Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của Nho giáo đến một số lĩnh vực chủ yếu trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX
lượt xem 14
download
Thông qua việc phân tích những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo trong một số lĩnh vực của xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, luận văn chỉ ra những đóng góp và hạn chế chủ yếu của nó trong xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn này. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của Nho giáo đến một số lĩnh vực chủ yếu trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *** PHẠM THỊ KIM CƯƠNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN MỘT SỐ LĨNH VỰC CHỦ YẾU TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60.22.80 HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *** PHẠM THỊ KIM CƯƠNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN MỘT SỐ LĨNH VỰC CHỦ YẾU TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60.22.80 Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Bình HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2 NỘI DUNG ......................................................................................................... 8 Chương 1............................................................................................................ 8 BỐI CẢNH XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ VẤN ĐỀ TÁI ĐỘC TÔN NHO GIÁO ............. 8 1.1. Khái lược về Nho giáo và vị trí, vai trò của Nho giáo ở Việt Nam trước thế kỷ XIX.......................................................................................................... 8 1.1.1. Nho giáo và những tư tưởng cơ bản của Nho giáo ................................... 8 1.1.2. Vài nét về Nho giáo Việt Nam trước thế kỷ XIX ................................... 22 1.2. Triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX và sự tái độc tôn Nho giáo ........... 30 1.2.1. Bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX................... 30 1.2.2. Vị trí, vai trò của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX ..... 41 Chương 2.......................................................................................................... 47 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CHỦ YẾU CỦA NHO GIÁO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ............................................................... 47 2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo trong việc hoạch định đường lối cai trị và quản lý xã hội .................................................................................................. 47 2.1.1. Ảnh hưởng của Nho giáo trong việc xây dựng hệ tư tưởng và đường lối cai trị ................................................................................................................. 48 2.1.2. Vai trò của đạo làm vua trong cai trị và quản lý xã hội ......................... 58 2.1.3. Quan niệm về dân và vai trò của dân...................................................... 60 2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục - khoa cử ............... 68 2.3. Ảnh hưởng của Nho giáo tới việc xây dựng và thi hành pháp luật .... 79 2.4. Giá trị chủ yếu và hạn chế cơ bản của Nho giáo triều Nguyễn trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX ........................................................................ 92 2.4.1. Những giá trị chủ yếu của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX92 2.4.2. Những hạn chế cơ bản của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX93 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 98 1
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, học thuyết đạo đức ra đời ở Trung Quốc từ thời cổ đại. Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, đã đóng vai trò quan trọng là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội phong kiến Việt Nam gần một nghìn năm. Trong từng thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, các triều đại phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Vì vậy, vai trò, vị trí của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cũng khác nhau với những nét đặc thù riêng. Với tinh thần “chúng ta không phân tích, đánh giá những hiện tượng tư tưởng bằng bản thân tư tưởng. Chúng ta tìm hiểu tư tưởng Nho giáo gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn” và “không thể có một thứ Nho giáo chung cho các thời đại, một thứ Nho giáo nhất thành bất biến, thích ứng ở khắp mọi nơi, mọi lúc” [35, tr. 151]. Do vậy mà, điều quan trọng là cần phải “… đi vào lịch sử Nho giáo, nêu lên tính quy luật của sự du nhập phát triển và suy vong của nó. Công việc ấy sẽ góp phần đánh giá một cách sâu sắc vai trò và ảnh hưởng của nó trong toàn bộ đời sống xã hội của nhân dân ta từ xưa đến nay, góp phần xử lý những vấn đề của nó trên một cơ sở khoa học chặt chẽ nhất” [35, tr. 149]. Dưới triều Nguyễn, khi đất nước thống nhất, một yêu cầu bức thiết đặt ra cho giai cấp phong kiến Việt Nam là phải có một hệ tư tưởng, một chủ nghĩa nào đó làm quốc giáo, làm công cụ chuyên chính. Trước nhu cầu tập trung mọi quyền hành, thống nhất chính trị, thống nhất tư tưởng, nhà Nguyễn đã tiếp tục sự lựa chọn như các triều đại phong kiến trước đó là lấy Nho giáo làm cơ sở tư tưởng của đạo trị nước và tiếp tục độc tôn Nho giáo. Như nhiều thời kỳ trước đây của chế độ phong kiến Việt Nam, tư tưởng Nho giáo là công cụ chủ yếu để bảo vệ địa vị thống trị, lợi ích và uy quyền của giai cấp phong kiến thống trị. Nhà Nguyễn lựa chọn Nho giáo như là cứu cánh duy nhất để phục hưng chế độ phong kiến cũng như củng cố tham vọng xây dựng triều đại bền vững, hùng mạnh. Nhưng dưới triều Nguyễn, các yếu tố tiêu cực nhất trong Hán Nho, Tống Nho được triều Nguyễn khai thác và sử dụng triệt để. Những quan niệm về Thiên mệnh, Tam cương, Ngũ thường với những hạn 2
- chế và tính chất tiêu cực của nó đều biến thành công cụ, phương tiện hữu hiệu nhất nhằm củng cố ngôi vua, duy trì và bảo vệ địa vị thống trị cùng những lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị. Nửa đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn là giai đoạn tư tưởng Nho giáo và hệ tư tưởng phong kiến cực quyền giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong bối cảnh chế độ phong kiến Việt Nam ngày càng trì trệ, khủng hoảng và dần suy vong. Sự độc tôn tuyệt đối của Nho giáo dưới triều Nguyễn chứng tỏ rằng, nhà Nguyễn tái địa vị độc tôn của Nho giáo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, tuyệt đối hoá vai trò chi phối của Nho giáo trong mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và con người là chủ yếu nhằm khôi phục và củng cố chế độ phong kiến, địa vị thống trị của giai cấp phong kiến Việt Nam, ngay cả khi chế độ này đang có nguy cơ sụp đổ do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, do quy luật của sự vận động, phát triển xã hội đầu thế kỷ XIX ở Việt Nam quy định. Nghiên cứu ảnh hưởng của Nho giáo đối với chế độ phong kiến Việt Nam là một trong những nội dung cốt lõi của tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Có nhiều vấn đề đặt ra xung quanh chủ đề này như: Tại sao triều Nguyễn lựa chọn Nho giáo là quốc giáo? Nho giáo thời kỳ này ảnh hưởng như thế nào đối với xã hội Việt Nam? Tại sao Nho giáo không thể vực dậy chế độ phong kiến mục ruỗng thối nát?... Mặt khác, bên cạnh việc chỉ ra những hạn chế của Nho giáo thời kỳ này, chúng ta cần phải thấy được vai trò tích cực của nó trong việc duy trì những giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, và hơn nữa, “chúng ta không nghiên cứu lịch sử vì lịch sử. Mọi hứng thú tìm tòi về quá khứ chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm cải tạo hiện tại và xây dựng tương lai” [35, tr. 147]. Trong luận văn này, chúng tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu tất cả những vấn đề như đã nêu ra ở trên mà chúng tôi chỉ giới hạn việc nghiên cứu, tìm hiểu một số lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX chịu ảnh hưởng đậm nét và sâu sắc nhất của Nho giáo như: chính trị - xã hội, giáo dục, xây dựng và thi hành pháp luật nhằm góp phần đánh giá đúng đắn ảnh hưởng, vai trò của Nho giáo đối với xã hội phong kiến Việt Nam trong thời gian này. Từ góc độ triết học, chúng tôi lựa 3
- chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của Nho giáo đến một số lĩnh vực chủ yếu trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ triết học của mình, để có cách nhìn khách quan hơn về Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài của Luận văn, từ trước đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo, về Nho giáo ở Việt Nam, cùng những lĩnh vực chủ yếu của xã hội phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Trong đó, nghiên cứu về Nho giáo và ảnh hưởng của nó dưới triều Nguyễn thế kỷ XIX có những công trình chủ yếu như: Trong cuốn sách Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, GS. Trần Văn Giàu đã phân tích, đánh giá những ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo trong một số lĩnh vực của đời sống tinh thần và xã hội Việt Nam như thế giới quan, xã hội quan, chính trị, đạo đức. Cuốn Nho giáo tại Việt Nam do tác giả Lê Sỹ Thắng chủ biên, đã giới thiệu các nội dung nghiên cứu của nhiều tác giả trong cuộc Hội thảo: “Nho giáo trong lịch sử và tàn dư của nó trong xã hội Việt Nam”. Cuốn sách là bản tổng tập những tham luận nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và Nho giáo Việt Nam nói riêng. Trong đó có một số bài tham luận đề cập đến lịch sử của Nho giáo nói chung và lịch sử phát triển của Nho giáo tại Việt Nam nói riêng, ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử nói chung và từng lĩnh vực văn hoá, tư tưởng nói riêng tại Việt Nam. Đó là một công trình lớn song chưa thật sự đi sâu nghiên cứu và có hệ thống về một giai đoạn phát triển của Nho giáo cũng như những ảnh hưởng của nó đến xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, tác giả Lê Sỹ Thắng đã chỉ ra những ảnh hưởng sâu rộng và nổi bật của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng, văn hoá, xã hội nước ta trong thế kỷ XIX. Tác giả cuốn sách này đã có những đóng góp to lớn về mặt tư liệu trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX nói riêng. Song đó chưa phải là công trình nghiên cứu chuyên sâu về những ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX… 4
- Luận án Tiến sĩ Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của tác giả Nguyễn Thanh Bình đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo, sự thể hiện của Nho giáo trong đời sống tinh thần con người Việt Nam và phân tích vai trò của Nho giáo trong việc hoạch định đường lối của chế độ phong kiến. Đây là một công trình nghiên cứu với phạm vi rộng và bao quát toàn bộ các giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX chịu ảnh hưởng của Nho giáo với những mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ từng thời kỳ cụ thể. Trong luận án này, những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo đối với xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX chỉ được đề cập đến ở một mức độ nhất định. Vì vậy đây cũng chưa phải là công trình nghiên cứu sâu về những ảnh hưởng của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Cuốn "Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử" của tác giả Nguyễn Thế Long, đã trình bày tương đối có hệ thống những giai đoạn phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, nội dung giáo dục Nho học ở Việt Nam. Trong đó, giáo dục Nho học ở Việt Nam được đề cập nhiều nhất về những vấn đề: nội dung học, quan điểm giáo dục, các lối văn cử nghiệp, nhận định về thi cử Nho học. Cuốn sách đã dành một phần nghiên cứu về giáo dục - khoa cử thời Nguyễn, các nhà Nho dưới triều Nguyễn, với một số nhận định quan trọng về nền giáo dục khoa cử Nho học ở triều đại này. Nhưng về tổng thể, cuốn sách này chưa đi sâu nghiên cứu về giáo dục khoa cử Nho học ở Việt Nam nói chung và dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX nói riêng. Trong cuốn Nho học và Nho học ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Tài Thư từ góc độ triết học, đã vạch ra và phân tích những nội dung chủ yếu của Nho học cũng như vai trò của nó trong lịch sử và tư tưởng Việt Nam. Một trong những nội dung của cuốn sách được tác giả đề cập đến là “Nho học triều Nguyễn - Nội dung, tính chất và vai trò lịch sử”, mà chủ yếu là nói tới vai trò xã hội của Nho học, cụ thể là vai trò của Nho học đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Tác giả đã khái quát và đưa ra những nhận định về Nho học và vai trò của Nho học dưới triều Nguyễn. Song đây cũng chưa phải là công trình nghiên cứu sâu về vai trò, ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. 5
- Ngoài ra, liên quan đến đề tài của Luận văn, còn có nhiều học giả đáng kính như: Trần Trọng Kim, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Vũ Khiêu, Trần Đình Hượu, Nguyễn Tài Thư, Lê Văn Quán, Quang Đạm,… với nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và Nho giáo Việt Nam nói riêng cũng như những ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam qua các thời kỳ. Các tác phẩm, công trình nghiên cứu của các học giả ấy về Nho giáo Việt Nam đã góp phần làm sáng tỏ hơn, cụ thể hơn về vị trí, vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam và đưa ra những gợi mở mà người nghiên cứu sau có thể kế thừa, phát huy. Song vẫn còn những vấn đề, những nhận định trong các công trình này cần được tiếp tục nghiên cứu; vẫn còn có những phương diện cần phải bổ sung và cần phải làm rõ, đặc biệt là những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích Thông qua việc phân tích những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo trong một số lĩnh vực của xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, luận văn chỉ ra những đóng góp và hạn chế chủ yếu của nó trong xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn này. Nhiệm vụ Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn trình bày và phân tích những nội dung sau: - Bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX và vấn đề tái độc tôn Nho giáo. - Những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX ở một số lĩnh vực chủ yếu như: chính trị, giáo dục, pháp luật. - Những giá trị chủ yếu và hạn chế cơ bản của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nho giáo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX và ảnh hưởng của nó trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ này. 6
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo đến một số lĩnh vực chủ yếu trong xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX như: chính trị, giáo dục - khoa cử, xây dựng và thi hành pháp luật. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những nhận thức về Nho giáo, Nho giáo ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học; các phương pháp luận chủ yếu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, hệ thống hoá… nhằm làm rõ những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn chỉ rõ và hệ thống hoá những ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX trong một số lĩnh vực: chính trị, giáo dục - khoa cử, xây dựng và thi hành pháp luật. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần tìm hiểu, hệ thống hoá và làm sâu sắc hơn nhận thức về vai trò, vị trí và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. - Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Triết học, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nho giáo Việt Nam. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn bao gồm 2 chương với 6 tiết. 7
- NỘI DUNG Chương 1 BỐI CẢNH XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ VẤN ĐỀ TÁI ĐỘC TÔN NHO GIÁO 1.1. Khái lược về Nho giáo và vị trí, vai trò của Nho giáo ở Việt Nam trước thế kỷ XIX 1.1.1. Nho giáo và những tư tưởng cơ bản của Nho giáo Nho giáo là một học thuyết triết học, chính trị - xã hội, đạo đức ra đời và phát triển trong xã hội phong kiến Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc. Nho giáo do Khổng Tử (551-479 TCN) sáng lập, nhưng tư tưởng Nho giáo đã có trước Khổng Tử. Các tư tưởng cơ bản của Nho giáo nằm trong các bộ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, được Khổng Tử san định lại với tinh thần “thuật nhi bất tác” nhằm tiếp thu, hệ thống lại và khẳng định những nguyên tắc cai trị, nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Kinh điển của Nho giáo bao gồm Tứ thư (Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử, Luận Ngữ) và Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Trong hơn hai nghìn năm tồn tại với tư cách là dòng chính của văn hoá Trung Quốc, Nho giáo đã gìn giữ và làm giàu di sản văn hoá Trung Quốc, văn hoá Phương Đông. Quá trình phát triển của Nho giáo có thể khái quát thành hai giai đoạn chính: Nho giáo Tiên Tần và Nho giáo từ nhà Hán đến nhà Thanh. Nho giáo Tiên Tần hay còn gọi là Nho giáo nguyên thuỷ với các nhà tư tưởng tiêu biểu như: Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập, Mạnh Tử (372 - 289 TCN), Tuân Tử (313 - 238 TCN) kế thừa và phát triển. Trong thời kỳ “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử” này, Nho giáo chưa có được ưu thế song nó đã thể hiện tính hệ thống và mang nhiều tính tích cực, nhân bản. Với lý tưởng thiết lập lại trật tự lễ pháp nhà Chu, hướng tới một thiên hạ bình trị, Nho giáo chủ trương dùng Nhân trị, Đức trị để giáo hoá, quản lý xã hội. Nho giáo đã đưa ra hàng loạt các chuẩn mực như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Hiếu, Trung… nhằm điều chỉnh hành vi của con người, tạo ra con người của xã hội phong kiến có tôn ti trật tự. Tóm lại, Nho giáo thời kỳ này “coi trọng việc hoàn thiện 8
- đạo đức cá nhân và các sách lược làm cho dân yên nước trị thông qua “nhân học” của Khổng Tử, “nhân chính” của Mạnh Tử và “lễ luận” của Tuân Tử” [110, tr 84]. Nho giáo trong thời kỳ chế độ phong kiến Trung Quốc từ sau Khổng, Mạnh (nhà Hán đến nhà Thanh) được phát triển và sử dụng với vai trò là cơ sở lý luận để xây dựng, duy trì bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, thiết lập trật tự, kỷ cương của chế độ phong kiến phù hợp với yêu cầu và lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị. Sự phát triển của Nho giáo thời kỳ này, với từng triều đại phong kiến, có các khuynh hướng khác nhau: Đổng Trọng Thư thời nhà Hán, với tư tưởng thần bí hoá vương triều, đề cao thuyết “thiên nhân tương cảm”, hợp nhất phụ quyền, vương quyền với thần quyền, đồng thời tiếp thu các tư tưởng của Pháp gia trong việc cai trị, tạo ra một chính sách cai trị hai mặt “ngoại nho, nội pháp”; nhà Tuỳ, Đường lại có xu hướng “điều hoà Tam giáo” (Nho, Phật, Đạo); nhà Tống, Nho giáo tiếp thu nhiều tư tưởng của Đạo giáo và Phật giáo, tập trung vào các phạm trù Lý, Khí và Nho giáo đóng vai trò làm vũ khí thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội phong kiến; Nho giáo thời Nguyên, Minh, Thanh nhìn chung đều theo Tống Nho. Như vậy, trong thời kỳ sau Khổng, Mạnh, Nho giáo trở nên thần bí hoá, kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền với thế quyền, phục vụ cho mục đích chính trị là bảo vệ và duy trì địa vị thống trị của giai cấp phong kiến. Nho giáo không phải là tôn giáo mà là học thuyết chính trị - đạo đức của giai cấp phong kiến, trong mỗi thời kỳ, mỗi triều đại đều có một thứ Nho giáo của riêng thời kỳ đó, triều đại đó. Để tóm tắt tư tưởng chủ đạo, cốt lõi của Nho giáo nói chung là điều rất khó. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Cái chung nhất đó, cái cơ bản nhất đó là cương thường. Và, cùng với cương thường là những: bát điều mục, cửu trù, thiên mệnh, chính danh, tuỳ thời, nhân trị, quân tử và tiểu nhân, v.v… Những cái ấy được tất cả hay số đông các nhà Nho các thời xem là chân lý vĩnh cửu: chân lý vĩnh cửu trời cho, đó cũng gọi là “đạo”, “thiên địa chi thường hình, cổ kim chi thông nghị” và “thiên địa bất biến, đạo diệc bất biến”. Đó là những loại mắt kính mà tất cả hay hầu hết các nhà Nho đều mang vào để nhìn mọi hiện thực, xét mọi sự việc” [24, tr. 95]. 9
- Có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo và tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Mỗi giai đoạn phát triển của Nho giáo lại có sự kế thừa, bổ sung các tư tưởng trước đó, song tựu trung lại, tư tưởng cơ bản của Nho giáo đề cập đến những vấn đề: nguồn gốc thế giới, con người; vị trí, vai trò của con người trong thế giới, trong đó phần lớn nội dung của Nho giáo là những tư tưởng về chính trị, xã hội. * Lý giải về nguồn gốc thế giới và vạn vật, quan niệm của Nho giáo có hai xu hướng cơ bản. Theo quan niệm duy tâm, trong Kinh Lễ, mọi vật có nguồn gốc do trời sinh ra: “Vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ”. Nguồn gốc của vũ trụ, theo khuynh hướng duy tâm, xét đến cùng là trời. Khổng Tử và các học trò của ông không nói rõ ràng, hệ thống về “trời”. Có khi trời được quan niệm như là quy luật, trật tự của vạn vật: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành, vạn vật cứ sinh hoá mãi”; có khi trời lại được nhìn nhận như là một thực thể có nhân cách, có ý chí, có quyền năng vô hạn đối với vạn vật và con người. Sống - chết, giàu - nghèo…, theo Khổng Tử đều do trời quy định, đều là do “mệnh trời”, con người với nỗ lực chủ quan không thể thay đổi được mệnh trời mà chỉ có thể hiểu, phục tùng và làm theo mệnh trời. Thậm chí, theo Khổng Tử, Đạo có thể lưu hành hay không cũng là do mệnh trời. Cũng trong quan niệm về thế giới, Khổng Tử coi quỷ thần là khí thiêng của trời đất, là không minh chứng được, không nhìn thấy, không nghe thấy, không có vai trò đối với con người. Song ông lại chủ trương, đối với quỷ thần con người phải tế, kính quỷ thần: “tế thần như thần tại” và “kính quỷ thần, nhi viễn chi, khả vị tri bề” (quỷ thần thì kính trọng, nhưng tránh xa ra, không nên mong đợi thần cứu giúp). Như vậy ở Khổng Tử, một mặt, ông đề cao vai trò và truyền bá sức mạnh của trời, mặt khác, ông vẫn coi hoạt động của con người giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống của họ. Dù không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần, nhưng ông khuyên con người nên kính trọng và tránh xa. Tư tưởng triết học trên của Khổng Tử về cơ bản là duy tâm, hướng con người tin vào mệnh trời và số phận. 10
- Mạnh Tử tiếp tục phát triển yếu tố duy tâm thần bí của Khổng Tử trong quan niệm về thế giới. Theo Mạnh Tử, vạn vật có nguồn gốc ở trời, và bản tính vốn có của con người là thiện, cũng do trời phú cho. Quan niệm về thế giới của Đổng Trọng Thư là sự kết hợp quan niệm duy tâm thần bí về thế giới của Nho giáo Tiên Tần và tiếp thu trên cơ sở tước bỏ tính chất biện chứng quan điểm về thế giới của học thuyết Âm dương ngũ hành. Ông cũng coi trời là tổ của vạn vật và mọi sự vật, hiện tượng cũng như các quá trình biến hoá của tự nhiên, sự biến đổi của xã hội đều do sự an bài có ý thức, có mục đích của trời. Trời, trong thuyết “thiên nhân tương cảm” của ông, còn có xúc cảm, biết thưởng phạt, mọi hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, xã hội là sự thưởng hoặc trừng phạt của trời đối với người. Các nhà Nho thời Tống, do tiếp nhận thêm các tư tưởng, phạm trù của Phật giáo và Đạo giáo, đã tạo ra một bước ngoặt của Nho giáo và triết học Nho giáo nói chung trong quan niệm về thế giới. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới, vạn vật, được trình bày trong học thuyết về Lý, Khí. Theo Trình Hạo, Trình Di, Lý là bản thể, là khởi nguyên của thế giới khi âm dương chưa phân định. Lý phân thành âm, dương gọi là Khí. Khí chính là vật liệu để sinh thành nên vạn vật. Quá trình sinh thành, tồn tại, mất đi của vạn vật là do sự vận động, biến hoá, tụ - tán của Khí. Lý là cái có trước, là gốc; Khí là cái có sau, là ngọn. Theo hai ông, Lý, Thái cực và trời là đồng nhất; vạn vật đều chỉ là một lý trời. Đó là cái tinh thần vũ trụ độc lập với con người, là gốc vạn vật. Theo họ, Lý còn là đạo đức, luân lý làm người. Các quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ-chồng… tất cả đều là lý trời. Trên cơ sở phát triển quan niệm Lý, Khí của Nhị Trình, Chu Hy cho rằng: Lý, Khí cùng tồn tại, mọi vật trong vũ trụ đều do Lý, Khí hình thành. Ông cho rằng, nếu không có cái Lý ấy thì dù có cái Khí nào đó tồn tại thì cũng không thể sinh ra muôn vật, con người, nếu không có cái Khí ấy ngưng tụ lại thì cái Lý ấy cũng không có cái treo mắc và mất tác dụng. Lý và Khí thống nhất mới có thể biểu hiện được tác dụng sinh thành và tồn tại của tạo hoá. Trong sự thống nhất của Lý (tính) và Khí (hình thể) thì Lý là cái có trước, là cái cơ bản. Lý làm nên bản tính của sự vật và làm cho sự vật chính là nó. 11
- Chu Hy đã coi Lý là nguyên mẫu tối cao của trời đất. Theo ông, nếu toàn bộ vũ trụ, vạn vật như một chỉnh thể thống nhất thì cũng cần có một Lý cao nhất, bao trùm cái Lý của mỗi vật. Cái Lý đó là Thái cực, là cái tuyệt đối, nguyên mẫu, là đạo của vạn vật, ngoài ra không có gì cả. Thái cực không những là Lý của vũ trụ mà còn là Lý của từng sự vật đơn lẻ. Thái cực chỉ có một, mỗi vật là sự bẩm thụ của nó mà sinh thành, mỗi vật bao chứa trong nó cái duy nhất ấy. Như vậy, tư tưởng của các nhà Nho thời Tống về nguồn gốc vũ trụ, vạn vật được trình bày thông qua quan niệm về Lý, Khí. Mối quan hệ giữa Lý, Khí là quan niệm mang tính chất duy tâm khách quan, thông qua đó đã lý giải, cụ thể hoá và khẳng định những nguyên lý đạo đức của Nho giáo. Đối lập với khuynh hướng duy tâm trong quan niệm về nguồn gốc thế giới và vạn vật là khuynh hướng duy vật trong hệ thống triết học của Tuân Tử, Chu Đôn Di, Trương Tải. Tuân Tử đã bác bỏ quan niệm duy tâm về trời, mệnh trời, đồng thời ông khẳng định, toàn bộ thế giới gồm có ba bộ phận: Trời, Đất và Người. Trời có đạo của trời, người có đạo của người. Đạo trời luôn diễn ra theo lẽ tự nhiên nhất định, không liên quan đến đạo của người và trời không thể quyết định vận mệnh của người. Theo sách Kinh Dịch, Thái cực (là cái cực lớn, là cái hỗn độn ban đầu chỉ toàn là khí) sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi: một nghi gồm những khí đục, nặng rơi xuống và kết hợp lại tạo thành đất (Âm), một nghi gồm những khí trong và nhẹ hơn, lơ lửng trong không trung hợp lại tạo thành trời (Dương). Hai khí âm, dương giao cảm với nhau là cội nguồn của vạn vật trong tự nhiên và xã hội. Khi lý giải về nguồn gốc vạn vật, Chu Đôn Di tiếp thu, phát triển tư tưởng triết học trong Kinh Dịch. Ông cho rằng, trước khi có vũ trụ, vạn vật và con người, đã tồn tại trạng thái hỗn độn đầu tiên, trạng thái đầu tiên khi chưa hiện ra ông gọi là Vô cực. Khi Vô cực hiện ra gọi là Thái cực. Vô cực và Thái cực theo ông là một thể, nó là nguồn gốc vũ trụ, vạn vật. Quá trình sinh thành vạn vật là do động và tĩnh (hai thể của Thái cực), là do Âm, Dương (sinh ra từ Thái cực) tương tác, giao cảm với nhau mà sinh ra ngũ hành, ngũ hành thuận 12
- với bốn mùa sinh ra vạn vật. Tư tưởng của Chu Đôn Di về nguồn gốc thế giới chứa đựng yếu tố duy vật chất phác. Trương Tải cũng cho rằng, nguồn gốc của vũ trụ, vạn vật là Thái hư (cũng là Thái cực). Thái hư theo ông chính là khí, nhưng trong trạng thái chưa ngưng tụ, chưa bốc hơi. Thái hư vận động trong không gian, thời gian, là đầu mối của muôn vật. Vạn vật sinh thành, tồn tại là do khí tụ lại, sự tiêu tan của vạn vật là do sự tiêu tan của khí. Tóm lại, trong Nho giáo, khi đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, vạn vật đã có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Các quan niệm trên về thế giới dù còn nhiều hạn chế, mang tính trực quan, sơ khai song đó lại là cơ sở, căn cứ để các nhà Nho đi vào lý giải những vấn đề về nguồn gốc, bản tính con người và vị trí, vai trò của con người trong thế giới. * Vấn đề con người là vấn đề trung tâm trong nhiều trường phái triết học. Trong triết học Nho giáo, vấn đề con người được đề cập ngay từ đầu và từ rất sớm, con người đã được đề cao, vai trò của con người cùng với trời đất là tiêu biểu cho tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Khi đề cập đến vấn đề con người, các nhà Nho chủ yếu lý giải về nguồn gốc, bản tính và vai trò của con người. Về nguồn gốc của con người, trong Nho giáo xuất hiện khuynh hướng duy tâm, thần bí và khuynh hướng duy vật. Tiêu biểu cho khuynh hướng duy tâm thần bí trong quan niệm nguồn gốc của con người là Khổng Tử, Đổng Trọng Thư, Chu Hy. Theo Khổng Tử, trời sinh ra người, con người cũng như vạn vật là sự giao cảm giữa âm và dương. Khổng Tử coi con người khác vũ trụ, khác vạn vật là do con người có đạo đức (nhân, nghĩa, lễ, trí). Để duy trì bản tính người ấy, con người phải biết kính trời, thờ trời, suy nghĩ, hành động phải hợp đạo trời, phải luôn tu dưỡng đạo đức. Đổng Trọng Thư đã tiếp thu và phát triển tính chất duy tâm thần bí trong quan niệm về nguồn gốc con người của Khổng Tử đến mức độ cao. Theo ông, trời là ông tổ của con người, không có trời thì con người không thể sinh ra được. Trật tự xã hội, chính quyền của con người, các quan hệ trong ngũ luân, những chuẩn mực đạo đức trong ngũ luân, ngũ thường, theo ông, tất cả đều do trời sinh ra, do trời sắp đặt. 13
- Lý học đời Tống cũng đặt ra và lý giải về nguồn gốc của con người nhưng về cơ bản trên lập trường duy tâm thần bí. Theo Trình Hạo, Trình Di, con người sinh thành là do sự tụ lại của Khí, mà Khí do Lý sinh ra. Do vậy, nguồn gốc đầu tiên của con người là Lý, là Thái cực (Lý ở đây là Thiên Lý). Đạo đức, nhân luân của con người cũng do Lý trời mà ra. Việc con người thi hành đạo lý tam cương, ngũ thường cũng chính là thi hành đạo trời. Chu Hy là người hoàn thiện tư tưởng của Nhị Trình nói riêng và Lý học nói chung. Ông được coi là “tập đại thành” của khuynh hướng duy tâm thần bí Tống Nho. Theo ông, con người là sự thống nhất của Lý và Khí, con người là do Nhân Lý sinh ra, hình thể con người (là phương thức, điều kiện để Lý người thể hiện ra) là do Khí sinh ra. Và Lý người cũng như vô vàn các Lý khác, đều có nguồn gốc từ Thiên Lý. Theo Chu Hy, con người và muôn vật đều bẩm thụ Lý của trời đất mà thành ra tính, bẩm thụ khí của trời đất mà sinh ra hình. Trong tâm tính của con người có bốn đức (Tứ đoan) là biểu hiện của Lý trời, là có nguồn gốc từ Lý trời. Con người khác muôn vật là do con người được sinh ra từ các Lý khác nhau; là do mức độ bẩm thụ của Lý và Khí của trời đất; là do con người bẩm thụ được khí tinh tuý của trời đất; là do con người có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Khi con người giữ bản chất người thì phải thi hành Thiên Lý (thiên mệnh), tức là phải tu dưỡng, giữ gìn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Đối lập với quan niệm duy tâm, thần bí trong quan niệm về nguồn gốc con người, một số nhà Nho, do xuất phát từ hiện thực đời sống, từ quan điểm duy vật về thế giới, mà hình thành nên quan niệm duy vật về nguồn gốc con người. Tiêu biểu cho xu hướng này trong triết học Nho giáo về nguồn gốc con người là Tuân Tử. Tuân Tử cho rằng, nguồn gốc con người không phải từ trời mà từ giới tự nhiên, là sản phẩm của sự phát triển cao nhất của giới tự nhiên. Theo ông, nước, lửa có khí mà không có sinh; cỏ cây có sinh mà không có tri giác; cầm thú có tri giác mà không có lễ nghĩa; con người không chỉ có khí, có sinh mà còn có cả lễ nghĩa. Do vậy, con người là cao quý nhất trong trời đất. Theo ông, con người từ ác có thể trở thành thiện là do điều kiện, hoàn cảnh xã hội hiện thực của con người quy định, chứ không phải là do làm theo đạo trời như 14
- các nhà Nho duy tâm quan niệm. Trong quan niệm của Tuân Tử, bản chất con người khác con vật không chỉ do con người có lễ nghĩa mà còn do con người biết hợp quần. Như vậy có thể nói rằng, Tuân Tử là người đầu tiên của Nho giáo lý giải một cách khá hợp lý bản chất con người là sự thống nhất cái tự nhiên và cái xã hội. Tất nhiên, quan niệm trên của ông còn mang tính trực quan, chất phác nhưng đó là tư tưởng tiến bộ trong hệ thống triết học Nho giáo và triết học cổ đại nói chung. Quan niệm về tính người của Nho giáo là một trong những nội dung cơ bản của triết học Nho giáo vì vấn đề tính người không chỉ gắn bó chặt chẽ với vấn đề nguồn gốc, bản chất người mà có còn là nguyên lý xuất phát để từ đó các nhà Nho xây dựng học thuyết chính trị - đạo đức. Vấn đề tính người trong triết học Nho giáo cũng có những cách lý giải khác nhau. Khổng Tử là người đầu tiên đề cập đến tính người. Ông cho rằng, bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau: “Tính tương cận, tập tương viễn dã” [43, tr. 284]. Tức là tính của con người khi sinh ra đều có bản tính lành do bẩm thụ ở trời; nhưng bản tính ban đầu ấy có thể bị biến đổi bởi những điều kiện, yếu tố ngoại cảnh, bởi sự tu dưỡng của mỗi người. Mạnh Tử cũng cho bản tính con người là do trời phú, là tiên thiên, ông khẳng định bản tính con người là thiện. Tính thiện của con người biểu hiện ở bốn đức lớn là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Bốn đức lớn đó của con người bắt nguồn từ Tứ đoan (bốn đầu mối của thiện) hay còn gọi là Tứ thiện đoan (lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng u tố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng biết phải trái là đầu mối của trí). Tứ thiện đoan có sẵn ở trong con người, nhiệm vụ của con người là giữ gìn, nuôi dưỡng nó, tức là phải “tồn tâm, dưỡng tính” thiện. Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử xuất phát từ nhu cầu mang tính bản năng và tự nhiên của con người là luôn suy nghĩ, hành động để thoả mãn dục vọng, là tự tư tự lợi, cho nên ông cho rằng, nhân chi sơ tính bản ác. Tuân Tử cho tính người là ác nhưng nó không bất biến mà có thể thay đổi, có thể trở thành thiện. Để làm cho tính người từ ác thành thiện, theo ông, hoàn toàn phụ thuộc 15
- vào tu dưỡng đạo đức làm người của mỗi cá nhân. Và phương thức tu dưỡng tốt nhất là học tập, thực hành theo đạo đức (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín). Cáo Tử cho rằng, tính người không thiện cũng không ác. Theo ông, bản tính ban đầu của con người là thuần tuý mộc mạc, ngây thơ như tờ giấy trắng. Quan niệm của nhiều nhà Nho từ thời Hán trở đi thì cho rằng, tính người có cả thiện và ác. Đổng Trọng Thư, xuất phát từ lập trường duy tâm thần bí, đã cho rằng, trời ban cho hai khí âm và dương, thân người có hai bản tính thiện và ác; tính thiện của con người chỉ tồn tại dưới dạng khả năng, con người để trở thành thiện nhân phải nhờ trời, phải được giáo dục, giáo hoá theo tam cương, ngũ thường; Dương Hùng thì cho rằng, tính người thiện ác lẫn lộn; còn các nhà Lý học Tống Nho với các đại biểu Vương Sung, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy đều cho rằng, tính người có cả thiện có cả ác. Điểm chung trong quan niệm về tính người của Nho giáo là tính người có thể thay đổi được, có thể bị biến đổi. Sự thay đổi đó phụ thuộc vào sự tu dưỡng, học tập, giáo dục đạo đức của con người. Dù tính người là thiện hay ác, cả thiện và ác hay thiện ác lẫn lộn thì theo các nhà Nho, con người đều có thể giữ được tính thiện, trở thành thiện thông qua việc tận tâm tu dưỡng đạo đức để có được phẩm chất đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; suy nghĩ và hành động theo điều thiện, theo ý trời, đạo trời. Như vậy, thông qua quan niệm tính người, Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức, giáo dục đạo đức và vai trò của trời, mệnh trời trong việc hoàn thiện con người phù hợp với yêu cầu xã hội. Quan niệm về nguồn gốc, tính người của Nho giáo như đã trình bày chính là cơ sở, căn cứ của quan niệm về vai trò của con người. Theo đó, Nho giáo đề cập, xem xét vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên (mối quan hệ giữa trời và người), với xã hội (mối quan hệ giữa con người và xã hội). Về vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Xuất phát từ quan niệm coi vũ trụ, vạn vật đều có nguồn gốc từ trời, và con người là sản phẩm, là bộ phận cao nhất của giới tự nhiên, Nho giáo chủ yếu bàn đến mối quan hệ giữa con người với trời, và con người phải nhận thức, hành động đúng với mệnh trời, đạo trời. Khi đã “tri thiên mệnh”, con người có thể biết 16
- được bản chất của muôn vật. Trong quan hệ với trời, con người chỉ có thể nhận thức và đem đạo trời, mệnh trời ra thi hành. Điều đó đã phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Đây là quan niệm duy tâm, bởi trước trời, con người chỉ là lực lượng thụ động, lệ thuộc. Về vai trò của con người trong xã hội. Trong học thuyết của Nho giáo, chỉ chủ yếu tập trung bàn đến ba mối quan hệ cơ bản (còn gọi là tam cương) trong ngũ luân, đó là: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Quan hệ vua - tôi được coi là quan hệ chính, bao trùm các quan hệ khác. Trong quan hệ này thể hiện tính hai chiều: quân nhân thần trung. Bề tôi phải tận trung, tận hiếu; còn vua làm theo mệnh trời, thay trời trị dân, nuôi dưỡng dân, giáo hoá dân. Theo đó, vua phải có đạo đức, thường xuyên tu dưỡng đạo đức, thương yêu dân, hành động hợp lòng dân, nghĩa là vua cần có các phẩm chất, đức tính: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; bề tôi phải tuyệt đối trung thành, tuân thủ một cách vô điều kiện ý chí, mệnh lệnh của vua, bởi đó cũng chính là ý chí, mệnh lệnh của trời. Quan hệ cha - con cũng là quan hệ cơ bản của con người, theo chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, cha từ con hiếu. Cha mẹ là người sinh ra, nuôi dưỡng, giáo dục con cái; con cái luôn kính trọng và chăm sóc cha mẹ. Trong mối quan hệ này, Nho giáo đề cao vai trò của người cha, coi việc con cái có hiếu là phải chăm sóc, phụng dưỡng, kính trọng và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha mẹ. Trong quan hệ vợ - chồng, Nho giáo đưa ra chuẩn mực đạo đức phu nghĩa phụ kính. Theo Nho giáo, vợ chồng là quan hệ hôn nhân, ràng buộc bởi trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau thông qua phạm trù Nghĩa, và cũng theo các nhà Nho, người phụ nữ luôn phải giữ tiết hạnh, phẩm chất của Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), Tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Do vậy, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội cũng như trong gia đình được nhìn nhận thấp hơn so với người đàn ông. Như vậy, Nho giáo xuất phát từ các mối quan hệ xã hội cụ thể, từ những con người cụ thể để luận chứng vị trí, vai trò của con người trong các mối quan hệ xã hội. Thông qua đó, Nho giáo đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của vua, đề cao vai trò của người cha, người chồng, của đạo đức, của tu dưỡng 17
- đạo đức, tất cả và cũng chủ yếu là nhằm biện hộ cho sự tồn tại của chế độ phong kiến, bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị. Nho giáo đặc biệt đề cao vai trò con người bởi việc giải quyết vấn đề con người có quan hệ mật thiết với việc ổn định trật tự, kỷ cương xã hội. Tư tưởng triết học về con người là cơ sở, nền tảng xây dựng nên học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo. * Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung qua các giai đoạn của nó thì cái cốt yếu là quan niệm về xã hội lý tưởng và tư tưởng đức trị. Thứ nhất, về xã hội lý tưởng, theo Nho giáo là một xã hội ổn định, có trật tự, kỷ cương; là một xã hội có đạo đức, nhân dân no ấm, thái bình; mọi người trong xã hội được giáo dục, giáo hoá. Thứ hai, xuất phát từ thực trạng xã hội vô đạo đang thống trị, chi phối xã hội; xuất phát từ cách nhìn nhận bản tính con người chủ yếu từ phương diện đạo đức và nhằm đưa xã hội từ loạn trở về trị…, Nho giáo đã đề ra tư tưởng đức trị. Thực chất tư tưởng đức trị của Nho giáo là những quan niệm về đường lối trị nước, quản lý xã hội bằng đạo đức. Đây cũng là nội dung cơ bản nhất của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo. Trong tư tưởng đức trị, các nhà Nho chủ trương dùng đạo đức làm công cụ chủ yếu trong việc cai trị xã hội; coi đạo đức là tiêu chuẩn cao nhất để hoàn thiện con người, nhằm tạo nên mẫu người lý tưởng, xã hội lý tưởng; góp phần duy trì kỷ cương, ổn định xã hội. Nhằm đáp ứng nhu cầu, mục đích của giai cấp thống trị, trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, thì đạo đức và chính trị gắn bó mật thiết với nhau. Điều này thể hiện trong tư tưởng Đức trị. Theo Mạnh Tử: “Quân hành nhân chính, tư dân thân kỳ thượng, tử kỳ trưởng kỹ” (Nếu vua thi hành nền chính trị nhân đức: ban ân huệ cho dân, khiến các quan chức trông nom dân chúng thì dân sẽ thương mến người bề trên, dám liều chết vì kẻ bề trên của mình) [98, tr. 70]. Tư tưởng Đức trị thể hiện ở các nội dung cụ thể như sau: Một là, tư tưởng Đức trị chính là việc thực hiện Nhân, Lễ, Chính danh trong cai trị và quản lý xã hội. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 478 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng trong việc phát huy nhân tố con người thời kỳ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
26 p | 132 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học hiện sinh cơ bản của Albert Camus qua một số tác phẩm
102 p | 81 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ, Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
76 p | 46 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại
25 p | 94 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
81 p | 67 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
26 p | 77 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 87 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn