ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI DUY KHÁNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI DUY KHÁNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Lý luận Chính trị Mã số: 8 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ THỦY THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực, khách quan, không trùng lặp với các luận văn khác. Thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả luận văn
Bùi Duy Khánh
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các bạn. Tôi xin bày tỏ sự biết
ơn sâu sắc đến TS. Vũ Thị Thủy, người đã tận tâm, trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và quá trình nghiên cứu luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm
ơn đến các thầy cô giáo khoa Chính trị - Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái
Nguyên đã trực tiếp giảng dạy lớp Thạc sỹ Khoa học Giáo dục K26.
Tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện của các đồng chí
trong Ban Giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo thuộc Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và
An ninh - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tác giả
có được các thông tin cần thiết, hữu ích để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Mặc dù đã cố gắng nhưng luận văn cũng không thể tránh khỏi một số thiếu sót.
Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô, đồng nghiệp và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả luận văn
Bùi Duy Khánh
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii
DANH MỤC CÁC BẢNG ...............................................................................viii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ..................................... 4
5. Giả thuyết khoa học ......................................................................................... 5
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài ........................................................ 5
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC
QUỐC PHÒNG, AN NINH .............................................................................. 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề....................................................................... 6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận dạy học theo phương pháp
thảo luận nhóm .................................................................................................... 6
1.2. Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh ............................................ 10
1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học ................................. 10
1.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm .................................................................. 13
1.2.3. Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn môn Công tác quốc phòng,
an ninh ............................................................................................................... 27
1.3. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác
quốc phòng, an ninh ........................................................................................... 30
iii
1.3.1. Vai trò của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với giảng
viên..................................................................................................................... 30
1.3.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm đối với sinh viên ................... 34
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 37
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH, ĐIỀU KIỆN
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY
HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐHTN .................................. 38
2.1. Khái quát chung về về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên ......................................................................................... 38
2.1.1. Đặc điểm về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên ...................................................................................................... 38
2.1.2. Đặc điểm sinh viên ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên ......................................................................................... 41
2.2. Thực trạng việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn Công tác quốc phòng và an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và
an ninh - Đại học Thái Nguyên. ........................................................................ 42
2.2.1. Thực trạng hoạt động dạy môn Công tác quốc phòng - an ninh ở
Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại hoc Thái Nguyên ................ 44
2.2.2. Thực trạng hoạt động học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại
Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. .............. 49
2.3. Một số nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh - Đại học Thái Nguyên ..................................................................... 54
2.3.1. Đảm bảo mục tiêu của môn học .............................................................. 54
2.3.2. Đảm bảo tính thực tiễn ............................................................................ 55
2.3.3. Đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng
lực người học ..................................................................................................... 58
iv
2.3.4. Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa vai trò của sinh viên với vai
trò chủ đạo của giảng viên ................................................................................. 59
2.3.5. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa phương pháp thảo luận
nhóm với hiệu quả học tập ................................................................................. 59
2.3.6. Đảm bảo được sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức chia nhóm và
các hình thức thảo luận phù hợp với đặc điểm nhận thức của sinh viên. .......... 60
2.4. Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh .................................................................................................................... 60
2.4.1. Quy trình thiết kế bài học ........................................................................ 61
2.4.2. Quy trình thực hiện bài giảng bằng phương pháp thảo luận nhóm
trong một tiết học ............................................................................................... 65
2.4.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ
dạy theo phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc phòng
và an ninh - Đại học Thái Nguyên ..................................................................... 67
2.5. Điều kiện vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và
an ninh ............................................................................................................... 72
2.5.1. Điều kiện đối với giảng viên ................................................................... 72
2.5.2. Điều kiện đối với sinh viên ...................................................................... 73
2.5.3. Điều kiện về cơ sở vật chất ...................................................................... 73
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 75
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC
QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ................................. 76
3.1. Thực nghiệm sư phạm ................................................................................ 76
3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 76
v
3.1.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................. 78
3.1.3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 83
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và An ninh - Đại học Thái Nguyên ................................................ 91
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cấp quản lý........................................................ 91
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với giảng viên ......................................................... 92
3.2.3. Nhóm giải pháp đối với sinh viên ........................................................... 93
Kết luận chương 3 .............................................................................................. 96
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 97
1. Kết luận .......................................................................................................... 97
2. Kiến nghị ....................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 100
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 102
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PPDH : Phương pháp dạy học
PPTLN : Phương pháp thảo luận nhóm
TLN : Thảo luận nhóm
ĐC : Đối chứng
TN : Thực nghiệm
DBHB : Diễn biến hòa bình
ĐCSVN : Đảng cộng sản Việt Nam
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
ANTQ : An ninh Tổ quốc
GV : Giảng viên
SV : Sinh viên
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN ........... 44
Bảng 2.2. Đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn học Công tác quốc phòng, an ninh .............................. 45
Bảng 2.3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN ....................................... 45
Bảng 2.4: Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học............................... 46
Bảng 2.5: Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết ....................................... 46
Bảng 2.6: Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học ............................... 47
Bảng 2.7: Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá ...................... 48
Bảng 2.8: Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên ........................ 49
Bảng 2.9: Mức độ thái độ của sinh viên đối với môn học ................................. 50
Bảng 2.10: Mức độ tích cực trong giờ học của sinh viên .................................. 52
Bảng 2.11: Mức độ thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học ............ 52
Bảng 2.12: Mức độ nguyên nhân sinh viên không thích học ............................ 53
Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm .......................................................... 78
Bảng 3.2. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và đối chứng ................... 83
Bảng 3.3. Mức độ hứng thú học tập của SV...................................................... 85
Bảng 3.4. Thái độ học tập của sinh viên đối với giờ học thảo luận nhóm ........ 86
Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra điểm điều kiện sau thực nghiệm............................ 87
viii
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và quốc tế sâu rộng và bùng nổ
thông tin, đổi mới quá trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đã trở
thành xu hướng tất yếu đối với các trường cao đẳng, đại học trên thế giới nói chung và
ở nước ta nói riêng. Theo đó, định hướng đổi mới giáo dục đại học đã được thể hiện
trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Điều 36b Luật Giáo dục sửa đổi (số
44/2009/QH12) nêu rõ “Phương pháp giáo dục đại học cần phải coi trọng việc bồi
dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy
sáng tạo, rèn luyện kĩ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”.
Thực tế khi khoa học ngày càng phát triển, con người không chỉ phát hiện ra
những cái đã có trong tự nhiên, xã hội mà bằng trí tưởng tượng, sáng tạo của mình, con
người đã thiết kế xây dựng những mô hình mới chưa có trong thực tiễn. Các phương
pháp suy diễn, mô hình hóa,… dần dần đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa
học và trở thành phương pháp đặc trưng cho khoa học hiện đại. Trong bối cảnh đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, với mục tiêu nhằm biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo rất cần phải có những nghiên cứu xác lập mô hình đổi mới phương
pháp dạy học để định hướng cho toàn bộ quá trình đổi mới. Đây là việc làm phù hợp
với xu hướng của thời đại và có ý nghĩa về mặt phương pháp luận.
Phương pháp thảo luận nhóm với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học đặc
trưng ở các trường cao đẳng, đại học có nhiều ưu thế nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học giúp cho người học tiếp cận một cách nhanh nhất, có hiệu
quả với khối lượng tri thức nhân loại ngày càng lớn. Thông qua những chuỗi hoạt động
tìm tòi, nghiên cứu và tranh luận được tổ chức có chủ định trong các buổi thảo luận
nhóm trên lớp, sinh viên sẽ có nhiều cơ hội để lĩnh hội tốt các tri thức, nắm bắt được
con đường đi đến tri thức, đồng thời rèn luyện kĩ năng, tư duy cũng như thái độ, phong
cách làm việc khoa học một cách tích cực và hiệu quả. Điều này có nghĩa phương pháp
thảo luận nhóm là một công cụ thực sự hữu hiệu giúp cho sinh viên phát triển năng lực
và tư duy toàn diện. Tuy nhiên, trên thực tiễn phương pháp thảo luận nhóm vẫn chưa
có một vị trí xứng đáng và chưa trở thành một hình thức tổ chức dạy học độc lập trong
1
cơ cấu các hình thức tổ chức dạy học và đào tạo bậc cao đẳng, đại học ở Việt Nam hiện
nay.
Công tác giáo dục quốc phòng và an ninh là là môn học có vị trí hết sức quan
trọng trong quá trình đào tạo ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng, an ninh. Một trong
những mục tiêu cơ bản của môn Công tác giáo dục quốc phòng, an ninh là trang bị cho
sinh viên kiến thức, kỹ năng quân sự cơ bản, đưa sinh viên làm quen với môi trường
quân sự, rèn luyện ý thức tự giác, tính tổ chức, tính kỷ luật, giúp sinh viên nhận thức
và hành động đúng đắn, tránh được các tệ nạn xã hội đang tồn tại và phát triển hàng
ngày, hàng giờ. Đặc biệt, khơi dậy và nêu cao tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào
Đảng và Nhà nước, chống lại mọi âm mưu chia rẽ, phản động của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước. Chính vì thế, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học môn
Công tác giáo dục quốc phòng, an ninh là một yêu cầu quan trọng và cấp bách. Tuy
nhiên, thực trạng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế, với
tư duy xem môn Công tác quốc phòng, an ninh chỉ là môn học phụ, không ảnh hưởng
đến điểm tích lũy kết quả học tập đã chi phối, ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ tích cực
tiếp cận của sinh viên và tâm huyết giảng dạy của giảng viên. Hơn nữa, một bộ phận
không nhỏ sinh viên chưa thấy được ý nghĩa và giá trị mang lại từ tri thức của môn
học, chưa thực sự hứng thú, tích cực tham gia học tập dẫn đến hiệu quả dạy học môn
học chưa cao. Để khắc phục thực trạng này đã có nhiều biện pháp, phương pháp và
hình thức dạy học khác nhau trong đó có việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp này sẽ giúp sinh viên chủ động lĩnh hội tri thức, ghi nhớ nội dung bài học
một cách nhanh chóng, bền vững, tự tin bày tỏ ý kiến và không ngừng tìm tòi, nghiên
cứu, thể hiện trách nhiệm cá nhân với công việc chung của toàn nhóm, qua đó hình
thành những phẩm chất, năng lực cho người học.... Với những ưu thế nổi trội như vậy,
phương pháp thảo luận nhóm đã và đang được nhiều giảng viên bộ môn quan tâm vận
dụng trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn nhiều
lúng túng do chưa hiểu rõ được bản chất của phương pháp thảo luận nhóm cũng như
2
quy trình thực hiện, cách sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ, chưa lựa chọn được chủ đề thảo
luận phù hợp, chưa phối hợp nhuần nhuyễn phương pháp thảo luận nhóm với các
phương pháp dạy học khác... Do vậy, việc sử dụng còn mang nặng tính hình thức,
không phát huy được những ưu điểm của phương pháp dạy học này trong quá trình dạy
học.
Thực tiễn dạy học bộ môn đang đặt ra nhiều vấn đề cần có lời giải đáp như: quá
trình dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh cần sử dụng phương pháp nào?
Phương pháp thảo luận nhóm có vai trò như thế nào trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh? Biện pháp nào để sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm đạt hiệu quả nhằm góp phần tạo lập sự hứng thú
học tập, phát triển năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, năng lực cá nhân, năng lực hợp
tác và tính sáng tạo của sinh viên. Để tìm ra lời giải cho những vấn đề nêu trên, tác giả
lựa chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên” làm Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm, luận văn đề xuất quy trình và một số biện pháp nhằm vận dụng có hiệu quả
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh - Đại học Thái Nguyên
Thứ hai, phân tích thực trạng và xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Thứ ba, thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và đề xuất một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
3
học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
- Đại học Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.
Đề tài tiến hành thực nghiệm, nghiên cứu điều kiện, giải pháp nâng cao hiệu quả
của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy môn Công tác quốc phòng, an
ninh trong chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Đề tài dựa trên các cơ sở lý luận sau:
- Nội dung chương trình môn học Công tác quốc phòng, an ninh trong chương
trình giáo dục quốc phòng và an ninh.
- Các văn bản chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
- Lý luận về phương pháp dạy học hiện đại trên thế giới và trong nước.
- Kế thừa các công trình nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học nói chung và dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp logic - lịch sử…
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp so sánh tổng hợp,
quan sát, thống kê…để nghiên cứu phần thực trạng của việc vận dụng phương pháp
4
thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu phương pháp thảo luận nhóm được vận dụng theo đúng nguyên tắc,
quy trình, biện pháp đã nêu trong luận văn thì sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc giảng
dạy môn môn Công tác quốc phòng, an ninh trong chương trình giáo dục quốc phòng và
an ninh. Qua đó, sẽ phát huy được tư duy độc lập, năng lực sáng tạo và năng lực phản
biện xã hội; giúp sinh viên phát triển được kỹ năng giao tiếp, hợp tác nhóm góp phần
nâng cao được chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục, đào tạo.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Đề tài hoàn thành góp phần làm sáng tỏ hơn về thực trạng vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Qua nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và tiến hành thực nghiệm sư phạm,
đề tài đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng
phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Sau khi hoàn thiện cung cấp những luận cứ làm cơ sở lý luận cho việc vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm vào quá trình dạy học môn Công tác quốc phòng,
an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN
NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận dạy học theo phương pháp thảo luận
nhóm
Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm là một trong những phương pháp
được vận dụng khá phổ biến ở nhiều cấp học, nhiều ngành học. Dạy học theo thảo luận
nhóm sớm thu hút sự quan tâm ở các góc độ tiếp cận khác nhau của nhiều nhà khoa
học, nhiều chủ thể giáo dục. Có thể kể đến các góc độ tiếp cận cơ bản dưới đây:
Khi đề cập đến phương pháp thảo luận nhóm, từ thời kỳ Cổ đại, các nhà giáo
dục, nghiên cứu ở phương Đông, phương Tây đều luôn quan tâm đến người học và
hình thức học tập. Với suy nghĩ điều gì cũng đáng học đặc biệt là học từ những người
xung quanh, học bạn bè, Khổng Tử (551-479 TCN) đã khẳng định: “trong ba người
đi tất có một người là thầy ta” [13, tr.22]. Điều đó cho thấy ông đã đề cao sự tương tác
giữa người dạy với người học, giữa người học với người học.
Nhà giáo dục Marco Fabio Quintilian (42-118) với cuốn sách “Luận về thuật
hùng biện” trong đó nghiên cứu nhiều vấn đề về giáo dục và có rất nhiều tư tưởng tiến
bộ. Ông nhận định: dạy học không phải là sự cưỡng ép mà phải làm thế nào để họ vui
vẻ học tập. Giảng dạy cần phải thay đổi hình thức và đưa ra nhiều ví dụ. Người học sẽ
có rất lợi nếu biết nói những điều mình hiểu cho người khác cùng hiểu [13, tr.15]. Quan
điểm của Marco Fabio Quintilian có rất nhiều điểm tương đồng với mục tiêu mà
phương pháp thảo luận nhóm hướng tới cũng như ý nghĩa của nó trong hoạt động học
tập.
J.A. Cô-men-xki (1592-1670) nhà giáo dục được coi là thủy tổ của nền giáo
dục dân chủ đã phản đối cách dạy theo lối thuộc lòng, nhồi sọ người học và tin tưởng
rằng người học sẽ có lợi từ việc dạy cho bạn bè và học từ bạn bè [13].
Nhà giáo dục học người Đức Georg Michael Kerschenteiner (1854-1932)
đã đánh giá rất cao vai trò của việc hợp tác trong nhóm. Ông nhận định: Người dạy
hoàn toàn có thể áp dụng hình thức học tập tự quản theo nhóm để phát triển tính
6
cách của người học, khơi dậy tinh thần trách nhiệm cá nhân trong lương tâm mỗi
con người đối với cộng đồng, loại bỏ những hành động do động cơ ích kỷ đối với
nhóm khác [20, tr.25].
Trong công trình nghiên cứu về học cùng nhau và học độc lập; học hợp tác, học
tranh đua và học cá nhân, các tác giả David W.Johnson và Roger T. Johnson đã cho
rằng học cá nhân và học tranh đua không phù hợp dẫn đến tính tự mãn, ích kỷ, thất
vọng và tự ti. Điều đó dễ dẫn đến sự phát triển không lành mạnh về sức khỏe và tâm
lý. Từ đó, các tác giả cho rằng: Dạy học theo nhóm có vai trò quan trọng trong việc
xây dựng mối quan hệ bạn bè, tăng cường động cơ học tập, sự trao đổi thông tin, phát
triển năng lực tư duy và kỹ năng xã hội. Như vậy, dạy học theo nhóm bộc lộ rõ tính ưu
việt nhưng trong thực tiễn lại ít khi được sử dụng hơn so với kiểu học cá nhân và tranh
đua [6].
Trên cơ sở đánh giá cao vai trò của tập thể, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin cho rằng giáo dục con người thông qua tập thể là một trong những vấn đề quan
trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. C.Mác khẳng định: “Chỉ có trong cộng đồng,
cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu
của mình và do đó chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân” [2, tr.108].
Ở Việt Nam, với triết lý giáo dục “Học thầy không tày học bạn” đã cho thấy,
học tập không chỉ từ phía người thầy mà cần phải học tập nhiều hơn từ bè bạn. Đặc
biệt, sau Cách mạng tháng Tám, cách học theo nhóm với phương châm mọi người cùng
giúp nhau biết chữ được thực hiện sâu rộng trong phong trào “Bình dân học vụ” để
diệt giặc dốt. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, để thực hiện thắng lợi mục tiêu
diệt giặc dốt cần sử dụng mềm dẻo các biện pháp trong đó chú ý đến hình thức dạy học
lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: “Những người chưa biết chữ hãy gắng
sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ
không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo…” [8, tr.37].
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, khi bàn về cách học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh vai trò của tự học trên tinh thần “lấy tự học làm cốt” hay nói cách khác,
tự học là yếu tố cốt lõi của hoạt động học tập, là nội lực quyết định chất lượng học tập.
Tuy nhiên, Người đã nhắc đến sự liên quan chặt chẽ giữa tự học với thảo luận, tự học
7
là cốt nhưng “do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [9, tr.273]. Điều đó có nghĩa, thảo luận
là yếu tố ngoại lực để phát huy sức mạnh tập thể. Muốn tiến hành thảo luận thì bản thân
mỗi cá nhân phải có nội lực tự học lớn mới có thể tham gia, đóng góp tích cực được.
Trong những năm gần đây, với xu thế đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa
hoạt động của người học, các nhà giáo dục đã nhận thấy cần phải tổ chức cho người
học học tập theo nhóm. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục đã tập trung
bàn về tầm quan trọng và sự cần thiết của làm việc theo nhóm.
Trong công trình nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Nguyễn Thanh Bình:“Cải tiến
tổ chức hoạt động giáo dục trong trường trung học cơ sở theo phương thức hợp tác”
đã làm rõ nội hàm khái niệm hợp tác, vai trò của mô hình này và vận dụng mô hình
trong cải tiến tổ chức hoạt động giáo dục ở trường trung học cơ sở [1].
Khi bàn đến dạy học hợp tác với tư cách là một quan điểm dạy học trong đó
phương pháp thảo luận nhóm là một trong số các PPDH có sứ mệnh quan trọng phát
huy tính tích cực của người học, công trình nghiên cứu: “Sách trợ giúp giảng viên cao
đẳng sư phạm”, của tập thể tác giả Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá
Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp đã nhấn mạnh vấn đề dạy học hợp tác
nhóm là một trong các PPDH hiện đại [4]. Trong đó, tác giả Nguyễn Hữu Châu cho
rằng, cần sử dụng các nhóm nhỏ để làm việc cùng nhau nhằm tối đa hóa kết quả học
tập của học sinh, bởi lẽ dạy học hợp tác “không chỉ đơn thuần là một cách thức giảng
dạy mà còn là sự thay đổi về cấu trúc tổ chức ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời
sống học đường [3, tr.235].
Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống và
đổi mới” đã nhận định tầm quan trọng của sự hợp tác nhóm trong học tập như: nâng
cao năng lực hợp tác, tăng cường thái độ tích cực với các môn học, tăng cường khả
năng tư duy phê phán, tạo ra những thành công trong học tập. Tác giả nhìn nhận rằng,
không phải dạy học tốt nhất là một thầy một trò bởi người thầy dù có giỏi đến mấy
cũng không thể đi sâu vào thế giới nội tâm của học sinh, không thể tạo ra cảm xúc và
kinh nghiệm đa dạng, phong phú bằng việc học sinh giao tiếp với nhau. Như vậy, học
tập thể, học nhóm vô cùng quan trọng trong đó sự hợp tác diễn ra nhiều chiều, giữa trò
với trò, giữa thầy với trò để hoàn thành nhiệm vụ học tập [19, tr.411-412].
8
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Toan: “Vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ
thông” đã đề cập đến cơ sở lý luận và thực trạng sử dụng PPTLN trong dạy học và
cho rằng đây là phương pháp phát triển năng lực hợp tác, diễn đạt của người học - một
phẩm chất quan trọng của công dân trong xu thế hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, đây là
một phương pháp khó đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức, quy trình, phối hợp
linh hoạt với các PPDH khác [18].
Cũng theo tác giả Vũ Lệ Hoa, trong cuốn: “Tổ chức dạy học theo quan điểm
sư phạm tương tác”, tác giả nhấn mạnh việc tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận, tranh luận
trong tập thể khiến trình độ của người học được nâng cao, vận dụng được vốn hiểu biết
của mỗi cá nhân và của tập thể lớp [10, tr.66].
Ngoài ra, khi đề cập đến phương pháp thảo luận nhóm có rất nhiều tác giả đã đề
cập: Nguyễn Thị Kim Dung, “Thảo luận nhóm và quá trình xây dựng quan hệ nhân ái
giữa học sinh với nhau ở trường trung học”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 11, trang
10 - 11, 2000; Trần Duy Hưng, “Mô hình phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ”, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 4, trang 9-10, 2000; Ngô Thị Thu Dung (2001), “Mô hình
tổ chức dạy học theo nhóm trong giờ học trên lớp”, Tạp chí Giáo dục số 5, trang 21-
22.
Như vậy, từ tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu cho thấy, phương pháp dạy
học thảo luận nhóm trong những năm gần đây đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau đã bước
đầu nêu lên quan niệm về phương pháp dạy thảo luận nhóm, khẳng định vị trí, vai trò,
ý nghĩa to lớn của phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong dạy học. Ở một số công
trình nghiên cứu, các tác giả đã chỉ ra nội dung, hình thức, yêu cầu và nguyên tắc khi
sử dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm phù hợp với từng đối tượng. Những kết
quả nghiên cứu đó sẽ được tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn này. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề: Vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Trong luận văn, tác giả tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau:
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học
9
thảo luận nhóm nói chung và phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng; luận chứng ưu thế khi sử dụng phương pháp
dạy học thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Hai là, điều tra, đánh giá thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học thảo
luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Ba là, đề xuất một số nguyên tắc và quy trình sử dụng phương pháp dạy học
thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Bốn là, tổ chức thực nghiệm nguyên tắc và quy trình sử dụng phương pháp dạy
học thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số kiến nghị để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong
dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh trên địa bàn nghiên cứu.
1.2. Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh
1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học
1.2.1.1. Khái niệm phương pháp
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, “Methodos”- nguyên
nghĩa là con đường đi tới một cái gì đó; có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích.
Từ điển Triết học cho rằng: “Phương pháp theo nghĩa chung nhất là cách thức
đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định” [15].
Tác giả Phạm Viết Vượng đã phân tích phạm trù phương pháp theo ba bậc:
“Bậc 1: Phương pháp là hệ thống các quan điểm, các cách tiếp cận đối tượng
được sử dụng cho một loại công việc. Cách tiếp cận đối tượng khác nhau sẽ đem lại
hiệu quả công việc khác nhau.
Bậc 2: Phương pháp là hệ quy trình, để tiến hành một loại công việc ta cần lựa
chọn một quy trình với các bước đi ngắn nhất để đem lại hiêu quả tốt nhất (quy trình
10
tối ưu).
Bậc 3: Phương pháp là hệ thống các thao tác biện pháp cụ thể được sử dụng để
tiến hành công việc. Phương pháp là cách làm với các thao tác cụ thể”. [21]
Từ việc tiếp cận đã nêu, Phạm Viết Vượng đã đưa ra khái niệm về phương pháp:
“Phương pháp là tổ hợp các cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng
hoạt động nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích đã xác định”. [21].
Trên góc độ tiếp cận cơ bản nhất, phương pháp được hiểu là cách thức hành
động của chủ thể để đạt đến một mục đích nhất định. Trên ý nghĩa đó, phương pháp là
phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, giúp con người nhận thức
được hiện thực khách quan, nhận thức được thực tiễn. Vì vậy, có thể xem phương pháp
là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động nhận
thức và cải tạo thế giới của con người.
Trên thực tế, phương pháp không đơn giản chỉ là được hình thành qua sự tích
lũy, đúc rút kinh nghiệm mà còn là khoa học, đồng thời là nghệ thuật, nó đòi hỏi tính
sáng tạo và mang dấu ấn của chủ thể sử dụng phương pháp. Viện sĩ Tôđa Páplốp đã
khẳng định: “Phương pháp khoa học là những quy luật nội tại của sự vận động của tư
duy, với tư cách là sự phản ánh chủ quan của thế giới khách quan, hay là những quy
luật khách quan được “chuyển” và “dịch” trong ý thức của con người và được sử dụng
một cách có ý thức, có hệ thống như là phương tiện để giải thích và cải biến thế
giới”[27]. Ở mỗi lĩnh vực nhận thức và hoạt động khác nhau có thể sử dụng phương
pháp khác nhau. Điều này tạo nên tính đa dạng , phong phú trong việc phân chia phương
pháp theo các lĩnh vực và góc độ tiếp cận.
Mặc dù được tiếp cập dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung có thể
hiểu: Phương pháp là cách thức, là con đường, là phương tiện để đạt tới mục đích.
Theo đó, phương pháp vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách
quan của phương pháp được quy định bởi đối tượng, khách thể mà con người muốn tác
động bằng hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình, tính chủ quan của phương pháp
lại bi chi phối, quy định của vì tính mục đích kiếm tìm, lựa chọn và sử dụng phương
pháp của từng chủ thể.
1.2.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
Nhà giáo dục Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Phương pháp dạy học là cách
11
thức làm việc phối hợp thống nhất của thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt nội dung
trí dục để trên cơ sở đó và thông qua đó chỉ đạo sự học tập của trò, còn trò lĩnh hội và
tự chỉ đạo sự học tập của bản thân để cuối cùng đạt tới mục đích dạy học” [16].
Nhà giáo - GS.TSKH Lâm Quang Thiệp cho rằng: “dạy học là việc giúp cho
người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc thay đổi
những tình cảm, thái độ”[17].Theo quan niệm trên, dạy không phải là truyền thụ kiến
thức một chiều, càng không phải cung cấp thông tin đơn thuần, mà chủ yếu là giúp cho
người học tự mình chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, bồi dưỡng cảm xúc và hình thành
thái độ.
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố như: mục đích và nhiệm vụ dạy học,
phương pháp và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học,
kết quả dạy học… Quá trình này diễn ra và tác động qua lại với nhau để đạt được mục
đích giáo dục.
Bản chất của dạy học là quá trình xử lý, chuyển giao thông tin tri thức của người
dạy và quá trình thu nhận, xử lý thông tin của người học. Tính hiệu quả của quá trình
này không những phụ thuộc vào chất lượng của thông tin mà quan trọng là phụ thuộc
vào phương pháp thực hiện hoạt động đó. [7, tr.12].
Kết quả cuối cùng của quá trình dạy học là hình thành ở người học các nhu cầu
thường xuyên học tập, tìm tòi tri thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích năng lực tư duy
sáng tạo. Hoạt động dạy học đó còn định hướng cho người học trong việc tìm tòi, đào
sâu kiến thức từ lượng thông tin phong phú và rộng lớn của xã hội; hình thành thói
quen tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học của mình. Hay nói khác, dạy học là một quá
trình tổ chức, điều khiển hoạt động học nhằm hình thành cho họ có thái độ, năng lực,
phương pháp, và ý chí học tập để họ tự khai phá những tri thức phong phú của nhân
loại. Đó chính là bản chất của “dạy học lấy người học làm trung tâm” mà nền giáo dục
hiện đại đang nỗ lực hướng tới.
Từ quan điểm “dạy học là quá trình thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy
và hoạt động học”, các nhà giáo dục học cho rằng, phương pháp dạy học bao hàm cả
phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập. Phương pháp dạy học là một khái
niệm phức hợp, có nhiều bình diện, phương diện và cấp độ khác nhau.
12
Cấp độ rộng nhất, “phương pháp dạy học là những quan điểm, tư tưởng về tổ
chức dạy học, là cách thức triển khai của một hệ thống dạy học đa tầng, đa diện cho
một bậc học, cấp học, ngành học, phương thức học” [7, tr.12].
Cấp độ thứ hai, phương pháp dạy học là chiến lược và mô hình dạy học, là cách
thức triển khai một quá trình dạy học cụ thể diễn ra trong một không gian, thời gian
nhất định và được cấu trúc bởi mục tiêu, nội dung dạy học, các hoạt động dạy học và
kết quả dạy học.
Cấp độ thứ ba, phương pháp dạy học là những cách thức tiến hành hoạt động
của người dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạy học đã được xác định.
Như vậy, mỗi nhà khoa học có cách tiếp cận khác nhau từ khái niệm phương
pháp. Tuy nhiên, trong quan điểm của họ đều đồng nhất ở chỗ: Coi phương pháp dạy
học là thành tố quan trọng của quá trình dạy học và có mối quan hệ mật thiết với các
thành tố khác. Phương pháp dạy học là cách thức phối hợp của người dạy và người
học, trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chỉ đạo, phương pháp học nhằm giúp người
học chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học và hình thành kỹ năng, kỹ xảo theo mục
đích hay nguyên tắc đã định. Việc lựa chọn hợp lý và sử dụng nhuần nhuyễn các
phương pháp dạy học đó chính là nghệ thuật sư phạm.
1.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm
1.2.2.1. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nhóm là tập hợp một số ít người hoặc sự vật được
hình thành theo những nguyên tắc nhất định, tụ tập với nhau để cùng làm một việc gì
[15]. Nhóm (đội, ekip) còn được quan niệm là hoạt động có ý thức của con người bao
gồm một tập hợp người (hai hoặc trên hai người) được xác định bởi các mối liên hệ
tương tác, đặc biệt là có cùng mục đích và cùng chia sẻ mục tiêu chung. Hoạt động của
nhóm được thể hiện thông qua sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau và giữa họ có sự
tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau [12].
Từ hoạt động thực tiễn của con người đã hình thành nhiều loại hình nhóm khác
nhau với thời gian tồn tại không giống nhau. Sự đa dạng về nhóm do sự đa dạng về nhu
cầu của con người trong cuộc sống quy định. Xuất phát từ nhu cầu của các thành viên
trong nhóm về môi trường làm việc, sở thích, thói quen, hoàn cảnh sống… sẽ hình
13
thành nhóm không chính thức. Xuất phát từ nhu cầu của một tổ chức, căn cứ vào quyết
định của tổ chức hình thành nên nhóm chính thức. Có nhóm hoạt động trong thời gian
dài, tương đối ổn định nhưng cũng có những nhóm tồn tại trong thời gian ngắn, thậm
chí rất ngắn. Như vậy: Nhóm là tập hợp các cá nhân có sự tương tác lẫn nhau trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ chung.
Học tập là một hoạt động đặc thù của con người có mục đích và được thực hiện
một cách tự giác. Trong quá trình học tập tất yếu sẽ xuất hiện sự liên kết giữa các thành
viên theo các nhóm bởi lẽ giao tiếp nhóm là hình thức giao tiếp rất phổ biến gắn với
việc hình thành và phát triển nhân cách của người học.
Nhóm học tập được quan niệm là tập hợp học sinh cùng trình độ (từ 5 đến 6
người), có cùng một mục đích, thực hiện cùng một nhiệm vụ học tập trong đó học sinh
xác định được mục tiêu, các nhiệm vụ tổ chức, phân công chuẩn bị các phương tiện,
điều kiện cho hoạt động học; hợp tác, phối hợp hoạt động, tự đọc, tự tìm kiếm thông
tin trên sách báo, trên mạng, trong cuộc sống, tiến hành trao đổi, thảo luận, tranh luận
để đi đến thống nhất đáp án giải quyết vấn đề. Nguyên tắc của nhóm học tập dựa trên
cơ sở: hoạt động, hợp tác và tự do. [5].
Theo chúng tôi, nhóm học tập là tập hợp các cá nhân với số lượng nhất định có
sự tương tác với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong quá
trình học tập.
Về khái niệm “thảo luận nhóm” trong dạy học. Thảo luận là khi hai hoặc nhiều
người cùng trao đổi ý kiến bằng ngôn ngữ, lời nói. Thảo luận (discuss) có nghĩa là:
“trao đổi phân tích bằng lý lẽ để làm sáng rõ một số vấn đề” [11]. Tác giả Nguyễn Thị
Toan nghiên cứu “thảo luận nhóm” đã nhận định: “Thảo luận nhóm là một sự trao đổi
ý tưởng, quan điểm, nhận thức giữa các học viên để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các
nội dung phù hợp với hoạt động đào tạo” [18]. Bên cạnh đó, tác giả Phan Trọng Ngọ
cũng cho rằng: “Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được
chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và
thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó”
[14]. Từ những nghiên cứu nêu trên, “Phương pháp thảo luận nhóm” có thể hiểu một
cách khái quát như sau: Phương pháp thảo luận nhóm là một hình thức dạy học, trong
14
đó để đạt được mục tiêu dạy học thì am gia vào giải quyết nhiệm vụ học tập trong một
khoảng thời gian người học phải làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ, mỗi thành
viên trong nhóm đều thất định dưới sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của giảng viên.
Thông qua phương pháp thảo luận nhóm, sinh viên được trực tiếp trao đổi nhận
thức, quan điểm của bản thân để làm rõ một vấn đề nào đó hoặc tham góp những ý
tưởng làm giàu thêm kiến thức về các nội dung phù hợp với hoạt động đào tạo. Phương
pháp thảo luận nhóm lấy mối quan hệ tác động qua lại giữa sinh viên với sinh viên làm
trung tâm của quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của giảng viên nhằm phát
triển tri thức, kĩ năng, thái độ tích cực đặc biệt là kĩ năng hợp tác, làm việc theo nhóm.
Thảo luận nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố
một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới. Nhiệm vụ của các
nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau thuộc nội dung
trong một chủ đề chung.
Để vừa đảm bảo nguyên tắc cá biệt vừa đáp ứng tính phổ biến trong giáo dục,
giảng viên có thể chia nhóm theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu chí có những ưu,
nhược điểm riêng. Do đó, về mặt phương pháp luận không nên tuyệt đối hóa hay áp
dụng một tiêu chí duy nhất trong cả môn học.
Một là, chia nhóm ngẫu nhiên: Ở tiêu chí này, giảng viên có thể chia nhóm theo
bàn, chia theo tổ hoặc gắp thăm. Đây là cách chia được tiến hành khi không cần có sự
phân biệt về trình độ giữa các sinh viên. Tất cả các sinh viên đều phải hoạt động để giải
quyết vấn để được đặt ra. Nhiệm vụ được giao không khác nhau nhiều về nội dung, có
chung một yêu cầu và ít có sự chênh lệch về trình độ khó.
Hai là, chia nhóm theo sở trường: Cách chia này thường được sử dụng trong các
giờ ngoại khóa, mỗi nhóm sẽ gồm các sinh viên có chung hứng thú, chung sở trường.
Cách chia nhóm này một mặt dễ tạo hứng thú cho sinh viên nhưng lại dễ tạo ra sự cách
biệt nếu duy trì thường xuyên hình thức này.
Ba là, chia nhóm theo cùng một trình độ: Với cách chia này có thể phân hóa
sinh viên về trình độ bởi mức độ khó, dễ của nội dung bài học cho từng đối tượng có
trình độ giỏi, khá, trung bình, yếu của sinh viên. Giảng viên cần có những yêu cầu cụ
thể đối với từng nhóm trong việc giải quyết cùng một nhiệm vụ học tập. Giảng viên có
thể yêu cầu cao hơn với nhóm giỏi, khá và gợi ý cho nhóm trung bình, yếu. Như vậy
15
sẽ kích thích được hứng thú học tập trong lớp, sinh viên sẽ tích cực, chủ động, tự giác
hơn theo sự hướng dẫn, điều khiển thảo luận của giảng viên. Một điều cần lưu ý khi áp
dụng cách chia này là giảng viên phải nắm chắc trình độ của từng sinh viên để chia
đúng trình độ, nếu không sẽ phản tác dụng.
Bốn là, chia nhóm gồm đủ trình độ: Với cách chia này, việc xác định vai trò của
trưởng nhóm là rất quan trọng. Cách chia này thường được sử dụng khi cần có sự hỗ
trợ lẫn nhau theo yêu cầu của nội dung bài học.
Như vậy, có nhiều cách chia nhóm khác nhau, mỗi cách có một lợi thế riêng. Do
đó, trong việc lựa chọn phương án chia nhóm giảng viên cần cân nhắc dựa vào mục
tiêu bài học, vị trí, sở trường của sinh viên.
1.2.2.2. Các hình thức dạy học thảo luận nhóm
Trên thực tế, có nhiều hình thức thảo luận theo nhóm, hiệu quả của chúng tuỳ
thuộc vào ý đồ và tính chất sử dụng của giảng viên. Dưới đây là một số hình thức thảo
luận nhóm trong dạy học:
+ Nhóm nhỏ thông thường
Giảng viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ (từ 5-7 sinh viên) để thảo luận một
vấn đề cụ thể và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về vấn đề đó. Hình thức này
thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học khác trong một bài học,
một tiết học, nội dung thảo luận của nhóm nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời
lượng ít (từ 5 - 7phút).
+ Nhóm nhỏ rì rầm
Giảng viên chia lớp thành các nhóm “cực nhỏ” từ 2-3 sinh viên (thường là cùng
một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi, giải quyết một vấn đề,
nêu một ý tưởng, một quan điểm… Với hình thức này, giảng viên cần cung cấp đầy đủ,
chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các câu trả lời để các thành viên
tập trung vào giải quyết vấn đề.
+ Nhóm kim tự tháp
Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm, sau khi thảo luận theo cặp (nhóm rì
rầm) các cặp (2-3 nhóm rì rầm) kết hợp thành một nhóm để hoàn thiện một vấn đề
chung, nếu cần thiết có thể kết hợp nhóm này thành nhóm lớn hơn (8-16 sinh viên).
+ Nhóm đồng tâm
16
Giảng viên chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó
hoán vị cho nhau). Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6 - 8 sinh viên) có nhiệm vụ thảo
luận, trình bày vấn đề được giao, còn lại các thành viên khác trong lớp đóng vai trò là
người quan sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả đối với việc dạy học
các nội dung tri thức có tính khái quát, trừu tượng, góp phần làm tăng ý thức trách
nhiệm của từng sinh viên đồng thời tạo động cơ cho những sinh viên nhút nhát, ngại
trình bày ý tưởng của mình trước tập thể.
1.2.2.3. Yêu cầu của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh
Thứ nhất về quy mô nhóm: Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ, tuỳ theo vấn
đề thảo luận. Tuy nhiên nhóm từ 6 - 8 sinh viên là tốt nhất, vì số sinh viên như vậy
vừa đủ nhỏ để đảm bảo tất cả sinh viên có thể tham gia ý kiến nhưng cũng vừa đủ
lớn để đảm bảo rằng, sinh viên có thể trao đổi quan điểm, ý kiến của mình về vấn
đề thảo luận.
Thứ hai, chia nội dung bài dạy: Nội dung bài dạy cần được chia thành những
vấn đề nhỏ có mối liên hệ với nhau. Trong đó, mỗi vấn đề nhỏ là một nội dung thảo
luận.
Thứ ba, mỗi nhóm phải có một nhóm trưởng để điều khiển, duy trì hoạt động
của nhóm và có thư ký để ghi đầy đủ các ý kiến trong quá trình thảo luận.
Thứ tư, tại một thời điểm có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ
đề nhưng cũng có thể giao cho mỗi nhóm một chủ đề, sự liên kết giữa các nhóm sẽ tạo
ra sự thống nhất chung của bài dạy. Tùy theo mục tiêu bài dạy, giảng viên có thể kết
hợp các cách theo những mức độ nhất định để đảm bảo tính phù hợp.
Thứ năm, các sản phẩm của cá nhân hay nhóm được thể hiện trên các sản phẩm
thảo luận như: Bảng tài liệu, mô hình hay các bản báo cáo. Sản phẩm đó phải được
trình bày trước lớp hoặc nhóm trong lớp để mọi người góp ý, nhận xét.
Thứ sáu, cần đảm bảo có thông tin, phản hồi từ các nhóm. Trong quá trình các
nhóm thảo luận, giảng viên cần kiểm tra việc ghi chép của thư ký, quan sát để nắm bắt
được thái độ, mức độ tích cực của từng sinh viên khi tham gia thảo luận.
Thứ bảy, kết thúc việc thảo luận, giảng viên cần có nhận xét, đánh giá, tổng hợp
ý kiến, đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề thảo luận, thực hiện công tác cố vấn, trọng
17
tài và kịp thời khen ngợi, khích lệ đối với những nhóm, những cá nhân làm tốt.
Thứ tám, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cần xác định hoạt động của
giảng viên và sinh viên:
Hoạt động của giảng viên:
Giảng viên thiết kế các nhiệm vụ, các tình huống học tập cho sinh viên.
+ Nội dung dạy học phải được giảng viên thiết kế thành các nhiệm vụ học tập.
Các nhiệm vụ học tập phải kích thích sinh viên có nhu cầu làm việc nhóm, có sự hợp
tác, hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ, phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, đòi hỏi người
giảng viên phải có tri thức sâu rộng, có kĩ năng thiết kế nhiệm vụ, có nghệ thuật sư
phạm, tạo môi trường hợp tác, kích thích nhu cầu ham muốn giải quyết vấn đề của sinh
viên.
+ Trong quá trình thiết kế nhiệm vụ, giảng viên phải dự đoán trước được những
khó khăn vướng mắc của sinh viên trong quá trình giải quyết nhiệm vụ; dự đoán được
các kĩ năng hiện có của sinh viên để giao nhiệm vụ phù hợp và kích thích sự phát triển;
xác định nhiệm vụ sẽ đồng nhất hay khác nhau giữa các nhóm; dự kiến thời gian hoàn
thành nhiệm vụ và phương thức tổ chức hoạt động của sinh viên để có thể hoàn thành
nhiệm vụ.
Nghiên cứu cách thức chia nhóm và phân chia vai trò của các thành viên trong
nhóm:
Giảng viên cần phải chia đều về số lượng và năng lực làm việc giữa các nhóm.
Nếu vấn đề đặt ra trong bài học không nhiều, giảng viên có thể cho hai nhóm cùng thảo
luận một vấn đề. Nhưng sau đó giảng viên có thể linh hoạt cho nhóm này báo cáo,
nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện.
Sau khi phân chia thành các nhóm, giảng viên hướng dẫn sinh viên phân chia
vai trò của các thành viên, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ rõ
ràng. Nhiệm vụ của các thành viên trong một nhóm có thể bao gồm:
- Trưởng nhóm giữ vai trò điều khiển nhóm và có nhiệm vụ hướng dẫn các thành
viên tham gia vào hoạt động, giải thích rõ nhiệm vụ hoạt động của nhóm; tóm tắt, kiểm
tra lại xem mọi thành viên đã hiểu vấn đề chưa; thống nhất ý kiến của nhóm; giải quyết
các “mâu thuẫn” trong quá trình hoạt động nhóm. Với vai trò này, giảng viên cần chọn
sinh viên có nhiều năng lực hơn, đặc biệt là năng lực quản lý, giám sát và hướng dẫn
18
ban.
- Thư kí cần ghi chép mọi ý kiến, biên tập, tóm tắt các ý kiến của các thành viên
trong nhóm.
- Người báo cáo sẽ thay mặt nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
Vai trò của các thành viên trong nhóm cũng thường xuyên thay đổi, sinh viên
cần được luân phiên nhau làm nhóm trưởng hoặc thư kí, luân phiên nhau đại diện cho
nhóm trình bày kết quả thảo luận.
Bố trí không gian lớp học
+ Bố trí không gian lớp học cũng có sức ảnh hưởng lớn đến dạy học theo phương
pháp thảo luận nhóm. Nét sáng tạo trong dạy học phát triển kĩ năng cho sinh viên là
giảng viên xắp xếp, bố trí lại không gian lớp học, giúp cho sinh viên mặt đối mặt tích
cực hợp tác nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập, thuận lợi cho giảng viên đi lại kiểm
tra giám sát; thuận lợi cho việc di chuyển nhóm theo chiến lược dạy học của giảng viên.
Sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học trong thảo luận nhóm
Phương pháp dạy học cần được vận dụng linh hoạt, ở đó cần sự kết hợp hài hòa
giữa thảo luận nhóm với nêu vấn đề, thuyết trình, vận dụng tình huống, đàm thoại…
Kết hợp các phương pháp đó như thế nào, ở mức độ nào cần thiết phải dựa trên mục
tiêu, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng và điều kiện thực tế của dạy học.
Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cũng đòi hỏi giảng viên phải lựa chọn
đa dạng các kỹ thuật dạy học nhằm tạo ra sự tương tác giữa sinh viên với sinh viên, tổ
chức, điều khiển, cố vấn, giúp đỡ học sinh trong quá trình thảo luận nhóm.
Trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên luôn phải thay
đổi vai trò của mình, lúc là người hợp tác, là người cổ vũ, người động viên, người quan
sát… giảng viên càng thâm nhập vào nhiều hoạt động của sinh viên càng đưa ra được
nhiều chỉ đạo thích đáng. Giảng viên không nên can dự quá nhiều vào quá trình thảo
luận của sinh viên, cũng không thể khoanh tay đứng nhìn đối với những khó khăn và
nghi vấn của sinh viên. Với tư cách là người điều khiển, nhiệm vụ của giảng viên là
xây dựng một bầu không khí lớp học hài hoà, thoải mái, hoạt động nhịp nhàng, tạo nên
hứng thú học tập cho sinh viên. Giảng viên cần khống chế thời gian thảo luận của sinh
viên thật khoa học để quá trình thảo luận không diễn ra chậm chạp, cũng không diễn
19
ra quá nhanh theo kiểu chiếu lệ hình thức.
Hoạt động của sinh viên:
Phương pháp thảo luận nhóm không chỉ coi trọng tác động qua lại giữa thầy và
trò mà nổi bật là coi trọng sự tương tác giữa sinh viên với sinh viên. Khi thảo luận
nhóm sinh viên không phải làm việc một mình mà luôn hoạt động trong một nhóm cụ
thể. Điều này đòi hỏi tính cộng tác, tính sẵn sàng chung sức, tích tích cực trong trao
đổi, thảo luận đi đến thống nhất ý kiến; trong nhận xét, đánh giá, đóng góp, bổ sung
kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển, cố vấn của
giảng viên.
Tuy nhiên, để thực hiện được quá trình thảo luận nhóm yêu cầu đặt ra là sinh
viên phải nắm được nguyên tắc làm việc nhóm, phân công nhiệm vụ phù hợp với
năng lực, biết lên kế hoạch hoạt động và dự kiến hoàn thành sản phẩm của nhóm…
Mỗi sinh viên phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình, tích cực suy nghĩ, tìm tòi để giải
quyết các vấn đề mà giảng viên giao cho. Mỗi sinh viên phải có trách nhiệm tương
trợ, giúp đỡ, động viên, khuyến khích cũng như nhắc nhở các thành viên khác trong
nhóm hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định để hưởng thành quả chung của
nhóm.
Sinh viên phải nhận thức sản phẩm của nhóm là sự nỗ lực tổng hợp của từng
sinh viên và kết quả sau khi thảo luận là tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có
khả năng hiểu, nắm vững kiến thức, kĩ năng mà nhiệm vụ học tập đề ra.
Thứ chín về kiểm tra, đánh giá
Sau khi kết thúc hoạt động thảo luận nhóm, giảng viên phải tổ chức cho sinh
viên báo cáo kết quả và tổng kết rút kinh nghiệm, đồng thời đóng vai trò là người nhận
xét, đánh giá. Giảng viên cần thực hiện nhiều phương thức đánh giá để khắc phục được
tình trạng chỉ quan tâm đến nhóm mà không chú ý từng sinh viên, chỉ quan tâm kết quả
học tập mà không chú ý sự tiến bộ của từng sinh viên. Kiểm tra đánh giá phải nhằm
động viên khuyến khích kịp thời những sinh viên tích cực, đồng thời lưu ý đến những
sinh viên có năng lực yếu để các em có thêm lòng tự tin, phương pháp hoàn thành
nhiệm vụ.
20
1.2.2.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh
Cả trên bình diện lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, không có phương
pháp dạy học nào là duy nhất, càng không thể nào có một phương pháp dạy học đem
lại hiệu quả cao đối với tất cả các môn học, các đơn vị kiến thức. Do đó, cần nhận diện
đầy đủ, chính xác về những ưu và nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm để
vận dụng linh hoạt trong từng bài dạy, từng đơn vị kiến thức để đem lại hiệu quả cao
nhất.
Về ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm:
Thứ nhất, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ hình thành phương pháp tự
học ở sinh viên
Đây là một đặc tính ưu việt của PPTLN so với các PPDH khác. Với nhiệm vụ
giảng viên giao chủ đề cho sinh viên về nhà nghiên cứu và chuẩn bị, sinh viên lập kế
hoạch thực hiện, cách thức khai thác và xử lý thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu,
cách ghi chép, lưu giữ thông tin. Bên cạnh đó, thông qua việc cộng tác giữa các thành
viên trong nhóm để giải quyết nhiệm vụ học tập, sinh viên biết trình bày quan điểm của
bản thân, và đưa ra những cơ sở để bảo vệ ý kiến đó, biết lắng nghe, đánh giá, so sánh
quan điểm ý kiến của mình với những người tham gia thảo luận, chấp nhận và phê phán
ý kiến của người khác. Thông qua các tình huống khác nhau, việc góp ý, tranh luận,
đặt giả thiết cũng khác nhau sẽ làm cho sự diễn đạt của sinh viên trở nên phong phú,
đa dạng.
Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần âm mưu có thể đưa ra tình
huống các thế lực thù địch xây dựng một âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
tình huống cụ thể như sau: “năm 2013 dựa vào việc quốc hội lấy ý kiến nhân dân về
bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, một số phần tử phản động đã kích động nhân dân xóa
bỏ Điều 4 trong hiến pháp”.
Khi đưa ra tình huống như trên đòi hỏi sinh viên phải tích cực chủ động suy
nghĩ, tìm kiếm các nội dung tham khảo (qua các kênh chính thống) qua đó phát huy
21
được tinh thần tự học ở sinh viên.
Như vậy, cùng với việc gia tăng vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội, sự diễn
đạt của bản thân sinh viên về một nội dung cụ thể sẽ mạch lạc, khoa học và logic hơn.
Thứ hai, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ phát huy được tính tích cực,
tinh thần trách nhiệm của sinh viên
Bản chất của thảo luận tạo điều kiện cho người học trở thành người tham gia
sáng tạo tri thức. Điều đó được thể hiện ngay từ khâu chuẩn bị nhiệm vụ giảng viên
giao cho khi ở nhà. Trên lớp, khi tham gia thảo luận, sinh viên phải tự lực giải quyết
nhiệm vụ học tập, chịu trách nhiệm về kết quả làm việc của bản thân, của nhóm. Mọi
nỗ lực của mỗi thành viên có tác động lớn đến kết quả làm việc chung của cả nhóm.
Điều đó thôi thúc sinh viên chủ động hơn trong việc tìm tòi, khai thác, xử lý thông tin,
huy động sức mạnh nội lực của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ học tập.
Trong bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, đưa ra tình huống sau:
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở liên xô và đông âu sụp đổ, chủ nghĩa đế
quốc đứng đầu là mỹ đã cấu kết với nhau tập trung chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa mà trong đó trọng điểm là việt nam với mọi thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc.
Để thực hiện điều này mỹ đã chi ra hàng chục tỷ usd nhằm tiến hành “diễn biến hòa
bình” tuy nhiên không có kết quả. Do vậy, vào ngày 3/2/1994 mỹ đã xóa bỏ lệnh cấm
vận kinh tế. Ngày 11/7/1995 tổng thống mỹ binclinton đã tuyên bố bình thường hóa
quan hệ việt-mỹ. Từ đây, mỹ có điều kiện để thực hiện “diễn biến hòa bình” tại việt
nam. Vậy đảng cộng sản việt nam đã có những giải pháp gì làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch?
Tình huống đưa ra giúp sinh viên hiểu rõ hơn về một số cách thức mà thế lực
thù địch chống phá nước ta, qua đó tìm ra các giải pháp để làm thất bại những âm mưu,
đồng thời phát huy tính tích cực, tinh thần trách nhiệm của sinh viên trong việc học tập,
rèn luyện để trở thành những công dân tốt.
Thực chất, với việc thảo luận tích cực giữa các thành viên trong nhóm sẽ kích
thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và giữa các nhóm với nhau. Với sự bàn
bạc, tranh luận để tìm ra chân lý dựa trên những nguồn thông tin mọi thành viên trong
22
nhóm tìm hiểu nên sản phẩm của nhóm là sản phẩm trí tuệ tập thể, tập hợp sự sáng tạo
của nhiều người và do vậy sẽ rất phong phú, đa dạng.
Thứ ba, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường sự cộng tác của
sinh viên trong quá trình học tập
Thảo luận có thể giúp người học khai thác được nhiều khía cạnh của một vấn
đề, tăng cường khả năng chịu đựng và sự quan tâm của người học đến các vấn đề phức
tạp. Qua đó, người học chấp nhận và đào sâu thêm những giả thiết của mình, biết cách
lắng nghe một cách kiên nhẫn và lịch sư. Bởi lẽ, với những chủ đề thảo luận được giảng
viên giao nhiệm vụ, trên cơ sở chuẩn bị, trong quá trình thảo luận, sinh viên được đưa
ra quan điểm của bản thân, được nghe quan điểm của bạn khác trong nhóm, trong lớp,
được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ
được giao của nhóm.
Đặc thù tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
không giống như các trường thành viên khác bên ngoài, khi sinh viên tham gia học tập
tại trung tâm sẽ phải chấp hành chế độ nội trú 100%. Chia các lớp thành các Trung đội,
trong Trung đội lại chia ra các tiểu đội, trong các đơn vị bộ đội tiểu đội gồm có chín
người trong đó có tiểu đội trưởng và tiểu đội phó, còn ở Trung tâm giáo dục quốc phòng
và an ninh - Đại học Thái Nguyên sẽ căn cứ vào lưu lượng sinh viên hàng khóa để chia
cho phù hợp với biên chế có quyết định được thông qua của ban giám đốc. Do đặc thù
như vậy nên sự cộng tác của sinh viên trong quá trình học tập là lâu dài và xuyên suốt
trong quá trình học tập, các em ăn ở, sinh hoạt và chấp hành các chế độ cùng nhau trong
suốt thời gian theo học tại Trung tâm. Vì thế tinh thần động đội, sự quan tâm đến người
khác, tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật, tính khoan dung giữa các thành viên trong tiểu
đội, trong nhóm thảo luận, trong lớp học được thiết lập.
Thứ tư, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường sự tự tin cho
sinh viên
Trong thảo luận nhóm sinh viên được làm việc trong một môi trường tập thể
thoải mái, đồng đẳng, được liên kết với nhau qua giao tiếp nên sẽ mạnh dạn hơn và ít
sợ mắc sai lầm. Mọi ý kiến được tự do bày tỏ trong nhóm và không chịu quá nhiều áp
lực về đánh giá mang tính chuẩn mực, khắt khe như việc trình bày với giảng viên. Do
đó, khi thực hiện nhiệm vụ chung, sinh viên hòa nhập, hào hứng, cởi mở hơn, được tập
23
dượt tham gia tìm hiểu hoặc giải quyết vấn đề, được học hỏi kiến thức của bạn bè, sử
dụng được trí tuệ của tập thể, rèn ở người học ý thức lắng nghe người khác và nghe ý
kiến khác.
Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:
Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình
huống các thế lực thù địch sử dụng thủ đoạn cụ thể như sau: Các thế lực thù địch ở
nước ngoài móc nối, cấu kết và chỉ đạo bọn phản động trong nước tuyên truyền kích
động đòi đổi tên nước, tên Đảng, đòi thành lập cái gọi là “hội nhân dân chống tham
nhũng”; chúng tuyên truyền rằng “tham nhũng chỉ được đẩy lùi khi thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập để các đảng phái giám sát lẫn nhau” thực chất là làm cho
Đảng ta suy yếu, tan rã như đã thực hiện ở Liên Xô và Đông Âu.
Thông qua sự trao đổi và làm việc nhóm, cả nhóm sẽ phải tìm ra những nội
dung liên quan đến tình huống. Sau đó nhóm cử đại diện lên thuyết trình, điều này
cũng giúp cho sinh viên được rèn luyện các kỹ năng, sự tự tin khi đứng trước đám
đông.
Thứ năm, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo cơ hội để sinh viên đánh
giá bản thân và đánh giá người khác
Thông qua giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm, sinh viên sẽ bộc lộ những hiểu
biết của bản thân cũng như phương pháp tư duy, cách diễn đạt, trình bày. Đây là quá
trình tự nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu của chính mình và của người khác. Từ
đó, mỗi cá nhân tự điều chỉnh, hoàn thiện bản thân mình.
Thứ sáu, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo cơ hội cho giảng viên
tiếp nhận thông tin phản hồi từ sinh viên
Đối với các PPDH khác, sự phản hồi xuất hiện mang tính đơn lẻ nhưng với
PPTLN lại được thể hiện trên diện rộng ở nhiều đối tượng trong cùng một thời điểm.
Thông qua việc quan sát các nhóm làm việc, giảng viên có thể nhận thấy sự phối hợp
chặt chẽ hay lỏng lẻo của các thành viên, sự tích cực hay hạn chế trong quá trình tham
gia, khả năng của từng thành viên trong nhóm, chủ đề TLN phù hợp hay không phù
hợp. Từ đó giảng viên điều chỉnh từ việc tổ chức, quản lý nhóm đến giao nhiệm vụ cụ
thể sao cho phù hợp. Hơn nữa, giảng viên còn có thể thu được tri thức và kinh nghiệm
24
từ chính sinh viên qua sự suy nghĩ, tìm tòi và trình bày sáng tạo về những vấn đề cụ
thể mà họ được giao nhiệm vụ giải quyết.
Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:
Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình
huống các thế lực thù địch thực hiện thủ đoạn nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
tình huống cụ thể như sau: Lợi dụng tình hình sau những vụ việc phức tạp như vấn đề
biển Đông, chúng xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ độc lập
chủ quyền. Tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật gây khó khăn cho ta trong việc
ban hành các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, điển hình như việc Quốc hội họp
thông qua Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật an ninh mạng ... Sử dụng
chiêu bài dân chủ nhân quyền đả kích chế độ, thể chế chính trị; khuyến khích cải tổ, đa
nguyên, đa đảng.
Trong tình huống trên có thể thu thập được các thông tin từ sinh viên như sau:
sinh viên nắm được những nội dung gì ở biển Đông, chiều bài của bọn chúng nguy
hiểm ra sao…
Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm với mục đích tự thân là thỏa
mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc học tập hướng tới người học, khuyến
khích sự độc lập tự chủ, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng
cho vấn đề nào đó. Trong thảo luận nhóm, các thành viên trong nhóm biết được sự
phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mỗi thành viên trong nhóm phải luôn tự ý thức phải cố
gắng hết mình không phải chỉ vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả
nhóm.
Thứ bảy, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường tính hiệu quả của
quá trình học tập
Trên thực tế bằng sức mạnh tập thể được tạo lập trên nền tảng thế mạnh của mỗi
cá nhân, việc nhìn nhận, giải quyết vấn đề sẽ toàn diện hơn, khách quan hơn, sâu sắc
hơn. Các ý kiến đưa ra ở cả hai chiều thuận, nghịch rồi mới đi đến thống nhất chung.
Trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
Bài 1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
25
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Trong phần thủ đoạn có thể đưa ra tình
huống các thế lực thù địch áp dụng thủ đoạn nhằm phá hoại chủ trương, đường lối của
Đảng, hạ thấp uy tín của Đảng, thủ đoạn cụ thể như sau: Chúng ra sức khai thác thông
tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội để xuyên tạc, thổi phồng; lấy
hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn, đưa ra cái gọi là
“tài liệu chứng minh” để xuyên tạc vai trò lãnh đạo, xuyên tạc đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Dàn dựng, đưa tin bịa đặt về bí mật theo kiểu hé lộ
những “thâm cung bí sử” trong Đảng làm gia tăng các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho nội bộ Đảng mất đoàn kết, chia rẽ, giảm sút hiệu
lực lãnh đạo, phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thông qua tình huống đưa ra sẽ làm kích thích tinh thần yêu nước của sinh
viên, làm cho sinh viên trở nên tích cực, chủ động, hứng thú hơn rất nhiều khi cùng
nhau thảo luận, tự trang bị cho bản thân những kiến thức giá trị để tránh bị các thế
lực thù địch kích động và thao túng. Từ đó kết quả học tập của sinh viên tăng lên là
điều tất yếu.
Với chủ đề thảo luận và mạch kiến thức này, sinh viên sẽ khắc ghi kiến thức
một cách tự nhiên, lâu bền hơn.
Về hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm:
Thứ nhất, để TLN tiến hành một cách hiệu quả, giảng viên và sinh viên cần đầu tư
nhiều công sức từ khâu chuẩn bị đến thực hiện. Sinh viên phải nghiên cứu tài liệu và những
vấn đề liên quan trước khi tới lớp. Giảng viên cần chuẩn bị các phương tiện dạy học phù
hợp phục vụ cho TLN. Như vậy, thực hiện TLN sẽ mất thời gian của cả người dạy lẫn
người học đặc biệt là trong điều kiện dạy học ở những lớp quá đông sinh viên.
Thứ hai, việc chia nhóm và quản lý nhóm không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng
nhiệm vụ của nhóm chỉ tập trung vào một số sinh viên chủ động, tích cực, nhiệt tình.
Số còn lại trông chờ vào kết quả làm việc chung toàn nhóm. Việc đánh giá nếu căn cứ
vào kết quả này sẽ dẫn đến tình trạng cào bằng, không đánh giá đúng năng lực của từng
thành viên với những cố gắng và cống hiến của họ.
Thứ ba, kết quả làm việc của mỗi nhóm chính là tập hợp ý kiến của tất cả các
thành viên trong nhóm. Tuy nhiên dễ xảy ra tình trạng ý kiến quá phân tán hoặc mâu
26
thuẫn gay gắt với nhau dẫn đến kéo dài thời gian, ảnh hưởng đến việc tổ chức dạy học
của giảng viên.
Thứ tư, để TLN thực sự hấp dẫn, bản thân giảng viên phải linh hoạt và mềm
dẻo trong việc sử dụng các tình huống có vấn đề liên quan đến tri thức môn học. Điều
này không phải người giảng viên nào cũng làm được nên dễ dẫn đến tình trạng hình
thức, sinh viên không hứng thú trong thực hiện nhiệm vụ hoặc thực hiện yêu cầu của
giảng viên một cách đối phó. Với môn Công tác quốc phòng, an ninh với đặc thù là
một học rất khô khan, trừu tượng, càng không phải là đam mê của người học nên việc
áp dụng tình huống vào môn học để sinh viên cùng tranh luận, thảo luận là một một
vấn đề không dễ dàng cho người dạy.
1.2.3. Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn môn Công tác quốc phòng, an ninh
Công tác quốc phòng, an ninh là một trong những môn học có vị trí, vai trò quan
trọng trong công tác giáo dục học sinh, sinh viên đặc biệt là giáo dục về nhân cách, về
phẩm chất đạo đức công dân. Mục tiêu giáo dục con người một cách toàn diện tất yếu
đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể từ nhiều môn học, nhiều đơn vị kiến thức, nhiều chủ thể
giáo dục với sự đa dạng về phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học.
Giáo dục quốc phòng, an ninh là môn học chính khóa, bắt buộc đối với học sinh
các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, sinh viên các trường cao
đẳng, đại học và là một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân.
Giáo dục quốc phòng, an ninh cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan
trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên về lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; có
ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kiến thức cơ bản
về đường lối quân sự của Đảng và công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh;
có kỹ năng quân sự để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh ( Ký hiệu là học phần II)
Học phần II: Công tác quốc phòng, an ninh, gồm 8 bài (từ bài 1 đến bài 8):
27
Bài 1: Phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Nội dung của bài này tập trung làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến
lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam. Giúp cho sinh viên thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu
tranh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Xác
định rõ trách nhiệm xây dựng lòng tin, quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn Dân, toàn
Quân góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ
thù.
Bài 2: Phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao.
Bài học tập trung làm rõ những kiến thức cơ bản về khái niệm, đặc điểm, thủ
đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh
tương lai (nếu xảy ra).
Bài 3: Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động
viên công nghiệp quốc phòng.
Bài 4: Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia.
Bài học tập trung phân tích, trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về
chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam;
Những nội dung chủ yếu về xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia
của nước ta trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức trách nhiệm của
mình trong xây dựng và bảo vệ biển đảo, biên giới quốc gia.
Bài 5: Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu cơ bản của bài học là trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản,
đúng đắn về dân tộc, tôn giáo, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay.
Bài 6: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Bài này gồm các nội dung về:
- Các khái niệm và nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự,
28
an toàn xã hội.
- Tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
- Dự báo tình hình an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong thời gian tới.
- Đối tác và đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội.
- Một số quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa việt nam trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Bài 7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Nội dung này tập trung khái quát những vấn đề về:
- Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Nội dung, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia xây dựng phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
Bài 8: Những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã
hội. Mục tiêu của bài học làm rõ hệ thống kiến thức về:
Tội phạm và các loại tệ nạn xã hội; nội dung và phương pháp phòng ngừa tội
phạm, các loại tệ nạn xã hội cụ thể trong xã hội và trong nhà trường.
Sau khi học xong phần công tác quốc phòng, an ninh, sinh viên cần đạt được
những yêu cầu cơ bản dưới đây:
Về kiến thức:
- Hiểu và nắm được những nội dung cơ bản về Công tác quốc phòng - an ninh,
nhận thức được âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam,
về phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch; đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam để giữ vững an ninh chính trị và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
- Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về chiến tranh công nghệ cao
và phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao; kiến thức về xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, động viên công nghiệp quốc
29
phòng; phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ
an ninh quốc gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ
biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Về kỹ năng:
- Góp phần phát triển tư duy sáng tạo, kỹ năng trong nghiên cứu, phân tích, tổng
hợp của sinh viên về các nội dung; chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế của Đảng và
Nhà nước ta; đề xuất các giải pháp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về quốc phòng, an ninh.
- Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi trong đời sống
chính trị - xã hội.
- Có kỹ năng nhận diện, phê phán đấu tranh chống những quan điểm sai trái,
những hành vi đi ngược với lợi ích của quốc gia, dân tộc trên lĩnh vực chính trị - xã
hội.
- Hiểu thêm cách xây dựng và quy trình đánh giá kết quả học tập của môn học
Công tác quốc phòng, an ninh, nâng cao khả năng làm việc độc lập của sinh viên.
- Tăng cường kỹ năng trong thu thập, xử lý thông tin trước, trong và sau mỗi bài
học.
Về thái độ:
- Nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội nâng cao trách nhiệm của sinh
viên trong phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế
lực thù địch, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và công tác quốc phòng, an ninh.
- Hình thành nền nếp sinh hoạt, ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm túc trong
học tập.
1.3. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh
1.3.1. Vai trò của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với giảng viên.
Thứ nhất, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh giúp giảng viên định hướng hiệu quả tri thức môn học đến sinh
viên
30
Đối với việc dạy môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, giảng viên không phải là
người cung cấp tri thức sẵn có cho sinh viên đơn thuần thông qua phương pháp thuyết
trình, đàm thoại, giảng giải, nêu vấn đề mà cần kết hợp linh hoạt với phương pháp thảo
luận nhóm và các phương pháp khác để tối ưu hóa hiệu quả truyền đạt tri thức môn học
đến người học.
Những tri thức về môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, như: Chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hay quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vốn là những vấn đề
khô khan. Hơn nữa, những vấn đề này trong thực tiễn lại xuất hiện không ít những hiện
tượng trái chiều, thiếu thống nhất với lý luận, cùng với đó là cách tiếp cận một chiều
với nhiều quan điểm lệch lạc, không chính thống. Dó đó, người truyền thụ tri thức
không thể gượng ép truyền thụ đơn thuần bằng thuyết trình, giảng giải mà đòi hỏi người
học phải được tham gia vào nhiều tình huống để giải thích, luận chứng tường minh,
khoa học, để nhận diện những quan điểm, hành vi sai trái, thù địch. Nhờ vai trò định
hướng, tổ chức dạy học của giảng viên bằng tình huống và thông qua các vấn đề được
xây dựng dưới dạng tình huống, người học có thể chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ
năng một cách tích cực và tự giác. Với đặc thù này, phương thảo luận nhóm sẽ phát
huy hiệu quả tốt khi giảng viên kết hợp với phương pháp thảo luận và đàm thoại, nêu
vấn đề.
Thứ hai, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh giúp giảng viên thực hiện tốt vai trò định hướng hoạt động học
của sinh viên
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay là xóa bỏ cách
thức dạy học đơn thuần là thầy đọc trò ghi, thầy nói trò nghe. Thay vào đó, giáo dục
đang cấp thiết đòi hỏi một cách nghiêm túc việc chuyển đổi một cách căn bản vai trò,
vị trí của người dạy và người học. Giờ đây, dạy học các môn khoa học nói chung, cũng
như dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh tính cấp thiết đang đặt ra không thể
sử dụng cách thức truyền đạt tri thức thụ động một chiều từ người thầy, thay vào đó là
khẳng định vai trò định hướng của giảng viên viên đối với sinh viên trong hoạt động
học trở thành yếu tố cơ bản để đổi mới phương pháp giáo dục. Dạy học Giáo dục quốc
31
phòng, an ninh đã và đang đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao đối với yêu cầu này.
Người thầy cần phải đảm đương và hiện thực hóa tốt vai trò “trọng tài, cố vấn” trong
mỗi giờ học để định hướng cho học sinh tiếp cận tri thức theo hướng tìm tòi, khảo
nghiệm và khám phá. Vai trò, vị trí của người thầy không còn được xây dựng trên cơ
sở độc tôn về tri thức, mà quan trọng hơn mỗi giảng viên cần xác định lấy người học
là vị trí trung tâm, thầy là chủ đạo định hướng, dẫn dắt người học trong việc tiếp nhận,
tái tạo, xử lý tri thức, qua đó hình thành kỹ năng nghề nghiệp tương ứng cho người học.
Vai trò định hướng của giảng viên trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an
ninh sẽ được phát huy nếu giảng viên vận dụng hợp lý, hiệu quả phương pháp dạy học
thảo luận nhóm để thúc đẩy học sinh khám phá tri thức bằng cách tích cực tham gia
vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, các vấn đề lý luận đang chứa đựng mâu thuẫn trong
tư duy của người học. Trước những vấn đề mang tính chính trị - xã hội và thực tiễn,
người học thường có những cách hiểu, cách nghĩ, cách giải quyết thiếu thống nhất,
thậm chí là sai lệch nếu không có vai trò định hướng của giảng viên. Do đó, biện pháp
để giảng viên thực hiện tốt vai trò định hướng, tổ chức, dẫn dắt hoạt động nhận thức
của học sinh là sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học. Khi đó, người dạy
vừa đóng vai trò là người xây dựng tình huống,vừa là người định hướng dẫn dắt đưa
người học vào các vấn đề cần giải quyết liên quan đến lĩnh vực chính trị - xã hội thực
tiễn của đất nước và thời đại.
Thứ ba, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh giúp giảng viên thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng phát triển năng lực cho người học
Thảo luận nhóm là phương pháp được nhiều giảng viên quan tâm đến bởi những
ưu thế của phương pháp này mang lại khi được sử dụng có hiệu quả trong quá trình
dạy học góp phần hình thành và phát triển năng lực cho người học. Đó là phát triển
năng lực giải quyết vấn đề; phát triển năng lực tự học; phát triển năng lực hợp tác; phát
triển năng lực giao tiếp; phát triển năng lực tư duy sáng tạo. Cụ thê:
Phát triển năng lực giải quyết vấn đề: Năng lực giải quyết vấn đề là việc sinh
viên huy động, sử dụng hiệu quả kinh nghiệm, vốn sống, hiểu biết, kỹ năng, tình
cảm...để giải quyết các vấn đề, tình huống cụ thể nảy sinh trong thực tiễn đời sống.
Năng lực giải quyết vấn đề thể hiện ở khả năng nhận thức, phát hiện vấn đề; chỉ ra được
32
bản chất của vấn đề; xác định được nguyên nhân của vấn đề; xác định, điều chỉnh được
quy trình giải quyết vấn đề; đưa ra giải pháp, cách giải quyết vấn đề; đánh giá được
quá trình tham gia cũng như kết quả giải quyết vấn đề của bản thân và của người khác...
Phát triển năng lực tự học: Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là
điều cần thiết trong quá trình tiếp nhận tri thức. Đặc điểm nổi bật của phát triển năng
lực tự học là việc học phải xuất phát từ nhu cầu học tập của bản thân người học, khi có
nhu cầu thôi thúc thì cá nhân sẽ có khát vọng học tập, điều đó khiến họ quyết định tự
học một cách chủ động, độc lập và nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong
suốt quá trình tự học.
Phát triển năng lực hợp tác: Đây là ưu thế nổi bật của TLN nhằm tạo điều kiện
cho người học được làm việc trong môi trường tập thể trên tinh thần trách nhiệm để
giải quyết nhiệm vụ chung. Trước công việc cụ thể của nhóm, ở bất cứ chủ đề thảo luận
nào, các thành viên có nghĩa vụ ngang nhau đòi hỏi mỗi cá nhân phải nâng cao ý thức
của bản thân mình nhằm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chung. Mỗi thành viên trong
nhóm là một mắt xích quan trọng không thể tách rời. Tính đồng đội, tinh thần đoàn kết,
tính kỷ luật được hình thành trong TLN. Điều đó tạo động lực cho sinh viên củng cố
mối quan hệ bạn bè, tạo lập bầu không khí tin cậy và khuyến khích lẫn nhau. Người
học có thể đạt được những điều mà một mình thực hiện sẽ rất khó khăn bằng cách huy
động sức mạnh của tập thể, đặc biệt là khi có sự hiện diện của yếu tố cạnh tranh. Đây
là động cơ mạnh thôi thúc người học chủ động, tích cực hợp tác khi tiến hành TLN.
Phát triển năng lực giao tiếp: Trong thảo luận nhóm các ý kiến của mọi thành
viên được đưa ra một cách tự do, dân chủ nhằm giải quyết nhiệm vụ chung của cả
nhóm. Từ đó tạo điều kiện cho người học trình bày những hiểu biết của bản thân về
một vấn đề cụ thể trên tinh thần tôn trọng tạo cơ hội cho việc học hỏi lẫn nhau.
Phát triển năng lực tư duy sáng tạo: Hoạt động sáng tạo là hoạt động cao nhất
của con người, gắn liền với hoạt động học tập sáng tạo. Năng lực sáng tạo là cốt lõi của
hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong của hoạt động sáng tạo, được xác định từ chất
lượng đặc biệt của các quá trình tâm lý mà trước hết là các quá trình tư duy, trí nhớ,
xúc cảm, động cơ, ý chí…
Rõ ràng, dạy học bằng phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học
tích cực, có nhiều ưu điểm và có khả năng thâm nhập vào hầu hết các phương pháp dạy
33
học khác. Trong quá trình dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh cần thiết phải
sử dụng nhiều phương pháp tổng hợp, như: phương pháp thuyết trình, phương pháp
đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp dự án...nhưng phương pháp thảo
luận nhóm lại có khả năng kết hợp khá linh hoạt với các phương pháp đã nêu để phát
huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế của từng phương pháp. Bởi vì trên thực tế, thuyết
trình hay phương pháp đàm thoại cũng cần thiết gắn liền với việc luận giải, chứng minh
lý thuyết, nhất là các vấn đề chính trị - xã hội bằng tình huống và thông qua tình huống.
Thảo luận nhóm và phương pháp sắm vai trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an
ninh có mục đích là phát triển ở người học năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp
tác nhóm. Mục tiêu này vốn dĩ đòi hỏi việc dạy và học không thể thoát ly tình huống.
Do đó, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp giảng viên thiết kế tốt việc đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng đinh hướng phát triển năng lực cho người học.
1.3.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm đối với sinh viên
Thứ nhất, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh góp phần tạo hứng thú học tập cho người học tiếp cận, khám phá
tri thức một cách chủ động, tích cực và sáng tạo
Thực tế đã chứng minh rằng, muốn thảo luận có chất lượng, sôi nổi, người học
phải nghiên cứu: Đọc giáo trình, vở ghi ở trên lớp và tài liệu tham khảo, chuẩn bị đề
cương cẩn thận, chi tiết, do đó đây là quá trình tự học, nỗ lực chủ quan của mỗi người.
Nghiên cứu chính là bù đắp lại những vấn đề mà giảng viên chưa trình bày hết được,
nghiên cứu còn làm sáng tỏ thêm vấn đề mà giảng viên đã trình bày, giúp sinh viên
nắm vững kiến thức hơn.
Với việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh, sinh viên sẽ được tham gia nghiên cứu thảo luận. Đây là quá trình
nghiền ngẫm, biến kiến thức của giảng viên thành kiến thức của sinh viên. Trên lớp
giảng viên giảng cho sinh viên nghe, còn thảo luận nhóm là sinh viên trình bày cho
giảng viên nghe, qua thảo luận của người học giảng viên sẽ kiểm tra, đánh giá xem xét
người họ chiểu đến đâu, tiếp thu đến đâu, qua đó, người học sẽ chủ động nắm bắt được
tri thức một cách nhanh chóng, tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua học
nhóm, mỗi sinh viên có thể nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo
34
thông qua sự tư duy của mỗi thành viên. kích thích sinh viên tìm kiếm những nguồn tri
thức có liên quan đến vấn đề thảo luận. Trên cơ sở đó, các em sẽ thu lượm những kiến
thức cho bản thân thông qua quá trình tìm kiếm tri thức. Theo đó, những kiến thức khô
khan của môn học sẽ được người học tiếp cận chủ động, tự giác và kích thích được sự
hứng thú tìm tòi, khám phá, trải nghiệm của người học. Đây cũng là con đường, cách
thức dần thay đổi cách tư duy và thái độ ngại tiếp cận tri thức môn học của không ít
sinh viên.
Thứ hai, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh giúp người học phát triển được kỹ năng giao tiếp, hợp tác nhóm
Với việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn môn Giáo
dục quốc phòng, an ninh không chỉ giúp người học phát triển được tư duy độc lập, mà
còn phát huy năng lực toàn diện cho người học từ tâm lý, tính cách cho đến kỹ năng
phát biểu và hành vi trong giao tiếp. Qua đó, tạo được không khí học tập sôi nổi, hào
hứng, hăng say, sinh động trong giờ học.
Với việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
quốc phòng, an ninh, sinh viên được tiếp cận với tình huống, được trình bày, lý giải
những vấn đề, được tranh luận để giải quyết vấn đề trên cơ sở định hướng của giảng
viên. Điều này giúp các em dần tự tin, vượt qua sự dè dặt, ngại ngùng, phát huy tinh
thần trách nhiệm trong việc độc lập suy nghĩ hoặc phối hợp với nhóm để kiếm tìm cách
thức giải quyết vấn đề một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Với việc vận phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng, an ninh, sinh viên sẽ
khắc phục được những nhược điểm của bản thân như sự rụt rè, lúng túng khi giao tiếp,
khi phát biểu hay trình bày quan điểm của mình trước tập thể.
Có thể thấy rằng, khi tham gia vào quá trình thảo luận, mỗi sinh viên không
những được giao tiếp mà còn phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của sinh viên.
Trong thảo luân nhóm, sinh viên phải tự giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham
gia tích cực của các thành viên; đồng thời, các thành viên cũng có trách nhiệm về kết
quả làm việc của mình. Góp phần phát triển năng lực cộng tác làm việc của sinh viên,
qua đó sinh viên được luyện tập kỹ năng cộng tác, làm việc với tinh thần đồng đội, các
thành viên có sự quan tâm và khoan dung trong cách sống, cách ứng xử; rèn luyện khả
35
năng ngôn ngữ, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý
kiến người khác. Quan trọng hơn từ phương pháp thảo luận nhóm người học biết đưa
ra những ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình.
36
Kết luận chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã làm rõ được cơ sở lý luận của phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh trên các bình diện:
Tổng quan tình hình nghiên cứu; Khái niệm phương pháp, phương pháp thảo luận
nhóm; hình thức của phương pháp thảo luận nhóm; Yêu cầu khi tiến hành phương pháp
thảo luận nhóm; Ưu điểm, hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học;
Cấu trúc và đặc điểm chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh; Vai trò của việc
vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an
ninh.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đi đến những nhận định khái quát sau:
- Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh không
đồng nghĩa với việc tuyệt đối hóa vai trò của bất kỳ phương pháp nào, trái lại nó đồi
hỏi phải có sự kết hợp linh hoạt các phương pháp khác nhau, trong đó thảo luận nhóm
là một trong những phương pháp cần thiết phải được quan tâm và vận dụng một cách
thích hợp.
- Phương pháp thảo luận nhóm có nhiều ưu thế, thích hợp với việc dạy và học
môn Giáo dục quốc phòng và an ninh, vấn đề đặt ra là vận dụng phương pháp này như
thế nào để đem lại hiệu quả cao.
- Quy trình, các bước thực hiện vận dụng phương thảo luận nhóm cần thiết phải
được đảm bảo trong toàn bộ tiến trình dạy học, trong đó mục tiêu cơ bản hướng đến
khi sử dụng phương pháp này là phát huy tính tích cực, độc lập và sáng tạo của người
học trong giải quyết các vấn đề liên quan đến môn học.
Tổng thể những vấn đề nêu trên sẽ cung cấp cơ sở khoa học tương đối toàn diện
để chúng tôi đề xuất quy trình và thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH, ĐIỀU KIỆN VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN
CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát chung về về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên
2.1.1. Đặc điểm về Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên là Trung tâm
đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với 28 năm xây dựng và phát
triển đã có nhiều thành tích và phần thưởng cao quý do Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Bộ Quốc phòng trao tặng. Trung tâm đã khẳng định được vị trí trong sự
nghiệp giáo dục quốc phòng toàn dân nói chung, giáo dục quốc phòng, an ninh cho học
sinh sinh viên nói riêng.
Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên trải qua quá
trình hình thành và phát triển với các giai đoạn:
Giai đoạn 1992 - 1995
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên Đại học Thái
Nguyên ngày nay (Tên cũ là Trung tâm Giáo dục quốc phòng thành phố Thái Nguyên;
Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên) được thành lập tại Quyết định số
2963/QĐ-TCCB ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm
có nhiệm vụ:
(I) Tổ chức Giáo dục Quốc phòng, an ninh cho sinh viên, học sinh các trường
Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông trong
khu vực;
(II) Đào tạo sĩ quan dự bị;
(III) Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học sư phạm quân sự.
Năm 1994, Đại học Thái Nguyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất 5 trường:
Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, Trường Đại học Y khoa Việt Bắc, Trường Đại học
cơ điện Việt Bắc, Trường đại học Nông nghiệp 3 Bắc Thái và Trường Công nhân Cơ
38
điện Bắc Thái. Vì vậy, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái
Nguyên được hình thành từ Trung tâm Giáo dục quốc phòng thành phố Thái Nguyên
của Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc và các Bộ môn quân sự thuộc các trường đại
học trên. Các sĩ quan biệt phái của Trung tâm do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên
quản lý.
Trụ sở đầu tiên của Trung tâm đặt tại Khu B của trường Đại học Sư phạm Việt
Bắc (Cao đẳng Sư phạm Việt Bắc cũ).
Giai đoạn 1996 - 2002
Năm 1996, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên
chuyển địa điểm về Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp và là đơn vị trực thuộc
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp. Các sĩ quan biệt phái do Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh Thái Nguyên quản lý. Tháng 4 năm 2000, Bộ Tư Lệnh Quân khu 1 quyết định
chuyển các sĩ quan biệt phái về chịu sự quản lý của Bộ tham mưu Quân khu 1.
Giai đoạn 2002 đến nay
Theo Quyết định số 170/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/01/2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên
trở thành một đơn vị thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên, Theo quy hoạch của
Đại học Thái Nguyên. Trụ sở của Trung tâm lại chuyển về địa điểm thuở ban đầu thành
lập, thay thế Trường Đại học Đại cương giải thể, thuộc quản lý hành chính của Xã
Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên.
Tháng 5 năm 2008, Trụ sở của Trung tâm được di chuyển về địa điểm mới tại
xóm Nước Hai, xã Quyết Thắng, TP Thái Nguyên. Trung tâm được Nhà nước đầu tư
xây dựng theo Quyết định số 07/2003/QĐ-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về việc quy hoạch các Trung tâm giáo dục quốc phòng, an ninh sinh
viên giai đoạn 2001 - 2010.
Ngày 15/02/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 437/QĐ-BGDĐT
đổi tên Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên thành Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên.
Hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất của Trung tâm gồm giảng đường, thư viện,
hội trường, ký túc xá sinh viên; Nhà làm việc của Ban Giám đốc, Nhà công vụ; Khu
39
thao trường kỹ chiến thuật, nhà kho quân khí, quân trang; sân vận động … với diện tích
đất sử dụng là 15,5327 ha. Diện tích này đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu khoa học
quân sự và các hoạt động rèn luyện, sinh hoạt tập thể của người học và cán bộ, giảng
viên.
Hệ thống giảng đường của Trung tâm bao gồm 01 nhà giảng đường 03 tầng với
10 phòng học, 02 phòng máy tính phục vụ việc thi trắc nghiệm, 01 giảng đường lớn.
Trung tâm có hệ thống khu học tập, rèn luyện gồm nhà tập bắn, thao trường kỹ chiến
thuật, sân duyệt đội ngũ, chào cờ và tổ chức các sự kiện. Trung tâm có hệ thống sân
vận động (02 sân), nhà thi đấu thể thao đa năng, hội trường, dụng cụ phục vụ sinh viên
luyện tập thể dục thể thao, văn nghệ và các chương trình hoạt động tập thể. Hàng năm,
Trung tâm đều dành một nguồn kinh phí để hỗ trợ sinh viên tham gia các hoạt động
giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao, ngoại khóa…
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên có khả năng
tổ chức học tập tập trung cho mỗi khóa khoảng 1700 sinh viên.
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên trong những
năm qua đã tổ chức giảng dạy môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh,
sinh viên các Trường thành viên, các khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên được 28
khóa; Liên kết giảng dạy cho học sinh sinh viên các trường cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn.
Trung tâm đã đào tạo được 11 khóa ngắn hạn giảng viên Giáo dục quốc phòng,
an ninh cho các trường trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề các
tỉnh khu vực phía Bắc và trên địa bàn Quân khu 1.
Từ năm 2007, Trung tâm đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo giao nhiệm vụ cùng
với Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên xây dựng chương trình đào tạo
giảng viên dạy hai môn (môn Giáo dục thể chất - Giáo dục quốc phòng, an ninh). Đến
nay đã thực hiện được 09 khóa đào tạo.
Trung tâm đã tham mưu cho Giám đốc Đại học Thái Nguyên và lãnh đạo các
trường thành viên về công tác quốc phòng, an ninh; giúp các nhà trường xây dựng các
phương án bảo vệ trường và được đánh giá có chất lượng tốt qua kiểm tra của Thanh
tra quốc phòng hàng năm.
40
Huấn luyện hơn 1200 lượt tự vệ cho các trường trong Đại học Thái Nguyên, dân
quân tự vệ các phường, xã trên địa bàn; kết quả huấn luyện đều đạt từ khá trở lên.
Trong 28 năm xây dựng và phát triển, Trung tâm Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên đã 3 lần di chuyển địa điểm với muôn vàn khó
khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Đại
học Thái Nguyên, Quân khu 1 và sự cố gắng, nỗ lực của tập thể đơn vị, đội ngũ cán bộ,
viên chức, người lao động đã phát huy tốt bản chất truyền thống Quân đội, quyết tâm
vượt qua những khó khăn để từng bước xây dựng, ổn định cơ sở vật chất bảo đảm cho
quá trình hoạt động tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh.
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên đã được Đảng,
Nhà nước tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhì và hạng ba; Thủ tướng chính
phủ tặng bằng khen; được Bộ Giáo dục & Đào tạo, UBND tỉnh Thái Nguyên, Tư lệnh
Quân khu 1 tặng nhiều Bằng khen cho các tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc
trong công tác Giáo dục quốc phòng, an ninh.
2.1.2. Đặc điểm sinh viên ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên
Toàn bộ sinh viên của các trường thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên đều
phải tham gia học tập chương trình Giáo dục quốc phòng - an ninh trong 35 ngày. Tất
cả đều phải sinh hoạt tập trung trong thời gian này. Trung tâm sẽ biên chế các lớp thành
các Trung đội, tiểu đội.. Trong đó có các Trung đội trưởng, trung đội phó, tiểu đội
trưởng, tiểu đội phó.. lực lượng này sẽ phối hợp với các Đại đội trưởng (cán bộ quản
lý) để tiến hành quản lý, duy trì các chế độ. Ngoài việc học ra, sinh viên còn phải rèn
luyện, thực hiện các chế độ (10 chế độ trong ngày, 3 chế độ trong tuần). Môi trường rất
kỷ luật và nghiêm khắc, bắt buộc mọi sinh viên phải cố gắng thích nghi.
Cũng giống như sinh viên nói chung trên cả nước về lứa tuổi, nhận thức. Nhưng
sinh viên tỉnh Thái Nguyên cũng có những đặc thù riêng, thể hiện rõ ở những thuận lợi
và khó khăn sau:
Về mặt thuận lợi: Được rèn luyện và học tập ở vùng trung du và miền núi phía
bắc, được kế thừa truyền thống cách mạng và có ý thức sâu sắc về việc gìn giữ, bảo vệ
các truyền thống quý báu của đất nước và con người Thái Nguyên, như đoàn kết, yêu
thương con người, với lối sống giảng dị, chân thành, cởi mở, có tính tự lập cao; được
41
học tập ở một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Hiện nay, chỉ tính riêng Đại học Thái Nguyên có 11 cơ sở giáo dục thành
viên.
Do đó, sinh viên ở Thái Nguyên có tính độc lập, tự chủ rất cao, luôn chấp hành
tốt những quy định của nhà trường, lễ phép với thầy cô giáo, đoàn kết thân ái với bạn
bè, luôn có ý chí vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.
Các trường cao đẳng và đại học tỉnh Thái Nguyên đào tạo đa hệ, đa ngành. Đối
tượng tuyển sinh rất đa dạng đến từ hơn 30 tỉnh thành khác nhau trong cả nước, điểm
chuẩn đầu vào tính theo khu vực, theo vùng miền khác nhau, giữa thành thị và nông
thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa có sự chênh lệch rất lớn. Đặc điểm này, ảnh hưởng
đến tính không đồng đều về trình độ nhận thức của sinh viên. Trong đó, sinh viên là
người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chiếm hơn 40%, với ngôn ngữ riêng, sử
dụng tiếng phổ thông còn hạn chế. Nên hầu hết sinh viên đều quen với cách thức dạy
học bằng phương pháp truyền thống.
Về mặt khó khăn: Sinh viên của các trường trên địa bàn tác giả tiến hành khảo
sát và thực nghiệm đến từ các vùng miền khác nhau của đất nước và thuộc nhiều thành
phần dân tộc khác nhau, khi đến trường các em mang theo những bản sắc văn hóa,
phong tục tập quán, lối sống khác nhau, nên khó khăn bước đầu trong việc đưa vào nề
nếp chung của nhà trường. Là những sinh viên năm thứ nhất, vừa bước qua ngưỡng
cửa học tập Trung học phổ thông, lần đầu sống xa gia đình, nên hoàn toàn mới lạ với
môi trường mới, cách thức học tập mới, nên khó tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ
trong học tập và trong cuộc sống.
2.2. Thực trạng việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng và an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên.
Quá trình khảo sát
* Mục đích khảo sát
Tìm hiểu thực trạng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh để làm căn cứ
đề xuất các yêu cầu, điều kiện, quy trình xây dựng và sử dụng PPDH thảo luận nhóm
tại Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
42
* Nội dung khảo sát
- Nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN trong dạy học
Nội dung của bảng hỏi dành cho giảng viên đề cập tới các vấn đề sau:
- Mức độ sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.
- Nhận thức về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác
môn Công tác quốc phòng, an ninh.
- Tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học
- Sử dụng phương pháp dạy học nội dung lý thuyết
- Sử dụng hình thức tổ chức dạy học
- Sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả
quốc phòng, an ninh.
- Nhận thức về vai trò môn học của sinh viên
- Thái độ của sinh viên đối với môn học
- Tính tích cực trong giờ học của sinh viên
- Nguyên nhân sinh viên chán học
- Giải pháp gia tăng tính tích cực của sinh viên trong giờ học
Nội dung của bảng hỏi dành cho sinh viên đề cập tới các vấn đề sau:
* Khách thể khảo sát
Khách thể khảo sát: 7 giảng viên thuộc Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh và 200 sinh viên.
(100 sinh viên năm thứ nhất và 100 sinh viên năm thứ hai) của các Trường thành
viên thuộc Đại học Thái Nguyên
Sau khi thu phiếu sinh viên 200/200 (đạt 100%) và 7/7 phiếu giảng viên
(đạt100%)
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát, phương pháp
phỏng vấn
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học, dùng máy tính xử lý, phân tích số
liệu.
43
2.2.1. Thực trạng hoạt động dạy môn Công tác quốc phòng - an ninh ở Trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại hoc Thái Nguyên
Qua điều tra, chúng tôi thu được 200 phiếu của sinh viên và 7 phiếu của giảng
viên tại Trung tâm Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Sau khi phân tích và xử lý số liệu, kết quả cụ thể như sau:
Một là, nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh.
Kết quả khảo sát cho thấy có 85,71% giảng viên cho rằng rất cần thiết phải sử
dụng PPTLN trong dạy học; cần thiết đối với giảng viên là 14,29%. Không có giảng
viên nào cho rằng không cần thiết.
Có thể thấy đại đa số giảng viên đều nhận thức cần phải sử dụng phương pháp
dạy học này trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh. Điều đó thể hiện thông
qua Bảng số liệu dưới đây:
Bảng 2.1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN
Giảng viên Đánh giá mức độ cần thiết sử dụng
PPTLN trong dạy học Số lượng Tỉ lệ
Rất cần thiết 6 85,71%
Cần thiết 1 14,29%
Không cần thiết 0 0%
Hai là về mức độ sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng,
an ninh
Qua khảo sát đối với giảng viên cho thấy, 28,5% sử dụng thường xuyên PPTLN
và không có giảng viên nào chưa sử dụng; 71,5% giảng viên không thường xuyên sử
dụng.
Chứng tỏ trong thực tế phương pháp này cũng đã được sử dụng nhưng mức độ
thường xuyên chưa nhiều.
Điều này được thể hiện ở Bảng 2.2 dưới đây:
44
Bảng 2.2. Đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn học Công tác quốc phòng, an ninh
Giảng viên Đánh giá mức độ sử dụng PPTLN
trong dạy học Số lượng Tỉ lệ
Thường xuyên 2 28,5%
Có sử dụng nhưng không thường xuyên 5 71,5%
Không sử dụng 0 0%
Ba là, nhận thức về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh
Qua điều tra cho thấy, 100% giảng viên xác định được những yêu cầu cần thiết
khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh. Điều này thể
hiện qua Bảng 2.3:
Bảng 2.3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN
Mức độ
Các yêu cầu khi thảo luận nhóm
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết
1. Đảm bảo mục tiêu dạy học 5 (71,4%) 0
4 (57,1%) 0 1 (14,3%) 1 (14,3%)
6 (85,7%) 0 0
3 (42,8%) 0 1 (14,3%) 2 (28,6%) 1 (14,3%) 2 (28,6%) 2 (28,6%)
7 (100%) 0 0 0
2. Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận 3. Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm 4. Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận 5. Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác …………….. 0 0 0 0
Bốn là, Tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học
Qua điều tra cho thấy có 14,3% giảng viên lựa chọn tiêu chí sinh viên lĩnh hội
lý thuyết; 14,3% giảng viên lựa chọn tiêu chí ghi nhớ ; 14,3% giảng viên lựa chọn lựa
chọn tiêu chí sinh viên giải quyết vấn đề và 57,1% giảng viên lựa chọn vận dụng lý
45
thuyết để giải quyết thực tế. Điều này thể hiện qua bảng 2.4:
Bảng 2.4: Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học
Tiêu chí
Sinh viên lĩnh hội lý thuyết Sinh viên ghi nhớ Sinh viên giải quyết vấn đề Sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế Phương pháp khác Số lượng 1 1 1 4 0 Tỉ lệ 14,3% 14,3% 14,3% 57,1%
Từ việc lựa chọn tiêu chí dạy học, người nghiên cứu tìm hiểu thực trạng giảng
viên sử dụng phương pháp trong quá trình dạy học.
Năm là, thực trạng sử dụng PPDH nội dung lý thuyết
Bảng 2.5: Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết
Mức độ
PPDH nội dung lý thuyết Rất thường Thường Thỉnh Ít khi xuyên xuyên thoảng
Thuyết trình 3 (42,85%) 3 (42,85%) 1 (14,3%) 0
Đàm thoại 2 (28,6%) 3 (42,8%) 2 (28,6%) 0
0 Thảo luận nhóm 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%)
Nêu và Giải quyết vấn đề 0 1 (14,3%) 3 (42,85%) 3 (42,85%)
Kết quả (bảng 2.5) cho thấy khi dạy nội dung lý thuyết:
Phương pháp thuyết trình có 42,85% giảng viên rất thường xuyên sử dụng,
42,85% thường xuyên và 14,3% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng.
Phương pháp đàm thoại có 28,6% giảng viên rất thường xuyên sử dụng 42,8%
giảng viên thường xuyên, 28,6% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng.
Phương pháp thảo luận nhóm có 71,4% giảng viên rất thường xuyên sử dụng,
14,3% thường xuyên và thỉnh thoảng sử dụng.
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề có 14,3% giảng viên thường xuyên sử
dụng. 42,85% thỉnh thoảng sử dụng và ít khi sử dụng.
Ngoài bảng hỏi, người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số giảng viên của
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và anh ninh - Đại học Thái Nguyên về việc sử dụng
các phương pháp trong dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh. Các ý kiến đa
46
phần cho biết: “Hiện nay một số cán bộ giảng viên ở trung tâm thường xuyên sử dụng
phương pháp thuyết trình vì nhiều khi họ vẫn đi theo lối mòn giảng dạy truyền thống
và vẫn băn khoăn rằng thời gian chuẩn bị, giảng dạy chưa thực sự thoải mái để vận
dụng các phương pháp tích cực. Nhưng bên cạnh đó đội ngũ giảng viên cũng tự nhận
thức được sự thay đổi trong thời đại mới, họ đang nỗ lực đổi mới cách thức dạy và học
bằng những phương pháp tích cực để nâng cao chất lượng, kết quả học tập cho sinh
viên, cũng như nâng cao trình độ chuyên môn cho giảng viên. Vì thế, đội ngũ giảng
viên đã bắt đầu chú trọng hơn vào việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy, trong đó phải kể đến PPTLN.
Như vậy, trong quá trình dạy học nội dung lý thuyết giảng viên chủ yếu sử dụng
PPTLN. Điều này lý giải lý do tại sao có 57,1% giảng viên xác định tiêu chí lựa chọn
phương pháp dạy học “sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế” ở trên.
Sáu là, hình thức tổ chức dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh tại Trung
tâm giáo dục quốc phòng - Đại học Thái Nguyên.
Quá trình khảo sát cho thấy trong quá trình dạy học, 28,6% giảng viên rất
thường xuyên sử dụng hình thức tổ chức dạy học nhóm nhỏ, 57,1% thường xuyên và
14,3% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng hình thức tổ chức dạy học nhóm nhỏ.
Đối với hình thức tổ chức dạy học nhóm lớn có 71,4% giảng viên rất thường
xuyên sử dụng, 14,3% giảng viên thường xuyên và thỉnh thoảng sử dụng.
Hình thức tổ chức dạy học toàn lớp ở mức rất thường xuyên chiếm 85,7% và
thường xuyên là 14,3%. Số liệu được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.6: Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học
Mức độ Hình thức Thường tổ chức Rất thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi xuyên
Cá nhân 0 0 0 0
Nhóm nhỏ 2 (28,6%) 4 (57,1%) 1 (14,3%) 0
Nhóm lớn 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0
Toàn lớp 6 (85,7%) 1 (14,3%) 0 0
Trong quá trình tiến hành hoàn thiện đề tài, người nghiên cứu tiến hành phỏng
47
vấn, thu thập một số ý kiến về việc sử dụng các hình thức tổ chức dạy học và phương
pháp dạy học hiện nay. Tổng hợp lại đa phần ý kiến từ các giảng viên đều cho biết:
“Từ trước đến nay, ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
chủ yếu là tổ chức dạy học toàn lớp, rất ít giảng viên sử dụng hình thức tổ chức dạy
học nhóm. Bởi vì, nội dung bài giảng dài, số lượng sinh viên trên một lớp học đông,
nên giảng viên cố gắng truyền đạt hết nội dung cho kịp thời gian.Về mặt phương pháp
thì chúng tôi sử dụng phương pháp thuyết trình là chủ yếu mặc dù có một số giảng viên
vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học nhưng chưa thường
xuyên”.
Bên cạnh sử dụng phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn, người
nghiên cứu còn tiến hành quan sát giờ dạy của các giảng viên. Kết quả quan sát cho
thấy: Hiện nay do tình trạng lớp học số lượng đông (khoảng từ 100 - 120 sinh viên
trong một lớp), giảng viên chưa được tập huấn nhiều về các phương pháp dạy học theo
quan điểm tích cực, một số giảng viên ngại thay đổi cứ theo lối dạy truyền thống bởi
vì dạy học theo quan điểm tích cực phải đầu tư công sức, thời gian chuẩn bị. Vì vậy
phương pháp thuyết trình được giảng viên sử dụng hầu hết trong các bài giảng của
mình, rất ít giảng viên vận dụng các phương pháp dạy học theo quan điểm tích cực và
hình thức dạy học theo nhóm.
Tuy nhiên hiện nay đội ngũ giảng viên đã và đang cố gắng thay đổi lối mòn
trong suy nghĩ giảng dạy, tích cực, nỗ lực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào giảng dạy, trong đó có PPTLN.
Bảy là, thực trạng phương pháp kiểm tra, đánh giá
Quá trình khảo sát cho thấy 100% giảng viên sử dụng phương pháp kiểm tra
trắc nghiệm kết hợp tự luận, đánh giá kết quả học tập.
Bảng 2.7: Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá
Mức độ Phương pháp kiểm tra, Rất thường Thường Thỉnh đánh giá Ít khi xuyên xuyên thoảng
Tự luận 0 0 0 0
Trắc nghiệm khách quan 0 0 0 0
48
Trắc nghiệm tự luận 7 (100%) 0 0 0
Vấn đáp 0 0 0 0
Như vậy, kết quả khảo sát thực trạng dạy học, phỏng vấn giảng viên và quan sát
giờ dạy, lớp học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm giáo dục quốc phòng
và an ninh - Đại học Thái Nguyên cho thấy lựa chọn phương pháp dạy của nhiều giảng
viên là sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế; Mặc dù còn khá nhiều hạn chế
nhưng giảng viên vẫn đang cố gắng kết hợp phương pháp dạy học truyền thống với các
phương pháp dạy học tích cực trong đó có hình thức thảo luận nhóm. Về hình thức tổ
chức dạy học giảng viên có sử dụng kết hợp giữa tổ chức nhóm nhỏ, nhóm lớn và toàn
lớp. Về phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, phương pháp trắc nghiệm
được sử dụng chủ yếu.
2.2.2. Thực trạng hoạt động học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
2.2.2.1. Nhận thức của sinh viên về vai trò môn học
Bảng 2.8: Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên
TỈ LỆ TT NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ MÔN HỌC SL (%)
1 Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình” 159 79.5
Giúp sinh viên có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an 2 149 74.5 ninh Tổ quốc.
Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, 3 121 60.5 lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.
4 Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo 170 85
Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống
5 địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo 129 64.5
chống phá cách mạng Việt Nam
Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn 6 159 79.5 trật tự, an toàn xã hội.
7 Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm 170 85
49
tệ nạn xã hội.
8 Không giúp được gì cho sinh viên 03 1.5
Kết quả khảo sát (bảng 2.8) có 79,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về
phòng chống “Diễn biến hòa bình”; 74,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về phong
trào toàn dân bảo vệ anh ninh Tổ quốc; 60,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên công
nghiệp quốc phòng; 85% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ chủ quyền biển,
đảo; 64,5% trả lời giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo; 79,5% trả lời giúp
sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; 85%
trả lời giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội và 1,5% trả
lời không giúp được gì cho sinh viên.Như vậy, đa số sinh viên có nhận thức đúng đắn
về vai trò của môn học, đây là điều kiện thuận lợi để giảng dạy môn học đạt hiệu quả
và chất lượng.
2.2.2.2. Thái độ của sinh viên đối với môn học
Bảng 2.9: Mức độ thái độ của sinh viên đối với môn học
TT THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN SỐ LƯỢNG TỈ LỆ (%)
1 Rất thích 14 7
2 Thích 62 31
3 Không thích 32 16
4 Bình thường 92 46
Kết quả (bảng 2.9) cho chúng ta thấy mặc dù nhận thức về vai trò môn học là
tốt, (theo kết quả khảo sát, đa số sinh viên thấy được vai trò quan trọng của học phần
này) nhưng tỷ lệ sinh viên có thái độ tích cực trong giờ học chưa cao (chỉ có 38% thích
và rất thích học). Thực tiển hoạt động dạy học môn Công tác quốc phòng - an ninh cho
thấy, đây là môn học có khối lượng lý thuyết nhiều, thời gian giảng dạy một buổi học
kéo dài. Mặt khác, đa số giảng viên sử dụng phương pháp dạy học thuyết trình, ít gắn
với các tình huống thực tiển. Đây là những yếu tố ảnh hưởng tới thái độ học tập của
sinh viên.
50
51
2.2.2.3. Tính tích cực của sinh viên
Bảng 2.10: Mức độ tích cực trong giờ học của sinh viên
ít khi Rất thường xuyên Thường xuyên TT HÀNH ĐỘNG CỦA SINH VIÊN TRONG GIỜ HỌC SL SL SL SL
5
70 7 12 10
1 Chú ý nghe giảng 2 Nói chuyện riêng 3 Giơ tay phát biểu 4 Ghi chép 5 Tham gia các tình huống 50 5 2 55 10 TL (%) 25 2,5 1 27,5 5 Thỉnh thoảng TL TL TL (%) (%) (%) 25 22,5 2,5 120 60 69 34,5 95 47,5 5,5 11 35 24 2 4 105 57,5 20 3,5 53 26,5 67 33,5 45 22,5
Kết quả (bảng 2.10) chúng ta thấy sinh viên có hành động ghi chép và chú ý
nghe giảng mức độ khá cao; sinh viên có hành động giơ tay phát biểu và tham gia các
tình huống khá thấp chỉ có 1% sinh viên rất thường xuyên và 2% sinh viên thường
xuyên giơ tay pháp biểu; 50% sinh viên không bao giờ giơ tay phát biểu. Như vậy,
trong giờ học sinh viên chủ yếu tập trung ghi chép, sinh viên ít tham gia hoặc không
có cơ hội tham gia vào các tình huống, xây dựng bài.
* Thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học
Để tìm hiểu sâu hơn tính tích cực học tập của sinh viên, người nghiên cứu đã
tiến hành quan sát lớp học môn Công tác quốc phòng - an ninh. Giảng viên sử dụng
phương pháp thuyết trình, nội dung: Phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; thời gian từ 7 giờ 00
đến 8 giờ 45 ngày 10 tháng 1 năm 2020 tại giảng đường 201. Kết quả quan sát thu được
như sau:
Bảng 2.11: Mức độ thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học
TT Số lượng Thời gian Tỉ lệ (%)
41 45,6 7.00 - 7.50 1 Thái độ và hành động của sinh viên trong giờ học Tập trung chú ý, ghi chép bài, chăm chú lắng nghe.
2 Lơ đãng, ngủ gật, nói chuyện. 27 30 7.55 - 8.45
9 10 7.00 - 8.45 3 Tích cực hợp tác, nhiệt tình tập luyện, thảo luận nhóm.
4 Thái độ khác 0 7.00 - 8.45
52
Kết quả (bảng 2.11) cho thấy tiết học đầu: có 45,6% sinh viên tập trung chú ý,
lắng nghe, ghi chép bài cẩn thận và 10% sinh viên tích cực hợp tác tập luyện. Nhưng
vào tiết học thứ hai sinh viên có biểu hiện mệt mỏi, thiếu tập trung cụ thể có 30% sinh
viên lơ đãng, nói chuyện, ngủ gật. Như vậy, khi giảng viên sử dụng phương pháp thuyết
trình trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tiết học đầu sinh viên có thái
độ thích học và hành động học tập tích cực tương đối tốt. Nhưng chỉ sử dụng duy nhất
phương pháp thuyết trình trong suốt một bài học thì sau tiết học đầu sinh viên có biểu
hiện mất tập trung, mệt mỏi về tâm lý dẫn đến nói chuyện, làm việc riêng trong giờ
học.Vì vậy, giảng viên cần phải sử dụng phương pháp dạy học tích cực, đưa ra các vấn
đề huống buộc sinh viên phải chủ động làm việc phát huy tính năng động chủ quan chứ
không chỉ thụ động nghe và ghi chép.
2.2.2.4. Nguyên nhân không thích học của sinh viên
Bảng 2.12: Mức độ nguyên nhân sinh viên không thích học
TT Nguyên nhân không thích học SL TL (%)
1 Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu 95 47,5
Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây 89 44,5 2 dựng bài
Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình 82 41 3
4 Môn học trừu tượng 49 14,5
Giảng viên duy trì nghiêm khắc qui định, kỷ luật trong học 44 22 5 tập
6 Môn học xa rời cuộc sống 11 5,5
Kết quả (bảng 2.12) cho thấy có 47,5% sinh viên cho rằng tại vì giảng viên chỉ
sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu, 44,5% sinh viên cho rằng tại vì giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây dựng bài, 41% sinh viên cho rằng tại vì sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình và 30% sinh viên cho rằng tại vì môn học trừu tượng, xa rời cuộc sống. Như vậy, nếu giảng viên tích cực đổi mới
phương pháp dạy học sẽ nâng cao tính tích cực, tự giác của sinh viên.
Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động dạy học ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên người nghiên cứu đưa ra một số kết luận như
sau:
53
Thứ nhất, có thể khẳng định rằng ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
- Đại học Thái Nguyên hoạt động dạy học chủ yếu tập trung ở người thầy, sinh viên
còn thụ động trong việc tiếp thu bài học.
Thứ hai, việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học đã được
triển khai nhưng chưa đồng bộ nên hiệu quả dạy học còn nhiều hạn chế, chất lượng học
tập của sinh viên chưa được nâng cao, sinh viên chưa hứng thú với môn học.
Thứ ba, sinh viên nhận thức đúng vai trò môn học, nhưng do giảng viên chưa
có nhiều phương pháp dạy học theo quan điểm tích cực nên ảnh hưởng đến thái độ và
hành động của sinh viên như ngủ gật, nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học…
Vì vậy, để tăng tính tích cực cho người học, phát triển năng lực và trình độ tư
duy của mỗi sinh viên, nâng cao hơn nữa kết quả, chất lượng môn học trong giai đoạn
hiện nay. Thì việc vận dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học theo quan
điểm tích cực mà cụ thể là dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm là một vấn đề
cần thiết.
2.3. Một số nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại
học Thái Nguyên
2.3.1. Đảm bảo mục tiêu của môn học
Đây là nguyên tắc nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình dạy học nói
chung, sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.
Mục tiêu này được quy định rõ trong chương trình môn học đòi hỏi giảng viên thực
hiện theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ. Đặc biệt, giảng viên xác định rõ những
kiến thức cần đạt trong bài học, môn học trên cơ sở đó tổ chức thực hiện TLN nhằm
đạt được mục tiêu đó. Nếu xa rời mục tiêu thì việc thực hiện TLN không có ý nghĩa
gì trong quá trình dạy học, thậm chí sau khi tiến hành xong, người học còn hiểu sai
vấn đề. Điều đó vô cùng nguy hiểm nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các thế lực
thù địch đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
cần đảm bảo các chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt được cho sinh viên.
54
Về kiến thức: trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Công tác quốc
phòng - an ninh, nhận thức được âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách
mạng Việt Nam, về phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch; đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá
cách mạng Việt Nam để giữ vững an ninh chính trị và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về chiến tranh công nghệ cao và
phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao; kiến thức về xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, động viên công nghiệp quốc
phòng; phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ
an ninh quốc gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ
biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Về kỹ năng: trang bị cho các em một số kỹ năng cơ bản như: kỹ năng thực hành,
kỹ năng vận dụng thực tiễn, kỹ năng thích nghi và ứng biến linh hoạt với những biến
động của thực tiễn.
Về thái độ: giúp sinh viên có thái độ đúng đắn, tích cực; có khả năng nhìn nhận
và đánh giá đúng - sai, gạt bỏ cảm xúc và thái độ tiêu cực không cần thiết với những
biến động trong xã hội; bình tĩnh nhìn nhận, đánh giá, và có những hành động cụ thể,
tích cực để chống lại những tiêu cực đang nảy sinh từng ngày trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa…; sẵn sàng đấu tranh chống lại
những hành vi tiêu cực, tham nhũng, đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước; biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Qua đó hình thành nên nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay. Đó là những con người có
trình độ học vấn rộng, có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ và chuyên môn hóa, đảm
bảo chất lượng công việc với năng suất và hiệu quả cao, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm
trước dân tộc và đất nước.
2.3.2. Đảm bảo tính thực tiễn
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc tiếp thu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh và
55
điều kiện cụ thể của đất nước; gắn liền lý luận với thực tiễn (Việt Nam và thế giới), từ
đó bổ sung cho lý luận bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Kết
luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014 của Ban Bí thư TW Đảng (khóa XI) đã khẳng định:
Học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân là giáo dục những vấn đề cơ
bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
Đảng, phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không giáo điều, khô cứng.
Việc sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh cần đảm
bảo tính thực tiễn, điều này có nghĩa là quá trình dạy học cần tuân thủ nguyên lý: lý
luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành. Trên thực tế, nếu tiến hành dạy học
bằng phương pháp thảo luận nhóm đối với môn Công tác quốc phòng, an ninh chỉ đơn
thuần lựa chọn những chủ đề thảo luận nhằm khai thác nội dung bài học hay tái hiện
lại đơn vị kiến thức bài học sẽ dẫn đến sự hàn lâm, giáo điều, kinh viện, không vận
dụng được những kiến thức đã học để nhận diện, lý giải được những vấn đề diễn ra
trong cuộc sống. Nếu vậy, tính thuyết phục đối với người học không cao đồng thời khó
tạo dựng được niềm tin của SV vào môn học. Như vậy, đảm bảo tính thực tiễn khi sử
dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh sẽ làm cho những kiến
thức nặng về lý thuyết, khó hiểu, phức tạp sẽ trở thành những vấn đề gần gũi, giản dị,
dễ tiếp thu. Chính vì thế, đây là nguyên tắc quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với
hiệu quả việc tổ chức TLN trong dạy học môn.
Đảm bảo nguyên tắc tính thực tiễn khi sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh đòi hỏi người dạy cần tuân thủ cũng như đảm bảo việc thực
hiện những yêu cầu, cơ bản sau:
Một là, phải căn cứ vào điều kiện dạy học thực tế để tổ chức TLN cho phù hợp.
Dựa vào điều kiện học tập thiết yếu của sinh viên và hệ thống cơ sở vật chất
trường lớp hiện có để triển khai tổ chức TLN. Điều đó có nghĩa giảng viên cần chú ý
đến giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập môn Công tác quốc phòng, an
ninh, số lượng sinh viên trong một lớp, chuyên ngành đào tạo của người học để có cách
thức giao nhiệm vụ, chia nhóm tương ứng. Hệ thống cơ sở vật chất hiện có của nhà
trường giúp giảng viên lựa chọn các phương tiện phù hợp với PPTLN, đồng thời linh
hoạt sử dụng các hình thức báo cáo kết quả thảo luận của các nhóm.
56
Ví dụ: Khi TLN về nội dung: hình thức, biện pháp, quy mô, phạm vi xảy ra bạo
loạn trong bài Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Với nội dung này chỉ cần chia lớp thành
các nhóm lớn, vật chất chỉ cần vở ghi, bút, giáo trình, bàn ghế đã có sẵn trong phòng
học. Đối tượng sinh viên nào cũng có thể tham gia.
Mặt khác, phải dựa vào đối tượng dạy học cụ thể để thiết kế hoạt động thảo luận
nhóm. Cần chú ý đến trình độ cũng như điều kiện học tập cụ thể của sinh viên cũng
như chuyên ngành sinh viên đang theo học để lựa chọn chủ đề thảo luận, đưa ra những
yêu cầu đòi hỏi sinh viên phải thực hiện cùng các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp.
Nếu thực tế lớp học rất đông sinh viên thì không nên chia lớp thành các nhóm nhỏ, việc
di chuyển chỗ ngồi rất dễ gây mất trật tự, mất thời gian và cũng khó thực hiện TLN
hiệu quả...
Hai là, phải xác định chính xác giá trị thực tiễn của các đơn vị kiến thức trong
nội dung môn học để xây dựng chủ đề TLN tương ứng.
Trong quá trình sử dụng PPTLN, giảng viên cần làm rõ được ý nghĩa thực tiễn
của tri thức khoa học để người học lĩnh hội được kiến thức môn học và vận dụng vào
thực tiễn cuộc sống của mình. Khi xây dựng các chủ đề thảo luận, giảng viên cần xác
định rõ nhiệm vụ cho người học cả về kiến thức cần chiếm lĩnh và việc vận dụng kiến
thức đó vào thực tiễn.
Ví dụ: Khi tổ chức TLN về nội dung các giải pháp của Đảng cộng sản Việt Nam
để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Sau khi TLN sinh viên cần nắm vững
kiến thức và vận dụng nó vào thực tiễn như sau: Cần đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng,
tiêu cực xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy
cơ tụt hậu về kinh tế.. Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, nắm chắc mọi diễn biến, không để bị động và bất ngờ..
Ba là, căn cứ vào chuyên ngành đào tạo của người học để xây dựng các tình
huống, trường hợp điển hình tương ứng khi tổ chức TLN.
Việc chiếm lĩnh tri thức môn học đối với các chuyên ngành đào tạo là giống nhau
nhưng việc vận dụng kiến thức ở mỗi chuyên ngành lại có những điểm khác biệt. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu kỹ đặc thù của từng chuyên ngành đào tạo có ý nghĩa quan trọng
57
trong việc lựa chọn các tình huống và trường hợp điển hình để tiến hành TLN. Điều đó
được thể hiện rõ nét nhất đối với nội dung môn Công tác quốc phòng, an ninh về xây
dựng đội ngũ cán bộ, về đạo đức và về xây dựng con người mới. Trên thực tế, ở mỗi
chuyên ngành khác nhau (giáo viên, y, bác sĩ, dược sĩ, kế toán viên…) sẽ có những
trường hợp điển hình thực hiện hành vi theo hai chiều thuận, nghịch; hoặc tuân thủ, hoặc
vi phạm nội dung môn Công tác quốc phòng, an ninh.
2.3.3. Đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng lực người
học
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm
đến việc sinh viên học được cái gì đến chỗ quan tâm sinh viên vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy
học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập theo phương
pháp thảo luận nhóm, đổi mới quan hệ giảng viên - sinh viên theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội của sinh viên. Yêu cầu này cũng đòi
hỏi phương pháp thảo luận nhóm phải được thiết kế sao cho đảm bảo thực hiện với
mục đích phát triển những tri thức, kĩ năng và thái độ cần đạt được thông qua môn học,
đồng thời phát triển năng lực của người học.
Mục đích của thảo luận nhóm là thông qua hoạt động tổ chức dạy học của giảng
viên, sinh viên có thể tích cực chủ động và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức. Do
đó, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm giảng viên cần nắm chắc nguyên tắc
đảm bảo tính mục đích của thảo luận nhóm với việc phát triển năng lực người học.
Theo đó, mục đích của thảo luận nhóm cần hướng đến việc hình thành cho người học
những thao tác tư duy, những hành động thực hành, những biện pháp hoạt động sáng
tạo và tạo điều kiện cho họ thể hiện khả năng hoạt động sáng tạo trong quá trình thảo
luận nhóm. Hơn nữa, thảo luận nhóm cần chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau của sinh viên với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo
hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu
cách sửa chữa các sai sót của bản thân.
58
2.3.4. Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa vai trò của sinh viên với vai trò chủ
đạo của giảng viên
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải phát huy cao độ tính tự
giác, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của người học dưới vai trò chủ đạo của giảng
viên, tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học. Thực chất của nguyên
tắc này là đảm bảo sự thống nhất giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
nhằm phát huy cao độ tính tự giác tích cực, tự lĩnh hội tri thức của trò dưới sự hướng
dẫn của thầy.
Thống nhất giữa dạy và học trong vận dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ cho
phép đạt được hiệu quả cao trong dạy học. Trên ý nghĩa đó, các phương pháp dạy học
tích cực hiện nay đều chú trọng vào việc thiết lập những cách thức tổ chức dạy học sao
cho qua hoạt động tổ chức dạy học của giảng viên, sinh viên có thể tích cực chủ động
và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh thông tin thành tri thức, kĩ năng của mình. Vì vậy,
quy trình vận dụng phương thảo luận nhóm trong quá trình dạy học cũng phải được
xây dựng sao cho vai trò tổ chức, điều khiển của giảng viên phải kết hợp hài hoà với
hoạt động của sinh viên và ngược lại quá trình thảo luận trong các nhóm học tập của
sinh viên phải tích cực thúc đẩy vai trò điều khiển thảo luận của giảng viên.
Thông qua thảo luận nhóm, giảng viên cần khuyến khích, động viên và tạo điều
kiện để sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến, ý tưởng và những thắc mắc của mình, đề
cao tinh thần hoài nghi khoa học, óc phê phán, tác phong độc lập suy nghĩ, chống lối
học vẹt, học đối phó, chủ nghĩa hình thức trong học tập.
2.3.5. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa phương pháp thảo luận nhóm với
hiệu quả học tập
Nguyên tắc này đòi hỏi phải có mối quan hệ biện chứng giữa việc vận dụng
phương pháp thảo luận nhóm với hiệu quả học tập của sinh viên. Điều đó có nghĩa là
khi thực hiện các biện pháp này hiệu quả học tập của sinh viên phải được nâng cao và
các kĩ năng thảo luận nhóm của sinh viên phải được phát triển. Khi vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần chú ý đến hiệu quả học tập của sinh viên. Việc
vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học phải thu được kết quả từ phía sinh
viên như sự say mê, hứng thú trong giờ học, sự thảo luận sôi nổi, tích cực và sự sáng
tạo, khả năng ghi nhớ kiến thức…
59
2.3.6. Đảm bảo được sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức chia nhóm và các hình
thức thảo luận phù hợp với đặc điểm nhận thức của sinh viên.
Để vừa đảm bảo nguyên tắc cá biệt vừa đáp ứng tính phổ biến trong giáo dục,
giảng viên có thể chia nhóm theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu chí có những ưu,
nhược điểm riêng. Do đó, về mặt phương pháp luận không nên tuyệt đối hóa hay áp
dụng một tiêu chí duy nhất khi chia nhóm trong cả môn học. giảng viên cần kết hợp
hài hòa, phù hợp giữa chia nhóm ngẫu nhiên, chia nhóm theo sở trường, chia nhóm
theo cùng một trình độ, chia nhóm gồm đủ trình độ.
Trên thực tế, giảng viên cần lựa chọn các hình thức thảo luận nhóm phù hợp với
đặc điểm nhận thức của sinh viên, phù hợp với số lượng sinh viên cụ thể ở từng lớp.
Như vậy, giảng viên có thể linh hoạt lựa chọn hoặc kết hợp các hình thức thảo luận
theo nhóm nhỏ thông thường, nhóm nhỏ rì rầm, nhóm kim tự tháp hoặc nhóm đồng
tâm. Mặt khác, khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm phải lựa chọn các hình thức
thảo luận phù hợp với đặc điểm của đối tượng sinh viên. Có lớp sinh viên nhận thức
tốt cần sử dụng linh hoạt các hình thức thảo luận nhóm sao cho mỗi giờ học, sinh viên
thấy hứng thú, mong chờ. Với đối tượng sinh viên học trung bình việc lựa chọn hình
thức thảo luận nhóm cần chú ý đến khả năng nhận thức và phối hợp thực hiện của sinh
viên.
Có thể nói mỗi hình thức chia nhóm và hình thức thảo luận nhóm đều có những
ưu thế và hạn chế nhất định. Vì vậy, trong một giờ học không thể chỉ áp dụng một hình
thức dạy học nào đó, vì điều này sẽ không phát huy được những điểm mạnh của những
hình thức dạy học khác. Bởi vậy, khi xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm phải đảm bảo sao cho tất cả các lợi thế của các hình thức thảo luận phải
được khai thác triệt để.
2.4. Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
Quy trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong quá trình dạy học là
trình tự các giai đoạn, các bước được xắp xếp có tổ chức, có mục đích được thực hiện
liên tiếp nhằm giúp giảng viên thực hiện tốt việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
60
và giúp sinh viên đạt được mục tiêu học tập. Từ việc nhận thức thấu đáo sự cần thiết
của vấn đề đã nêu, trên cơ sở kế thừa một số các công trình nghiên cứu đi trước, căn
cứ vào điều kiện thực tiễn của Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành xây dựng quy trình vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học Công tác quốc phòng, an ninh như sau:
2.4.1. Quy trình thiết kế bài học
Một là, lập kế hoạch thảo luận nhóm
Công việc này rất quan trọng, giữ vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động của
giảng viên và sinh viên. Việc lập kế hoạch thảo luận nhóm có ảnh hưởng rất lớn đến
toàn bộ kết quả của bài học.
Khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc
phòng, an ninh, giảng viên cần lập kế hoạch cụ thể và thông báo cho sinh viên từ tiết
học trước về kế hoạch thảo luận, những vật chất cần thiết phục vụ hoạt động thảo luận
nhóm.
Theo đó, phải xác định nhiệm vụ của mình và trên cơ sở yêu cầu, hướng dẫn
của giảng viên, sinh viên tự nghiên cứu nội dung bài học bằng cách đọc trước nội dung
giáo trình hoặc phân công chuẩn bị những nội dung cần thực hiện trong bài.
Thiết kế bài giảng là hoạt động không thể thiếu để có giờ giảng hay. Thiết kế
bài giảng giúp giảng viên thực hiện trọn vẹn các ý đồ sư phạm của mình và đạt được
đặt ra trong bài học. Quy trình thiết kế bài giảng theo phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh, tác giả xác định gồm các bước sau:
Hai là, thiết kế bài giảng
* Bước 1: Lựa chọn bài học
Để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng,
an ninh việc đầu tiên cần thực hiện là lựa chọn được bài học/đơn vị kiến thức phù hợp.
Đây là khâu quan trọng để xác định nội dung hoạt động của cả thầy và trò trong tiến trình
dạy học. Cần xác định nội dung dạy học qua đó lựa chọn những đơn vị kiến thức cơ bản
của bài học để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm cho phù hợp.
Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc
phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên,
61
thầy cô cần phải nghiên cứu, lựa chọn bài dạy, lựa chọn nội dung thảo luận nhóm sao
cho phù hợp để sinh viên vừa chủ động, sáng tạo, học tập tích cực, không nhàm chán,
không mệt mỏi. Trong quá trình soạn bài, giảng viên cần chú ý lựa chọn những phương
pháp thảo luận nhóm có vấn để nhằm tạo hứng thú, kích thích tư duy sáng tạo của các
em. Do đó, trước khi tổ chức thảo luận nhóm thầy cô cần xác định trước nội dung thảo
luận nhóm căn cứ vào tài liệu chuẩn kiến thức, kỹ năng và nội dung bài học, lựa chọn
nội dung để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cho phù hợp.
* Bước 2: Xác định mục tiêu bài học và cân nhắc các yếu tố khách quan
Việc xác định mục tiêu bài học là yếu tố nền tảng để quyết định hoạt động của
thầy và trò diễn ra như thế nào, sử dụng phương pháp và phương tiện gì cho hiệu quả.
Nếu mục tiêu bài học không được xác định một cách đúng đắn, rõ ràng thì giảng viên
sẽ không thể tìm ra được phương pháp dạy học phù hợp để truyền tải toàn bộ tri thức
của bài học đến cho sinh viên.
Cũng giống với các phương pháp khác khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh người giảng viên cần phải xác định
được mục tiêu bài học, vì xét cho cùng thì phương pháp thảo luận nhóm, dù ở dạng
thức nào đi chăng nữa, cũng đều phải phục vụ một mục đích nào đó. Trong giảng dạy
phương pháp thảo luận nhóm, thì mục tiêu cần đạt được ấy chính là mục tiêu bài học.
Chính vì thế mà người giảng viên luôn phải đặt cho mình câu hỏi “Ở bài học này, cần
phải đạt được mục tiêu gì, phải cung cấp cho người học những kiến thức gì và phải rèn
luyện cho họ những kỹ năng cần thiết gì?” và dựa vào đó để thiết kế phương pháp thảo
luận nhóm sao cho phù hợp. Nếu không, sẽ rất dễ xảy ra trường hợp là phương pháp
thảo luận nhóm nêu ra không có hoặc truyền tải quá ít ý nghĩa giáo dục. Khi đó, thảo
luận nhóm sẽ trở thành một buổi nói chuyện phiếm, không mang lại tác dụng sư phạm
gì cho người được giáo dục.
Tiếp đó, người giảng viên cần tính đến các yếu tố khách quan, vì những yếu tố
này có quyết định trực tiếp đến sự thành công của phương pháp thảo luận nhóm. Cụ
thể là người giảng viên cần phải tính đến những yếu tố như:
- Thời gian: để tránh thiết kế những nội dung thảo luận nhóm quá dài hay quá
ngắn. Nói một cách khác thì buổi thảo luận dựa trên phương pháp thảo luận nhóm cần
phải diễn ra ‘vừa phải’ với khoảng thời gian cho phép.
62
- Số người học: Số lượng người học có ảnh hưởng quan trọng đến phương pháp
thảo luận nhóm, vì hiển nhiên thiết kế một nội dung thảo luận nhóm cho 20 người, là
hoàn toàn khác với việc thiết kế một phương pháp thảo luận nhóm cho một nhóm nhỏ
5 người. Thông thường thì số người tham gia thảo luận lý tưởng là khoảng 15 - 20
người.
- Trình độ của người học: Chủ yếu dựa vào trình độ của người học mà người
dạy cần đưa ra những nội dung thảo luận nhóm vừa sức: không quá khó để cản trở
người học giải quyết được vấn đề nhưng cũng không quá dễ để khiến cho người học
cảm thấy nhàm chán.
- Cơ sở vật chất: Tuỳ theo điều kiện vật chất mà người giảng viên lựa chọn con
đường truyền tải nội dung dễ hiểu nhất, như sử dụng máy chiếu, video, tranh ảnh và
thiết kế nhóm thảo luận.
Ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, người dạy còn cần phải tính đến tín
ngưỡng, tôn giáo, tầng lớp xã hội, quan hệ giữa các nhóm tham gia cũng như lường
trước được những tác dụng và áp lực mà phương pháp thảo luận nhóm có thể tác động
tới người học để qua đó, tránh thiết kế những phương pháp thảo luận nhóm không phù
hợp, gây phản cảm hay thậm chí là vô tình xúc phạm người học.
* Bước 3: Xác định phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện và tài liệu
học tập
Căn cứ vào nội dung cụ thể của từng bài, từng nội dung thảo luận mà giảng viên
đưa ra lựa chọn các phương pháp, phương tiện dạy học và các tư liệu, tài liệu nhằm
phục vụ hoạt động học tập của sinh viên một cách phù hợp.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học cần được kết hợp hài hòa
với các phương pháp khác như: tình huống, sắm vai… để tối ưu hóa hoạt động dạy và
học trong điều kiện thực tế của đơn vị, của từng phòng học.
Cũng như các phương pháp dạy học khác, phương tiện dạy học được sử dụng
trong thảo luận nhóm được khuyến nghị gồm như máy tính, máy chiếu, tranh ảnh…
Ngoài ra, để tăng thêm phần hấp dẫn cho bài học, giảng viên có thể kết hợp phương
pháp thảo luận nhóm với phương pháp tình huống. Lúc này, tùy theo cơ sở vật chất của
trung tâm, giảng viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị những trang phục, dụng cụ phục
vụ cho các vai diễn để tăng phần hấp dẫn.
63
Để thực hiện tốt việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy môn công
tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên . Vấn đề lựa chọn và chuẩn bị tài liệu học tập là rất quan trọng, giảng viên và
sinh viên cần chuẩn bị những tài liệu liên quan đến nội dung bài học như: giáo trình,
những sự kiện về quốc phòng, an ninh, những phương pháp thảo luận nhóm nảy sinh
trong thực tiễn, một số tư liệu khác như phim, ảnh, biểu đồ, mô hình, bút dạ, giấy A4,
giấy màu, thước kẻ, bút dấu, thông tin liên quan đến nội dung bài học…
* Bước 4: Chuẩn bị phương pháp thảo luận nhóm
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học nói chung và dạy môn công
tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên nói riêng thì việc chuẩn bị nội dung thảo luận nhóm là khâu rất quan trọng.
Chuẩn bị nội dung thảo luận nhóm gồm 2 bước:
Lấy ý tưởng:
Việc lấy ý tưởng cho một phương pháp thảo luận nhóm sẽ tạo tiền đề quan trọng
cho một phương pháp thảo luận nhóm tốt. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc lấy ý tưởng
cho này là không hề dễ dàng, bởi nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức để tìm được
những ý tưởng hay và mới lạ. Tuy nhiên, có một số nguồn thông tin mà người giảng
viên có thể sử dụng để tạo ý tưởng cho phương pháp thảo luận nhóm:
- Các phương tiện thông tin đại chúng: Đây là nguồn thông tin phong phú và đa
dạng mà giảng viên có thể tận dụng khai thác. Giảng viên có thể lấy ý tưởng thông qua:
tivi, đài báo, sách truyện và đặc biệt là Internet…
- Người học: Người học không chỉ đơn thuần đóng vai trò là người phân tích và
giải quyết phương pháp thảo luận nhóm mà họ còn có thể là chủ thể sáng tạo và đề xuất
ra phương pháp thảo luận nhóm nữa. Những vấn đề, những trường hợp khó giải quyết
mỗi cá nhân đã từng gặp trong cuộc sống sẽ trở thành nguồn phương pháp thảo luận
nhóm vô tận mà mỗi giảng viên có thể khai thác và vận dụng một cách thích hợp để
phục vụ tốt nhất cho nội dung bài học.
- Kinh nghiệm bản thân: Trong những trường hợp mà không thể tìm kiếm được
từ những nguồn thông tin bên ngoài thì kinh nghiệm bản thân cũng là nguồn tư liệu mà
người dạy có thể khai thác.
64
Viết phương pháp thảo luận nhóm:
Sau khi đã tạo ra ý tưởng thì cũng là lúc giảng viên có thể bắt tay vào việc biên
soạn phương pháp thảo luận nhóm. Nhìn chung, một phương pháp thảo luận nhóm tốt
thường có ba phần: Mở đầu, phát triển và kết thúc. Nhiệm vụ cụ thể của từng phần như
sau:
- Mở đầu: Giới thiệu phương pháp thảo luận nhóm bước đầu tạo lập bối cảnh
mà nền trên đó, phương pháp thảo luận nhóm được diễn ra.
- Phát triển: Đây là phần chính, vì nó cung cấp cho người học những chi tiết và
dữ kiện cần thiết cho công việc thảo luận, tổng hợp nên giải pháp và cũng là phần mà
những mâu thuẫn, xung đột được đẩy lên đến đỉnh điểm, buộc người học phải có sự
lựa chọn.
- Kết luận: Khác với một bài làm văn, phần kết luận trong một phương pháp
thảo luận nhóm thường là một kết thức mở với một câu hỏi được nêu ra, yêu cầu người
học phải giải quyết.
2.4.2. Quy trình thực hiện bài giảng bằng phương pháp thảo luận nhóm trong một
tiết học
Thực hiện bài học trên lớp bằng phương pháp thảo luận nhóm trong một tiết học
môn công tác quốc phòng, an ninh thực chất là quá trình giảng viên chuyển nội dung
của bài dạy đã được thiết kế sang giờ dạy trực tiếp trên lớp. Trong quá trình đó, giảng
viên là người tổ chức, điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức của sinh viên. Còn sinh
viên giữa vai trò chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động dạy học để tự mình chiếm
lĩnh tri thức, biến tri thức của bài học và của người dạy thành tri thức riêng của mình.
Việc thực hiện giờ học bằng phương pháp nào đi chăng nữa trong đó bao gồm
cả phương pháp thảo luận nhóm cũng phải tuân thủ theo các bước, các hoạt động của
một giờ lên lớp bình thường nhằm mục đích phát triển năng lực người học. Mỗi một
hoạt động sẽ có quy trình thực hiện khác nhau. Để đảm bảo mục tiêu bài học thì việc
áp dụng phương pháp thảo luận nhóm nên thực hiện ở hoạt động trọng tâm là hoạt động
hình thành kiến thức. Trong phạm vi giới hạn của luận văn thạc sỹ, tác giả cũng không
trình bày hết quy trình của từng hoạt động mà chỉ đề xuất quy trình thực hiện việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm đối với hoạt động hình thành kiến thức. Ở hoạt động
65
này, quy trình gồm các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nêu nội dung thảo luận nhóm
Đây là bước có tính chất quyết định không khí của tiết học và tiến trình giờ học.
Giảng viên giao bài tập, cung cấp thông tin về nội dung thảo luận nhóm cho sinh viên,
nêu rõ nhiệm vụ cần phải giải quyết. Khi đưa ra tình huống thảo luận nhóm giảng viên
cần vui vẻ, giọng nói truyền cảm để sinh viên tập trung vào thảo luận nhóm; phải bao
quát lớp để chắc chắn rằng tất cả sinh viên đều lắng nghe. Như thế, mục tiêu cần đạt
được ở bước này là định hướng giờ học theo quan điểm tư duy sáng tạo, dạy học tích
cực, kích thích nhu cầu nhận thức của sinh viên đồng thời chuyển trạng thái hoạt động
học tập của sinh viên từ thụ động sang tích cực, chủ động, ở bước này kết quả hoạt
động của giảng viên là một quá trình chuẩn bị chu đáo, thể hiện vai trò chủ động, sáng
tạo với việc hướng dẫn hành động của sinh viên.
Bước 2: Giải quyết nội dung nhóm thảo luận
Đối với bước này, tùy vào ý đồ giảng dạy mà giảng viên có thể tổ chức cho sinh
viên giải quyết vấn đề thông qua phương pháp thảo luận nhóm theo nhiều hình thức
khác nhau: Làm việc độc lập từng cá nhân, làm việc theo nhóm, thảo luận cả lớp. Sau
khi đưa ra nội dung thảo luận nhóm thì giảng viên cần dành một chút thời gian để sinh
viên đọc, nghiên cứu và đưa ra phương án giải quyết thông qua phương pháp thảo luận
nhóm. Ở bước này giảng viên là người đóng vai trò hướng dẫn và làm cố vấn, còn sinh
viên có nhiệm vụ chính là chỉ ra được đâu là mấu chốt, mâu thuẫn của nội dung thảo
luận để theo đó giải quyết đúng mâu thuẫn, tình huống nêu ra, tránh đi lạc đề hay giải
quyết không thấu đáo nội dung cần thảo luận.
Nhằm giúp sinh viên khắc phục được những khó khăn khi thảo luận nhóm, giảng
viên cần phải khéo léo vạch ra con đường tìm kiếm tri thức cho sinh viên thông qua hệ
thống câu hỏi liên quan đến thảo luận nhóm. Câu hỏi gợi mở, hướng dẫn của giảng
viên có tính chất hỗ trợ, dẫn dắt hành động của sinh viên. Vai trò chỉ đạo, làm cố vấn
của giảng viên còn tùy thuộc vào trình độ thảo luận nhóm của sinh viên. Khi hướng
dẫn sinh viên giải quyết tình huống bằng phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần
chú ý vào các mâu thuẫn chứa đựng trong nội dung đưa ra, căn cứ vào các mâu thuẫn
đó để hướng dẫn các thao tác tư duy cho sinh viên.
Sau một khoảng thời gian quy định, giảng viên yêu cầu từng cá nhân hoặc nhóm
66
lên thuyết trình, giải quyết nội dung được giao. Cả lớp cùng lắng nghe, thảo luận, đánh
giá về câu trả lời được nêu ra và đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh luận hướng vào
nội dung trọng tâm bài học.
Bước 3: Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng
Việc giải quyết vấn đề thông qua phương pháp thảo luận nhóm cuối cùng nhằm
mục đích giúp sinh viên rút ra được các khái niệm, thông qua đó nắm vững được tri
thức của bài học, hoàn thành nhiệm vụ nhận thức đã đặt ra. Công việc chủ yếu của
bước 3 là giảng viên nhận xét câu trả lời của người học, chỉ rõ phương án nào nên làm
và phương án nào không nên làm và đưa ra cách thảo luận nhóm chính xác và thuyết
phục nhất để giải quyết nội dung được giao. Xác nhận kiến thức, kĩ năng và phương
pháp mà sinh viên cần thu nhận được thông qua thảo luận nhóm. Ở giai đoạn này cần
yêu cầu sinh viên phải thành thạo trong việc đối chiếu kết quả thu được và lí thuyết đã
học.
Như vậy, việc thực hiện tuần tự các quy trình dạy học là nguyên tắc bắt buộc để
một giờ dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh có sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học đạt hiệu quả. Trong mỗi bước của từng quy trình có những chức
năng, nhiệm vụ riêng không giống nhau. Nếu giảng viên xem nhẹ bất cứ một bước nào
trong quy trình đã nêu sẽ dẫn đến những sai sót ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giờ
dạy. Tất nhiên tùy theo đặc trưng của bài học, đặc điểm và trình độ người học, điều
kiện cơ sở vật chất… giảng viên có thể vận dụng các bước trên một cách linh hoạt và
sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng nhắc.
Những phần trình bày trên đây chỉ là chủ ý của tác giả được đúc kết từ kinh
nghiệm thực tiễn dạy học của bản thân, rất cần có sự bổ sung, phát triển bởi các nhà
khoa học.
2.4.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo
phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại
học Thái Nguyên
Kiểm tra, đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống, để xác định mức
độ đạt được về trình độ nắm kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng trình độ phát triển tư duy và
trình độ được giáo dục của người học trong quá trình dạy học. Về kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo phương pháp thảo luận nhóm trong
67
dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an
ninh - Đại học Thái Nguyên cũng giống như các môn học khác thường được sử dụng
linh hoạt với các hình thức kiểm tra, đánh giá như sau:
Kiểm tra, đánh giá thường xuyên (kiểm tra vấn đáp): Việc kiểm tra, đánh giá
thường xuyên được tiến hành trong quá trình sinh viên thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Hình thức này giảng viên có thể kiểm tra một cách linh hoạt tại mọi thời điểm có ở
trong một tiết học. Không nhất thiết chỉ kiểm tra bài cũ ở đầu tiết học như thường lệ
mà có thể kiểm tra kiến thức, kỹ năng vận dụng kiến thức trong tất cả các hoạt động
học tập. Bằng cách này giảng viên sẽ kích thích được sự hứng thú của sinh viên, làm
cho sinh viên hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài.
Kiểm tra, đánh giá định kì (kiểm tra viết): nhằm đánh giá kết quả giáo dục sau
một giai đoạn học tập, rèn luyện, xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của sinh
viên so với chuẩn kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình học. Việc kiểm tra,
đánh giá định kỳ kết quả học tập thường được tiến hành sau khi sinh viên học xong một
phần chương trình và sau khi kết thúc môn học. Hình thức kiểm tra, đánh giá định kì có
thể là viết tự luận hoặc trắc nghiệm, trong quá trình dạy học có vận dụng phương pháp
thảo luận nhóm, chúng tôi khuyến khích giảng viên sử dụng đề thi trong đó có xây dựng
tình huống để người học giải quyết. Việc làm này sẽ kích thích tính năng động, sáng tạo
và hình thành kỹ năng nghiên cứu độc lập cho sinh viên.
Từ việc nghiên cứu thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ở môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên, chúng tôi đề xuất quy trình kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của sinh
viên như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu kiểm tra - đánh giá:
Mục tiêu kiểm tra, đánh giá nhằm mục đích để xác định năng lực và kết quả học
tập của mỗi sinh viên, tạo cơ hội cho sinh viên phát triển kĩ năng tự đánh giá, giúp sinh
viên nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập. Bên cạnh đó,
việc kiểm tra, đánh giá còn giúp cho giảng viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm
mạnh và điểm yếu của mình, tự hoàn thiện hoạt động dạy, phấn đấu không ngừng nâng
cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Việc xác định đúng mục tiêu kiểm tra, đánh giá sẽ giúp giảng viên xây dựng,
68
lựa chọn các hình thức kiểm tra - đánh giá cho phù hợp.
Khi xác định mục tiêu đánh giá đảng viên nên phân rõ từng loại tiêu chí đánh giá,
đảm bảo kết quả kiểm tra, đánh giá được công bằng, khách quan đối với tất cả sinh viên,
nhất là đối với các đề kiểm tra, đánh giá chẵn, lẻ hoặc trắc nghiệm khách quan.
Bước 2: Lựa chọn đơn vị kiến thức cần kiểm tra, đánh giá và thiết kế công cụ
kiểm tra, đánh giá:
Việc lựa chọn đơn vị kiến thức và thiết kế công cụ kiểm tra, đánh giá môn Công
tác quốc phòng, an ninh cần phải được tiến hành một cách thận trọng, tỉ mỉ. Việc kiểm
tra, đánh giá nhằm mục đích kiểm tra trình độ nhận thức của sinh viên, giúp giảng viên
điều chỉnh, cải tiến, nâng cao chất lượng giảng dạy. Do đó, nếu công cụ kiểm tra - đánh
giá không phù hợp sẽ rơi vào các tình trạng: hoặc là chỉ đánh giá được tri thức mà
không đánh giá được toàn bộ kỹ năng của sinh viên, hoặc lại chỉ thiên về kỹ năng mà
không đánh giá được tri thức mà sinh viên cần phải đạt được.
Hiện nay đối với môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên hình thức kiểm tra đánh giá định kì là trắc
nghiệm khách quan. Chính vì vậy, việc thiết kế hệ thống câu hỏi kiểm tra - đánh giá
phải đảm bảo về tính toàn diện, cụ thể của kiến thức và rèn luyện được các kỹ năng
cho sinh viên. Câu hỏi kiểm tra, đánh giá rõ ràng, tránh tình trạng chung chung, không
cụ thể. Đối với đề thi trắc nghiệm khách quan, khi xây dựng, giảng viên cần lưu ý đảm
bảo các yêu cầu sau:
- Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ sinh viên ở 6 mức độ,
từ đơn giản đến phức tạp: Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Phân tích, Tổng hợp, Đánh
giá:
Nhận biết : nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin, là mức độ, yêu cầu
thấp nhất của trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ sinh viên có thể và chỉ cần nhớ hoặc
nhận ra khi được đưa ra hoặc dựa trên những thông tin có tính đặc thù của một khái
niệm, một sự vật, một hiện tượng.
Thông hiểu : Hiểu được ý nghĩa của các khái niệm, hiện tượng, sự vật ; giải thích
được, chứng minh được, là mức độ cao hơn nhận biết nhưng là mức độ thấp nhất của
việc thấu hiểu sự vật, hiện tượng, nó liên quan đến ý nghĩa của các mối quan hệ giữa
69
các khái niệm, thông tin mà sinh viên đã học hoặc đã biết.
Vận dụng: Vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra
thông qua thảo luận nhóm: là khả năng đòi hỏi sinh viên phải biết vận dụng kiến thức
để giải quyết một vấn đề nào đó.
Phân tích: Chia thông tin ra thành các phần thông tin nhỏ sao cho có thể hiểu
được cấu trúc, tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Tổng hợp: Sắp xếp, thiết kế lại thông tin, các bộ phận từ các nguồn tài liệu khác
nhau và trên cơ sở đó tạo lập nên một hình mẫu mới.
Đánh giá: Bình xét, nhận định, xác định được giá trị của một tư tưởng, một phương
pháp, một nội dung kiến thức. Đây là một bước tiến mới trong việc lĩnh hội kiến thức được
đặc trưng bởi việc đi sâu vào bản chất của đối tượng, sự vật, hiện tượng.
- Nội dung đề kiểm tra, thi phải bao hàm đầy đủ các mức độ khác nhau của nhận
thức. Tuỳ theo tính chất, yêu cầu của mối kì thi để định ra lượng kiến thức dưa vào đề
kiểm tra, thi phù hợp với từng mức độ nhận thức.
- Đề kiểm tra thi phải có độ khó hợp lí, phù hợp với thời gian làm bài. Không
nên ra đề kiểm tra, thi kiểu phải học thuộc lòng, học vẹt. Đề kiểm tra, thi phải đánh giá
được khả năng lí giải, ứng dụng, phân biệt và phán đoán của sinh viên.
- Nội dung đề kiểm tra, thi tập trung đánh giá phạm vi kiến thức rộng, bao quát
chương trình học, tránh tập trung nhiều vào những mảnh nhỏ kiến thức sẽ dẫn đến
mảnh rời rạc, chắp vá trong kiến thức của sinh viên.
- Các yêu cầu đối với câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn:
+ Câu hỏi phải đánh giá những nội dung quan trọng của chương trình
+ Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí về mặt trình bày và số điểm tương ứng
+ Câu dẫn phải đặt ra câu hỏi trực tiếp hoặc một vấn đề cụ thể
+ Không nên trích dẫn nguyên văn những câu có sẵn trong giáo trình
+ Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi sinh viên
+ Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những sinh viên không nắm vững
kiến thức
+ Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức sai lệch của
sinh viên.
+ Đáp án đúng của câu hỏi này phải độc lập với đáp án đúng của các câu hỏi
70
khác trong bài kiểm tra
+ Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu dẫn
+ Mỗi câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, chính xác nhất
+ Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều đúng” hoặc “không có
phương án nào đúng”.
Với những dạng thức đề trắc nghiệm khách quan đánh giá dạy học bằng phương
pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần chú ý:
- Giảng viên phải xác định rõ mục tiêu môn học, mục tiêu bài học để lựa chọn
nội dung cho câu hỏi tự luận phù hợp với đối tượng sinh viên. Tránh đề xuất các tình
huống quá sức với học sinh hoặc quá dài học sinh không có thời gian giải quyết.
- Những nội dung đó phải được xây dựng trên cơ sở phát triển được các năng
lực, phẩm chất của sinh viên.
- Nếu các nội dung đó được sử dụng theo đề chẵn, lẻ thì các nội dung đó phải
có cùng một độ khó, dễ như nhau, thời gian để hoàn thành phải tương ứng nhau.
Bước 3: Thiết kế các câu hỏi theo ma trận, xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm:
Cần căn cứ vào bảng ma trận mới có thể xây dựng được câu hỏi, xác định số
lượng câu. Về hình thức: theo yêu cầu của kỹ thuật biên soạn câu trắc nghiệm khách
quan. Việc xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm đối với bài kiểm tra cần
đảm bảo yêu cầu: Về nội dung phải mang tính khoa học và chính xác; về cách trình
bày phải cụ thể, chi tiết nhưng ngắn gọn và dễ hiểu; Đáp án phải phù hợp với ma trận
đề kiểm tra.
Bước 4: Tổ chức kiểm tra.
Hoạt động này phải được tiến hành tại lớp, đảm bảo tính nghiêm túc, khách
quan, đúng quy chế để có thể đánh giá đúng năng lực của sinh viên.
Bước 5: Chấm bài kiểm tra
Bài kiểm tra được chấm khách quan. Giảng viên phải chấm bài trong trạng thái
tỉnh táo, vui vẻ, không được lồng bất cứ ý muốn chủ quan nào trong khi chấm bài để
đảm bảo tính công bằng tuyệt đối trong khi chấm.
Bước 6: Tập hợp kết quả, rút kinh nghiệm sau kiểm tra
71
Sau khi chấm xong, giảng viên cần tập hợp và phân tích kết quả bài kiểm tra của
sinh viên. Đối chiếu kết quả với mục tiêu chung của bài học, từ đó rút ra những bài học
hoặc kinh nghiệm cần thiết cho lần sau.
Bước 7: Trả bài kiểm tra
Đây là bước tất yếu phải có trong quy trình kiểm tra - đánh giá. Sau khi tổng
hợp kết quả, giảng viên phải để riêng những bài có điểm giỏi, điểm yếu để trước khi
trả bài, chữa và nêu lên những bài có điểm yếu đế sinh viên rút kinh nghiệm cho lần thi
kết thúc môn học.
2.5. Điều kiện vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh được tiến hành hiệu
quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó bao gồm các yếu tố chủ
quan và khách quan. Yếu tố chủ quan thuộc về giảng viên, sinh viên, yếu tố khách quan
là những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng đến TLN.
2.5.1. Điều kiện đối với giảng viên
Nhận thức của giảng viên về sự cần thiết phải sử dụng PPTLN là yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức dạy học, quyết định việc xây dựng chủ đề thảo
luận, lựa chọn phương tiện dạy học, kỹ thuật dạy học. Sự hiểu biết sâu rộng về tri thức
môn học, các vấn đề liên quan đến cuộc sống và nghề nghiệp của giảng viên được coi là
nền tảng của việc tổ chức thảo luận nhóm cho người học. Từ những cơ sở nền tảng đó,
giảng viên sẽ xây dựng các chủ đề thảo luận hấp dẫn, lôi cuốn và kích thích sự nỗ lực
học tập của sinh viên. Việc nắm vững quy trình thực hiện PPTLN và các yêu cầu sư
phạm đặt ra khi thực hiện sẽ đảm bảo tính khoa học, có tác dụng to lớn trong việc tạo
dựng thành công trong học tập cho người học. Bên cạnh đó, việc am hiểu công nghệ
thông tin, lựa chọn các PPDH và kỹ thuật dạy học phù hợp với TLN của giảng viên trong
quá trình thực hiện làm cho người học hứng thú, phát huy vai trò của phương pháp này,
đồng thời hướng tới phát triển các năng lực của sinh viên.
Việc đánh giá hoạt động TLN của sinh viên cũng là một động lực kích thích sự
tham gia vào giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. Trên cơ sở đánh giá của giảng viên
đối với sinh viên cần kết hợp với sự đánh giá từ phía sinh viên (đánh giá lẫn nhau và
72
tự đánh giá). Sự kết hợp này khiến các em nỗ lực hơn trong TLN.
Nội dung chủ đề thảo luận nhóm trong môn học Công tác quốc phòng, an ninh.
Nếu chủ đề thảo luận nặng về lý thuyết, trừu tượng, không phù hợp với đối tượng khiến
sinh viên có tâm lý ngại nghiên cứu. Nội dung chủ đề TLN có ý nghĩa thực tiễn, gắn
với cuộc sống và đặc biệt là nghề nghiệp của người học bao nhiêu càng tác động đến
việc tìm tòi, nghiên cứu của sinh viên bấy nhiêu. Thái độ của người học đối với môn
học cũng dần được thay đổi. Sinh viên sẽ hứng thú và tích cực hơn trong quá trình thảo
luận.
2.5.2. Điều kiện đối với sinh viên
Đây được coi là môi trường bên trong của hoạt động dạy học nói chung và quá
trình sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng bao
gồm tiềm năng trí tuệ, xúc cảm, vốn sống, phong cách học và tính cách. Khi sử dụng
PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh, giảng viên cần khai thác và
huy động tất cả các giác quan của sinh viên, kết hợp TLN với PPDH trực quan. Một
điều đáng chú ý là các nơron thần kinh chỉ chuyển về thần kinh trung ương những thông
tin thực sự có ý nghĩa và người học quan tâm xử lý ra quyết định. Do vậy, giảng viên
phải chú ý đến tính vừa sức và tính hấp dẫn của chủ đề thảo luận.
Các giá trị sống của sinh viên cũng kích thích hứng thú và điều tiết sự hợp tác
của các thành viên trong nhóm. Các giá trị đó phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân và
môi trường sống và được truyền lại từ gia đình, nhà trường và xã hội. Nó quyết định
đến tính tự chủ, tinh thần trách nhiệm trong công việc và sự tôn trọng người khác trong
hoạt động nhóm. Vốn sống liên quan đến kinh nghiệm sống và kiến thức chiếm lĩnh
được ảnh hưởng trực tiếp đến TLN. Giảng viên sẽ tổ chức TLN dễ dàng hơn nếu sinh
viên có vốn sống phong phú.
2.5.3. Điều kiện về cơ sở vật chất
Một là, không gian dạy học.
Không gian lớp học rộng rãi, thoáng mát, yên tĩnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giao tiếp, di chuyển hoạt động của các nhóm học tập. Không gian lớp học còn
được xem xét ở góc độ tâm lý nghĩa là một lớp học có không khí tích cực, cởi mở, tin
cậy và sẵn sàng hợp tác, một không gian đầy ắp tri thức và vốn sống của cả người dạy
73
lẫn người học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nhận thức, mỗi thành viên trong
lớp sẽ hào hứng và xác định được vị trí, trách nhiệm của bản thân mình.
Hai là, các phương tiện, vật chất phục vụ TLN.
Ngoài không gian rộng rãi, các phương tiện vật chất phục vụ cho TLN cần đầy
đủ để phối hợp với PP này trong quá trình thực hiện. Điều đó giúp SV có một môi
trường tương tác thuận lợi nhất nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của TLN. Để PPTLN
phát huy hiệu quả, khi kết hợp với phương pháp trực quan cần phải có hệ thống máy
chiếu, máy tính để trình chiếu, hình ảnh, phim tư liệu… Giáo trình môn học cùng với
nguồn tài liệu tham khảo cũng là một yếu tố không thể thiếu để làm lên thành công của
TLN.
74
Kết luận chương 2
Trên cơ sở khái quát đặc điểm tình, khái quát đặc điểm sinh viên về Trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, đề tài đã đánh giá thực trạng
dạy học môn về Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và
an ninh - Đại học Thái Nguyên nói chung và thực trạng việc vận dụng phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học phần Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo
dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên nói riêng trên cả bình diện những
kết quả đạt được và hạn chế. Đề tài cũng đã xác định các nguyên tắc và quy trình thiết
kế bài giảng; quy trình thực hiện bài giảng bằng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong một tiết học; quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với
giờ dạy được sử dụng bằng phương pháp thảo luận nhóm ở Trung tâm giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn
thực nghiệm vấn đề này ở chương 3.
75
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CÔNG TÁC
QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
3.1. Thực nghiệm sư phạm
3.1.1. Kế hoạch thực nghiệm
3.1.1.1. Mục đích của thực nghiệm
Tác giả tiến hành thực nghiệm sư phạm trước tiên để kiểm tra và đánh giá một
cách khách quan, toàn diện, chính xác nhất về tính cấp thiết, tính hiệu quả và khả thi
của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc
phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Thái Nguyên.
Kết quả của thực nghiệm sư phạm một mặt giúp đánh giá tính hiệu quả của hoạt
động dạy học theo tiến trình đã soạn thảo đối với việc phát huy tính tích cực của sinh
viên thông qua việc đối chiếu và so sánh kết quả học tập ở lớp thực nghiệm với lớp đối
chứng. Mặt khác, còn giúp tác giả luận văn rút ra được những ưu điểm và hạn chế của
việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng,
an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Qua đó,
điều chỉnh, bổ sung nhằm hoàn thiện quy trình, điều kiện vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm một cách hợp lý và khoa học.
3.1.1.2. Giả thuyết thực nghiệm
Nếu quy trình vận dụng phương pháp phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh
- Đại học Thái Nguyên được xây dựng là đúng đắn, khoa học sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh theo hướng phát triển năng lực
của sinh viên: kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng phản biện xã hội, kỹ năng lập luận,
kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình. Qua đó, sinh viên
còn tự đánh giá được nội dung, tự động lĩnh hội kiến thức lý thuyết sau khi nghiên cứu
và thảo luận nhóm. Nghiên cứu và thảo luận nhóm còn giúp một số sinh viên dần khắc
phục hạn chế của mình về vấn đề nhút nhát, ngại tư duy, ngại tranh luận qua đó sẵn
76
sàng tiếp nhận những thông tin tích cực, biết vận dụng tri thức để giải quyết những vấn
đề thực tiễn trong cuộc sống và rút ra bài học cho bản thân. Vì vậy tác giả tiến hành
thực nghiệm giải thuyết đã nêu.
3.1.1.3. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm và đối chứng
* Thời gian thực nghiệm: Học kì 2 năm học 2019-2020
Từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 4 của khóa K28 - CN1
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thực nghiệm (tháng 5- 2020)
+ Lựa chọn lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.
+ Khảo sát kết quả đầu vào của lớp ở trường Đại học kỹ thuật công nghiệp thực
nghiệm và lớp đối chứng.
+ Nghiên cứu nội dung và lựa chọn đơn vị kiến thức thực nghiệm. Tiến hành
thực nghiệm trên cơ sở cùng một nội dung kiến thức cho lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng.
+ Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy bằng phương pháp thảo luận nhóm.
- Giai đoạn 2: Tiến hành thực nghiệm (tháng 5- 2020)
+ Tiến hành dạy học theo giáo án thực nghiệm.
+ Tiến hành dạy học không vận dụng phương thảo luận nhóm.
- Giai đoạn 3: Đánh giá kết quả thực nghiệm (tháng 6 - 2020)
+ Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá.
+ Phân tích, xử lý kết quả thực nghiệm.
+ Rút ra kết luận cần thiết.
* Địa điểm thực nghiệm:
Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
* Đối tượng thực nghiệm và đối chứng:
Đối tượng của thực nghiệm là những sinh viên khóa K28 - CN1 (hệ Đại học -
khóa K55 Trường Đại học Kĩ thuật công nghiệp), và được chia thành hai loại lớp là lớp
thực nghiệm và lớp đối chứng. Các lớp thực nghiệm và đối chứng được tiến hành như
sau:
77
Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm
Tên khóa Tên lớp thực nghiệm Tên lớp đối chứng
K28 - CN1 Lớp số 16,17,18 Lớp số 4,5,6
Để đảm bảo tính khoa học và chính xác của kết quả thực nghiệm, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát và lựa chọn các lớp thực nghiệm đồng đều về trình độ. Học lực của
sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng là tương đương nhau, chênh lệch
không đáng kể. Vì vậy, độ tin cậy trong quá trình điều tra, khảo sát thực nghiệm sẽ
được đảm bảo hơn.
3.1.2. Nội dung thực nghiệm
3.1.2.1. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm
Do nội dung chương trình môn Công tác quốc phòng, an ninh khá rộng. Trong
phạm vi của đề tài, tác giả chỉ lựa chọn một số đơn vị kiến thức trong 2 bài để tiến hành
dạy thực nghiệm và đối chứng (không tiến hành thực nghiệm đối với những tiết học
thực hành, ngoại khóa, các tiết làm bài kiểm tra và các tiết hướng dẫn ôn tập). Cụ thể
như sau:
Giáo án số 1
Bài B1: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam
Giáo án số 2
Bài B7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
3.1.2.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm
Quá trình thiết kế giáo án vận dụng phương pháp thảo luận nhóm được thiết kế
dựa trên: Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh và các nguồn tài liệu tham khảo
khác để lấy thông tin qua đó để làm rõ trọng tâm bài học và mục tiêu cần đạt.
Giáo án thực nghiệm được chúng tôi thiết kế căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ
năng, thái độ của môn học, của từng bài, từng đơn vị kiến thức.
Giáo án của lớp thực nghiệm được thiết kế dựa trên các nguyên tắc: không làm
thay đổi chương trình, kế hoạch, nội dung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
tuân thủ các bước lên lớp và phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của đơn vị.
78
Các yêu cầu cơ bản cần đảm bảo của giáo án thực nghiệm:
* Về mục đích của bài học
Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên giúp sinh viên tự lực chiếm lĩnh
tri thức cơ bản của nội dung bài học và hình thành, rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên,
bao gồm kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng phản biện xã hội, kỹ năng lập luận, kỹ
năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình. Sinh viên còn tự đánh
giá được nội dung, tự động lĩnh hội kiến thức lý thuyết sau khi nghiên cứu và thảo luận
nhóm. Nghiên cứu và thảo luận nhóm còn giúp một số sinh viên dần khắc phục hạn
chế của mình về vấn đề nhút nhát, ngại tư duy, ngại tranh luận qua đó sẵn sàng tiếp
nhận những thông tin tích cực, biết vận dụng tri thức để giải quyết những vấn đề thực
tiễn trong cuộc sống và rút ra bài học cho bản thân.
* Về phương pháp dạy học:
Trong giờ học, không phải toàn bộ thời gian dành cho việc vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm mà tác giả chỉ vận dụng cho những vấn đề kiến thức trọng tâm
gắn với mục tiêu giáo dục thái độ và hình thành các kỹ năng tương ứng cho sinh viên.
Ngoài ra tác giả còn kết hợp các phương pháp dạy học khác như nêu vấn đề, phương
pháp tình huống, thuyết trình, đàm thoại. Theo đó, hoạt động của giảng viên được tiến
hành theo tuần tự các bước.
* Chuẩn bị:
Trước hết, giảng viên căn cứ vào số lượng, trình độ nhận thức của sinh viên và
nội dung bài học để tiến hành chia nhóm. Sau đó, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm sinh
viên. Sinh viên ghép nhóm theo quy định, nhận nhiệm vụ, nội dung/câu hỏi thảo luận
và tiến hành thảo luận nhóm dưới sự định hướng của giảng viên.
Khi thiết kế bài tập, vấn đề thảo luận nhóm, tác giả cũng linh hoạt trong việc lựa
chọn các vấn đề để tránh sự nhàm chán, đơn điệu, kích thích hứng thú học tập của sinh
viên và đảm bảo tính vừa sức đối với sinh viên ở Trung tâm.
Trong giờ học, không phải toàn bộ thời gian dành cho việc thảo luận nhóm mà
chúng tôi chỉ thảo luận những vấn đề phức tạp, trọng tâm, lý thú, buộc sinh viên phải
tư duy. Tùy thuộc vào nội dung bài học mà chúng tôi lựa chọn vấn đề thảo luận nhóm
cho phù hợp. Ngoài ra, trong một tiết học, chúng tôi kết hợp các phương pháp dạy học
79
khác như dạy học nêu vấn đề, đàm thoại, dạy học tình huống và thuyết trình những nội
dung khó.
* Thực hiện nội dung:
Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho sinh viên, giảng viên tiến hành tổ chức cho
sinh viên trong các nhóm tiến hành thảo luận.
Khi thiết kế một giáo án dạy học có vận dụng phương pháp thảo luận nhóm,
chúng tôi tuân thủ theo các bước cơ bản:
Bước 1: Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của bài học bao gồm cả nội dung tri thức,
kỹ năng và thái độ. Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên giúp sinh viên tự lực
chiếm lĩnh tri thức cơ bản của nội dung bài học và hình thành, rèn luyện các kỹ năng
cho sinh viên.
Bước 2: Thiết kế, lựa chọn vấn đề, tình huống, chủ đề thảo luận. Để có được
những tình huống, chủ đề thào luận những vấn đề đưa ra phù hợp, đảm bảo tính vừa
sức đối với sinh viên ở các trường Đại học, chúng tôi thiết kế, lựa chọn các vấn đề, các
tình huống, chủ đề thuộc về giáo dục quốc phòng - an ninh. Tùy từng đơn vị kiến thức,
vấn đề chúng tôi nêu ra có thể là những tình huống, chủ đề thường nảy sinh trong thực
tế.
Tùy từng nội dung bài học, giảng viên cần chuẩn bị chu đáo những vấn đề để
đưa ra cho sinh viên tiếp cận từ tiết học trước để sinh viên nghiên cứu và đưa ra cách
giải quyết vấn đề trong tiết học kế tiếp. Giảng viên cũng có thể chuẩn bị những tình
huống, chủ đề vấn đề để đưa ra ngay trong tiết học và yêu cầu sinh viên độc lập suy
nghĩ, trả lời theo phương thức đàm thoại. Ở những tình huống thường xuất hiện cách
hiểu khác nhau thì giảng viên cần lựa chọn hình thức thảo luận nhóm phù hợp.
Bước 3: Xác định trọng tâm bài học và phân bổ thời lượng tiết học. Với mỗi
giáo án thực nghiệm, trọng tâm bài học cần được giáo viên xác định rõ ràng ở từng tiết
học theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bước 4: Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học và phương pháp dạy học. Về
nguyên tắc, cần xem thảo luận nhóm là phương pháp chủ đạo. Ở một vài nội dung bài
dạy có kết hợp với một số phương pháp dạy học khác như thuyết trình, nêu vấn đề,
đàm thoại...
80
Bước 5: Xác định tài liệu học tập và phương tiện dạy học. Tài liệu học tập phục vụ
cho giờ học là Giáo trình. Phương tiện dạy học cho các giáo án thực nghiệm bao gồm giáo
án, máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, video liên quan đến nội dung bài học.
Bước 6: Thiết kế, hoàn thiện giáo án thực nghiệm.
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 1 (Xem phụ lục 1, tr.101 )
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2 (Xem phụ lục 1, tr.111 )
3.1.2.4. Tiến hành thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm, trên cơ sở xin phép Trung tâm, trao đổi với Tổ bộ
môn về kế hoạch thực nghiệm của mình. Sau đó, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm
theo thời khoá biểu đã được sắp xếp và tôi có mời giảng viên trong tổ bộ môn đi dự để
đánh giá giờ dạy một cách khách quan.
Đối với các lớp thực nghiệm, chúng tôi đã dạy cùng một giáo án có sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm kết hợp với phương pháp thuyết trình, đàm thoại, nêu
vấn đề theo từng đơn vị kiến thức như giáo án thực nghiệm đã thiết kế.
Ở các lớp đối chứng, chúng tôi đã dạy cùng một giáo án, trong đó không sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm mà chủ yếu là phương pháp thuyết trình, đàm thoại (với
những câu hỏi thiên về lý thuyết).
Sau mỗi tiết dạy ở cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, chúng tôi đánh giá kết
quả nhận thức, đánh giá kỹ năng, thái độ được hình thành, phát triển, được giáo dục ở
sinh viên thông qua bài kiểm tra, thông qua một bài thu hoạch với cùng lượng kiến thức
và yêu cầu như nhau, đồng thời tôi tiến hành phát phiếu phản hồi lấy ý kiến người học
về giờ dạy.
Khi dạy giáo án thực nghiệm, trước những vấn đề đưa ra, tôi đã lựa chọn hình
thức đàm thoại, thảo luận nhóm theo hình thức phản biện lẫn nhau kết hợp với sắm vai
để giờ học trở nên sinh động, thu hút sự chú ý và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của sinh viên.
Khi thực hiện bước luyện tập, củng cố, giảng viên chú trọng đến kỹ năng nhận
diện, phân tích, đánh giá, vận dụng lý thuyết vào giải quyết tình huống cụ thể, đặc biệt
với mỗi tình huống đưa ra, giáo viên luôn cố gắng quan sát, định hướng và khích lệ
những sinh nhút nhát mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân trước tập thể.
81
3.1.2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là khâu rất quan trọng
trong quá trình tiến hành thực nghiệm. Sau khi dạy xong từng bài thực nghiệm, tác giả
tiến hành kiểm tra sinh viên cả ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Các nhóm có
cùng một bài kiểm tra, lượng thời gian như nhau.
Mục tiêu kiểm tra, đánh giá:
- Về kiến thức: Kiểm tra, đánh giá mức độ (nhớ, hiểu, vận dụng) của sinh viên
về các giáo dục quốc phòng, an ninh theo những nội dung đã học: Phòng chống chiến
lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Về kỹ năng:
Một là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết
trình của sinh viên.
Hai là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng nhận, đánh giá quan niệm đúng đắn hoặc sai
lầm về Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ
quốc.
Ba là, kiểm tra, đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để liên hệ đến trách
nhiệm công dân, trách nhiệm của bản thân đối với các vấn đề Phòng chống chiến lược
"diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt
Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Về thái độ: Kiểm tra, đánh giá thái độ đồng tình, ủng hộ các quan niệm đúng
đắn và phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Phòng chống chiến lược "diễn biến
hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc..
Lựa chọn đơn vị kiến thức kiểm tra, đánh giá:
Bài kiểm tra được thiết kế kết hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan với
tự luận.
Để phân loại được mức độ nhận thức và kỹ năng của sinh viên, các kiến thức
trong đề kiểm tra được chúng tôi thiết kế theo 3 mức độ: nhớ, hiểu và vận dụng vào
thực tiễn.
82
Chúng tôi lựa chọn kiến thức kiểm tra thuộc những nội dung đã học trong 2 bài:
Bài B1: Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch đối với cách mạng Việt Nam, Bài B7: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh tổ quốc.
Đề kiểm tra (xem phụ lục 10)
Tổ chức kiểm tra:
Với cùng một đề bài, chúng tôi tiến hành kiểm tra ở cả lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng. Quá trình kiểm tra diễn ra khách quan, nghiêm ngặt đảm bảo không có biểu
hiện tiêu cực trong quá trình học sinh viên làm bài.
Tổ chức chấm bài kiểm tra:
Sau khi kiểm tra, chúng tôi tiến hành chấm bài theo đáp án được thiết kế theo
thang điểm 10.
Tổng hợp kết quả và trả bài kiểm tra:
Trên cơ sở tổng hợp kết quả, phân loại bài kiểm tra, chúng tôi tiến hành trả bài
kiểm tra, công khai thang điểm, đáp án trước lớp, nhận xét chung về chất lượng bài
kiểm tra và giải đáp những thắc mắc của sinh viên.
3.1.3. Kết quả thực nghiệm
3.1.3.1. Trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Khảo sát trình độ ban đầu của lớp thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả học
tập môn công tác quốc phòng, an ninh của sinh viên thể ở các bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.2. Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp thực nghiệm và đối chứng
Giỏi Khá Trung bình Yếu Phân loại
Số Tỷ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
Tên lớp lượng lệ % lượng % lượng % lượng %
Lớp Đối chứng
(120 sinh viên) 20 16,7 55 45,8 45 37,5 0 0
Lớp 4,5,6
Lớp Thực nghiệm
(120 sinh viên) 30 24,9 80 66,6 10 8,5 0 0
Lớp 16,17,18
83
So sánh kết quả học tập ở hai nhóm lớp đối chứng và thực nghiệm, chúng tôi có
nhận xét sau:
- Một là: Học lực của sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối chứng là
tương đương nhau, chênh lệch không đáng kể, 100% sinh viên có điểm kiểm tra điều
kiện môn công tác quốc phòng , an ninh ở mức trung bình trở lên, không có sinh viên
có điểm kém.
- Hai là: Kỹ năng làm bài của sinh viên ở cả hai loại lớp thực nghiệm và đối
chứng chênh lệch không đáng kể, hầu hết ở mức trung bình khá. Khả năng ghi nhớ, tái
hiện kiến thức tương đối tốt. Tuy nhiên, khả năng suy luận, đánh giá, giải quyết vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn còn yếu.
3.1.3.2. Phân tích, đánh giá kết quả sau thực nghiệm
Sau khi thực nghiệm, chúng tôi phân tích, đánh giá kết quả vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng , an ninh tại Trung tâm
giáo dục quốc phong và an ninh - Đại học Thái Nguyên qua quan sát mức độ hứng thú,
tính tích cực tham gia trao đổi, thảo luận của sinh viên; qua kết quả kiểm tra điểm điều
kiện của sinh viên về các kiến thức ở bài (tiết trong chương trình Giáo dục quốc phòng
- an ninh; qua điều tra xã hội học đối với 100 sinh viên; qua trao đổi chuyên môn với
5 giảng viên tham gia giảng dạy các lớp thực nghiệm, lớp đối chứng và các giảng viên
trong tổ bộ môn đi dự giờ.
Kết quả thực nghiệm được đánh giá trên các bình diện sau:
Một là: Tính tích cực tự giác và hứng thú của sinh viên trong giờ học môn Công
tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
Bằng phương pháp phỏng vấn cùng với kết quả phiếu điều tra và qua quan sát
thái độ của sinh viên trong giờ học có đối chiếu, so sánh giữa giờ học có sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm với giờ học bằng phương pháp dạy học truyền thống, cho
thấy, trong giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sinh viên tích cực, tự giác,
hứng thú hơn trong học tập, tập trung, tham gia vào các hoạt động học tập, ngày càng
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của mình.
84
Bảng 3.3. Mức độ hứng thú học tập của SV
Các mức độ
Bình Số Rất Không Lớp Hứng thú Ít hứng thú thường SV hứng thú hứng thú
SL % SL % SL % SL % SL %
120 19 15,9 15 12,6 36 29,9 14 11,7 36 29,9 ĐC
120 54 44,9 34 28,3 14 11,7 10 8,3 8 6,8 TN
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Từ kết quả thống kê ở bảng trên, chúng ta thấy, 44,9% sinh viên các lớp thực
nghiệm đều thể hiện ý kiến rất hứng thú và 28,3% sinh viên khẳng định hứng thú với
phương pháp thảo luận nhóm. Trong khi đó ở lớp đối chứng, có tới 29,9% ý kiến sinh
viên cho rằng, không hứng thú với môn học. Khi trao đổi trực tiếp với giảng viên, nhiều
giảng viên khẳng định: Với phương pháp thảo luận nhóm, tình trạng sinh viên thụ động,
uể oải trong giờ học đã giảm tương đối nhiều, về cơ bản sinh viên đã tích cực tham gia
các hoạt động học tập do giảng viên thiết kế.
Ngoài ra, khi trao đổi với giảng viên khác và trên cơ sở quan sát các tiết dạy, tác
giả nhận thấy ở các lớp thực nghiệm, thái độ học tập của sinh viên tốt hơn, các em chủ
động, tích cực trao đổi, thảo luận về nội dung bài học và chiếm lĩnh tri thức dưới vai
trò định hướng, tổ chức, dẫn dắt của giảng viên.
Hai là, vai trò, ý nghĩa của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên:
Với việc phát phiếu trả lời các câu hỏi về phương pháp thảo luận nhóm cho một
số lớp tham gia thực nghiệm, số sinh viên trả lời phiếu điều tra là 120 em. Sau khi điều
tra, chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng sau:
85
Bảng 3.4. Thái độ học tập của sinh viên đối với giờ học thảo luận nhóm
TT Câu hỏi Phương án trả lời Tỷ lệ
1 Mức độ hiểu bài học của SV
Số ý kiến 100 15 5 83% 12,6% 4,4%
90 74,7%
2 Cảm nhận của SV về giờ học phương pháp thảo luận nhóm 25 20,9%
5 4,4%
3
Mức độ hứng thú của SV sau giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm 95 15 10 79,1% 12,6% 8,3%
14 11,6%
4
Vai trò của Phương pháp thảo luận nhóm đối với việc hình thành, phát triển kỹ năng của SV
Có hiểu bài Hiểu ít Không hiểu bài Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn. Bình thường như những giờ học khác Không thích giờ học như vậy Hứng thú Bình thường Không hứng thú Giúp SV biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm Hình thành ở SV kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi nhớ vấn đề. Tất cả các kỹ năng trên Rất muốn Bình thường 10 96 87 25 8,3% 80,1% 72,4% 20,9%
5 Không thích 8 6,7%
Mức độ mong muốn của SV tiếp tục được học phương pháp thảo luận nhóm trong tác quốc môn học Công phòng, an ninh
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Rõ ràng, thông qua phương pháp thảo luận nhóm, đại đa số sinh viên đều hiểu
bài, trên thực tế 80% sinh viên đã thừa nhận ý nghĩa đó; sinh viên hứng thú với môn
học nhiều hơn thay vì thụ động tiếp nhận kiến thức một chiều (79,1% ý kiến hứng thú),
bài học cũng hấp dẫn hơn, sinh động hơn và giờ học thêm phần sôi nổi, tích cực (74,7%
ý kiến khẳng định). Mặt khác, qua nêu vấn đề sinh viên cũng nhận thấy một số kỹ năng
được hình thành và phát triển như kĩ năng giải quyết vấn đề, phản biện, làm việc nhóm
86
đồng thời phát huy tính sáng tạo, kích thích nhu cầu khám phá, giải quyết vấn đề của
sinh viên. Những ý nghĩa này đều được sinh viên ở lớp thực nghiệm đánh giá cao với
khoảng 80,1% ý kiến. Trên thực tế đã có 72,4% ý kiến sinh viên cho rằng rất muốn
được tiếp tục được học với phương pháp thảo luận nhóm.
Ba là, kết quả kiểm tra điểm điều kiện của sinh viên ở bộ môn công tác quốc
phòng, an ninh tại Trung tâm.
Nhằm đánh giá khả năng nắm bắt tri thức và kết quả học tập của sinh viên, chúng
tôi tiến hành kiểm tra sử dụng thang điểm 10. Các điểm số được phân làm bốn mức độ
sau:
1. Loại giỏi: Từ điểm 9 đến 10
2. Loại khá: Từ điểm 7 đến 8
3. Loại trung bình: Từ điểm 5 đến 6
4. Loại yếu kém: Các điểm từ dưới 5
Dưới đây là bảng kết quả kiểm tra 1 tiết của sinh viên lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm sau khi dạy bằng phương pháp thảo luận nhóm:
Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra điểm điều kiện sau thực nghiệm
Giỏi Khá Trung bình Yếu Phân loại
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
Tên lớp lượng % lượng % lượng % lượng %
Lớp ĐC (120) 20 16,6% 40 33,4% 60 50% 0 0
Lớp TN (120) 45 37,4% 60 50% 15 12,6% 0 0
Kết quả cho thấy, có sự khác nhau về các mức độ điểm: giỏi, khá, trung bình,
yếu ở hai nhóm lớp. Các lớp thực nghiệm, sinh viên đạt điểm yếu kém, trung bình
chiếm tỉ lệ thấp: Trung bình 12,6%, trong khi tỉ lệ sinh viên đạt điểm khá, giỏi tương
đối cao: Khá 50%; giỏi 37,4%.
Ở các lớp đối chứng, sinh viên đạt khá, giỏi chiếm tỉ lệ thấp hơn lớp thực
nghiệm: Khá 33,4%; giỏi 16,6%, trong khi tỉ lệ sinh viên đạt điểm yếu, trung bình cao
hơn lớp thực nghiệm: Trung bình 50%.
Sự khác biệt về kết quả học tập giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng tiếp tục
là một trong những căn cứ khẳng định tính hiệu quả của các bài kiểm tra thực nghiệm
87
với cách thức dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm đã tiến hành. Điều này giúp
chúng tôi khẳng định rằng, giả thuyết mà đề tài đưa ra là hoàn toàn đúng đắn. Chất
lượng học tập của sinh viên lớp đối chứng thấp hơn lớp thực nghiệm chứng tỏ việc vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong quá trình dạy học đã góp phần nâng cao
chất lượng dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Kết luận thực nghiệm:
Chủ trương đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hướng tới phát triển năng lực
người học tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Đây cũng là xu thế chung của giáo
dục Việt Nam nên được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Qua quá trình thực nghiệm cho thấy nội dung chương trình môn công tác quốc
phòng, an ninh rất phù hợp để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm. Hơn nữa,
phương pháp dạy học này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý sinh viên, phát huy được
năng lực sáng tạo và giúp cho sinh viên thể hiện được quan điểm và tài năng của mình.
Do đó, khi giảng viên sử dụng phương pháp này được sinh viên ủng hộ, đón nhận tích
cực.
Từ sự phân tích các kết quả thu được trong quá trình thực nghiệm phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh, căn cứ vào kết quả
khảo sát, điều tra xã hội học lấy ý kiến giảng viên và sinh viên, trao đổi trực tiếp với
sinh viên và giảng viên bộ môn, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn công tác quốc
phòng, an ninh có nhiều ưu điểm và hạn chế nhất định.
Những ưu điểm:
Trước hết, phương pháp này góp phần rèn luyện và nâng cao các kỹ năng mềm
cho sinh viên, cụ thể là các kỹ năng sau:
- Rèn luyện khả năng nhận thức, tư duy sâu sắc cho sinh viên: Học theo phương
pháp thảo luận nhóm , sinh viên không chỉ được học bằng cách nghe giảng mà chủ yếu
được học bằng cách làm. Tri thức mà sinh viên tiếp nhận được là những điều sinh viên
đã tìm hiểu, đúc rút từ sự tư duy, khám phá, phát hiện, trao đổi với bạn trong nhóm,
88
các bạn khác nhóm, sau cùng giảng viên chốt lại. Cho nên, sinh viên sẽ hiểu bài hơn
và hệ thống hoá kiến thức tốt hơn. Qua đó, sinh viên phát triển được năng lực tự học
và năng lực sáng tạo giải quyết vấn đề. Điều đó mang lại giá trị giáo dục và tính thực
tiễn cao, kích thích sự say mê học tập, tìm tòi, khám phá tri thức mới và vận dụng kiến
thức bài học vào giải quyết các vấn đề cuộc sống đặt ra. So với các phương pháp dạy
học truyền thống - kiến thức vốn được coi là bị nhồi nhét, sinh viên chán học, thụ động
trọng giờ học… thì phương pháp thảo luận nhóm đã xóa bỏ được định kiến môn học
“khô và khó” của môn Công tác quốc phòng, an ninh.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt, trình bày: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
ngoài việc giúp sinh viên rèn luyện năng lực phân tích nội dung, nó còn tạo điều kiện
tốt cho sinh viên rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời và bằng văn bản viết. Học theo
hình thức thảo luận nhóm giúp sinh viên có cơ hội được nói, được trình bày, được bảo
vệ những chính kiến của bản thân. Ngoài ra sinh viên còn được rèn luyện về kỹ năng
diễn đạt, giao tiếp.
- Rèn luyện năng lực phân tích tình huống: Một trong những yếu tố cần hướng
tới trông quá trình học môn Công tác quốc phòng , an ninh là đòi hỏi sinh viên phải
hình thành cho mình năng lực phân tích tình huống. Điều này giúp sinh viên ghi nhớ
kiến thức môn học một cách lâu bền.
- Rèn luyện kỹ năng giao tiếp xã hội: Phương pháp thảo luận nhóm có tác động
tích cực đến việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên. Tham gia thảo luận nhóm
sinh viên được tạo cơ hội để rèn luyện cách ứng xử với những người xung quanh. Biết
cách lắng nghe người khác nói, biết cách phản hồi, chia sẻ kiến thức, có kinh nghiệm
giải quyết những bất đồng.
- Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên được phát huy:
Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm đã buộc sinh viên phải tư duy,
phải sáng tạo khi trao đổi kiến thức với nhóm, với lớp. Muốn làm được như vậy thì
sinh viên phải tìm kiếm thông tin ở nhiều nơi, trên nhiều phương tiện. Điều đó giúp các
em năng động hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Chúng tôi đã chỉ cho sinh viên phương
pháp học tập cần thiết, cách tham khảo tài liệu như thế nào để mang lại hiệu quả cao
trong học tập.
89
Học theo phương pháp thảo luận nhóm, sinh viên cảm thấy hứng thú vì các em
đã tìm được niềm vui khi tự khám phá ra điều mới mẻ, thực sự làm chủ những kiến
thức bản thân tìm được. Chính vì thế, sau thời gian được học theo hình thức thảo luận,
đa số sinh viên không ngại học mà ngược lại các em còn rất hứng thú.
Một số hạn chế:
- Việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm luôn đòi hỏi cả giảng viên và
sinh viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức. Nếu giảng viên không lựa chọn
đúng đơn vị kiến thức, sẽ dẫn tới giờ học sa đà, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến
đơn vị kiến thức khác. Thậm chí, sự khác nhau trong tư duy, trong cách nhìn nhận, giải
quyết vấn đề giữa các sinh viên cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn.
- Một hạn chế nữa dễ nhận thấy của phương pháp thảo luận nhóm khi vận dụng
vào dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và
an ninh - Đại học Thái nguyên là không phải tất cả mọi sinh viên đều tích cực trong
tham gia thảo luận. Có sinh viên còn ỷ lại các bạn khác. Trên thực tế, qua quan sát
chúng tôi thấy rằng, một số sinh viên vẫn còn e dè không tham gia thảo luận nhóm
hoặc làm việc riêng trong quá trình thảo luận…Điều này đòi hỏi giảng viên phải liên
tục kiểm tra, nhắc nhở những sinh viên không tích cực trong việc chuẩn bị kiển thức ở
nhà, dẫn tới tình trạng nhiều khi giảng viên cũng mệt mỏi.
- Khó khăn không thể bỏ qua của việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm là
vấn đề thời gian. Thời lượng ở nhiều bài học còn quá ít để đáp ứng yêu cầu về dung
lượng kiến thức, kĩ năng sinh viên cần đạt được. Để khắc phục tình trạng này, chúng
tôi thường yêu cầu sinh viên đọc bài và soạn bài thật kĩ ở nhà.
- Ngoài những hạn chế trên, phương pháp thảo luận nhóm còn một số hạn chế
khác như phương pháp này không thể áp dụng được cho nhiều đơn vị kiến thức; nếu
quá lạm dụng phương pháp này trong một giờ học cũng sẽ tạo sự nhàm chán cho sinh
viên.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng về cơ bản kết quả thực nghiệm cho
thấy, vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn công tác quốc phòng,
an ninh là có tính khả thi, có giá trị sư phạm cao.
90
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và An ninh - Đại học Thái Nguyên
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cấp quản lý
Một là, Ban giám đốc Trung tâm cần nhận thức thấu đáo tính cấp thiết của việc
đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp thảo luận nhóm theo định
hướng phát triển năng lực cho người học
Ban giám đốc Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên cần xem việc giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ giáo
dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên - một nhiệm vụ căn bản, thường xuyên mà mỗi
Nhà trường, Trung tâm đều phải quan tâm thỏa đáng. Trước yêu cầu của quá trình hội
nhập, phát triển trong xu thế đa văn hóa, trước tác động nhiều chiều từ mặt trái của kinh
tế thị trường, lập trường chính trị, tư tưởng của nhiều sinh viên đã có sự dao động. Xuất
hiện khá phổ biến trong sinh viên ở các trường Cao đẳng, Đại học với tư tưởng coi
trọng lối sống thực dụng, thờ ơ, bàng quan với các vấn đề chính trị - xã hội của đất
nước. Vì vậy, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp thảo
luận nhóm theo đinh hướng phát triển năng lực cho người học là yêu cầu cấp thiết hiện
nay, đặc biệt là năng lực phản biện xã hội, năng lực nhận diện, đánh giá và phê phán
các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình
và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Ban giám đốc Trung tâm cần có quan điểm chỉ đạo ưu tiên đổi mới phương
pháp dạy học, khắc phục tư duy ngại suy nghĩ và tính nhút nhát, thiếu kĩ năng giải quyết
vấn đề của một bộ phận lớn sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học ở Đại học Thái
Nguyên hiện nay.
Hai là, Ban giám đốc Trung tâm cần cần xác định đổi mới phương pháp dạy
học là hoạt động trọng tâm trong kế hoạch chuyên môn của Trung tâm.
Cần thường xuyên tổ chức các đợt thi đua, các phong trào giảng viên đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học. Khi thực hiện giải
pháp này, Trung tâm cần có chính sách khen thưởng kịp thời với những tổ/nhóm làm
91
tốt hoặc trách phạt đối với những tổ/nhóm/ giảng viên thực hiện theo kiểu hình thức,
lấy lệ. Có như vậy, việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm mới trở thành thói
quen, trở thành nhu cầu của giảng viên và sinh viên khi tiếp cận môn công tác quốc
phòng, an ninh vốn trừu tượng và mang tính khái quát hóa cao. Tránh tình trạng có
trường, có tổ chuyên môn chỉ kêu gọi, chú trọng đổi mới phương pháp dạy học trong
các đợt thao giảng, hội thi, hội giảng sau đó lại quay trở lại cách dạy “thầy đọc trò ghi,
thầy nói trò nghe” vốn đã từng tồn tại phổ biến trong thực tiễn dạy học Giáo dục quốc
phòng và an ninh tại Trung tâm nhiều năm qua.
Ba là, tăng cường đầu tư và kêu gọi các nguồn tài trợ cho các hoạt động đổi
mới phương pháp dạy học.
Để đáp ứng yêu cầu môn học công tác quốc phòng, an ninh, Trung tâm cần ưu
tiên đầu tư, nâng cấp hệ thống các phòng học, bàn ghế tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ghép nhóm, di chuyển bàn học khi thực hiện thảo luận nhóm.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với giảng viên
Cả trên bình diện lý luận và thực tiễn có thể nhận định rằng, trong dạy học không
có phương nào là vạn năng, mà yêu cầu đặt ra cần phải sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn
nhiều phương pháp mới đem lại hiệu quả tích cực cho cả người dạy và người học. Tuy
nhiên, thực tế khách quan đã chứng minh rằng, phương pháp thảo luận nhóm chỉ có thể
phát huy tính hiệu quả cao khi giảng viên phải thuần thục trong việc vận dụng, sử dụng
trong bài giảng. Theo đó, về phía giảng viên cần chú ý các nội dung sau đây:
- Mỗi giáo viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh, cần có nhận thức
đúng đắn về tính hướng đích, ý nghĩa, vai trò của phương pháp thảo luận nhóm là phát
triển năng lực tư duy, sáng tạo, phát triển kỹ năng phản biện, kỹ năng giải quyết vấn
đề của sinh viên. Trên cơ sở đó, giảng viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng
dạy, hình thức tổ chức dạy học, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp thảo luận
nhóm theo hướng phát triển năng lực sinh viên.
- Đổi mới phương pháp dạy học thảo luận nhóm cần được mỗi giảng viên giảng
dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh đặc biệt chú trọng và thường xuyên vận dụng
trong bài giảng, tránh tình trạng đơn thuần sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm
thoại, thậm chí ngại sử dụng phương pháp thảo luận nhóm do những khó khăn đã xác
92
định trong phần thực trạng.
- Mỗi giảng viên giảng dạy môn Công tác quốc phòng, an ninh cần nắm vững
kiến thức chuyên môn chuyên tâm và dành thời gian thỏa đáng cho việc tìm kiếm, thiết
kế tình huống có vấn đề để lựa chọn được các tình huống điển hình, phù hợp khi vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm; chủ động kết hợp phương pháp thảo luận nhóm với
các phương pháp khác một cách linh hoạt; tạo hứng thú cho sinh viên tham gia giải
quyết tình huống.
- Giảng viên cần tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
nhất là kỹ năng sư phạm cho giảng viên dạy môn công tác quốc phòng, an ninh ở Trung
tâm theo hướng chú trọng bồi dưỡng, đào tạo kỹ năng.
- Khi dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm, giảng viên cần lưu ý đến đặc
thù sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn
này phần lớn là rụt rè, e ngại, chưa mạnh dạn tham gia thảo luận, trình bày chính kiến
cá nhân của mình trước tập thể lớp, do đó khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm,
giảng viên phải khuyến khích, động viên các em tích cực tham gia giải quyết vấn đề để
rèn luyện và phát triển năng lực của bản thân.
- Tùy thuộc vào đặc thù của từng học phần, cần xây dựng các quy định mang
tính chế tài và phân cấp quản lý cho tổ hoặc nhóm chuyên môn để quản lý có hiệu quả
nền nếp và chất lượng hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong đơn vị.
3.2.3. Nhóm giải pháp đối với sinh viên
Kết quả thực nghiệm của bài giảng môn công tác quốc phòng, an ninh được thiết
kế theo hướng sử dụng phương pháp thảo luận nhóm đã phần nào chứng minh được sự
phù hợp, tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn công tác quốc phòng, an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh - Đại học Thái Nguyên. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
chưa thật sự đồng bộ, nhịp nhàng giữa người dạy với người học. Do vậy, để nâng cao
chất lượng giảng dạy môn công tác quốc phòng, an ninh, bên cạnh giải pháp thuộc về
cấp quản lý, thuộc về giảng viên, sinh viên cũng cần thiết phải có những đổi mới tương
ứng.
- Sinh viên phải thấy rõ được vị trí, vai trò của môn công tác quốc phòng, an
93
ninh đối với việc giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng; đối với việc phát
triển những kỹ năng cần thiết của bản thân.
Mỗi sinh viên phải nhận thức được tầm quan trọng của môn học đối với bản
thân. Những kiến thức về chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ và nhà nước xã hội chủ nghĩa,
vấn đề Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ
quốc cần được sinh viên hiểu rằng, đó là những kiến thức cần thiết để sinh viên có trách
nhiệm với đất nước, gia đình và bản thân.
Trước âm mưu chống phá chính quyền, chống phá chế độ từ các thế lực phản
động, thù địch, mỗi sinh viên phải thấy thấy được trách nhiệm của mình trong việc giữ
vững lập trường, chính trị, tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước. Ở khía cạnh này, sinh viên cần thấy rằng, môn học môn công tác quốc
phòng, an ninh sẽ trực tiếp giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng; đối với việc
phát triển những kỹ năng cần thiết của bản thân, đó là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng
giải quyết vấn đề, kỹ năng nhận diện, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về
những vấn đề chính trị - xã hội.
Thay vì ý nghĩ cho rằng, môn công tác quốc phòng, an ninh là môn học phụ,
đơn thuần là lý thuyết, kiến thức môn học trừu tượng, khô khan, khó hiểu, sinh viên
cần nhận thức đúng vai trò của môn môn công tác quốc phòng, an ninh đối với việc
giáo dục thái độ, lập trường, chính trị, tư tưởng của bản thân. Nếu không nhận thức
thấu đáo vấn đề này thì học sinh sẽ không thể thay đổi tư duy, càng không thể thay đổi
cách tiếp cận, thay đổi thái độ và phương pháp học tập môn học.
- Sinh viên phải có ý thức tự giác, có tinh thần tích cực, phát huy tính sáng tạo
trong giải quyết tình huống.
Giảng viên không thể phát huy được hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm
nếu sinh viên không tự giác, tích cực tham gia vào quá trình học. Thái độ học tập thụ
động là lực cản rất lớn đối với phương pháp dạy học thảo luận nhóm vốn là phương
pháp đòi hỏi rất cao tính tích cực, tự giác và sáng tạo của của giảng viên và sinh viên.
Do đó, nếu sinh viên vẫn coi môn môn công tác quốc phòng, an ninh chỉ là môn phụ,
môn học không thiết thực, học tập một cách đối phó, chỉ để lấy đủ điểm tích lũy cho
94
chứng chỉ; nếu sinh viên chỉ thụ động, chờ giảng viên cung cấp kiến thức, ngại tư duy,
ngại tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức thì phương pháp thảo luận nhóm không
thể phát huy được tác dụng. Tính tất yếu khách quan đòi hỏi mỗi sinh viên phải chủ
động tiếp thu kiến thức, phải có nhu cầu tìm hiểu, khám phá những kiến thức mới. Có
như vậy, sinh viên mới rèn luyện và phát triển được kỹ năng của mình, đồng thời tính
tích cực cùng với trong giải quyết vấn đề của sinh viên sẽ truyền cảm hứng và tạo động
lực cho người dạy.
95
Kết luận chương 3
Trên cơ sở thực nghiệm phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh, chúng tôi nhận thấy: Phương pháp này có những ưu thế nhất
định trong việc phát triển năng lực của sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học Thái
Nguyên. Với các giờ dạy thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, sinh
viên có hứng thú với môn học hơn và tính tích cực học tập, mong muốn khám phá,
chiếm lĩnh tri thức của sinh viên cũng được phát huy. Kết quả thực nghiệm đã phần
nào chứng minh được sự phù hợp, tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an nin ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh nói riêng cần thực hiện đồng thời những giải pháp đã nêu và cần phát
huy trách nhiệm cũng như sự đồng thuận của các cấp quản lý, của đội ngũ giảng viên
viên và sinh viên.
96
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu của luận văn về vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh, nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại
học Thái Nguyên cũng như căn cứ vào kết quả thực nghiệm sư phạm, đối chiếu với
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả rút ra một số kết luận và khuyến nghị sau:
1. Kết luận
- Với chủ trương: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại; phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học của Đảng và ngành Giáo dục - Đào tạo
thì việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên
đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết số 29 của Đảng Cộng sản Việt Nam của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
11 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập
quốc tế.
- Trong khuôn khổ giới hạn về đối tượng, phạm vi nghiên cứu, luận văn đã góp
phần làm sáng tỏ một số khái niệm, phương pháp dạy học thảo luận nhóm, đặc điểm,
vai trò, yêu cầu của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học nói
chung và dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.
- Luận văn cũng đã phân tích về thực trạng vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong vào dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Từ đó đề xuất các quy trình thiết kế bài giảng;
Quy trình thực hiện giờ học/đơn vị kiến thức có vận dụng phương pháp thảo luận nhóm;
Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với giờ dạy theo phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên đã góp phần kiểm chứng tính đúng đắn của những giả thuyết
97
thực nghiệm. Qua thực nghiệm, luận văn khẳng định việc dạy học sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong môn Công tác quốc phòng, an ninh đã đem lại những hiệu
quả rõ rệt và tương đối ổn định. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả của việc vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên, luận văn đã đề
xuất ra các giải pháp chủ yếu và theo chủ ý của tác giả luận văn thì các giải pháp này
hoàn toàn mang tính khả thi, có thể áp dụng được để nâng cao hiệu quả của việc vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
- Mặc dù tác giả luận văn đã rất cố gắng thể hiện rõ ý tưởng và cụ thể hóa ý
tưởng ấy thành đề xuất về những biện pháp cụ thể. Nhưng do việc vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh vẫn là vấn đề
còn ẩn chứa nhiều điều cần lý giải và luận chứng từ phương diện tiếp cận đa chiều nên
vẫn rất cần những nghiên cứu sau bổ sung, đóng góp những ý tưởng còn bỏ ngỏ vào
việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công tác quốc phòng,
an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên.
2. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên trong thời gian tới, tác giả xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Đại học Thái Nguyên cần tạo điều kiện về
vật chất và tinh thần cho Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên thực hiện việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn Công
tác quốc phòng, an ninh.
- Ban giám đốc Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái
Nguyên cần tạo điều kiện cho giảng viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, trong
đó có phương pháp thảo luận nhóm. Chú trọng tới việc tổ chức các đợt thi đua, phát
động các phong trào giảng viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển
năng lực người học nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên. Có như vậy,
việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm mới trở thành thói quen, nhu cầu của giảng
98
viên và sinh viên khi tiếp cận môn học Công tác quốc phòng, an ninh vốn trừu tượng
và mang tính khái quát hóa cao.
- Trung tâm nên sắp xếp số lượng sinh viên trong một lớp phù hợp. Hiện tại,
việc học tập môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và
an ninh - Đại học Thái Nguyên là học theo lớp ghép 2 hoặc ghép 3, số lượng sinh viên
trong một buổi học là khá đông nên gây nên những khó khăn nhất định khi phân chia
nhóm để thảo luận.
- Trong quá trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên, giảng viên dạy môn học cần lưu ý đến việc phát triển các năng lực cho
sinh viên thông qua phương pháp dạy học của mình. Chỉ có như vậy, việc vận dụng
phương pháp này vào quá trình giảng dạy của giảng viên cũng như việc học tập của
sinh viên mới trở nên bền vững và đạt hiệu quả cao.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (1998), Cải tiến tổ chức hoạt động giáo dục trong trường
trung học cơ sở theo phương thức hợp tác, Đề tài cấp cơ sở, mã số B69-49-14,
Viện Chiến lược và chương trình giáo dục, Hà Nội.
2. C.Mác-Ph Ăng ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Châu (2004), Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình
dạy học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
4. Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm
Quang Thiệp (2007), Sách trợ giúp giảng viên cao đẳng sư phạm, NXB ĐHSP,
Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Đản (2012), Tổ chức hoạt động học, NXB Giáo dục Việt Nam.
6. David W. Johnson & Roger T. Johnson (2001), Học cùng nhau và học độc lập;
học hợp tác, tranh đua và học cá nhân, (Bản dịch của Bùi Văn Tạc, Bùi Thế
Hợp).
7. Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga (2011), Phương pháp dạy học GDCD ở
trường THPT. Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4 (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Vũ Lệ Hoa (2015), Tổ chức dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác, NXB
Giáo dục Việt Nam.
11. Bùi Quang Huy (2002), Tổ chức thảo luận nhóm trong quá trình dạy học
môn Giáo dục học cho SV Trường Cao đẳng Sư phạm Lai Châu, Luận văn
thạc sĩ.
12. Trần Thu Huyền, Nguyễn Thị Phương Thủy (2012), "Phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin",
Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 290.
13. Nguyễn Lân (1958), Lịch sử giáo dục học thế giới, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Phan Trọng Ngọ, (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.
100
15. Hoàng Phê (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
16. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Lý luận dạy học đại cương tập 1,2, Trường cán bộ,
quản lý giáo dục trung ương.
17. Lâm Quang Thiệp (2000), “Về việc Dạy và học ở đại học và vai trò của nhà giáo
đại học trong thời đại thông tin”, Tap chí Giáo dục Đại học và Dạy nghề, số 5.
18. Nguyễn Thị Toan (2013), "Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT", Tạp chí Giáo dục, số 312.
19. Thái Duy Tuyên (2008), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, NXBGD,
Hà Nội.
20. Unesco (2005), Chân dung những nhà cải cách tiêu biểu trên thế giới, NXB Thế
giới, Hà Nội.
21. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Cường (2006), Đổi mới phương pháp dạy học trung học phổ thông,
Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông, Loan N0-Vie.
23. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2012), Lý luận dạy học hiện đại, Một số vấn
đề về đổi mới phương pháp dạy học, Hà Nội.
24. Jean Marc Denomme & Madeleine Roy (2000), Tiến tới một phương pháp sư
phạm tương tác, NXB Thanh niên, Hà Nội.
25. Dự án Việt – Bỉ (2008), Dạy và học tích cực – Một số phương pháp và kỹ thuật
dạy học, NXB ĐHSP, Hà Nội.
26. Trịnh Thúy Giang (2009) Tổ chức thảo luận bằng phương pháp case - study trong
giảng dạy môn Giáo dục học, Tạp chí Khoa học Giáo dục số 47.
27. T.PápLốp, Lý luận phản ánh, Nxb Mat xcơva 1949, (bản tiếng Nga).
101
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 1
BÀI B1: PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH"
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Phần 1: Ý ĐỊNH GIẢNG DẠY
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.
1. Mục đích:
Nhằm bồi dưỡng cho sinh viên nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến
lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam. Thấy được tác động ảnh hưởng và tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc
đấu tranh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng.
Xác định rõ trách nhiệm xây dựng lòng tin, quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn Dân, toàn
Quân góp phần làm thất bại Chiến Lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của
địch.
Giúp hình thành và phát triển ở người học năng lực phản biện, phê phán các
quan điểm sai trái, thù địch.
2. Yêu cầu:
Nắm chắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” -
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đề cao cảnh giác cách mạng, tích cực, chủ
động tham gia phong trào giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở trong nhà
trường và địa phương.
II. NỘI DUNG.
1. Nội dung gồm (4 phần)
Phần 1: Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch chống phá chủ nghĩa xã hội.
102
Phần 2: Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch chống phá Cách Mạng Việt Nam.
Phần 3: Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm và phương châm phòng, chống chiến
lược "Diễn Biến Hòa Bình", Bạo Loạn Lật Đổ của Đảng và nhà nước ta.
Phần 4: Những giải pháp phòng, chống Chiến lược “Diễn biến hòa bình” - bạo
loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay.
2. Trọng tâm, trọng điểm; Phần I. Phần II. Phần III
III. THỜI GIAN.
Toàn bài; 5 tiết. Thời gian lên lớp; 5 tiết.
IV. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP.
1. Tổ chức.
Lên lớp tập trung. Lấy lớp học làm đơn vị tổ chức học tập.
2. Phương pháp.
2.1. Giảng viên: Lên lớp theo thảo luận nhóm, phân tích làm rõ nội dung.
2.2. Sinh viên: Thảo luận nhóm theo kết hợp nghe, ghi chép theo ý hiểu.
V. ĐỊA ĐIỂM.
Giảng đường.
VI. VẬT CHẤT, TÀI LIỆU BẢO ĐẢM.
1. Vật chất.
1.1. Đối với giảng viên: Có giáo án, phấn, bảng, phương tiện (nếu có).
1.2. Đối với học viên: Bút, vở ghi.
2. Tài liệu
Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh(Bộ GD và ĐT) tái bản năm 2013.
Dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng.
Phần 2: NỘI DUNG GIẢNG DẠY
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
II. Chiến lược "Diễn biến hoà
bình", bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch chống phá cách
mạng Việt Nam.
103
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
1. Âm mưu, thủ đoạn của chiến
lược "Diễn biến hoà bình" đối
với Việt Nam.
GV: Hiện nay trên thế giới có bao nhiêu nước đi 1. Âm mưu:
theo con đường Xã hội chủ nghĩa? * Âm mưu: Chủ nghĩa đế quốc
SV nêu ý kiến. cùng các thế lực thù địch luôn coi
GV: Hiện nay trên thế giới có 5 nước đi theo con Việt Nam là một trọng điểm trong
đường Xã hội chủ nghĩa đó là: Việt Nam, Lào, chiến lược "Diễn biến hoà bình"
Triều Tiên, Trung Quốc, Cuba. Vậy tại sao Chủ để chống phá chủ nghĩa xã hội.
nghĩa đế quốc không chọn các nước còn lại mà lại
chọn Việt Nam là trọng điểm trong chiến lược
Diễn biến hòa bình?
SV: nêu ý kiến.
GV nhận xét, kết luận: Có rất nhiều lý do để Chủ
nghĩa đế quốc chọn Việt Nam làm trọng điểm,
song có thể rút ra các lý do chính như sau:
+ Việt Nam là 1 nước Xã hội chủ nghĩa
+ Việt Nam là nơi mà để quốc Mỹ đã bị thất bại
thảm hại. Mỹ có tiềm lực quân sự và kinh tế rất
mạnh nhưng khi sang xâm lược Việt Nam 1 nước
nhỏ, tiềm lực quân sự và kinh tế còn yếu kém thì
lại bị thất bại thảm hại.
+Việt Nam có vi trí chiến lược quan trọng cả trên
đất liền và trên biển mà tài nguyên thiên nhiên của
Việt Nam lại phong phú đa dạng.
+ Việt Nam là nước đi đầu trong ngọn cờ đấu
tranh giải phóng dân tộc, khi Việt Nam giành - Thực hiện âm mưu xoá bỏ vai trò
thắng lợi đã khích lệ phong trào đấu tranh giải lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
phóng dân tộc của nhiều nước trên thế giới. Nam.
104
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
GV: Tại sao Chủ nghĩa đế quốc lại muốn xoá bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sảng Việt Nam?
SV: nêu ý kiến.
GV: Dân tộc Việt Nam trong những thập kỷ đầu
của thế kỷ XX khi chưa có Đảng chìm đắm trong
đêm dài nô lệ, bởi sự nô dịch, đàn áp, bóc lột của
thực dân, phong kiến và các triều đại đều bế tắc
về đường lối giải phóng dân tộc. Nhưng từ khi có
Đảng ra đời, tổ chức và lãnh đạo, cách mạng Việt
Nam từng bước phát triển, đạt được những thắng
lợi vĩ đại và cuối cùng là giành lại độc lập cho dân
tộc. Trong giai đoạn hiện nay Đảng lại tiếp tục
lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới - Xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu ở Việt Nam
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
GV: Xác định như vậy vì:
- Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc đã
dùng hành động quân sự để xâm lược và muốn biến
Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng
nhưng cuối cùng đã bị thất bại hoàn toàn.
- Sau khi sử dụng những đòn tấn công bằng quân
sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng
đã chuyển sang chiến lược mới như "bao vây cấm
vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao" kết hợp với
"Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ
105
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đặc biệt lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó
khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 - 1993 do
hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế
lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “Diễn biến
hòa bình” đối với Việt Nam.
- Từ năm 1994 đến nay, trước những thắng lợi to
lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực - Lái nước ta đi theo con đường
thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào
cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ chủ nghĩa đế quốc.
"cấm vận kinh tế" và bình thường hoá quan hệ 2. Thủ đoạn (6 thủ đoạn chính)
ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy Để đạt được âm mưu trên hiện nay
mạnh hoạt động xâm nhập như: "dính líu", “ Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
mềm” "ngầm", "sâu, hiểm" nhằm chống phá thù địch đã và đang chống phá
cách mạng Việt Nam. cách mạng nước ta một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của
. đời sống chính trị - xã hội, chúng
không từ bỏ bất kì thủ đoạn chống
phá tinh vi, thâm độc, sảo quyệt
nào như: Sử dụng bạo lực phi vũ
trang (Kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…), kết hợp với bạo lực vũ
trang, trong đó có nhiều thủ đoạn
rất tinh vi, thâm độc, sảo quyệt
khó nhận biết, cụ thể là:
106
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
* Thủ đoạn về chính trị.
- Mục tiêu: Các thế lực thù địch
kích động đòi thực hiện chế độ "đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập",
Giáo viên chia lớp thành 6 nhóm, cho các nhóm "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã
những tình huống sau để thảo luận: hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh
Tình huống 1: Lợi dụng việc UBTV Quốc Hội xin đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
ý kiến nhân dân vào bản dự thảo sửa đổi hiến chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
pháp, các thế lực thù địch đã tuyên truyền kích Nam.
động nhân dân đòi thực hiện chế độ đa đảng và - Nội dung: Tập hợp, nuôi dưỡng
xoá bỏ điều 4 trong hiến pháp, tức là đòi xoá bỏ các tổ chức, phần tử phản động
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. trong nước và ngoài nước, lợi
Tình huống 2: Phạm Văn Điệp ở Thanh Hóa là dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân
đối tượng cơ hội chính trị, từng đi du học tự túc quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để
tại Liên Bang Nga, sau đó bỏ học, tham gia vào chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với
tổ chức Đảng dân chủ 2. Điệp thực hiện hành vi nhân dân và khối đại đoàn kết toàn
sử dụng mạng xã hội facebook phát tán, tuyên dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh
truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm và chia sẻ bài đạo của Đảng.
viết có nội dung xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, - Biện pháp: Tận dụng những sơ
đường lối của Đảng nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo hở trong đường lối của Đảng,
của Đảng. Lực lượng an ninh đã phát hiện ra chính sách của nhà nước ta, sẵn
hành vi của Điệp và đã tiến hành bắt giữ và đưa sàng can thiệp trắng trợn bằng sức
ra xét xử. mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã
GV đặt câu hỏi cho nhóm 1: qua 2 tình huống trên hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
em rút ra được những nội dung gì trong thủ đoạn
trên lĩnh vực chính trị của các thế lực thù địch? * Thủ đoạn về kinh tế.
Các thành viên trong nhóm thảo luận và trả lời câu - Mục tiêu: Chúng muốn chuyển
hoá nền kinh tế thị trường định hỏi trên.
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
107
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
Tình huống 3: Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế
Hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống thị trường tư bản chủ nghĩa.
phá Đảng, cách mạng Việt nam, các tổ chức phản - Nội dung: Khích lệ thành phần
động được lập ra với mục đích tuyên truyền và dụ kinh tế tư nhân phát triển, từng
dỗ nhân dân. Bạn A vô tình tham gia vào 1 tổ chức bước làm mất vai trò chủ đạo của
phản động và bị lôi kéo tham gia tuyên truyền thành phần kinh tế nhà nước.
chống phá Đảng và nhà nước Việt Nam. Bạn C - Biện pháp: Lợi dụng sự giúp đỡ,
hay nói với các bạn rằng: Hiện nay ở Việt Nam viện trợ kinh tế, đầu tư vốn,
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá chuyển giao công nghệ cho Việt
sản”, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng Nam để đặt ra các điều kiện và gây
lớn, năng lực quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước sức ép về chính trị, từng bước
ngày càng yếu kém, tệ tham nhũng, hách dịch, cửa chuyển hoá Việt Nam theo con
quyền ở các cán bộ có chức, có quyền tràn lan, đường tư bản chủ nghĩa.
gây bức xúc trong xã hội, làm mất lòng tin của
dân. Kinh tế tư nhân thì ngày càng phát triển
mạnh mẽ, nên tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ cần
tập trung phát triển kinh tế tư nhân là chính. Cho
nên cần gạt bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà * Thủ đoạn về tư tưởng - văn
nước. hoá.
GV đặt câu hỏi cho nhóm 2: Theo em việc làm - Mục têu: Chúng thực hiện nhiều
của bạn C là đúng hay sai? Nếu em là bạn của C hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa
em sẽ làm như thế nào? Rút ra thủ đoạn trên lĩnh Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
vực kinh tế? Minh, nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
- Nội dung: Phá vỡ nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư GV: đưa ra tình huống 4:
Trong giới trẻ bây giờ có hai luồng ý kiến: sản vào các tầng lớp nhân dân.
Một bộ phận cho rằng hiện nay trong xu thế hội - Biện pháp: Lợi dụng xu thế mở
108
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc rộng hợp tác quốc tế, du nhập
một số bộ phận giới trẻ sống theo lối sống của những sản phẩm văn hoá đồi trụy,
phương tây như: lối sống phóng túng không có lối sống phương Tây, để kích động
khuôn khổ, du nhập các văn hóa phẩm đồi trụy là lối sống tư bản trong thanh niên
chuyện bình thường. từng bước làm phai mờ bản sắc
Bộ phận còn lại phản đối và cho rằng mặc dù đất văn hoá và giá trị văn hoá của dân
nước phát triển hội nhập và hợp tác quốc tế nhưng tộc Việt Nam.
vẫn phải kế thừa, giữ gìn bản sắc, phát huy truyền * Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn
thống, giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiếp giáo - dân tộc.
thu có chọn lọc, không đánh mất bản sắc riêng - Mục tiêu: Gây mất ổn định xã hội
của mình, không bị đồng hóa bởi các dân tộc và làm chệch hướng chế độ chủ
khác... nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Gv đưa ra câu hỏi cho nhóm 3: Em đồng tình với - Nội dung: Chúng lợi dụng những
quan điểm nào? Vì sao? Rút ra thủ đoạn trên lĩnh khó khăn ở những vùng đồng bào
vực tư tưởng - văn hóa dân tộc, tôn giáo ít người, những
tồn tại do lịch sử để lại, trình độ
dân trí của một bộ phận đồng bào
còn thấp và những khuyết điểm
trong thực hiện các chính sách dân GV: đưa ra tình huống 5:
X tham gia vào một giáo phái lạ, nộp rất nhiều tộc, tôn giáo của một bộ phận cán
tiền hội phí, thường xuyên bỏ học bỏ làm đi nghe bộ để kích động tư tưởng hẹp hòi
giảng đạo và truyền đạo. Y là bạn học của X, Y đã đòi li khai, tự quyết dân tộc.
phát hiện ra sự việc sau khi được X truyền đạo và - Biện pháp: Lợi dụng chính sách
lôi kéo gia nhập giáo phái lạ đó. dân tộc và tự do tôn giáo của
GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 4: Nếu em là Y em Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo
sẽ làm như thế nào? Rút ra thủ đoạn của các thế trái phép từ đó thực hiện mưu đồ
lực thù địch trong lĩnh vực dân tộc - tôn giáo? tôn giáo hoá dân tộc, từng bước
gây mất ổn định xã hội và làm
chệch hướng chế độ Xã hội chủ
109
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
nghĩa ở Việt Nam
* Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc
phòng, an ninh.
- Mục tiêu: Kích động đòi phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh. Đặc biệt là đối với lực lượng
vũ trang nhân dân.
- Nội dung: Bằng mọi thủ đoạn
nhằm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Tình huống 6:
B sau khi tìm hiểu thông tin qua internet có nói Đảng đối với lực lượng vũ trang:
với mọi người rằng: Công an nhân dân Việt Nam Với luận điểm "phi chính trị hoá"
vì nước quên thân vì dân phục vụ, là đầy tớ của làm cho các lực lượng này (Quân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế chỉ cần đội, Công An, Dân quân tự vệ xa
trung thành, bảo vệ lợi ích của nhân dân, không rời mục tiêu chiến đấu và lý tưởng
cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các vấn đề Xã hội chủ nghĩa.
liên quan đến quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội - Biện pháp: Lợi dụng xu thế mở
phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện
định thông qua. Sau khi B đọc nội dung đó cho xâm nhập, tăng cường hoạt động
mọi người nghe thì có 2 luồng ý kiến trái chiều, tình báo, gián điệp trong và ngoài
một bộ phận đồng ý, một bộ phận không đồng ý nước để thu thập bí mật quốc gia
với nội dung trên. từ đó lôi kéo, mua chuộc, kích
Giáo viên đặt câu hỏi cho nhóm 5: Em có đồng ý động, chống phá.
với quan điểm trên hay không? Vì sao? Rút ra thủ
đoạn trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh? * Thủ đoạn trên lĩnh vực đối
ngoại.
- Mục tiêu: Hướng Việt Nam đi
Tình huống 7: theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Các tổ chức phản động nhắm vào những người - Nội dung: Lợi dụng chủ trương
110
Hoạt động của Giảng viên và Sinh viên Nội dung cần đạt
dân tộc thiểu số, sinh sống ở khu vực giáp biên Việt Nam mở rộng hội nhập quốc
giới Lào và Campuchia, chúng lợi dụng sự khó tế, mở rộng quan hệ hợp tác với
khăn và thiếu hiểu biết của họ để cho tiền và xúi các nước trên thế giới để tuyên
giục những người này lôi kéo thêm nhiều người truyền và hạn chế sự mở rộng
khác để kích động biểu tình, tuyên truyền bôi nhọ, quan hệ hợp tác của Việt Nam đối
làm sai lệch mối quan hệ Campuchia – Lào – Việt với các nước lớn trên thế giới, tìm
Nam. cách ngăn cản những dự án đầu tư
GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 6: Em có nhận xét quốc tế vào Việt Nam.
như thế nào về hành vi của những người trên? Rút - Biện pháp: Chúng đặc biệt coi
ra thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại? trọng việc chia rẽ tình đoàn kết
- Các SV làm việc nhóm trong 5 phút với hình hữu nghị giữa Việt Nam với Lào,
thức nhóm kim tự tháp. Sau đó báo cáo phần thảo Campuchia và các nước xã hội chủ
luận của mình nghĩa, hạ thấp uy tín của nước ta
- GV điều hành thảo luận giữa các nhóm. Tổ chức trên trường quốc tế.
cho các nhóm SV phản biện lẫn nhau.
- GV nhận xét phần thảo luận và kết luận
Kết quả mong đợi: Sinh viên làm việc tích cực,
biết và nắm chắc 6 thủ đoạn trong chống phá
cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Phần 3: KẾT THÚC GIẢNG DẠY
1. Hệ thống nội dung đã học, kết luận bài, giải đáp thắc mắc.
Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “ Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
2. Hướng dẫn ôn và nghiên cứu tài liệu.
- Nêu âm mưu (mục tiêu) nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch trong sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam? Bản
thân phải làm gì trong việc góp phần làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình" của
địch?
- Nêu những thủ đoạn chủ yếu của chiến lược "Diễn biến hòa bình" đối với cách
mạng Việt Nam? Phân tích thủ đoạn chống phá về chính trị?
111
3 Giới thiệu nội dung của bài giảng sau.
4. Nhận xét lớp học, kiểm tra quân số, vật chất giảng dạy.
5. Xuống lớp, chuyển nội dung học tập.
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỐ 2
BÀI B7: XÂY DỰNG PHONG TRÀO
TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
Phần 1: Ý ĐỊNH GIẢNG DẠY
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.
1. Mục đích.
Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, có nhận thức
đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh trật tự; có ý
thức tự giác, tích cực tham gia vào phong trào toàn dân bảo vệ an ninh - trật tự, phòng
ngừa đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
2. Yêu cầu.
- Nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; các hình thức, biện pháp tổ chức vận động
nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở.
- Nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm tích cực tham gia phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh - trật tự, phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật; Chấp hành tốt các quy chế khóa học g.dục quốc phòng, an ninh
II. NỘI DUNG.
1. Nội dung gồm (3 phần)
Phần 1. Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Phần 2. Nội dung, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc.
Phần 3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia xây dựng phong trào bảo
vệ an ninh Tổ quốc.
2. Trọng tâm, trọng điểm: (Phần 1; Phần 2; Phần 3 )
112
III. THỜI GIAN.
Toàn bài 2 tiết. Lên lớp 2 tiết.
IV. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP.
1. Tổ chức. Lên lớp tập trung lấy sinh viên làm đơn vị tổ chức học tập.
2. Phương pháp
2.1. Giảng viên: Lên lớp theo phương pháp thảo luận nhóm nhằm làm rõ
nội dung
2.2. Sinh viên: Thảo luận nhóm kết hợp nghe,ghi chép theo ý hiểu.
V. ĐỊA ĐIỂM. Giảng đường.
VI. VẬT CHẤT, TÀI LIỆU ĐẢM BẢO.
1. Vật chất
1.1. Đối với giảng viên: Có giáo án, phấn, bảng, phương tiện (nếu có) .
1.2. Đối với học viên: Bút, vở ghi,
2. Tài liệu: Giáo trình giáo dục quốc phòng - an ninh(Bộ GD và ĐT) tái bản
năm 2013. Dùng cho sinh viên các trường Đại học và cao đẳng.
Phần 2: NỘI DUNG GIẢNG DẠY.
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
I. Nhận thức chung về phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
1. Quan điểm về quần chúng
nhân dân và vai trò của quần
chúng nhân dân trong bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
GV: Trong lịch sử có rất nhiều các quan điểm
khác nhau về quần chúng nhân dân, tuy nhiên không phải quan điểm nào cũng đúng và chính xác: 1.1. Một số quan điểm về quần chúng nhân dân.
* Quan điểm duy tâm: đã có nhận thức sai lạc : Xã hội chia làm hai hạng người “ Hạng thượng lưu” và hạng “thứ dân”; Thượng đế, tinh thần là tuyệt đối; Vua là thiên tử, thay trời trị dân. * Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền
113
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
VD: Trong xã hội phong kiến, vua thiên tử, thay tảng cho một nước, là gốc rễ của
trời hành đạo, vua bảo chết phải chết, sai khiến kể một dân tộc, là động lực chính để
cả những điều bất nghịch cũng phải làm. thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
* Quan điểm của các chế độ quân chủ Tư sản hiện đại: Nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm gốc ”, nhưng khác nhau về bản chất.
GV: Theo các em khác nhau ở bản chất ở đây
nghĩa là gì?
SV nêu ý kiến GV nhận xét, kết luận: Trong chế độ quân chủ Tư
sản hiện đại: Nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm
gốc ” nhưng thực chất là họ bóc lột sức lao động của nhân dân, k đề cao lợi ích và quyền lợi của
dân, mị dân để bóc lột giá trị thặng dư.
GV: Chủ nghĩa Mác lần đầu tiên đã phát hiện và
khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân.
Lênin đã từng nói: “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” hay “cách mạng là ngày hội của
những người bị áp bức bóc lột. Không lúc nào,
quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực
sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như trong thời
kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế thì
nhân dân có thể làm được những kỳ công”
+ Lần đầu tiên phát hiện và khẳng định vai trò của
quần chúng nhân dân quyết định sự phát triển của
xã hội, chính nhân dân lao động là người làm nên lịch sử. + Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhận thức về lịch sử, là một trong những cơ sở lý luận
cho chính Đảng của giai cấp vô sản. GV: Tại sao quần chúng nhân dân lại quyết định sự phát triển của xã hội và là người làm nên lịch
sử? SV nêu ý kiến
114
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
GV: Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất
cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của
cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của con người, của xã hội. Cùng với quá trình
sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp
sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội và "kiểm
chứng" các giá trị tinh thần đã được sáng tạo ra
trong lịch sử. * Quan điểm của Đảng ta và
GV: Thực tiễn đã chứng minh: + Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về quần chúng
qua các thời kì như các vua Hùng, Hai Bà Trưng nhân dân và Kế thừa tư tưởng,
đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung… đều dựa truyền thống của ông cha ta về vai
vào dân, khẳng định "dân là gốc", biết sử dụng sức trò của nhân dân, mà Đảng ta và
mạnh của dân để đánh tan các đội quân xâm lược Chủ Tịch Hồ Chí Minh xác định:
hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Luôn nêu cao tư tưởng “cách
Quốc, Mông Cổ.
+ Từ khi có Đảng ra đời dưới sự lãnh đạo của mạng là của dân, do dân và vì dân”. Quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Bác Hồ nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức Đảng và nhân dân là nguồn gốc
làm nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp sức mạnh truyền thống vô cùng
giải phóng dân tộc, đánh thắng hai cường quốc quý báu của Đảng.
xâm lược là Pháp và Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
+ Ngày nay đất nước đang trong giai đoạn đẩy định “Trong bầu trời không có gì
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có nhiều thuận lợi, thời cơ mới, song vẫn còn nhiều thách thức, trở lực, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân quý bằng nhân dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Hay “dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều,
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực... ( lấy ý kiến của nhân dân trong các lần sửa đổi hiến pháp, nhân dân có quyền giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”
khiếu nại, tố cáo...) GV:Em hãy lấy một vài ví dụ thực tế chứng minh
115
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
đất nước ta từ xưa đến nay luôn coi trọng vai trò
của quần chúng nhân dân?
SV nêu ý kiến
GV nhận xét, kết luận:
Lý Thái Tổ đã thực hiện việc xá thuế cho dân, không phải để cứu trợ trong hoàn cảnh khó khăn
do thiên tai mà thể hiện sự cảm thông với cuộc
sống vất vả của họ.
Quét sạch giặc Minh, Lê Lợi đã huy động và tập trung bằng được sức mạnh cũng như trí tuệ của
toàn dân, bất kể giàu nghèo hay sang hèn, bất kể
cư ngụ ở vùng rừng núi, trung du hay đồng bằng, bất kể già, trẻ, gái, trai… miễn là có lòng ngưỡng
mộ tổ tiên và căm thù quân đô hộ phương Bắc.
Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ Bác Hồ đã
đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Hiện nay nhận dân có quyền khiếu nại, tố cáo, 1.2. Vai trò của quần chúng
được lây ý kiến trong các lần sửa đổi Hiến nhân dân trong bảo vệ an ninh
Pháp….
Tổ Quốc. + Quần chúng nhân dân có khả
năng phát hiện, quản lý, giáo dục,
cải tạo các loại tội phạm để thu
GV chia lớp thành 3 nhóm và đưa ra các tình hẹp dần đối tượng phạm tội.
huống để các nhóm thảo luận. + Khi nào người dân có ý thức tự
GV đưa ra tình huống: giác, có tinh thần làm chủ trong
Tình huống 1: Một người phụ nữ đang đi xe máy trên đường, thì bị một đối tượng điều khiển xe máy giật túi xách, rồi tăng ga bỏ chạy. Thời điểm đó, anh A là lái xe taxi đang di chuyển việc xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở, thiếu sót mà địch và bọn tội phạm có thể lợi dụng.
theo hướng ngược chiều quan sát thấy hành vi và nghe tiếng người dân tri hô nên đã lao thẳng xe vào đối tượng cướp giặt khiến hắn ngã ra đường. + Lực lượng Công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể thực hiện bằng chuyên
Sau đó, anh A và người dân đã khống chế được đối tượng cùng tang vật gồm phương tiện gây án môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng
116
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
và túi xách của người bị hại rồi giao lại cho cơ nhân dân.
quan công an xử lí.
GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 1 thảo luận: Em có
nhận xét như thế nào về hành vi của Anh A? Rút
ra vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh tổ quốc?
Tình huống 2: Chị C buôn bán ở chợ nên ngày
nào cũng đi từ sáng sớm, trên đường đi chị có
phát hiện một nhóm đối tượng khả nghi có hành vi bất thường nên đã bí mật báo cho lực lượng an
ninh. Sau khi lực lượng an ninh có mặt đã kiểm
tra nhóm đối tượng trên và phát hiện ra nhóm đối tượng này lợi dụng ban đêm người dân sơ hở để
thực hiện hành vì trộm cắp tài sản
GV đưa ra câu hỏi cho nhóm 2 thảo luận: Em có
nhận xét như thế nào về hành vi của chị A? Rút ra
vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an
ninh tổ quốc?
TH3: D là một người nghiện ma túy, do nghiện
ngập nên kinh tế của gia đình D trở nên kiệt quệ.
Túng quẫn khi không có tiền để thỏa mãn cơn
nghiện nên D đã liều lĩnh mua ma túy về chia nhỏ
ra rồi bán kiếm lời. Hành vi đó đã bị cơ quan chức
năng phát hiện và D bị bắt giữ, sau vài năm cai
nghiện và cải tạo D được trả tự do về địa phương.
Khi về D được gia đình, bạn bè, người thân, chính quyền quan tâm, giúp đỡ hòa nhập cuộc sống. Hiện nay, D đã có công ăn việc làm ổn định, D còn tích cực giúp đỡ những người đã từng lầm lỡ
giống mình trở về hòa nhập với cuộc sống bình thường. GV đưa ra câu hỏi cho cả lớp thảo luận: Em có
nhận xét như thế nào về hành động của chính quyền, những người thân xung quanh D? Rút ra 2. Nhận thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc. 2.1. Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc.
117
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an Phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc? ninh tổ quốc là một hình thức hoạt
SV nêu ý kiến động tự giác, có tổ chức của đông
GV nhận xét, kết luận: Quần chúng nhân dân có đảo nhân dân lao động tham gia
khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội. phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo
Các đối tượng sau khi đi cải tạo trở về địa phương, vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự
ngoài sự răn đe, quần chúng là người đi đầu trong an toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà
việc giáo dục, không xa lánh, giúp họ hòa đồng, tránh xa tệ nạn, có được một cuộc sống hòa nhập, nước và tính mạng, tài sản của nhân dân.
lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội.
Trên thực tế, công an chỉ có ở cấp xã, ở những làng bản, vùng sâu vùng xa công an không có điều
kiện đến được thường xuyên. Do vậy, quần chúng
nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc tự 2.2. Vị trí, tác dụng của phong
quản, tự giác đấu tranh với các thành phần xấu, trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội. Quốc. - Phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược,
là nền tảng cơ bản trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội
GV: Từ khái niệm trên ta thấy phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ Quốc là:
Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
Là hình thức hành động tự giác của quần chúng. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của nhà nước và sự hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Mục đích của phong trào là nhằm tổ
chức xây dựng nền an ninh trật tự ở từng địa phương cơ sở, nhằm phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tội phạm
GV: tại sao phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc lại là phong trào mang tính tự giác?
118
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
SV nêu ý kiến
GV nhận xét, kết luận.
GV phân tích:
+ Nhân dân lao động có khả năng to lớn, là người làm nên lịch sử, Từ trước đến nay Đảng ta luôn
luôn khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của
toàn dân, đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi vấn đề an ninh trật tự xẩy ra
khi giải quyết đều phải dựa vào nhân dân. Quán
triệt tư tưởng này của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về “Ngày hội toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
+ Thực tiễn cho thấy phong trào hành động cách
mạng của nhân dân như phong trào “Ba không”
trong thời kỳ chống Pháp; Phong trào “bảo vệ trị
an”, “Bảo mật phòng gian” ( Bảo vệ bí mật, tài
sản của Đảng, Nhà nước; bảo vệ nội bộ; bảo vệ trị an xã hội) trong những năm chống Mỹ cứu
nước và hiện nay phong trào toàn dân bảo vệ an - Phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc đã thực sự góp phần quan trọng phục ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản
vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng để tập hợp thu hút đông đảo quần
như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo chúng phát huy quyền làm chủ của
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. quần chúng nhân dân tham gia bảo
vệ an ninh trật tự.
+ Đối với công tác công an, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có tác dụng trực tiếp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, ngăn ngừa làm giảm tai nạn, đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã
hội và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc còn giúp lực lượng Công an có điều kiện để triển
khai sâu rộng các mặt công tác nghiệp vụ. Những tin tức tài liệu đa dạng, phong phú thu được từ
119
Hoạt động của GV và SV Nội dung cần đạt
quần chúng nhân dân cung cấp là cơ sở để lực
lượng Công an nhân dân đấu tranh, trấn áp bọn tội
phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc là động lực quan trọng để nâng cao ý thức tự giác của hàng chục triệu người tham gia vào
công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc ở từng đường
phố, từng thôn, xóm, phường, xã, cơ quan, xí
nghiệp tạo thành thế chủ động trong phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh trấn áp tội phạm tạo thành
một thế trận an toàn về an ninh trật tự.
GV: Nghiên cứu vị trí trên cho thấy. + Thực chất Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc là hình thức hoạt động có tổ chức, do đông đảo
quần chúng nhân dân lao động tham gia; là điều kiện
cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên
lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.
+ Mặt khác sức mạnh, khả năng sáng tạo của quần
chúng nhân dân là rất to lớn, song sức mạnh và
khả năng đó chỉ được phát huy khi quần chúng
nhân dân được tổ chức thành phong trào hành
động cách mạng cụ thể. Chính bằng phong trào và
thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc, quần chúng nhân dân mới có điều kiện tham
gia vào công việc xây dựng, quản lý nền an ninh
trật tự nhiều hơn, tốt hơn và trực tiếp hơn. Vì vậy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo nhân dân, phát huy quyền làm chủ của họ trên lĩnh vực
bảo vệ an ninh - trật tự.
PHẦN 3: KẾT THÚC GIẢNG DẠY
1. Hệ thống nội dung đã học, kết luận bài, giải đáp thắc mắc
- Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc
120
2. Hướng dẫn ôn và nghiên cứu tài liệu
- Nêu vai trò quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc? Sinh viên phải
làm gì để làm tốt công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc?
3. Nhận xét lớp học, kiểm tra quân số, vật chất giảng dạy.
4. Xuống lớp, chuyển nội dung học tập.
121
PHỤ LỤC 2
PHIẾU KHẢO SÁT
(Dành cho giảng viên)
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng và an ninh rất
mong đồng chí cho biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu
(x) vào các nội dung phù hợp:
Câu 1. Quý thầy, cô vui lòng cho biết quan điểm của mình về sự cần thiết
phải sử dụng PPTLN trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh:
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 2. Quý thầy, cô vui lòng cho biết mức độ sử dụng PPTLN trong dạy
học môn Công tác quốc phòng, an ninh:
Thường xuyên
Có sử dụng nhưng không thường xuyên
Không sử dụng
Câu 3. Nhận thức của quý thầy, cô về những yêu cầu khi sử dụng PPTLN
trong dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh.
Mức độ
Các yêu cầu khi thảo luận nhóm
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường
Không cần thiết
Đảm bảo mục tiêu dạy học Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác ……………..
122
Câu 4. Quý thầy, cô lựa chọn phương pháp dạy học môn Công tác quốc
phòng, an ninh theo tiêu chí nào dưới đây:
Sinh viên lĩnh hội lý thuyết
Sinh viên ghi nhớ
Sinh viên giải quyết vấn đề
Sinh viên vận dụng lý thuyết để giải quyết thực tế
Phương pháp khác
Câu 5. Trong quá trình dạy học nội dung lý thuyết, quý thầy cô sử dụng
phương pháp dạy học nào dưới đây:
MỨC ĐỘ
Rất Thường Thỉnh Không PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên
Thuyết trình
Đàm thoại
Thảo luận nhóm
Nêu và giải quyết vấn đề
Câu 6. Trong quá trình dạy học, quý thầy cô đã sử dụng hình thức tổ chức
dạy học nào dưới đây:
MỨC ĐỘ
Rất Thường Thỉnh Không HÌNH THỨC TỔ CHỨC Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên
Cá nhân
Nhóm nhỏ
Nhóm lớn
Toàn lớp
123
Câu 7. Quý thầy, cô sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá nào dưới đây:
MỨC ĐỘ
Rất Thỉnh thường Thường Ít khi Không PHƯƠNG PHÁP KIỂM thoảng xuyên xuyên bao giờ TRA, ĐÁNH GIÁ
Tự luận
Trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm tự luận
Vấn đáp
Xin chân thành cảm ơn!
124
PHỤ LỤC 3
PHIẾU KHẢO SÁT
(Dành cho sinh viên)
Nhằm đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho biết ý kiến của
mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung phù hợp:
Câu 1. Theo bạn môn học Công tác quốc phòng, an ninh có vai trò như thế
nào với sinh viên ở Đại học Thái Nguyên:
Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình”
Giúp SV có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực
lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.
Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống địch lợi
dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.
Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội.
Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn
xã hội.
Không giúp được gì cho sinh viên.
Câu 2. Trong giờ học Công tác quốc phòng, an ninh bạn thấy:
Rất thích
Thích
Không thích
Bình thường
Chán
Ghét
125
Câu 3. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng an ninh bạn có hành động:
MỨC ĐỘ
Rất Thường Thỉnh Không HÀNH ĐỘNG Ít khi thường xuyên thoảng bao giờ xuyên
Chú ý nghe giảng
Nói chuyện riêng
Giơ tay phát biểu
Ghi chép
Tham gia vào các tình huống
Câu 4. Bạn không thích môn học Công tác quốc phòng, an ninh vì những lí
do nào dưới đây:
Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu
Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây dựng bài
Môn học trừu tượng
Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình
Môn học xa rời cuộc sống
Giảng viên duy trì nghiêm khắc quy định, kỷ luật trong học tập
Câu 5. Để gia tăng sự tích cực của sinh viên, trong dạy học giảng viên nên:
Đa dạng các phương pháp dạy học
Gắn lý thuyết với thực tiễn
Tổ chức tham quan học tập, hoạt động ngoại khóa
Tăng cường tổ chức thảo luận nhóm
Hoạt động khác
Xin chân thành cảm ơn!
126
PHỤ LỤC 4
PHIẾU KHẢO SÁT
(Dành cho sinh viên lớp thực nghiệm)
Nhằm nâng cao và đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho
biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung
phù hợp.
Câu 1. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh có sử dụng PPTLN
bạn thấy:
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Ít hứng thú
Không hứng thú
Câu 2. Mức độ hiểu bài của bạn trong giờ học môn Công tác quốc phòng,
an ninh có vận dụng PPTLN?
Có hiểu bài
Hiểu ít
Không hiểu bài
Câu 3. Cảm nhận của bạn về giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh có
vận dụng PPTLN?
Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn
Bình thường như những giờ học khác
Không thích giờ học như vây
Câu 4. Mức độ hứng thú của bạn sau giờ học môn Công tác quốc phòng, an
ninh có vận dụng PPTLN?
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
127
Câu 5. Bạn thấy vai trò của PPTLN đối với việc hình thành, phát triển kỹ
năng của sinh viên như thế nào?
Giúp sinh viên biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm
Hình thành ở sinh viên kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu,
ghi nhớ vấn đề
Tất cả các kỹ năng trên
Câu 6. Bạn có mong muốn tiếp tục được học PPTLN trong môn Công tác
quốc phòng, an ninh?
Rất muốn
Bình thường
Không thích
Xin chân thành cảm ơn!
128
PHỤ LỤC 5
PHIẾU KHẢO SÁT
(Dành cho sinh viên lớp đối chứng)
Nhằm nâng cao và đánh chất lượng dạy học môn Công tác quốc phòng, an ninh
ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên. Mong bạn cho
biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào các nội dung
phù hợp.
Câu 1. Trong giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh bằng phương
pháp dạy học truyền thống bạn thấy:
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Ít hứng thú
Không hứng thú
Câu 2. Mức độ hiểu bài của bạn trong giờ học môn Công tác quốc phòng,
an ninh bằng phương pháp dạy học truyền thống?
Có hiểu bài
Hiểu ít
Không hiểu bài
Câu 3. Cảm nhận của bạn về giờ học môn Công tác quốc phòng, an ninh sử
dụng phương pháp dạy học truyền thống?
Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn
Bình thường như những giờ học khác
Không thích giờ học như vây
Câu 4. Mức độ hứng thú của bạn sau giờ học môn Công tác quốc phòng, an
ninh sử dụng phương pháp dạy học truyền thống?
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
129
Câu 5. Bạn thấy vai trò của phương pháp dạy học truyền thống đối với việc
Hình thành ở sinh viên kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi
hình thành, phát triển kỹ năng của sinh viên như thế nào?
Giúp sinh viên hình thành kỹ năng nghe, ghi chép những nội dung chính.
Không giúp được gì cho sinh viên.
nhớ vấn đề
Câu 6. Bạn có mong muốn tiếp tục giờ học sử dụng phương pháp dạy học
Rất muốn
Bình thường
Không thích
Không muốn
truyền thống trong môn Công tác quốc phòng, an ninh?
Xin chân thành cảm ơn!
130
PHỤ LỤC 6
PHIẾU QUAN SÁT
Phiếu quan sát giờ học môn Công tác quốc phòng an ninh:
1. Thời gian:
2. Địa điểm:
3. Nội dung giờ học:
4. Nội dung quan sát:
THÁI ĐỘ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA SỐ TỈ LỆ THỜI TT SINH VIÊN TRONG GIỜ HỌC LƯỢNG (%) GIAN
Tập trung chú ý, ghi chép bài, chăm chú 1 lắng nghe.
2 Lơ đãng, ngủ gật, nói chuyện.
Tích cực hợp tác, nhiệt tình tập luyện, 3 thảo luận nhóm.
4 Thái độ khác
131
PHỤ LỤC 7 TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIẢNG VIÊN
1. Nhận thức của giảng viên về việc cần thiết sử dụng PPTLN.
Giảng viên Đánh giá mức độ cần thiết sử dụng
PPTLN trong dạy học Số lượng Tỉ lệ
Rất cần thiết 6 85,71%
Cần thiết 1 14,29%
Không cần thiết 0 0%
2. Mức độ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn học
Công tác quốc phòng, an ninh.
Giảng viên Đánh giá mức độ sử dụng PPTLN
trong dạy học Số lượng Tỉ lệ
Thường xuyên 2 28,5%
Có sử dụng nhưng không thường xuyên 5 71,5%
Không sử dụng 0 0%
3. Nhận thức về yêu cầu khi sử dụng PPTLN
Mức độ
Các yêu cầu khi thảo luận nhóm
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết
1. Đảm bảo mục tiêu dạy học 5 (71,4%) 0
4 (57,1%) 0 1 (14,3%) 1 (14,3%)
6 (85,7%) 0 0
3 (42,8%) 0 1 (14,3%) 2 (28,6%) 1 (14,3%) 2 (28,6%) 2 (28,6%)
7 (100%) 0 0 0
2. Đảm bảo sự phù hợp và tính vừa sức trong lựa chọn chủ đề thảo luận 3. Đảm bảo tính hợp lý trong chia nhóm 4. Đảm bảo sự phù hợp về thời điểm để tiến hành thảo luận 5. Có sự chuẩn bị, nghiên cứu của cả người dạy lẫn người học Yêu cầu khác …………….. 0 0 0 0
132
4. Mức độ tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học
Tiêu chí
Sinh viên lĩnh hội lý thuyết Sinh viên ghi nhớ Sinh viên giải quyết vấn đề Sinh viên vận dụng lý thuyết giải quyết thực tế Phương pháp khác Số lượng 1 1 1 4 0 Tỉ lệ 14,3% 14,3% 14,3% 57,1%
5. Mức độ sử dụng PPDH nội dung lý thuyết
Mức độ
PPDH nội dung lý thuyết Rất thường Thường Thỉnh Ít khi xuyên xuyên thoảng
Thuyết trình 3 (42,85%) 3 (42,85%) 1 (14,3%) 0
Đàm thoại 2 (28,6%) 3 (42,8%) 2 (28,6%) 0
Thảo luận nhóm 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0
Nêu và Giải quyết vấn đề 0 1 (14,3%) 3 (42,85%) 3 (42,85%)
6. Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức dạy học
Mức độ Hình thức Thường tổ chức Rất thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi xuyên
Cá nhân 0 0 0 0
Nhóm nhỏ 2 (28,6%) 4 (57,1%) 1 (14,3%) 0
Nhóm lớn 5 (71,4%) 1 (14,3%) 1 (14,3%) 0
Toàn lớp 6 (85,7%) 1 (14,3%) 0 0
7. Mức độ sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá
Mức độ
Phương pháp kiểm tra, đánh giá Ít khi
Tự luận Trắc nghiệm khách quan Rất thường xuyên 0 0 Thường xuyên 0 0 Thỉnh thoảng 0 0 0 0
133
Trắc nghiệm tự luận Vấn đáp 7 (100%) 0 0 0 0 0 0 0
PHỤ LỤC 8 TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN SINH VIÊN
1. Mức độ nhận thức về vai trò môn học của sinh viên
TỈ LỆ TT NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ MÔN HỌC SL (%)
1 Giúp sinh viên có kiến thức phòng chống “Diễn biến hòa bình” 159 79.5
Giúp sinh viên có kiến thức về phong trào toàn dân bảo vệ an 2 149 74.5 ninh Tổ quốc.
Giúp sinh viên có kiến thức về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, 3 121 60.5 lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng.
4 Giúp sinh viên có kiến thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo 170 85
Giúp sinh viên có kiến thức về dân tộc, tôn giáo và phòng chống
5 địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo 129 64.5
chống phá cách mạng Việt Nam
Giúp sinh viên có kiến thức về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn 6 159 79.5 trật tự, an toàn xã hội.
Giúp sinh viên có kiến thức về đấu tranh phòng chống tội phạm 7 170 85 tệ nạn xã hội.
8 Không giúp được gì cho sinh viên 03 1.5
2. Thái độ của sinh viên đối với môn học
TT THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN SỐ LƯỢNG TỈ LỆ (%)
1 Rất thích 14 7
2 Thích 62 31
3 Không thích 32 16
4 Bình thường 92 46
134
3. Tính tích cực trong giờ học của sinh viên
Rất thường Thường Thỉnh ít khi xuyên xuyên thoảng HÀNH ĐỘNG CỦA SINH TT VIÊN TRONG GIỜ HỌC TL TL TL TL SL SL SL SL (%) (%) (%) (%)
1 Chú ý nghe giảng 120 60 25 22,5 5 2,5 25 50
2 Nói chuyện riêng 11 5,5 69 34,5 95 47,5 2,5 5
3 Giơ tay phát biểu 4 2 24 12 70 35 1 2
4 Ghi chép 27,5 105 57,5 20 10 7 3,5 55
10 5 Tham gia các tình huống 5 53 26,5 67 33,5 45 22,5
4. Nguyên nhân sinh viên không thích học
TT Nguyên nhân không thích học SL TL (%)
1 Giảng viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình đơn điệu 95 47,5
Giảng viên không tạo điều kiện cho sinh viên tham gia xây 2 89 44,5 dựng bài
3 Sinh viên ít được phát biểu chính kiến của mình 82 41
4 Môn học trừu tượng 49 14,5
Giảng viên duy trì nghiêm khắc qui định, kỷ luật trong học 5 44 22 tập
6 Môn học xa rời cuộc sống 11 5,5
5. Giải pháp gia tăng tính tích cực của sinh viên trong giờ học
TT Giải pháp SL TL (%)
1 93 46,5 Đa dạng các phương pháp dạy học
2 82 41 Gắn lý thuyết với thực tiễn
3 44 22 Tổ chức tham quan học tập, hoạt động ngoại khóa
4 105 52,5 Tăng cường tổ chức thảo luận nhóm
5 20 10 Hoạt động khác
135
PHỤ LỤC 9
TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN CỦA SINH VIÊN LỚP THỰC NGHIỆM VÀ ĐỐI CHỨNG
1. Mức độ hứng thú học tập của sinh viên trong giờ học môn Công tác quốc
phòng, an ninh.
Các mức độ
Lớp Hứng thú Ít hứng thú Số SV
120 120 Rất hứng thú SL % 19 15,9 54 44,9 SL % 12,6 15 28,3 34 Bình thường SL % 29,9 36 11,7 14 SL % 11,7 14 8,3 10 Không hứng thú SL % 29,9 36 6,8 8 ĐC TN
2. Kết quả khảo sát lớp thực nghiệm
TT Câu hỏi Phương án trả lời Tỷ lệ
1 Mức độ hiểu bài học của SV
Số ý kiến 100 15 5 83% 12,6% 4,4%
90 74,7%
2 25 20,9% Cảm nhận của SV về giờ học phương pháp thảo luận nhóm
5 4,4%
3 Mức độ hứng thú của SV sau giờ học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm 95 15 10 79,1% 12,6% 8,3%
14 11,6%
4
Vai trò của Phương pháp thảo luận nhóm đối với việc hình thành, phát triển kỹ năng của SV
Có hiểu bài Hiểu ít Không hiểu bài Bài học hấp dẫn hơn, sinh động, sôi nổi, vui hơn, thoải mái hơn. Bình thường như những giờ học khác Không thích giờ học như vậy Hứng thú Bình thường Không hứng thú Giúp SV biết cách làm việc theo nhóm, đoàn kết nhóm Hình thành ở SV kỹ năng tư duy, lắng nghe, trình bày, thấu hiểu, ghi nhớ vấn đề. Tất cả các kỹ năng trên Rất muốn Bình thường 10 96 87 25 8,3% 80,1% 72,4% 20,9%
5 Không thích 8 6,7% Mức độ mong muốn của SV tiếp tục được học phương pháp thảo luận nhóm trong tác quốc môn học Công phòng, an ninh
136
PHỤ LỤC 10
ĐỀ KIỂM TRA THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
I: Trắc nghiệm:
Câu 1: nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược
“DBHB”?
A. Là xóa bỏ nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
B. Là xóa bỏ về chính trị tinh thần chiến đấu của nhân dân.
C. Là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN.
D. Là xóa bỏ tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Câu 2: Có mấy thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược
“DBHB”:
A. 3 thủ đoạn
B. 4 thủ đoạn
C. 5 thủ đoạn
D. 6 thủ đoạn
Câu 3: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược
“DBHB”:
A. Là chống phá về nhận thức nhân dân.
B. Là chống phá về ý chí đánh giặc của lực lượng vũ trang.
C. Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
D. Là chống phá về sức mạnh chính trị và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Câu 4: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược
“DBHB”:
A. Là thủ đoạn biết sử dụng mọi thủ đoạn chống phá Việt Nam.
B. Là thủ đoạn tiến công của kẻ thù trên mọi lĩnh vực.
C. Là thù đoạn của cuộc chiến tranh không có súng.
D. Là thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
137
Câu 5: Thủ đoạn chống phá về chính trị của chủ nghĩa đế quốc là nội dung
nào?
Là thực hiện đa nguyên chế độ chống phá. A.
Là thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. B.
Là thực hiện đa nguyên có tổ chức chống phá. C.
Là thực hiện đa nguyên về văn hóa, xã hội. D.
Câu 6: Thủ đoạn chống phá về kinh tế trong chiến lược “DBHB” là gì:
Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo con đường phát triển tiêu cực. A.
Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo hướng đa cực. B.
Chuyển hóa nền kinh tế thị trường theo nhiều hướng khác nhau. C.
Chuyển hóa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dần D.
theo TBCN.
Câu 7: Nội dung nào dưới đây là một trong những âm mưu của chiến lược
“DBHB”?
Xóa bỏ đội ngũ lãnh đạo của ĐCSVN. A.
Xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. B.
Xóa bỏ nền văn hóa của Việt Nam. C.
Xóa bỏ hệ thống pháp luật của Việt Nam. D.
Câu 8: Nội dung nào dưới đây là một trong những thủ đoạn của chiến lược
“DBHB”:
Thủ đoạn đầu tư cơ sở vật chất cho lực lượng phản động, A.
Thủ đoạn trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. B.
Thủ đoạn kích động gây mâu thuẫn nội bộ. C.
Thủ đoạn xây dựng cơ sở tình báo, gián điệp. D.
Câu 9: có mấy vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ
quốc?
A. 3 vai trò
B. 4 vai trò
C. 5 vai trò
D. 6 vai trò
138
Câu 10: Nội dung nào dưới đây thuộc vai trò của quần chúng nhân dân
trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
A. Quần chúng nhân dân có nhiều khả năng trong công cuộc xây dụng nên văn
hóa của nước ta.
B. Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các
loại tội phạm để thu hẹp đần các đối tượng phạm tội.
C. Quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ các dân tộc trong nước và thế giới.
D. Quần chúng nhân dân luôn tin tưởng vào công cuộc phòng chống tội phạm
của các lực lượng chức năng.
Câu 11: Có mấy vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc?
A. 2 vị trí
B. 3 vị trí
C. 4 vị trí
D. 5 vị trí
Câu 12: Nội dung nào dưới đây thuộc vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc?
A. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí cốt lõi trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
B. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược, là nền
tảng cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
C. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chủ yếu trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
D. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí quan trọng trong
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Câu 13: Nội dung nào dưới đây thuộc vị trí của phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc?
A. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để xây
dựng và phát triển kinh tế.
B. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
139
C. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập
hợp thu hút đông đảo quần chúng, phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân
tham gia bảo vệ an ninh trật tự.
D. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ trong bảo vệ an ninh trật tự.
Câu 14: Nội dung nào dưới đây thuộc vai trò của quần chúng nhân dân
trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
A. Lực lượng công an mỏng nên không thể thực hiện được nội dung bảo vệ
an ninh trật tự nên quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng.
B. Lực lượng công an có hạn, nên công tác nên công tác bảo vệ an ninh trật
tự không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động
quần chúng nhân dân.
C. Lực lượng công an rất ít, không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần
mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân.
D. Lực lượng công an có hạn nên không thể thực hiện được nội dung bảo vệ
an ninh trật tự nên quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng.
Câu 15: Nội dung nào dưới đây thuộc khái niệm của phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc?
Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động tự giác,
A.
có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.
Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động bắt buộc,
B.
có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.
Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động tự giác và
C.
tự phát của đông đảo nhân dân lao động.
Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là một hình thức hoạt động bắt buộc,
D.
không có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động.
II. Tự luận:
Em hãy đọc tình huống sau đây:
H là sinh viên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi xa quê
lên thành phố học tập H đã bị lôi kéo, dụ dỗ tham gia vào một tổ chức phản động,
140
những người này đã cho tiền và xúi giục H lôi kéo thêm nhiều người tham gia vào hành
vi phát tán, tuyên truyền những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc về Đảng, nhà
nước Việt Nam. K là bạn ở cùng kí túc xá với H, sau khi biết được việc mà H đang làm
đã báo cho nhà trường và cơ quan chức năng đến giải quyết. Sau khi được thầy cô và
cơ quan công an giải thích, làm công tác tư tưởng, H đã nhận ra hành vi sai trái của
mình đồng thời thành khẩn khai báo, tích cực giúp đỡ lực lượng chức năng tìm ra những
đối tượng liên quan.
Em hãy trả lời các câu hỏi sau:
1. Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn trên
lĩnh vực nào của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”? Trình bày
nội dung, mục tiêu, biện pháp của thủ đoạn đó?
2. Theo em hành động của K, nhà trường và cơ quan chức năng là đang thực
hiện vai trò nào của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
3. Em rút ra bài học gì cho bản thân từ việc nghiên cứu tình huống trên?
Đáp án
I. Trắc nghiệm
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Đáp án C D C D B D B B
Câu 9 10 11 12 13 14 15
Đáp án A B A B C B A
II. Tự luận
Câu 1: Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn
trên lĩnh vực nào của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”? Trình
bày mục tiêu, nội dung, biện pháp của thủ đoạn đó?
- Việc H bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động là thủ đoạn về chính
trị trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”.
- Mục tiêu: Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ "đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập", "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xoá bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
141
- Nội dung: Tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và
ngoài nước, lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để chia
rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi
vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Biện pháp: Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của
nhà nước ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Câu 2: Theo em hành động của K, nhà trường và cơ quan chức năng là đang
thực hiện vai trò nào của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
- Hành động của K, nhà trường và các cơ quan chức năng là đang thực hiện vai
trò: Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội
phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.
Câu 3: Em rút ra bài học gì cho bản thân từ việc nghiên cứu tình huống trên?
- Cần nâng cao cảnh giác cách mạng, nâng cao nhận thức và tuyên truyền cho
người thân, bạn bè về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn
biến hòa bình”.
- Tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện
những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xẩy ra trong nhà trường
và nơi cư trú kịp thời, cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải
quyết.
142