 6: Thiết kế, hoàn thiện giáo án thực nghiệm.

THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 1 (Xem phụ lục 1, tr.101 )

THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2 (Xem phụ lục 1, tr.111 )

3.1.2.4. Tiến hành thực nghiệm

Để tiến hành thực nghiệm, trên cơ sở xin phép Trung tâm, trao đổi với Tổ bộ

môn về kế hoạch thực nghiệm của mình. Sau đó, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm

theo thời khoá biểu đã được sắp xếp và tôi có mời giảng viên trong tổ bộ môn đi dự để

đánh giá giờ dạy một cách khách quan.

Đối với các lớp thực nghiệm, chúng tôi đã dạy cùng một giáo án có sử dụng

phương pháp thảo luận nhóm kết hợp với phương pháp thuyết trình, đàm thoại, nêu

vấn đề theo từng đơn vị kiến thức như giáo án thực nghiệm đã thiết kế.

Ở các lớp đối chứng, chúng tôi đã dạy cùng một giáo án, trong đó không sử dụng

phương pháp thảo luận nhóm mà chủ yếu là phương pháp thuyết trình, đàm thoại (với

những câu hỏi thiên về lý thuyết).

Sau mỗi tiết dạy ở cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, chúng tôi đánh giá kết

quả nhận thức, đánh giá kỹ năng, thái độ được hình thành, phát triển, được giáo dục ở

sinh viên thông qua bài kiểm tra, thông qua một bài thu hoạch với cùng lượng kiến thức

và yêu cầu như nhau, đồng thời tôi tiến hành phát phiếu phản hồi lấy ý kiến người học

về giờ dạy.

Khi dạy giáo án thực nghiệm, trước những vấn đề đưa ra, tôi đã lựa chọn hình

thức đàm thoại, thảo luận nhóm theo hình thức phản biện lẫn nhau kết hợp với sắm vai

để giờ học trở nên sinh động, thu hút sự chú ý và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng

tạo của sinh viên.

Khi thực hiện bước luyện tập, củng cố, giảng viên chú trọng đến kỹ năng nhận

diện, phân tích, đánh giá, vận dụng lý thuyết vào giải quyết tình huống cụ thể, đặc biệt

với mỗi tình huống đưa ra, giáo viên luôn cố gắng quan sát, định hướng và khích lệ

những sinh nhút nhát mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân trước tập thể.

81

3.1.2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên

Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là khâu rất quan trọng

trong quá trình tiến hành thực nghiệm. Sau khi dạy xong từng bài thực nghiệm, tác giả

tiến hành kiểm tra sinh viên cả ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Các nhóm có

cùng một bài kiểm tra, lượng thời gian như nhau.

Mục tiêu kiểm tra, đánh giá:

- Về kiến thức: Kiểm tra, đánh giá mức độ (nhớ, hiểu, vận dụng) của sinh viên

về các giáo dục quốc phòng, an ninh theo những nội dung đã học: Phòng chống chiến

lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng

Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

- Về kỹ năng:

Một là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết

trình của sinh viên.

Hai là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng nhận, đánh giá quan niệm đúng đắn hoặc sai

lầm về Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực

thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ

quốc.

Ba là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để liên hệ đến trách

nhiệm công dân, trách nhiệm của bản thân đối với các vấn đề Phòng chống chiến lược

"diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt

Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

- Về thái độ: Kiểm tra, đánh giá thái độ đồng tình, ủng hộ các quan niệm đúng

đắn và phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Phòng chống chiến lược "diễn biến

hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây

dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc..

Lựa chọn đơn vị kiến thức kiểm tra, đánh giá:

Bài kiểm tra được thiết kế kết hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan với

tự luận.

Để phân loại được mức độ nhận thức và kỹ năng của sinh viên, các kiến thức

trong đề kiểm tra được chúng tôi thiết kế theo 3 mức độ: nhớ, hiểu và vận dụng vào

thực tiễn.

82

Chúng tôi lựa chọn kiến thức kiểm tra thuộc những nội dung đã học trong 2 bài:

Bài B1: Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực

thù địch đối với cách mạng Việt Nam, Bài B7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ

an ninh tổ quốc.

Đề kiểm tra (xem phụ lục 10)

Tổ chức kiểm tra:

Với cùng một đề bài, chúng tôi tiến hành kiểm tra ở cả lớp thực nghiệm và lớp

đối chứng. Quá trình kiểm tra diễn ra khách quan, nghiêm ngặt đảm bảo không có biểu

hiện tiêu cực trong quá trình học sinh viên làm bài.

Tổ chức chấm bài kiểm tra:

Sau khi kiểm tra, chúng tôi tiến hành chấm bài theo đáp án được thiết kế theo

thang điểm 10.

Tổng hợp kết quả và trả bài kiểm tra:

Trên cơ sở tổng hợp kết quả, phân loại bài kiểm tra, chúng tôi tiến hành trả bài

kiểm tra, công khai thang điểm, đáp án trước lớp, nhận xét chung về chất lượng bài

kiểm tra và giải đáp những thắc mắc của sinh viên.

3.1.3. Kết quả thực nghiệm

3.1.3.1. Trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

Khảo sát trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả học

tập môn công tác quốc phòng, an ninh của sinh viên thể ở các bảng số liệu dưới đây:

Bảng 3.2. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và đối chứng

Giỏi Khá Trung bình Yếu Phân loại

Số Tỷ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

Tên lớp lượng lệ % lượng % lượng % lượng %

Lớp Đối chứng

(120 sinh viên) 20 16,7 55 45,8 45 37,5 0 0

Lớp 4,5,6

Lớp Thực nghiệm

(120 sinh viên) 30 24,9 80 66,6 10 8,5 0 0

Lớp 16,17,18

83

So sánh kết quả học tập ở hai nhóm lớp đối chứng và thực nghiệm, chúng tôi có

nhận xét sau:

- Một là: Học lực của sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng là

tương đương nhau, chênh lệch không đáng kể, 100% sinh viên có điểm kiểm tra điều

kiện môn công tác quốc phòng , an ninh ở mức trung bình trở lên, không có sinh viên

có điểm kém.

- Hai là: Kỹ năng làm bài của sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối

chứng chênh lệch không đáng kể, hầu hết ở mức trung bình khá. Khả năng ghi nhớ, tái

hiện kiến thức tương đối tốt. Tuy nhiên, khả năng suy luận, đánh giá, giải quyết vấn đề

nảy sinh trong thực tiễn còn yếu.

3.1.3.2. Phân tích, đánh giá kết quả sau thực nghiệm

Sau khi thực nghiệm, chúng tôi phân tích, đánh giá kết quả vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng , an ninh tại Trung tâm

giáo dục quốc phong và an ninh - Đại học Thái Nguyên qua quan sát mức độ hứng thú,

tính tích cực tham gia trao đổi, thảo luận của sinh viên; qua kết quả kiểm tra điểm điều

kiện của sinh viên về các kiến thức ở bài (tiết trong chương trình Giáo dục quốc phòng

- an ninh; qua điều tra xã hội học đối với 100 sinh viên; qua trao đổi chuyên môn với

5 giảng viên tham gia giảng dạy các lớp thực nghiệm, lớp đối chứng và các giảng viên

trong tổ bộ môn đi dự giờ.

Kết quả thực nghiệm được đánh giá trên các bình diện sau:

Một là: Tính tích cực tự giác và hứng thú của sinh viên trong giờ học môn Công

tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:

Bằng phương pháp phỏng vấn cùng với kết quả phiếu điều tra và qua quan sát

thái độ của sinh viên trong giờ học có đối chiếu, so sánh giữa giờ học có sử dụng

phương pháp thảo luận nhóm với giờ học bằng phương pháp dạy học truyền thống, cho

thấy, trong giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sinh viên tích cực, tự giác,

hứng thú hơn trong học tập, tập trung, tham gia vào các hoạt động học tập, ngày càng

phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của mình.

84

Bảng 3.3. Mức độ hứng thú học tập của SV

Các mức độ

Bình Số Rất Không Lớp Hứng thú Ít hứng thú thường SV hứng thú hứng thú

SL % SL % SL % SL % SL %

120 19 15,9 15 12,6 36 29,9 14 11,7 36 29,9 ĐC

120 54 44,9 34 28,3 14 11,7 10 8,3 8 6,8 TN

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)

Từ kết quả thống kê ở bảng trên, chúng ta thấy, 44,9% sinh viên các lớp thực

nghiệm đều thể hiện ý kiến rất hứng thú và 28,3% sinh viên khẳng định hứng thú với

phương pháp thảo luận nhóm. Trong khi đó ở lớp đối chứng, có tới 29,9% ý kiến sinh

viên cho rằng, không hứng thú với môn học. Khi trao đổi trực tiếp với giảng viên, nhiều

giảng viên khẳng định: Với phương pháp thảo luận nhóm, tình trạng sinh viên thụ động,

uể oải trong giờ học đã giảm tương đối nhiều, về cơ bản sinh viên đã tích cực tham gia

các hoạt động học tập do giảng viên thiết kế.

Ngoài ra, khi trao đổi với giảng viên khác và trên cơ sở quan sát các tiết dạy, tác

giả nhận thấy ở các lớp thực nghiệm, thái độ học tập của sinh viên tốt hơn, các em chủ

động, tích cực trao đổi, thảo luận về nội dung bài học và chiếm lĩnh tri thức dưới vai

trò định hướng, tổ chức, dẫn dắt của giảng viên.

Hai là, vai trò, ý nghĩa của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên:

Với việc phát phiếu trả lời các câu hỏi về phương pháp thảo luận nhóm cho một

số lớp tham gia thực nghiệm, số sinh viên trả lời phiếu điều tra là 120 em. Sau khi điều

tra, chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng sau:

85

Bảng 3.4. Thái độ học tập của sinh viên đối với giờ học thảo luận nhóm

TT Câu hỏi Phương án trả lời Tỷ lệ

1 Mức độ hiểu bài học của SV

Số ý kiến 100 15 5 83% 12,6% 4,4%

90 74,7%

2 Cảm nhận của SV về giờ học phương pháp thảo luận nhóm 25 20,9%

5 4,4%

3

Mức độ hứng thú của SV sau giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm 95 15 10 79,1% 12,6% 8,3%

14 11,6%

4

Vai trò của Phương pháp thảo luận nhóm đối với việc hình thành, phát triển kỹ năng của SV

Có hiểu bài Hiểu ít Không hiểu bài Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn. Bình thường như những giờ học khác Không thích giờ học như vậy Hứng thú Bình thường Không hứng thú Giúp SV biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm Hình thành ở SV kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi nhớ vấn đề. Tất cả các kỹ năng trên Rất muốn Bình thường 10 96 87 25 8,3% 80,1% 72,4% 20,9%

5 Không thích 8 6,7%

Mức độ mong muốn của SV tiếp tục được học phương pháp thảo luận nhóm trong tác quốc môn học Công phòng, an ninh

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)

Rõ ràng, thông qua phương pháp thảo luận nhóm, đại đa số sinh viên đều hiểu

bài, trên thực tế 80% sinh viên đã thừa nhận ý nghĩa đó; sinh viên hứng thú với môn

học nhiều hơn thay vì thụ động tiếp nhận kiến thức một chiều (79,1% ý kiến hứng thú),

bài học cũng hấp dẫn hơn, sinh động hơn và giờ học thêm phần sôi nổi, tích cực (74,7%

ý kiến khẳng định). Mặt khác, qua nêu vấn đề sinh viên cũng nhận thấy một số kỹ năng

được hình thành và phát triển như kĩ năng giải quyết vấn đề, phản biện, làm việc nhóm

86

đồng thời phát huy tính sáng tạo, kích thích nhu cầu khám phá, giải quyết vấn đề của

sinh viên. Những ý nghĩa này đều được sinh viên ở lớp thực nghiệm đánh giá cao với

khoảng 80,1% ý kiến. Trên thực tế đã có 72,4% ý kiến sinh viên cho rằng rất muốn

được tiếp tục được học với phương pháp thảo luận nhóm.

Ba là, kết quả kiểm tra điểm điều kiện của sinh viên ở bộ môn công tác quốc

phòng, an ninh tại Trung tâm.

Nhằm đánh giá khả năng nắm bắt tri thức và kết quả học tập của sinh viên, chúng

tôi tiến hành kiểm tra sử dụng thang điểm 10. Các điểm số được phân làm bốn mức độ

sau:

1. Loại giỏi: Từ điểm 9 đến 10

2. Loại khá: Từ điểm 7 đến 8

3. Loại trung bình: Từ điểm 5 đến 6

4. Loại yếu kém: Các điểm từ dưới 5

Dưới đây là bảng kết quả kiểm tra 1 tiết của sinh viên lớp đối chứng và lớp thực

nghiệm sau khi dạy bằng phương pháp thảo luận nhóm:

Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra điểm điều kiện sau thực nghiệm

Giỏi Khá Trung bình Yếu Phân loại

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

Tên lớp lượng % lượng % lượng % lượng %

Lớp ĐC (120) 20 16,6% 40 33,4% 60 50% 0 0

Lớp TN (120) 45 37,4% 60 50% 15 12,6% 0 0

Kết quả cho thấy, có sự khác nhau về các mức độ điểm: giỏi, khá, trung bình,

yếu ở hai nhóm lớp. Các lớp thực nghiệm, sinh viên đạt điểm yếu kém, trung bình

chiếm tỉ lệ thấp: Trung bình 12,6%, trong khi tỉ lệ sinh viên đạt điểm khá, giỏi tương

đối cao: Khá 50%; giỏi 37,4%.

Ở các lớp đối chứng, sinh viên đạt khá, giỏi chiếm tỉ lệ thấp hơn lớp thực

nghiệm: Khá 33,4%; giỏi 16,6%, trong khi tỉ lệ sinh viên đạt điểm yếu, trung bình cao

hơn lớp thực nghiệm: Trung bình 50%.

Sự khác biệt về kết quả học tập giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng tiếp tục

là một trong những căn cứ khẳng định tính hiệu quả của các bài kiểm tra thực nghiệm

87

với cách thức dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm đã tiến hành. Điều này giúp

chúng tôi khẳng định rằng, giả thuyết mà đề tài đưa ra là hoàn toàn đúng đắn. Chất

lượng học tập của sinh viên lớp đối chứng thấp hơn lớp thực nghiệm chứng tỏ việc vận

dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong quá trình dạy học đã góp phần nâng cao

chất lượng dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc

phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Kết luận thực nghiệm:

Chủ trương đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hướng tới phát triển năng lực

người học tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng phương pháp dạy học

tích cực trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Đây cũng là xu thế chung của giáo

dục Việt Nam nên được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội.

Qua quá trình thực nghiệm cho thấy nội dung chương trình môn công tác quốc

phòng, an ninh rất phù hợp để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm. Hơn nữa,

phương pháp dạy học này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý sinh viên, phát huy được

năng lực sáng tạo và giúp cho sinh viên thể hiện được quan điểm và tài năng của mình.

Do đó, khi giảng viên sử dụng phương pháp này được sinh viên ủng hộ, đón nhận tích

cực.

Từ sự phân tích các kết quả thu được trong quá trình thực nghiệm phương pháp

thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh, căn cứ vào kết quả

khảo sát, điều tra xã hội học lấy ý kiến giảng viên và sinh viên, trao đổi trực tiếp với

sinh viên và giảng viên bộ môn, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc

phòng, an ninh có nhiều ưu điểm và hạn chế nhất định.

Những ưu điểm:

Trước hết, phương pháp này góp phần rèn luyện và nâng cao các kỹ năng mềm

cho sinh viên, cụ thể là các kỹ năng sau:

- Rèn luyện khả năng nhận thức, tư duy sâu sắc cho sinh viên: Học theo phương

pháp thảo luận nhóm , sinh viên không chỉ được học bằng cách nghe giảng mà chủ yếu

được học bằng cách làm. Tri thức mà sinh viên tiếp nhận được là những điều sinh viên

đã tìm hiểu, đúc rút từ sự tư duy, khám phá, phát hiện, trao đổi với bạn trong nhóm,

88

các bạn khác nhóm, sau cùng giảng viên chốt lại. Cho nên, sinh viên sẽ hiểu bài hơn

và hệ thống hoá kiến thức tốt hơn. Qua đó, sinh viên phát triển được năng lực tự học

và năng lực sáng tạo giải quyết vấn đề. Điều đó mang lại giá trị giáo dục và tính thực

tiễn cao, kích thích sự say mê học tập, tìm tòi, khám phá tri thức mới và vận dụng kiến

thức bài học vào giải quyết các vấn đề cuộc sống đặt ra. So với các phương pháp dạy

học truyền thống - kiến thức vốn được coi là bị nhồi nhét, sinh viên chán học, thụ động

trọng giờ học… thì phương pháp thảo luận nhóm đã xóa bỏ được định kiến môn học

“khô và khó” của môn Công tác quốc phòng, an ninh.

- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt, trình bày: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm

ngoài việc giúp sinh viên rèn luyện năng lực phân tích nội dung, nó còn tạo điều kiện

tốt cho sinh viên rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời và bằng văn bản viết. Học theo

hình thức thảo luận nhóm giúp sinh viên có cơ hội được nói, được trình bày, được bảo

vệ những chính kiến của bản thân. Ngoài ra sinh viên còn được rèn luyện về kỹ năng

diễn đạt, giao tiếp.

- Rèn luyện năng lực phân tích tình huống: Một trong những yếu tố cần hướng

tới trông quá trình học môn Công tác quốc phòng , an ninh là đòi hỏi sinh viên phải

hình thành cho mình năng lực phân tích tình huống. Điều này giúp sinh viên ghi nhớ

kiến thức môn học một cách lâu bền.

- Rèn luyện kỹ năng giao tiếp xã hội: Phương pháp thảo luận nhóm có tác động

tích cực đến việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên. Tham gia thảo luận nhóm

sinh viên được tạo cơ hội để rèn luyện cách ứng xử với những người xung quanh. Biết

cách lắng nghe người khác nói, biết cách phản hồi, chia sẻ kiến thức, có kinh nghiệm

giải quyết những bất đồng.

- Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên được phát huy:

Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm đã buộc sinh viên phải tư duy,

phải sáng tạo khi trao đổi kiến thức với nhóm, với lớp. Muốn làm được như vậy thì

sinh viên phải tìm kiếm thông tin ở nhiều nơi, trên nhiều phương tiện. Điều đó giúp các

em năng động hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Chúng tôi đã chỉ cho sinh viên phương

pháp học tập cần thiết, cách tham khảo tài liệu như thế nào để mang lại hiệu quả cao

trong học tập.

89

Học theo phương pháp thảo luận nhóm, sinh viên cảm thấy hứng thú vì các em

đã tìm được niềm vui khi tự khám phá ra điều mới mẻ, thực sự làm chủ những kiến

thức bản thân tìm được. Chính vì thế, sau thời gian được học theo hình thức thảo luận,

đa số sinh viên không ngại học mà ngược lại các em còn rất hứng thú.

Một số hạn chế:

- Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm luôn đòi hỏi cả giảng viên và

sinh viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức. Nếu giảng viên không lựa chọn

đúng đơn vị kiến thức, sẽ dẫn tới giờ học sa đà, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến

đơn vị kiến thức khác. Thậm chí, sự khác nhau trong tư duy, trong cách nhìn nhận, giải

quyết vấn đề giữa các sinh viên cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn.

- Một hạn chế nữa dễ nhận thấy của phương pháp thảo luận nhóm khi vận dụng

vào dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và

an ninh - Đại học Thái nguyên là không phải tất cả mọi sinh viên đều tích cực trong

tham gia thảo luận. Có sinh viên còn ỷ lại các bạn khác. Trên thực tế, qua quan sát

chúng tôi thấy rằng, một số sinh viên vẫn còn e dè không tham gia thảo luận nhóm

hoặc làm việc riêng trong quá trình thảo luận…Điều này đòi hỏi giảng viên phải liên

tục kiểm tra, nhắc nhở những sinh viên không tích cực trong việc chuẩn bị kiển thức ở

nhà, dẫn tới tình trạng nhiều khi giảng viên cũng mệt mỏi.

- Khó khăn không thể bỏ qua của việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm là

vấn đề thời gian. Thời lượng ở nhiều bài học còn quá ít để đáp ứng yêu cầu về dung

lượng kiến thức, kĩ năng sinh viên cần đạt được. Để khắc phục tình trạng này, chúng

tôi thường yêu cầu sinh viên đọc bài và soạn bài thật kĩ ở nhà.

- Ngoài những hạn chế trên, phương pháp thảo luận nhóm còn một số hạn chế

khác như phương pháp này không thể áp dụng được cho nhiều đơn vị kiến thức; nếu

quá lạm dụng phương pháp này trong một giờ học cũng sẽ tạo sự nhàm chán cho sinh

viên.

Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng về cơ bản kết quả thực nghiệm cho

thấy, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn công tác quốc phòng,

an ninh là có tính khả thi, có giá trị sư phạm cao.

90

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong

dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng

và An ninh - Đại học Thái Nguyên

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cấp quản lý

Một là, Ban giám đốc Trung tâm cần nhận thức thấu đáo tính cấp thiết của việc

đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp thảo luận nhóm theo định

hướng phát triển năng lực cho người học

Ban giám đốc Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên cần xem việc giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ giáo

dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên - một nhiệm vụ căn bản, thường xuyên mà mỗi

Nhà trường, Trung tâm đều phải quan tâm thỏa đáng. Trước yêu cầu của quá trình hội

nhập, phát triển trong xu thế đa văn hóa, trước tác động nhiều chiều từ mặt trái của kinh

tế thị trường, lập trường chính trị, tư tưởng của nhiều sinh viên đã có sự dao động. Xuất

hiện khá phổ biến trong sinh viên ở các trường Cao đẳng, Đại học với tư tưởng coi

trọng lối sống thực dụng, thờ ơ, bàng quan với các vấn đề chính trị - xã hội của đất

nước. Vì vậy, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp thảo

luận nhóm theo đinh hướng phát triển năng lực cho người học là yêu cầu cấp thiết hiện

nay, đặc biệt là năng lực phản biện xã hội, năng lực nhận diện, đánh giá và phê phán

các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình

và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

- Ban giám đốc Trung tâm cần có quan điểm chỉ đạo ưu tiên đổi mới phương

pháp dạy học, khắc phục tư duy ngại suy nghĩ và tính nhút nhát, thiếu kĩ năng giải quyết

vấn đề của một bộ phận lớn sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học ở Đại học Thái

Nguyên hiện nay.

Hai là, Ban giám đốc Trung tâm cần cần xác định đổi mới phương pháp dạy

học là hoạt động trọng tâm trong kế hoạch chuyên môn của Trung tâm.

Cần thường xuyên tổ chức các đợt thi đua, các phong trào giảng viên đổi mới

phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học. Khi thực hiện giải

pháp này, Trung tâm cần có chính sách khen thưởng kịp thời với những tổ/nhóm làm

91

tốt hoặc trách phạt đối với những tổ/nhóm/ giảng viên thực hiện theo kiểu hình thức,

lấy lệ. Có như vậy, việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm mới trở thành thói

quen, trở thành nhu cầu của giảng viên và sinh viên khi tiếp cận môn công tác quốc

phòng, an ninh vốn trừu tượng và mang tính khái quát hóa cao. Tránh tình trạng có

trường, có tổ chuyên môn chỉ kêu gọi, chú trọng đổi mới phương pháp dạy học trong

các đợt thao giảng, hội thi, hội giảng sau đó lại quay trở lại cách dạy “thầy đọc trò ghi,

thầy nói trò nghe” vốn đã từng tồn tại phổ biến trong thực tiễn dạy học Giáo dục quốc

phòng và an ninh tại Trung tâm nhiều năm qua.

Ba là, tăng cường đầu tư và kêu gọi các nguồn tài trợ cho các hoạt động đổi

mới phương pháp dạy học.

Để đáp ứng yêu cầu môn học công tác quốc phòng, an ninh, Trung tâm cần ưu

tiên đầu tư, nâng cấp hệ thống các phòng học, bàn ghế tạo điều kiện thuận lợi cho việc

ghép nhóm, di chuyển bàn học khi thực hiện thảo luận nhóm.

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với giảng viên

Cả trên bình diện lý luận và thực tiễn có thể nhận định rằng, trong dạy học không

có phương nào là vạn năng, mà yêu cầu đặt ra cần phải sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn

nhiều phương pháp mới đem lại hiệu quả tích cực cho cả người dạy và người học. Tuy

nhiên, thực tế khách quan đã chứng minh rằng, phương pháp thảo luận nhóm chỉ có thể

phát huy tính hiệu quả cao khi giảng viên phải thuần thục trong việc vận dụng, sử dụng

trong bài giảng. Theo đó, về phía giảng viên cần chú ý các nội dung sau đây:

- Mỗi giáo viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh, cần có nhận thức

đúng đắn về tính hướng đích, ý nghĩa, vai trò của phương pháp thảo luận nhóm là phát

triển năng lực tư duy, sáng tạo, phát triển kỹ năng phản biện, kỹ năng giải quyết vấn

đề của sinh viên. Trên cơ sở đó, giảng viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng

dạy, hình thức tổ chức dạy học, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp thảo luận

nhóm theo hướng phát triển năng lực sinh viên.

- Đổi mới phương pháp dạy học thảo luận nhóm cần được mỗi giảng viên giảng

dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh đặc biệt chú trọng và thường xuyên vận dụng

trong bài giảng, tránh tình trạng đơn thuần sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm

thoại, thậm chí ngại sử dụng phương pháp thảo luận nhóm do những khó khăn đã xác

92

định trong phần thực trạng.

- Mỗi giảng viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh cần nắm vững

kiến thức chuyên môn chuyên tâm và dành thời gian thỏa đáng cho việc tìm kiếm, thiết

kế tình huống có vấn đề để lựa chọn được các tình huống điển hình, phù hợp khi vận

dụng phương pháp thảo luận nhóm; chủ động kết hợp phương pháp thảo luận nhóm với

các phương pháp khác một cách linh hoạt; tạo hứng thú cho sinh viên tham gia giải

quyết tình huống.

- Giảng viên cần tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

nhất là kỹ năng sư phạm cho giảng viên dạy môn công tác quốc phòng, an ninh ở Trung

tâm theo hướng chú trọng bồi dưỡng, đào tạo kỹ năng.

- Khi dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần lưu ý đến đặc

thù sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn

này phần lớn là rụt rè, e ngại, chưa mạnh dạn tham gia thảo luận, trình bày chính kiến

cá nhân của mình trước tập thể lớp, do đó khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm,

giảng viên phải khuyến khích, động viên các em tích cực tham gia giải quyết vấn đề để

rèn luyện và phát triển năng lực của bản thân.

- Tùy thuộc vào đặc thù của từng học phần, cần xây dựng các quy định mang

tính chế tài và phân cấp quản lý cho tổ hoặc nhóm chuyên môn để quản lý có hiệu quả

nền nếp và chất lượng hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong đơn vị.

3.2.3. Nhóm giải pháp đối với sinh viên

Kết quả thực nghiệm của bài giảng môn công tác quốc phòng, an ninh được thiết

kế theo hướng sử dụng phương pháp thảo luận nhóm đã phần nào chứng minh được sự

phù hợp, tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong

dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an

ninh - Đại học Thái Nguyên. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

chưa thật sự đồng bộ, nhịp nhàng giữa người dạy với người học. Do vậy, để nâng cao

chất lượng giảng dạy môn công tác quốc phòng, an ninh, bên cạnh giải pháp thuộc về

cấp quản lý, thuộc về giảng viên, sinh viên cũng cần thiết phải có những đổi mới tương

ứng.

- Sinh viên phải thấy rõ được vị trí, vai trò của môn công tác quốc phòng, an

93

ninh đối với việc giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng; đối với việc phát

triển những kỹ năng cần thiết của bản thân.

Mỗi sinh viên phải nhận thức được tầm quan trọng của môn học đối với bản

thân. Những kiến thức về chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ và nhà nước xã hội chủ nghĩa,

vấn đề Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực

thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ

quốc cần được sinh viên hiểu rằng, đó là những kiến thức cần thiết để sinh viên có trách

nhiệm với đất nước, gia đình và bản thân.

Trước âm mưu chống phá chính quyền, chống phá chế độ từ các thế lực phản

động, thù địch, mỗi sinh viên phải thấy thấy được trách nhiệm của mình trong việc giữ

vững lập trường, chính trị, tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý

của Nhà nước. Ở khía cạnh này, sinh viên cần thấy rằng, môn học môn công tác quốc

phòng, an ninh sẽ trực tiếp giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng; đối với việc

phát triển những kỹ năng cần thiết của bản thân, đó là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng

giải quyết vấn đề, kỹ năng nhận diện, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về

những vấn đề chính trị - xã hội.

Thay vì ý nghĩ cho rằng, môn công tác quốc phòng, an ninh là môn học phụ,

đơn thuần là lý thuyết, kiến thức môn học trừu tượng, khô khan, khó hiểu, sinh viên

cần nhận thức đúng vai trò của môn môn công tác quốc phòng, an ninh đối với việc

giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng của bản thân. Nếu không nhận thức

thấu đáo vấn đề này thì học sinh sẽ không thể thay đổi tư duy, càng không thể thay đổi

cách tiếp cận, thay đổi thái độ và phương pháp học tập môn học.

- Sinh viên phải có ý thức tự giác, có tinh thần tích cực, phát huy tính sáng tạo

trong giải quyết tình huống.

Giảng viên không thể phát huy được hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm

nếu sinh viên không tự giác, tích cực tham gia vào quá trình học. Thái độ học tập thụ

động là lực cản rất lớn đối với phương pháp dạy học thảo luận nhóm vốn là phương

pháp đòi hỏi rất cao tính tích cực, tự giác và sáng tạo của của giảng viên và sinh viên.

Do đó, nếu sinh viên vẫn coi môn môn công tác quốc phòng, an ninh chỉ là môn phụ,

môn học không thiết thực, học tập một cách đối phó, chỉ để lấy đủ điểm tích lũy cho

94

chứng chỉ; nếu sinh viên chỉ thụ động, chờ giảng viên cung cấp kiến thức, ngại tư duy,

ngại tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức thì phương pháp thảo luận nhóm không

thể phát huy được tác dụng. Tính tất yếu khách quan đòi hỏi mỗi sinh viên phải chủ

động tiếp thu kiến thức, phải có nhu cầu tìm hiểu, khám phá những kiến thức mới. Có

như vậy, sinh viên mới rèn luyện và phát triển được kỹ năng của mình, đồng thời tính

tích cực cùng với trong giải quyết vấn đề của sinh viên sẽ truyền cảm hứng và tạo động

lực cho người dạy.

95

Kết luận chương 3

Trên cơ sở thực nghiệm phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh, chúng tôi nhận thấy: Phương pháp này có những ưu thế nhất

định trong việc phát triển năng lực của sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học Thái

Nguyên. Với các giờ dạy thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, sinh

viên có hứng thú với môn học hơn và tính tích cực học tập, mong muốn khám phá,

chiếm lĩnh tri thức của sinh viên cũng được phát huy. Kết quả thực nghiệm đã phần

nào chứng minh được sự phù hợp, tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an nin ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh nói riêng cần thực hiện đồng thời những giải pháp đã nêu và cần phát

huy trách nhiệm cũng như sự đồng thuận của các cấp quản lý, của đội ngũ giảng viên

viên và sinh viên.

96

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Từ kết quả nghiên cứu của luận văn về vận dụng phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh, nhằm nâng cao chất lượng dạy học

môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại

học Thái Nguyên cũng như căn cứ vào kết quả thực nghiệm sư phạm, đối chiếu với

mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả rút ra một số kết luận và khuyến nghị sau:

1. Kết luận

- Với chủ trương: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại; phát huy

tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học của Đảng và ngành Giáo dục - Đào tạo

thì việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên

đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị

quyết số 29 của Đảng Cộng sản Việt Nam của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

11 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,

hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập

quốc tế.

- Trong khuôn khổ giới hạn về đối tượng, phạm vi nghiên cứu, luận văn đã góp

phần làm sáng tỏ một số khái niệm, phương pháp dạy học thảo luận nhóm, đặc điểm,

vai trò, yêu cầu của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học nói

chung và dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.

- Luận văn cũng đã phân tích về thực trạng vận dụng phương pháp thảo luận

nhóm trong vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc

phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Từ đó đề xuất các quy trình thiết kế bài giảng;

Quy trình thực hiện giờ học/đơn vị kiến thức có vận dụng phương pháp thảo luận nhóm;

Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

- Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy

học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -

Đại học Thái Nguyên đã góp phần kiểm chứng tính đúng đắn của những giả thuyết

97

thực nghiệm. Qua thực nghiệm, luận văn khẳng định việc dạy học sử dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong môn Công tác quốc phòng, an ninh đã đem lại những hiệu

quả rõ rệt và tương đối ổn định. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả của việc vận

dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, luận văn đã đề

xuất ra các giải pháp chủ yếu và theo chủ ý của tác giả luận văn thì các giải pháp này

hoàn toàn mang tính khả thi, có thể áp dụng được để nâng cao hiệu quả của việc vận

dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

- Mặc dù tác giả luận văn đã rất cố gắng thể hiện rõ ý tưởng và cụ thể hóa ý

tưởng ấy thành đề xuất về những biện pháp cụ thể. Nhưng do việc vận dụng phương

pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh vẫn là vấn đề

còn ẩn chứa nhiều điều cần lý giải và luận chứng từ phương diện tiếp cận đa chiều nên

vẫn rất cần những nghiên cứu sau bổ sung, đóng góp những ý tưởng còn bỏ ngỏ vào

việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng,

an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.

2. Kiến nghị

Để nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên trong thời gian tới, tác giả xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:

- Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Đại học Thái Nguyên cần tạo điều kiện về

vật chất và tinh thần cho Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên thực hiện việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công

tác quốc phòng, an ninh.

- Ban giám đốc Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái

Nguyên cần tạo điều kiện cho giảng viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, trong

đó có phương pháp thảo luận nhóm. Chú trọng tới việc tổ chức các đợt thi đua, phát

động các phong trào giảng viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển

năng lực người học nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên. Có như vậy,

việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm mới trở thành thói quen, nhu cầu của giảng

98

viên và sinh viên khi tiếp cận môn học Công tác quốc phòng, an ninh vốn trừu tượng

và mang tính khái quát hóa cao.

- Trung tâm nên sắp xếp số lượng sinh viên trong một lớp phù hợp. Hiện tại,

việc học tập môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và

an ninh - Đại học Thái Nguyên là học theo lớp ghép 2 hoặc ghép 3, số lượng sinh viên

trong một buổi học là khá đông nên gây nên những khó khăn nhất định khi phân chia

nhóm để thảo luận.

- Trong quá trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn

Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học

Thái Nguyên, giảng viên dạy môn học cần lưu ý đến việc phát triển các năng lực cho

sinh viên thông qua phương pháp dạy học của mình. Chỉ có như vậy, việc vận dụng

phương pháp này vào quá trình giảng dạy của giảng viên cũng như việc học tập của

sinh viên mới trở nên bền vững và đạt hiệu quả cao.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thanh Bình (1998), Cải tiến tổ chức hoạt động giáo dục trong trường

trung học cơ sở theo phương thức hợp tác, Đề tài cấp cơ sở, mã số B69-49-14,

Viện Chiến lược và chương trình giáo dục, Hà Nội.

2. C.Mác-Ph Ăng ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

3. Nguyễn Hữu Châu (2004), Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình

dạy học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

4. Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm

Quang Thiệp (2007), Sách trợ giúp giảng viên cao đẳng sư phạm, NXB ĐHSP,

Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Đản (2012), Tổ chức hoạt động học, NXB Giáo dục Việt Nam.

6. David W. Johnson & Roger T. Johnson (2001), Học cùng nhau và học độc lập;

học hợp tác, tranh đua và học cá nhân, (Bản dịch của Bùi Văn Tạc, Bùi Thế

Hợp).

7. Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga (2011), Phương pháp dạy học GDCD ở

trường THPT. Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.

8. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4 (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Vũ Lệ Hoa (2015), Tổ chức dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác, NXB

Giáo dục Việt Nam.

11. Bùi Quang Huy (2002), Tổ chức thảo luận nhóm trong quá trình dạy học

môn Giáo dục học cho SV Trường Cao đẳng Sư phạm Lai Châu, Luận văn

thạc sĩ.

12. Trần Thu Huyền, Nguyễn Thị Phương Thủy (2012), "Phương pháp thảo luận

nhóm trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin",

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 290.

13. Nguyễn Lân (1958), Lịch sử giáo dục học thế giới, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Phan Trọng Ngọ, (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà

trường, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.

100

15. Hoàng Phê (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

16. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Lý luận dạy học đại cương tập 1,2, Trường cán bộ,

quản lý giáo dục trung ương.

17. Lâm Quang Thiệp (2000), “Về việc Dạy và học ở đại học và vai trò của nhà giáo

đại học trong thời đại thông tin”, Tap chí Giáo dục Đại học và Dạy nghề, số 5.

18. Nguyễn Thị Toan (2013), "Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

môn GDCD ở trường THPT", Tạp chí Giáo dục, số 312.

19. Thái Duy Tuyên (2008), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, NXBGD,

Hà Nội.

20. Unesco (2005), Chân dung những nhà cải cách tiêu biểu trên thế giới, NXB Thế

giới, Hà Nội.

21. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Cường (2006), Đổi mới phương pháp dạy học trung học phổ thông,

Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông, Loan N0-Vie.

23. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2012), Lý luận dạy học hiện đại, Một số vấn

đề về đổi mới phương pháp dạy học, Hà Nội.

24. Jean Marc Denomme & Madeleine Roy (2000), Tiến tới một phương pháp sư

phạm tương tác, NXB Thanh niên, Hà Nội.

25. Dự án Việt – Bỉ (2008), Dạy và học tích cực – Một số phương pháp và kỹ thuật

dạy học, NXB ĐHSP, Hà Nội.

26. Trịnh Thúy Giang (2009) Tổ chức thảo luận bằng phương pháp case - study trong

giảng dạy môn Giáo dục học, Tạp chí Khoa học Giáo dục số 47.

27. T.PápLốp, Lý luận phản ánh, Nxb Mat xcơva 1949, (bản tiếng Nga).

101

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM

THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 1

BÀI B1: PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH"

BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Phần 1: Ý ĐỊNH GIẢNG DẠY

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.

1. Mục đích:

Nhằm bồi dưỡng cho sinh viên nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến

lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng

Việt Nam. Thấy được tác động ảnh hưởng và tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc

đấu tranh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng.

Xác định rõ trách nhiệm xây dựng lòng tin, quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn Dân, toàn

Quân góp phần làm thất bại Chiến Lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của

địch.

Giúp hình thành và phát triển ở người học năng lực phản biện, phê phán các

quan điểm sai trái, thù địch.

2. Yêu cầu:

Nắm chắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” -

bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đề cao cảnh giác cách mạng, tích cực, chủ

động tham gia phong trào giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở trong nhà

trường và địa phương.

II. NỘI DUNG.

1. Nội dung gồm (4 phần)

Phần 1: Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù

địch chống phá chủ nghĩa xã hội.

102

Phần 2: Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù

địch chống phá Cách Mạng Việt Nam.

Phần 3: Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm và phương châm phòng, chống chiến

lược "Diễn Biến Hòa Bình", Bạo Loạn Lật Đổ của Đảng và nhà nước ta.

Phần 4: Những giải pháp phòng, chống Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo

loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay.

2. Trọng tâm, trọng điểm; Phần I. Phần II. Phần III

III. THỜI GIAN.

Toàn bài; 5 tiết. Thời gian lên lớp; 5 tiết.

IV. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP.

1. Tổ chức.

Lên lớp tập trung. Lấy lớp học làm đơn vị tổ chức học tập.

2. Phương pháp.

2.1. Giảng viên: Lên lớp theo thảo luận nhóm, phân tích làm rõ nội dung.

2.2. Sinh viên: Thảo luận nhóm theo kết hợp nghe, ghi chép theo ý hiểu.

V. ĐỊA ĐIỂM.

Giảng đường.

VI. VẬT CHẤT, TÀI LIỆU BẢO ĐẢM.

1. Vật chất.

1.1. Đối với giảng viên: Có giáo án, phấn, bảng, phương tiện (nếu có).

1.2. Đối với học viên: Bút, vở ghi.

2. Tài liệu

Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh(Bộ GD và ĐT) tái bản năm 2013.

Dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng.

Phần 2: NỘI DUNG GIẢNG DẠY

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

II. Chiến lược "Diễn biến hoà

bình", bạo loạn lật đổ của các

thế lực thù địch chống phá cách

mạng Việt Nam.

103

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

1. Âm mưu, thủ đoạn của chiến

lược "Diễn biến hoà bình" đối

với Việt Nam.

GV: Hiện nay trên thế giới có bao nhiêu nước đi 1. Âm mưu:

theo con đường Xã hội chủ nghĩa? * Âm mưu: Chủ nghĩa đế quốc

SV nêu ý kiến. cùng các thế lực thù địch luôn coi

GV: Hiện nay trên thế giới có 5 nước đi theo con Việt Nam là một trọng điểm trong

đường Xã hội chủ nghĩa đó là: Việt Nam, Lào, chiến lược "Diễn biến hoà bình"

Triều Tiên, Trung Quốc, Cuba. Vậy tại sao Chủ để chống phá chủ nghĩa xã hội.

nghĩa đế quốc không chọn các nước còn lại mà lại

chọn Việt Nam là trọng điểm trong chiến lược

Diễn biến hòa bình?

SV: nêu ý kiến.

GV nhận xét, kết luận: Có rất nhiều lý do để Chủ

nghĩa đế quốc chọn Việt Nam làm trọng điểm,

song có thể rút ra các lý do chính như sau:

+ Việt Nam là 1 nước Xã hội chủ nghĩa

+ Việt Nam là nơi mà để quốc Mỹ đã bị thất bại

thảm hại. Mỹ có tiềm lực quân sự và kinh tế rất

mạnh nhưng khi sang xâm lược Việt Nam 1 nước

nhỏ, tiềm lực quân sự và kinh tế còn yếu kém thì

lại bị thất bại thảm hại.

+Việt Nam có vi trí chiến lược quan trọng cả trên

đất liền và trên biển mà tài nguyên thiên nhiên của

Việt Nam lại phong phú đa dạng.

+ Việt Nam là nước đi đầu trong ngọn cờ đấu

tranh giải phóng dân tộc, khi Việt Nam giành - Thực hiện âm mưu xoá bỏ vai trò

thắng lợi đã khích lệ phong trào đấu tranh giải lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt

phóng dân tộc của nhiều nước trên thế giới. Nam.

104

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

GV: Tại sao Chủ nghĩa đế quốc lại muốn xoá bỏ

vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sảng Việt Nam?

SV: nêu ý kiến.

GV: Dân tộc Việt Nam trong những thập kỷ đầu

của thế kỷ XX khi chưa có Đảng chìm đắm trong

đêm dài nô lệ, bởi sự nô dịch, đàn áp, bóc lột của

thực dân, phong kiến và các triều đại đều bế tắc

về đường lối giải phóng dân tộc. Nhưng từ khi có

Đảng ra đời, tổ chức và lãnh đạo, cách mạng Việt

Nam từng bước phát triển, đạt được những thắng

lợi vĩ đại và cuối cùng là giành lại độc lập cho dân

tộc. Trong giai đoạn hiện nay Đảng lại tiếp tục

lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới - Xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu ở Việt Nam

vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh.

GV: Xác định như vậy vì:

- Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc đã

dùng hành động quân sự để xâm lược và muốn biến

Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng

nhưng cuối cùng đã bị thất bại hoàn toàn.

- Sau khi sử dụng những đòn tấn công bằng quân

sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng

đã chuyển sang chiến lược mới như "bao vây cấm

vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao" kết hợp với

"Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ

105

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Đặc biệt lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó

khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 - 1993 do

hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế

độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế

lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “Diễn biến

hòa bình” đối với Việt Nam.

- Từ năm 1994 đến nay, trước những thắng lợi to

lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản

Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực - Lái nước ta đi theo con đường

thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào

cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ chủ nghĩa đế quốc.

"cấm vận kinh tế" và bình thường hoá quan hệ 2. Thủ đoạn (6 thủ đoạn chính)

ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy Để đạt được âm mưu trên hiện nay

mạnh hoạt động xâm nhập như: "dính líu", “ Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực

mềm” "ngầm", "sâu, hiểm" nhằm chống phá thù địch đã và đang chống phá

cách mạng Việt Nam. cách mạng nước ta một cách toàn

diện trên tất cả các lĩnh vực của

. đời sống chính trị - xã hội, chúng

không từ bỏ bất kì thủ đoạn chống

phá tinh vi, thâm độc, sảo quyệt

nào như: Sử dụng bạo lực phi vũ

trang (Kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội…), kết hợp với bạo lực vũ

trang, trong đó có nhiều thủ đoạn

rất tinh vi, thâm độc, sảo quyệt

khó nhận biết, cụ thể là:

106

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

* Thủ đoạn về chính trị.

- Mục tiêu: Các thế lực thù địch

kích động đòi thực hiện chế độ "đa

nguyên chính trị, đa đảng đối lập",

Giáo viên chia lớp thành 6 nhóm, cho các nhóm "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã

những tình huống sau để thảo luận: hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh

Tình huống 1: Lợi dụng việc UBTV Quốc Hội xin đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,

ý kiến nhân dân vào bản dự thảo sửa đổi hiến chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt

pháp, các thế lực thù địch đã tuyên truyền kích Nam.

động nhân dân đòi thực hiện chế độ đa đảng và - Nội dung: Tập hợp, nuôi dưỡng

xoá bỏ điều 4 trong hiến pháp, tức là đòi xoá bỏ các tổ chức, phần tử phản động

vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. trong nước và ngoài nước, lợi

Tình huống 2: Phạm Văn Điệp ở Thanh Hóa là dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân

đối tượng cơ hội chính trị, từng đi du học tự túc quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để

tại Liên Bang Nga, sau đó bỏ học, tham gia vào chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với

tổ chức Đảng dân chủ 2. Điệp thực hiện hành vi nhân dân và khối đại đoàn kết toàn

sử dụng mạng xã hội facebook phát tán, tuyên dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh

truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm và chia sẻ bài đạo của Đảng.

viết có nội dung xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, - Biện pháp: Tận dụng những sơ

đường lối của Đảng nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo hở trong đường lối của Đảng,

của Đảng. Lực lượng an ninh đã phát hiện ra chính sách của nhà nước ta, sẵn

hành vi của Điệp và đã tiến hành bắt giữ và đưa sàng can thiệp trắng trợn bằng sức

ra xét xử. mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã

GV đặt câu hỏi cho nhóm 1: qua 2 tình huống trên hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

em rút ra được những nội dung gì trong thủ đoạn

trên lĩnh vực chính trị của các thế lực thù địch? * Thủ đoạn về kinh tế.

Các thành viên trong nhóm thảo luận và trả lời câu - Mục tiêu: Chúng muốn chuyển

hoá nền kinh tế thị trường định hỏi trên.

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

107

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

Tình huống 3: Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế

Hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống thị trường tư bản chủ nghĩa.

phá Đảng, cách mạng Việt nam, các tổ chức phản - Nội dung: Khích lệ thành phần

động được lập ra với mục đích tuyên truyền và dụ kinh tế tư nhân phát triển, từng

dỗ nhân dân. Bạn A vô tình tham gia vào 1 tổ chức bước làm mất vai trò chủ đạo của

phản động và bị lôi kéo tham gia tuyên truyền thành phần kinh tế nhà nước.

chống phá Đảng và nhà nước Việt Nam. Bạn C - Biện pháp: Lợi dụng sự giúp đỡ,

hay nói với các bạn rằng: Hiện nay ở Việt Nam viện trợ kinh tế, đầu tư vốn,

vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá chuyển giao công nghệ cho Việt

sản”, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng Nam để đặt ra các điều kiện và gây

lớn, năng lực quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước sức ép về chính trị, từng bước

ngày càng yếu kém, tệ tham nhũng, hách dịch, cửa chuyển hoá Việt Nam theo con

quyền ở các cán bộ có chức, có quyền tràn lan, đường tư bản chủ nghĩa.

gây bức xúc trong xã hội, làm mất lòng tin của

dân. Kinh tế tư nhân thì ngày càng phát triển

mạnh mẽ, nên tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ cần

tập trung phát triển kinh tế tư nhân là chính. Cho

nên cần gạt bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà * Thủ đoạn về tư tưởng - văn

nước. hoá.

GV đặt câu hỏi cho nhóm 2: Theo em việc làm - Mục têu: Chúng thực hiện nhiều

của bạn C là đúng hay sai? Nếu em là bạn của C hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa

em sẽ làm như thế nào? Rút ra thủ đoạn trên lĩnh Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

vực kinh tế? Minh, nền văn hoá tiên tiến đậm

đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

- Nội dung: Phá vỡ nền tảng tư

tưởng của Đảng Cộng sản Việt

Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư GV: đưa ra tình huống 4:

Trong giới trẻ bây giờ có hai luồng ý kiến: sản vào các tầng lớp nhân dân.

Một bộ phận cho rằng hiện nay trong xu thế hội - Biện pháp: Lợi dụng xu thế mở

108

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc rộng hợp tác quốc tế, du nhập

một số bộ phận giới trẻ sống theo lối sống của những sản phẩm văn hoá đồi trụy,

phương tây như: lối sống phóng túng không có lối sống phương Tây, để kích động

khuôn khổ, du nhập các văn hóa phẩm đồi trụy là lối sống tư bản trong thanh niên

chuyện bình thường. từng bước làm phai mờ bản sắc

Bộ phận còn lại phản đối và cho rằng mặc dù đất văn hoá và giá trị văn hoá của dân

nước phát triển hội nhập và hợp tác quốc tế nhưng tộc Việt Nam.

vẫn phải kế thừa, giữ gìn bản sắc, phát huy truyền * Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn

thống, giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiếp giáo - dân tộc.

thu có chọn lọc, không đánh mất bản sắc riêng - Mục tiêu: Gây mất ổn định xã hội

của mình, không bị đồng hóa bởi các dân tộc và làm chệch hướng chế độ chủ

khác... nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Gv đưa ra câu hỏi cho nhóm 3: Em đồng tình với - Nội dung: Chúng lợi dụng những

quan điểm nào? Vì sao? Rút ra thủ đoạn trên lĩnh khó khăn ở những vùng đồng bào

vực tư tưởng - văn hóa dân tộc, tôn giáo ít người, những

tồn tại do lịch sử để lại, trình độ

dân trí của một bộ phận đồng bào

còn thấp và những khuyết điểm

trong thực hiện các chính sách dân GV: đưa ra tình huống 5:

X tham gia vào một giáo phái lạ, nộp rất nhiều tộc, tôn giáo của một bộ phận cán

tiền hội phí, thường xuyên bỏ học bỏ làm đi nghe bộ để kích động tư tưởng hẹp hòi

giảng đạo và truyền đạo. Y là bạn học của X, Y đã đòi li khai, tự quyết dân tộc.

phát hiện ra sự việc sau khi được X truyền đạo và - Biện pháp: Lợi dụng chính sách

lôi kéo gia nhập giáo phái lạ đó. dân tộc và tự do tôn giáo của

GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 4: Nếu em là Y em Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo

sẽ làm như thế nào? Rút ra thủ đoạn của các thế trái phép từ đó thực hiện mưu đồ

lực thù địch trong lĩnh vực dân tộc - tôn giáo? tôn giáo hoá dân tộc, từng bước

gây mất ổn định xã hội và làm

chệch hướng chế độ Xã hội chủ

109

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

nghĩa ở Việt Nam

* Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc

phòng, an ninh.

- Mục tiêu: Kích động đòi phủ

nhận vai trò lãnh đạo của Đảng

trong lĩnh vực quốc phòng, an

ninh. Đặc biệt là đối với lực lượng

vũ trang nhân dân.

- Nội dung: Bằng mọi thủ đoạn

nhằm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Tình huống 6:

B sau khi tìm hiểu thông tin qua internet có nói Đảng đối với lực lượng vũ trang:

với mọi người rằng: Công an nhân dân Việt Nam Với luận điểm "phi chính trị hoá"

vì nước quên thân vì dân phục vụ, là đầy tớ của làm cho các lực lượng này (Quân

dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế chỉ cần đội, Công An, Dân quân tự vệ xa

trung thành, bảo vệ lợi ích của nhân dân, không rời mục tiêu chiến đấu và lý tưởng

cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các vấn đề Xã hội chủ nghĩa.

liên quan đến quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội - Biện pháp: Lợi dụng xu thế mở

phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện

định thông qua. Sau khi B đọc nội dung đó cho xâm nhập, tăng cường hoạt động

mọi người nghe thì có 2 luồng ý kiến trái chiều, tình báo, gián điệp trong và ngoài

một bộ phận đồng ý, một bộ phận không đồng ý nước để thu thập bí mật quốc gia

với nội dung trên. từ đó lôi kéo, mua chuộc, kích

Giáo viên đặt câu hỏi cho nhóm 5: Em có đồng ý động, chống phá.

với quan điểm trên hay không? Vì sao? Rút ra thủ

đoạn trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh? * Thủ đoạn trên lĩnh vực đối

ngoại.

- Mục tiêu: Hướng Việt Nam đi

Tình huống 7: theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Các tổ chức phản động nhắm vào những người - Nội dung: Lợi dụng chủ trương

110

Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt

dân tộc thiểu số, sinh sống ở khu vực giáp biên Việt Nam mở rộng hội nhập quốc

giới Lào và Campuchia, chúng lợi dụng sự khó tế, mở rộng quan hệ hợp tác với

khăn và thiếu hiểu biết của họ để cho tiền và xúi các nước trên thế giới để tuyên

giục những người này lôi kéo thêm nhiều người truyền và hạn chế sự mở rộng

khác để kích động biểu tình, tuyên truyền bôi nhọ, quan hệ hợp tác của Việt Nam đối

làm sai lệch mối quan hệ Campuchia – Lào – Việt với các nước lớn trên thế giới, tìm

Nam. cách ngăn cản những dự án đầu tư

GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 6: Em có nhận xét quốc tế vào Việt Nam.

như thế nào về hành vi của những người trên? Rút - Biện pháp: Chúng đặc biệt coi

ra thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại? trọng việc chia rẽ tình đoàn kết

- Các SV làm việc nhóm trong 5 phút với hình hữu nghị giữa Việt Nam với Lào,

thức nhóm kim tự tháp. Sau đó báo cáo phần thảo Campuchia và các nước xã hội chủ

luận của mình nghĩa, hạ thấp uy tín của nước ta

- GV điều hành thảo luận giữa các nhóm. Tổ chức trên trường quốc tế.

cho các nhóm SV phản biện lẫn nhau.

- GV nhận xét phần thảo luận và kết luận

Kết quả mong đợi: Sinh viên làm việc tích cực,

biết và nắm chắc 6 thủ đoạn trong chống phá

cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Phần 3: KẾT THÚC GIẢNG DẠY

1. Hệ thống nội dung đã học, kết luận bài, giải đáp thắc mắc.

Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “ Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

2. Hướng dẫn ôn và nghiên cứu tài liệu.

- Nêu âm mưu (mục tiêu) nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù

địch trong sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam? Bản

thân phải làm gì trong việc góp phần làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình" của

địch?

- Nêu những thủ đoạn chủ yếu của chiến lược "Diễn biến hòa bình" đối với cách

mạng Việt Nam? Phân tích thủ đoạn chống phá về chính trị?

111

3 Giới thiệu nội dung của bài giảng sau.

4. Nhận xét lớp học, kiểm tra quân số, vật chất giảng dạy.

5. Xuống lớp, chuyển nội dung học tập.

THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2

BÀI B7: XÂY DỰNG PHONG TRÀO

TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

Phần 1: Ý ĐỊNH GIẢNG DẠY

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.

1. Mục đích.

Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về công tác vận động quần chúng

bảo vệ an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, có nhận thức

đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh trật tự; có ý

thức tự giác, tích cực tham gia vào phong trào toàn dân bảo vệ an ninh - trật tự, phòng

ngừa đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.

2. Yêu cầu.

- Nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh

quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; các hình thức, biện pháp tổ chức vận động

nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở.

- Nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm tích cực tham gia phong trào toàn

dân bảo vệ an ninh - trật tự, phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi

phạm pháp luật; Chấp hành tốt các quy chế khóa học g.dục quốc phòng, an ninh

II. NỘI DUNG.

1. Nội dung gồm (3 phần)

Phần 1. Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Phần 2. Nội dung, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc.

Phần 3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia xây dựng phong trào bảo

vệ an ninh Tổ quốc.

2. Trọng tâm, trọng điểm: (Phần 1; Phần 2; Phần 3 )

112

III. THỜI GIAN.

Toàn bài 2 tiết. Lên lớp 2 tiết.

IV. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP.

1. Tổ chức. Lên lớp tập trung lấy sinh viên làm đơn vị tổ chức học tập.

2. Phương pháp

2.1. Giảng viên: Lên lớp theo phương pháp thảo luận nhóm nhằm làm rõ

nội dung

2.2. Sinh viên: Thảo luận nhóm kết hợp nghe,ghi chép theo ý hiểu.

V. ĐỊA ĐIỂM. Giảng đường.

VI. VẬT CHẤT, TÀI LIỆU ĐẢM BẢO.

1. Vật chất

1.1. Đối với giảng viên: Có giáo án, phấn, bảng, phương tiện (nếu có) .

1.2. Đối với học viên: Bút, vở ghi,

2. Tài liệu: Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh(Bộ GD và ĐT) tái bản

năm 2013. Dùng cho sinh viên các trường Đại học và cao đẳng.

Phần 2: NỘI DUNG GIẢNG DẠY.

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

I. Nhận thức chung về phong

trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

1. Quan điểm về quần chúng

nhân dân và vai trò của quần

chúng nhân dân trong bảo vệ an

ninh Tổ quốc.

GV: Trong lịch sử có rất nhiều các quan điểm

khác nhau về quần chúng nhân dân, tuy nhiên không phải quan điểm nào cũng đúng và chính xác: 1.1. Một số quan điểm về quần chúng nhân dân.

* Quan điểm duy tâm: đã có nhận thức sai lạc : Xã hội chia làm hai hạng người “ Hạng thượng lưu” và hạng “thứ dân”; Thượng đế, tinh thần là tuyệt đối; Vua là thiên tử, thay trời trị dân. * Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền

113

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

VD: Trong xã hội phong kiến, vua thiên tử, thay tảng cho một nước, là gốc rễ của

trời hành đạo, vua bảo chết phải chết, sai khiến kể một dân tộc, là động lực chính để

cả những điều bất nghịch cũng phải làm. thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

* Quan điểm của các chế độ quân chủ Tư sản hiện đại: Nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm gốc ”, nhưng khác nhau về bản chất.

GV: Theo các em khác nhau ở bản chất ở đây

nghĩa là gì?

SV nêu ý kiến GV nhận xét, kết luận: Trong chế độ quân chủ Tư

sản hiện đại: Nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm

gốc ” nhưng thực chất là họ bóc lột sức lao động của nhân dân, k đề cao lợi ích và quyền lợi của

dân, mị dân để bóc lột giá trị thặng dư.

GV: Chủ nghĩa Mác lần đầu tiên đã phát hiện và

khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân.

Lênin đã từng nói: “cách mạng là sự nghiệp của

quần chúng” hay “cách mạng là ngày hội của

những người bị áp bức bóc lột. Không lúc nào,

quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực

sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như trong thời

kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế thì

nhân dân có thể làm được những kỳ công”

+ Lần đầu tiên phát hiện và khẳng định vai trò của

quần chúng nhân dân quyết định sự phát triển của

xã hội, chính nhân dân lao động là người làm nên lịch sử. + Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhận thức về lịch sử, là một trong những cơ sở lý luận

cho chính Đảng của giai cấp vô sản. GV: Tại sao quần chúng nhân dân lại quyết định sự phát triển của xã hội và là người làm nên lịch

sử? SV nêu ý kiến

114

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

GV: Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất

cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của

cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển

của con người, của xã hội. Cùng với quá trình

sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp

sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội và "kiểm

chứng" các giá trị tinh thần đã được sáng tạo ra

trong lịch sử. * Quan điểm của Đảng ta và

GV: Thực tiễn đã chứng minh: + Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về quần chúng

qua các thời kì như các vua Hùng, Hai Bà Trưng nhân dân và Kế thừa tư tưởng,

đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung… đều dựa truyền thống của ông cha ta về vai

vào dân, khẳng định "dân là gốc", biết sử dụng sức trò của nhân dân, mà Đảng ta và

mạnh của dân để đánh tan các đội quân xâm lược Chủ Tịch Hồ Chí Minh xác định:

hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Luôn nêu cao tư tưởng “cách

Quốc, Mông Cổ.

+ Từ khi có Đảng ra đời dưới sự lãnh đạo của mạng là của dân, do dân và vì dân”. Quan hệ mật thiết giữa

Đảng, Bác Hồ nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức Đảng và nhân dân là nguồn gốc

làm nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp sức mạnh truyền thống vô cùng

giải phóng dân tộc, đánh thắng hai cường quốc quý báu của Đảng.

xâm lược là Pháp và Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng

+ Ngày nay đất nước đang trong giai đoạn đẩy định “Trong bầu trời không có gì

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có nhiều thuận lợi, thời cơ mới, song vẫn còn nhiều thách thức, trở lực, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân quý bằng nhân dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Hay “dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều,

dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực... ( lấy ý kiến của nhân dân trong các lần sửa đổi hiến pháp, nhân dân có quyền giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”

khiếu nại, tố cáo...) GV:Em hãy lấy một vài ví dụ thực tế chứng minh

115

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

đất nước ta từ xưa đến nay luôn coi trọng vai trò

của quần chúng nhân dân?

SV nêu ý kiến

GV nhận xét, kết luận:

Lý Thái Tổ đã thực hiện việc xá thuế cho dân, không phải để cứu trợ trong hoàn cảnh khó khăn

do thiên tai mà thể hiện sự cảm thông với cuộc

sống vất vả của họ.

Quét sạch giặc Minh, Lê Lợi đã huy động và tập trung bằng được sức mạnh cũng như trí tuệ của

toàn dân, bất kể giàu nghèo hay sang hèn, bất kể

cư ngụ ở vùng rừng núi, trung du hay đồng bằng, bất kể già, trẻ, gái, trai… miễn là có lòng ngưỡng

mộ tổ tiên và căm thù quân đô hộ phương Bắc.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ Bác Hồ đã

đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

Hiện nay nhận dân có quyền khiếu nại, tố cáo, 1.2. Vai trò của quần chúng

được lây ý kiến trong các lần sửa đổi Hiến nhân dân trong bảo vệ an ninh

Pháp….

Tổ Quốc. + Quần chúng nhân dân có khả

năng phát hiện, quản lý, giáo dục,

cải tạo các loại tội phạm để thu

GV chia lớp thành 3 nhóm và đưa ra các tình hẹp dần đối tượng phạm tội.

huống để các nhóm thảo luận. + Khi nào người dân có ý thức tự

GV đưa ra tình huống: giác, có tinh thần làm chủ trong

Tình huống 1: Một người phụ nữ đang đi xe máy trên đường, thì bị một đối tượng điều khiển xe máy giật túi xách, rồi tăng ga bỏ chạy. Thời điểm đó, anh A là lái xe taxi đang di chuyển việc xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở, thiếu sót mà địch và bọn tội phạm có thể lợi dụng.

theo hướng ngược chiều quan sát thấy hành vi và nghe tiếng người dân tri hô nên đã lao thẳng xe vào đối tượng cướp giặt khiến hắn ngã ra đường. + Lực lượng Công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể thực hiện bằng chuyên

Sau đó, anh A và người dân đã khống chế được đối tượng cùng tang vật gồm phương tiện gây án môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng

116

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

và túi xách của người bị hại rồi giao lại cho cơ nhân dân.

quan công an xử lí.

GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 1 thảo luận: Em có

nhận xét như thế nào về hành vi của Anh A? Rút

ra vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh tổ quốc?

Tình huống 2: Chị C buôn bán ở chợ nên ngày

nào cũng đi từ sáng sớm, trên đường đi chị có

phát hiện một nhóm đối tượng khả nghi có hành vi bất thường nên đã bí mật báo cho lực lượng an

ninh. Sau khi lực lượng an ninh có mặt đã kiểm

tra nhóm đối tượng trên và phát hiện ra nhóm đối tượng này lợi dụng ban đêm người dân sơ hở để

thực hiện hành vì trộm cắp tài sản

GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 2 thảo luận: Em có

nhận xét như thế nào về hành vi của chị A? Rút ra

vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an

ninh tổ quốc?

TH3: D là một người nghiện ma túy, do nghiện

ngập nên kinh tế của gia đình D trở nên kiệt quệ.

Túng quẫn khi không có tiền để thỏa mãn cơn

nghiện nên D đã liều lĩnh mua ma túy về chia nhỏ

ra rồi bán kiếm lời. Hành vi đó đã bị cơ quan chức

năng phát hiện và D bị bắt giữ, sau vài năm cai

nghiện và cải tạo D được trả tự do về địa phương.

Khi về D được gia đình, bạn bè, người thân, chính quyền quan tâm, giúp đỡ hòa nhập cuộc sống. Hiện nay, D đã có công ăn việc làm ổn định, D còn tích cực giúp đỡ những người đã từng lầm lỡ

giống mình trở về hòa nhập với cuộc sống bình thường. GV đưa ra câu hỏi cho cả lớp thảo luận: Em có

nhận xét như thế nào về hành động của chính quyền, những người thân xung quanh D? Rút ra 2. Nhận thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc. 2.1. Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc.

117

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an Phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh tổ quốc? ninh tổ quốc là một hình thức hoạt

SV nêu ý kiến động tự giác, có tổ chức của đông

GV nhận xét, kết luận: Quần chúng nhân dân có đảo nhân dân lao động tham gia

khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội. phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo

Các đối tượng sau khi đi cải tạo trở về địa phương, vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự

ngoài sự răn đe, quần chúng là người đi đầu trong an toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà

việc giáo dục, không xa lánh, giúp họ hòa đồng, tránh xa tệ nạn, có được một cuộc sống hòa nhập, nước và tính mạng, tài sản của nhân dân.

lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội.

Trên thực tế, công an chỉ có ở cấp xã, ở những làng bản, vùng sâu vùng xa công an không có điều

kiện đến được thường xuyên. Do vậy, quần chúng

nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc tự 2.2. Vị trí, tác dụng của phong

quản, tự giác đấu tranh với các thành phần xấu, trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã

hội. Quốc. - Phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược,

là nền tảng cơ bản trong sự nghiệp

bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn

trật tự an toàn xã hội

GV: Từ khái niệm trên ta thấy phong trào toàn dân

bảo vệ an ninh Tổ Quốc là:

Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.

Là hình thức hành động tự giác của quần chúng. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của nhà nước và sự hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Mục đích của phong trào là nhằm tổ

chức xây dựng nền an ninh trật tự ở từng địa phương cơ sở, nhằm phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tội phạm

GV: tại sao phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc lại là phong trào mang tính tự giác?

118

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

SV nêu ý kiến

GV nhận xét, kết luận.

GV phân tích:

+ Nhân dân lao động có khả năng to lớn, là người làm nên lịch sử, Từ trước đến nay Đảng ta luôn

luôn khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của

toàn dân, đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và

giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi vấn đề an ninh trật tự xẩy ra

khi giải quyết đều phải dựa vào nhân dân. Quán

triệt tư tưởng này của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về “Ngày hội toàn dân

bảo vệ an ninh Tổ quốc”.

+ Thực tiễn cho thấy phong trào hành động cách

mạng của nhân dân như phong trào “Ba không”

trong thời kỳ chống Pháp; Phong trào “bảo vệ trị

an”, “Bảo mật phòng gian” ( Bảo vệ bí mật, tài

sản của Đảng, Nhà nước; bảo vệ nội bộ; bảo vệ trị an xã hội) trong những năm chống Mỹ cứu

nước và hiện nay phong trào toàn dân bảo vệ an - Phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc đã thực sự góp phần quan trọng phục ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản

vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng để tập hợp thu hút đông đảo quần

như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo chúng phát huy quyền làm chủ của

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. quần chúng nhân dân tham gia bảo

vệ an ninh trật tự.

+ Đối với công tác công an, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có tác dụng trực tiếp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, ngăn ngừa làm giảm tai nạn, đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã

hội và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc còn giúp lực lượng Công an có điều kiện để triển

khai sâu rộng các mặt công tác nghiệp vụ. Những tin tức tài liệu đa dạng, phong phú thu được từ

119

Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt

quần chúng nhân dân cung cấp là cơ sở để lực

lượng Công an nhân dân đấu tranh, trấn áp bọn tội

phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an

toàn xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc là động lực quan trọng để nâng cao ý thức tự giác của hàng chục triệu người tham gia vào

công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc ở từng đường

phố, từng thôn, xóm, phường, xã, cơ quan, xí

nghiệp tạo thành thế chủ động trong phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh trấn áp tội phạm tạo thành

một thế trận an toàn về an ninh trật tự.

GV: Nghiên cứu vị trí trên cho thấy. + Thực chất Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

quốc là hình thức hoạt động có tổ chức, do đông đảo

quần chúng nhân dân lao động tham gia; là điều kiện

cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên

lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.

+ Mặt khác sức mạnh, khả năng sáng tạo của quần

chúng nhân dân là rất to lớn, song sức mạnh và

khả năng đó chỉ được phát huy khi quần chúng

nhân dân được tổ chức thành phong trào hành

động cách mạng cụ thể. Chính bằng phong trào và

thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

quốc, quần chúng nhân dân mới có điều kiện tham

gia vào công việc xây dựng, quản lý nền an ninh

trật tự nhiều hơn, tốt hơn và trực tiếp hơn. Vì vậy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo nhân dân, phát huy quyền làm chủ của họ trên lĩnh vực

bảo vệ an ninh - trật tự.

PHẦN 3: KẾT THÚC GIẢNG DẠY

1. Hệ thống nội dung đã học, kết luận bài, giải đáp thắc mắc

- Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc

120

2. Hướng dẫn ôn và nghiên cứu tài liệu

- Nêu vai trò quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc? Sinh viên phải

làm gì để làm tốt công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc?

3. Nhận xét lớp học, kiểm tra quân số, vật chất giảng dạy.

4. Xuống lớp, chuyển nội dung học tập.

121

PHỤ LỤC 2

PHIẾU KHẢO SÁT

(Dành cho giảng viên)

Nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng và an ninh rất

mong đồng chí cho biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu

(x) vào các nội dung phù hợp:

Câu 1. Quý thầy, cô vui lòng cho biết quan điểm của mình về sự cần thiết

phải sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần thiết

Câu 2. Quý thầy, cô vui lòng cho biết mức độ sử dụng PPTLN trong dạy

học môn Công tác quốc phòng, an ninh:

Thường xuyên

Có sử dụng nhưng không thường xuyên

Không sử dụng

Câu 3. Nhận thức của quý thầy, cô về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN

trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.

Mức độ

Các yêu cầu khi thảo luận nhóm

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường

Không cần thiết

Đảm bảo mục tiêu dạy học Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác ……………..

122

Câu 4. Quý thầy, cô lựa chọn phương pháp dạy học môn Công tác quốc

phòng, an ninh theo tiêu chí nào dưới đây:

Sinh viên lĩnh hội lý thuyết

Sinh viên ghi nhớ

Sinh viên giải quyết vấn đề

Sinh viên vận dụng lý thuyết để giải quyết thực tế

Phương pháp khác

Câu 5. Trong quá trình dạy học nội dung lý thuyết, quý thầy cô sử dụng

phương pháp dạy học nào dưới đây:

MỨC ĐỘ

Rất Thường Thỉnh Không PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên

Thuyết trình

Đàm thoại

Thảo luận nhóm

Nêu và giải quyết vấn đề

Câu 6. Trong quá trình dạy học, quý thầy cô đã sử dụng hình thức tổ chức

dạy học nào dưới đây:

MỨC ĐỘ

Rất Thường Thỉnh Không HÌNH THỨC TỔ CHỨC Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên

Cá nhân

Nhóm nhỏ

Nhóm lớn

Toàn lớp

123

Câu 7. Quý thầy, cô sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá nào dưới đây:

MỨC ĐỘ

Rất Thỉnh thường Thường Ít khi Không PHƯƠNG PHÁP KIỂM thoảng xuyên xuyên bao giờ TRA, ĐÁNH GIÁ

Tự luận

Trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm tự luận

Vấn đáp

Xin chân thành cảm ơn!

124

PHỤ LỤC 3

PHIẾU KHẢO SÁT

(Dành cho sinh viên)

Nhằm đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm

Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho biết ý kiến của

mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung phù hợp:

Câu 1. Theo bạn môn học Công tác quốc phòng, an ninh có vai trò như thế

nào với sinh viên ở Đại học Thái Nguyên:

Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình”

Giúp SV có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực

lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.

Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống địch lợi

dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an

toàn xã hội.

Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn

xã hội.

Không giúp được gì cho sinh viên.

Câu 2. Trong giờ học Công tác quốc phòng, an ninh bạn thấy:

Rất thích

Thích

Không thích

Bình thường

Chán

Ghét

125

Câu 3. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng an ninh bạn có hành động:

MỨC ĐỘ

Rất Thường Thỉnh Không HÀNH ĐỘNG Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên

Chú ý nghe giảng

Nói chuyện riêng

Giơ tay phát biểu

Ghi chép

Tham gia vào các tình huống

Câu 4. Bạn không thích môn học Công tác quốc phòng, an ninh vì những lí

do nào dưới đây:

Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu

Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây dựng bài

 Môn học trừu tượng

Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình

 Môn học xa rời cuộc sống

Giảng viên duy trì nghiêm khắc quy định, kỷ luật trong học tập

Câu 5. Để gia tăng sự tích cực của sinh viên, trong dạy học giảng viên nên:

Đa dạng các phương pháp dạy học

Gắn lý thuyết với thực tiễn

Tổ chức tham quan học tập, hoạt động ngoại khóa

Tăng cường tổ chức thảo luận nhóm

Hoạt động khác

Xin chân thành cảm ơn!

126

PHỤ LỤC 4

PHIẾU KHẢO SÁT

(Dành cho sinh viên lớp thực nghiệm)

Nhằm nâng cao và đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho

biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung

phù hợp.

Câu 1. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh có sử dụng PPTLN

bạn thấy:

Rất hứng thú

Hứng thú

Bình thường

Ít hứng thú

Không hứng thú

Câu 2. Mức độ hiểu bài của bạn trong giờ học môn Công tác quốc phòng,

an ninh có vận dụng PPTLN?

Có hiểu bài

Hiểu ít

Không hiểu bài

Câu 3. Cảm nhận của bạn về giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh có

vận dụng PPTLN?

Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn

Bình thường như những giờ học khác

Không thích giờ học như vây

Câu 4. Mức độ hứng thú của bạn sau giờ học môn Công tác quốc phòng, an

ninh có vận dụng PPTLN?

Hứng thú

Bình thường

Không hứng thú

127

Câu 5. Bạn thấy vai trò của PPTLN đối với việc hình thành, phát triển kỹ

năng của sinh viên như thế nào?

Giúp sinh viên biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm

Hình thành ở sinh viên kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu,

ghi nhớ vấn đề

Tất cả các kỹ năng trên

Câu 6. Bạn có mong muốn tiếp tục được học PPTLN trong môn Công tác

quốc phòng, an ninh?

Rất muốn

Bình thường

Không thích

Xin chân thành cảm ơn!

128

PHỤ LỤC 5

PHIẾU KHẢO SÁT

(Dành cho sinh viên lớp đối chứng)

Nhằm nâng cao và đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh

ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho

biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung

phù hợp.

Câu 1. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh bằng phương

pháp dạy học truyền thống bạn thấy:

Rất hứng thú

Hứng thú

Bình thường

Ít hứng thú

Không hứng thú

Câu 2. Mức độ hiểu bài của bạn trong giờ học môn Công tác quốc phòng,

an ninh bằng phương pháp dạy học truyền thống?

Có hiểu bài

Hiểu ít

Không hiểu bài

Câu 3. Cảm nhận của bạn về giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh sử

dụng phương pháp dạy học truyền thống?

Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn

Bình thường như những giờ học khác

Không thích giờ học như vây

Câu 4. Mức độ hứng thú của bạn sau giờ học môn Công tác quốc phòng, an

ninh sử dụng phương pháp dạy học truyền thống?

Hứng thú

Bình thường

Không hứng thú

129

Câu 5. Bạn thấy vai trò của phương pháp dạy học truyền thống đối với việc

 Hình thành ở sinh viên kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi

hình thành, phát triển kỹ năng của sinh viên như thế nào?

 Giúp sinh viên hình thành kỹ năng nghe, ghi chép những nội dung chính.

 Không giúp được gì cho sinh viên.

nhớ vấn đề

Câu 6. Bạn có mong muốn tiếp tục giờ học sử dụng phương pháp dạy học

 Rất muốn

 Bình thường

 Không thích

 Không muốn

truyền thống trong môn Công tác quốc phòng, an ninh?

Xin chân thành cảm ơn!

130

PHỤ LỤC 6

PHIẾU QUAN SÁT

Phiếu quan sát giờ học môn Công tác quốc phòng an ninh:

1. Thời gian:

2. Địa điểm:

3. Nội dung giờ học:

4. Nội dung quan sát:

THÁI ĐỘ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA SỐ TỈ LỆ THỜI TT SINH VIÊN TRONG GIỜ HỌC LƯỢNG (%) GIAN

Tập trung chú ý, ghi chép bài, chăm chú 1 lắng nghe.

2 Lơ đãng, ngủ gật, nói chuyện.

Tích cực hợp tác, nhiệt tình tập luyện, 3 thảo luận nhóm.

4 Thái độ khác

131

PHỤ LỤC 7 TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIẢNG VIÊN

1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN.

Giảng viên Đánh giá mức độ cần thiết sử dụng

PPTLN trong dạy học Số lượng Tỉ lệ

Rất cần thiết 6 85,71%

Cần thiết 1 14,29%

Không cần thiết 0 0%

2. Mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn học

Công tác quốc phòng, an ninh.

Giảng viên Đánh giá mức độ sử dụng PPTLN

trong dạy học Số lượng Tỉ lệ

Thường xuyên 2 28,5%

Có sử dụng nhưng không thường xuyên 5 71,5%

Không sử dụng 0 0%

3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN

Mức độ

Các yêu cầu khi thảo luận nhóm

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

1. Đảm bảo mục tiêu dạy học 5 (71,4%) 0

4 (57,1%) 0 1 (14,3%) 1 (14,3%)

6 (85,7%) 0 0

3 (42,8%) 0 1 (14,3%) 2 (28,6%) 1 (14,3%) 2 (28,6%) 2 (28,6%)

7 (100%) 0 0 0

2. Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận 3. Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm 4. Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận 5. Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác …………….. 0 0 0 0

132

4. Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học

Tiêu chí

Sinh viên lĩnh hội lý thuyết Sinh viên ghi nhớ Sinh viên giải quyết vấn đề Sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế Phương pháp khác Số lượng 1 1 1 4 0 Tỉ lệ 14,3% 14,3% 14,3% 57,1%

5. Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết

Mức độ

PPDH nội dung lý thuyết Rất thường Thường Thỉnh Ít khi xuyên xuyên thoảng

Thuyết trình 3 (42,85%) 3 (42,85%) 1 (14,3%) 0

Đàm thoại 2 (28,6%) 3 (42,8%) 2 (28,6%) 0

Thảo luận nhóm 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0

Nêu và Giải quyết vấn đề 0 1 (14,3%) 3 (42,85%) 3 (42,85%)

6. Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học

Mức độ Hình thức Thường tổ chức Rất thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi xuyên

Cá nhân 0 0 0 0

Nhóm nhỏ 2 (28,6%) 4 (57,1%) 1 (14,3%) 0

Nhóm lớn 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0

Toàn lớp 6 (85,7%) 1 (14,3%) 0 0

7. Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá

Mức độ

Phương pháp kiểm tra, đánh giá Ít khi

Tự luận Trắc nghiệm khách quan Rất thường xuyên 0 0 Thường xuyên 0 0 Thỉnh thoảng 0 0 0 0

133

Trắc nghiệm tự luận Vấn đáp 7 (100%) 0 0 0 0 0 0 0

PHỤ LỤC 8 TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN SINH VIÊN

1. Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên

TỈ LỆ TT NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ MÔN HỌC SL (%)

1 Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình” 159 79.5

Giúp sinh viên có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an 2 149 74.5 ninh Tổ quốc.

Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, 3 121 60.5 lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.

4 Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo 170 85

Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống

5 địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo 129 64.5

chống phá cách mạng Việt Nam

Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn 6 159 79.5 trật tự, an toàn xã hội.

Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm 7 170 85 tệ nạn xã hội.

8 Không giúp được gì cho sinh viên 03 1.5

2. Thái độ của sinh viên đối với môn học

TT THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN SỐ LƯỢNG TỈ LỆ (%)

1 Rất thích 14 7

2 Thích 62 31

3 Không thích 32 16

4 Bình thường 92 46

134

3. Tính tích cực trong giờ học của sinh viên

Rất thường Thường Thỉnh ít khi xuyên xuyên thoảng HÀNH ĐỘNG CỦA SINH TT VIÊN TRONG GIỜ HỌC TL TL TL TL SL SL SL SL (%) (%) (%) (%)

1 Chú ý nghe giảng 120 60 25 22,5 5 2,5 25 50

2 Nói chuyện riêng 11 5,5 69 34,5 95 47,5 2,5 5

3 Giơ tay phát biểu 4 2 24 12 70 35 1 2

4 Ghi chép 27,5 105 57,5 20 10 7 3,5 55

10 5 Tham gia các tình huống 5 53 26,5 67 33,5 45 22,5

4. Nguyên nhân sinh viên không thích học

TT Nguyên nhân không thích học SL TL (%)

1 Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu 95 47,5

Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây 2 89 44,5 dựng bài

3 Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình 82 41

4 Môn học trừu tượng 49 14,5

Giảng viên duy trì nghiêm khắc qui định, kỷ luật trong học 5 44 22 tập

6 Môn học xa rời cuộc sống 11 5,5

5. Giải pháp gia tăng tính tích cực của sinh viên trong giờ học

TT Giải pháp SL TL (%)

1 93 46,5 Đa dạng các phương pháp dạy học

2 82 41 Gắn lý thuyết với thực tiễn

3 44 22 Tổ chức tham quan học tập, hoạt động ngoại khóa

4 105 52,5 Tăng cường tổ chức thảo luận nhóm

5 20 10 Hoạt động khác

135

PHỤ LỤC 9

TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN CỦA SINH VIÊN LỚP THỰC NGHIỆM VÀ ĐỐI CHỨNG

1. Mức độ hứng thú học tập của sinh viên trong giờ học môn Công tác quốc

phòng, an ninh.

Các mức độ

Lớp Hứng thú Ít hứng thú Số SV

120 120 Rất hứng thú SL % 19 15,9 54 44,9 SL % 12,6 15 28,3 34 Bình thường SL % 29,9 36 11,7 14 SL % 11,7 14 8,3 10 Không hứng thú SL % 29,9 36 6,8 8 ĐC TN

2. Kết quả khảo sát lớp thực nghiệm

TT Câu hỏi Phương án trả lời Tỷ lệ

1 Mức độ hiểu bài học của SV

Số ý kiến 100 15 5 83% 12,6% 4,4%

90 74,7%

2 25 20,9% Cảm nhận của SV về giờ học phương pháp thảo luận nhóm

5 4,4%

3 Mức độ hứng thú của SV sau giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm 95 15 10 79,1% 12,6% 8,3%

14 11,6%

4

Vai trò của Phương pháp thảo luận nhóm đối với việc hình thành, phát triển kỹ năng của SV

Có hiểu bài Hiểu ít Không hiểu bài Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn. Bình thường như những giờ học khác Không thích giờ học như vậy Hứng thú Bình thường Không hứng thú Giúp SV biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm Hình thành ở SV kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi nhớ vấn đề. Tất cả các kỹ năng trên Rất muốn Bình thường 10 96 87 25 8,3% 80,1% 72,4% 20,9%

5 Không thích 8 6,7% Mức độ mong muốn của SV tiếp tục được học phương pháp thảo luận nhóm trong tác quốc môn học Công phòng, an ninh

136

PHỤ LỤC 10

ĐỀ KIỂM TRA THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

I: Trắc nghiệm:

Câu 1: nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược

“DBHB”?

A. Là xóa bỏ nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

B. Là xóa bỏ về chính trị tinh thần chiến đấu của nhân dân.

C. Là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN.

D. Là xóa bỏ tinh thần chiến đấu của nhân dân.

Câu 2: Có mấy thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược

“DBHB”:

A. 3 thủ đoạn

B. 4 thủ đoạn

C. 5 thủ đoạn

D. 6 thủ đoạn

Câu 3: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược

“DBHB”:

A. Là chống phá về nhận thức nhân dân.

B. Là chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang.

C. Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

D. Là chống phá về sức mạnh chính trị và tiềm lực kinh tế của đất nước.

Câu 4: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược

“DBHB”:

A. Là thủ đoạn biết sử dụng mọi thủ đoạn chống phá Việt Nam.

B. Là thủ đoạn tiến công của kẻ thù trên mọi lĩnh vực.

C. Là thù đoạn của cuộc chiến tranh không có súng.

D. Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

137

Câu 5: Thủ đoạn chống phá về chính trị của chủ nghĩa đế quốc là nội dung

nào?

Là thực hiện đa nguyên chế độ chống phá. A.

Là thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. B.

Là thực hiện đa nguyên có tổ chức chống phá. C.

Là thực hiện đa nguyên về văn hóa, xã hội. D.

Câu 6: Thủ đoạn chống phá về kinh tế trong chiến lược “DBHB” là gì:

Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo con đường phát triển tiêu cực. A.

Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo hướng đa cực. B.

Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo nhiều hướng khác nhau. C.

Chuyển hóa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dần D.

theo TBCN.

Câu 7: Nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược

“DBHB”?

Xóa bỏ đội ngũ lãnh đạo của ĐCSVN. A.

Xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. B.

Xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam. C.

Xóa bỏ hệ thống pháp luật của Việt Nam. D.

Câu 8: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược

“DBHB”:

Thủ đoạn đầu tư cơ sở vật chất cho lực lượng phản động, A.

Thủ đoạn trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. B.

Thủ đoạn kích động gây mâu thuẫn nội bộ. C.

Thủ đoạn xây dựng cơ sở tình báo, gián điệp. D.

Câu 9: có mấy vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ

quốc?

A. 3 vai trò

B. 4 vai trò

C. 5 vai trò

D. 6 vai trò

138

Câu 10: Nội dung nào dưới đây thuộc vai trò của quần chúng nhân dân

trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?

A. Quần chúng nhân dân có nhiều khả năng trong công cuộc xây dụng nên văn

hóa của nước ta.

B. Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các

loại tội phạm để thu hẹp đần các đối tượng phạm tội.

C. Quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ các dân tộc trong nước và thế giới.

D. Quần chúng nhân dân luôn tin tưởng vào công cuộc phòng chống tội phạm

của các lực lượng chức năng.

Câu 11: Có mấy vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc?

A. 2 vị trí

B. 3 vị trí

C. 4 vị trí

D. 5 vị trí

Câu 12: Nội dung nào dưới đây thuộc vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ

an ninh Tổ quốc?

A. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí cốt lõi trong sự

nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.

B. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược, là nền

tảng cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

C. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chủ yếu trong sự

nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

D. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí quan trọng trong

giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Câu 13: Nội dung nào dưới đây thuộc vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ

an ninh Tổ quốc?

A. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để xây

dựng và phát triển kinh tế.

B. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để xây

dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

139

C. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập

hợp thu hút đông đảo quần chúng, phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân

tham gia bảo vệ an ninh trật tự.

D. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để nhân

dân thực hiện quyền làm chủ trong bảo vệ an ninh trật tự.

Câu 14: Nội dung nào dưới đây thuộc vai trò của quần chúng nhân dân

trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?

A. Lực lượng công an mỏng nên không thể thực hiện được nội dung bảo vệ

an ninh trật tự nên quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng.

B. Lực lượng công an có hạn, nên công tác nên công tác bảo vệ an ninh trật

tự không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động

quần chúng nhân dân.

C. Lực lượng công an rất ít, không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần

mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân.

D. Lực lượng công an có hạn nên không thể thực hiện được nội dung bảo vệ

an ninh trật tự nên quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng.

Câu 15: Nội dung nào dưới đây thuộc khái niệm của phong trào toàn dân

bảo vệ an ninh Tổ quốc?

Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động tự giác,

A.

có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.

Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động bắt buộc,

B.

có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.

Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động tự giác và

C.

tự phát của đông đảo nhân dân lao động.

Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động bắt buộc,

D.

không có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.

II. Tự luận:

Em hãy đọc tình huống sau đây:

H là sinh viên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi xa quê

lên thành phố học tập H đã bị lôi kéo, dụ dỗ tham gia vào một tổ chức phản động,

140

những người này đã cho tiền và xúi giục H lôi kéo thêm nhiều người tham gia vào hành

vi phát tán, tuyên truyền những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc về Đảng, nhà

nước Việt Nam. K là bạn ở cùng kí túc xá với H, sau khi biết được việc mà H đang làm

đã báo cho nhà trường và cơ quan chức năng đến giải quyết. Sau khi được thầy cô và

cơ quan công an giải thích, làm công tác tư tưởng, H đã nhận ra hành vi sai trái của

mình đồng thời thành khẩn khai báo, tích cực giúp đỡ lực lượng chức năng tìm ra những

đối tượng liên quan.

Em hãy trả lời các câu hỏi sau:

1. Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn trên

lĩnh vực nào của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”? Trình bày

nội dung, mục tiêu, biện pháp của thủ đoạn đó?

2. Theo em hành động của K, nhà trường và cơ quan chức năng là đang thực

hiện vai trò nào của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?

3. Em rút ra bài học gì cho bản thân từ việc nghiên cứu tình huống trên?

Đáp án

I. Trắc nghiệm

Câu 1 2 3 4 5 6 7 8

Đáp án C D C D B D B B

Câu 9 10 11 12 13 14 15

Đáp án A B A B C B A

II. Tự luận

Câu 1: Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn

trên lĩnh vực nào của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”? Trình

bày mục tiêu, nội dung, biện pháp của thủ đoạn đó?

- Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn về chính

trị trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”.

- Mục tiêu: Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ "đa nguyên

chính trị, đa đảng đối lập", "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xoá bỏ vai

trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

141

- Nội dung: Tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và

ngoài nước, lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để chia

rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi

vai trò lãnh đạo của Đảng.

- Biện pháp: Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của

nhà nước ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Câu 2: Theo em hành động của K, nhà trường và cơ quan chức năng là đang

thực hiện vai trò nào của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?

- Hành động của K, nhà trường và các cơ quan chức năng là đang thực hiện vai

trò: Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội

phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.

Câu 3: Em rút ra bài học gì cho bản thân từ việc nghiên cứu tình huống trên?

- Cần nâng cao cảnh giác cách mạng, nâng cao nhận thức và tuyên truyền cho

người thân, bạn bè về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn

biến hòa bình”.

- Tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện

những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xẩy ra trong nhà trường

và nơi cư trú kịp thời, cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải

quyết.

142